Giáo trình Bảo hiểm - Trần Trọng Khoái

pdf 108 trang cucquyet12 3441
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Bảo hiểm - Trần Trọng Khoái", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_bao_hiem_tran_trong_khoai.pdf

Nội dung text: Giáo trình Bảo hiểm - Trần Trọng Khoái

  1. Trường đại học kinh doanh và công nghệ Hà nội Khoa tài chính - ngân hàng Giáo trình Bảo hiểm (In lần thứ tư đã được sửa đổi, bổ sung) Biên soạn: TS. Trần Trọng Khoái Th.S Đoàn Thị Thu Hương (Lưu hành nội bộ) Hà Nội, tháng 6 năm 2008
  2. Chương 1 Tổng quan về bảo hiểm ở Việt Nam, thuật ngữ “bảo hiểm” được sử dụng chung cho cả hai loại hình: bảo hiểm xã hội và bảo hiểm kinh doanh (Insurance). Trong khuôn khổ giới hạn cho phép, Chương này sẽ trình bày những kiến thức cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm kinh doanh trên phương diện kinh tế, pháp luật và kỹ thuật chuyên ngành. I. Nguồn gốc và các khái niệm cơ bản trong bảo hiểm 1- rủi ro - Nguồn gốc của bảo hiểm Mọi nghiên cứu về nguồn gốc của bảo hiểm đều bắt đầu từ một khái niệm then chốt là rủi ro. Trong cuộc sống, lao động cũng như trong sản xuất kinh doanh, con người dù đã rất chú ý đề phòng, ngăn ngừa tai nạn nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra. Rủi ro là những biến cố xảy ra ngoài sự mong đợi của con người và thường mang lại hậu quả xấu. 1.1- Khái niệm về rủi ro: Rủi ro là thuật ngữ dùng để chỉ khả năng xảy ra biến cố bất thường với hậu quả thiệt hại hoặc mang lại kết quả không như dự tính. Trong cuộc sống, trong lao động và trong sản xuất kinh doanh dù không muốn, con người vẫn phải luôn đối mặt với rủi ro, chính điều đó đã dạy con người biết cách đối phó với rủi ro để tồn tại. 6
  3. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm 1.2- Các loại rủi ro: Trên thực tế tồn tại rất nhiều loại rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, để thuận tiện trong nghiên cứu, đánh giá rủi ro phục vụ cho hoạt động kinh doanh BH, rủi ro được chia thành các loại sau: - Rủi ro đầu cơ và rủi ro thuần tuý. - Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng. - Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính. - Rủi ro có thể BH được và rủi ro không thể BH được. * Rủi ro đầu cơ và rủi ro thuần tuý + Rủi ro đầu cơ: là những rủi ro vừa có thể mang lại hậu quả xấu vừa có thể dẫn đến khả năng tăng lợi ích. Ví dụ; sự biến động của giá cổ phiếu + Rủi ro thuần tuý: Là những rủi ro chỉ có thể dẫn đến hậu quả tổn thất, thiệt hại. Ví dụ; ốm đau, bệnh tật * Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng + Rủi ro cơ bản: Là những rủi ro xảy ra ngoài tầm kiểm soát của con người và có khả năng gây hậu quả hàng loạt. Ví dụ; động đất, sóng thần + Rủi ro riêng: Là những rủi ro gây hậu quả cá biệt cho cá nhân, tổ chức. Ví dụ; một căn hộ bị hoả hoạn * Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính + Rủi ro tài chính: là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể xác định được bằng tiền. Ví dụ; hậu quả của căn nhà bị hoả hoạn hoàn toàn có thể xác định được bằng tiền + Rủi ro phi tài chính: là những rủi ro mà hậu quả của nó không thể xác định được bằng tiền.Ví dụ; quyết định lựa chọn bạn đời * Rủi ro có thể BH được và rủi ro không thể BH được. ( Loại rủi ro này sẽ được đề cập chi tiết trong phần 2.1) 1.3- Các biện pháp xử lý rủi ro Rủi ro còn tồn tại là thực tế khách quan đối với cuộc sống của con người và hậu quả của nó thường làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người. Để bảo toàn cuộc sống của con người, con người phải tìm đến các biện pháp xử lý rủi ro. Các biện pháp để xử lý rủi ro gồm 2 nhóm. - Nhóm 1: Các biện pháp đề phòng rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng khi chưa có rủi ro xảy ra. Trên thực tế các biện pháp này đối với một số rủi ro chỉ có tính chất phòng ngừa (chứ không làm mất đi rủi ro), con người không tham gia vào những hoạt động 7
  4. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm có chứa đựng những rủi ro tiềm tàng. Trong chừng mực nhất định, con người sử dụng các biện pháp để ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra hoặc để giảm thiểu tổn thất khi phải tham gia vào những hoạt động có chứa đựng những rủi ro tiềm tàng, các biện pháp tránh né đó có tác dụng tích cực đảm bảo an toàn cho con người. Các biện pháp ngăn ngừa rủi ro đã phát huy tác dụng lớn trong việc xử lý rủi ro và đã chủ động, tích cực hơn so các biện pháp nêu ở nhóm 1 nói trên. Bằng việc nhận thức ngày càng đầy đủ hơn các quy luật tự nhiên, khả năng kinh tế và sự trợ giúp tích cực của khoa học kỹ thuật, các biện pháp ngăn ngừa rủi ro cũng ngày càng phong phú hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các biện pháp đó cũng không thể ngăn chặn hoàn toàn được sự xẩy ra của rủi ro, hơn nữa không phải đơn vị hay cá nhân nào cũng có thể thực hiện được do chi phí để thực hiện các biện pháp này nhiều khi rất tốn kém. - Nhóm 2: Các biện pháp hạn chế, khắc phục hậu quả của rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng sau khi có rủi ro xảy ra. Hạn chế, khắc phục hậu quả rủi ro là việc con người sử dụng biện pháp kinh tế bù đắp thiệt hại, tổn thất xẩy ra nhằm ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống con người. Để khắc phục hạn chế hậu quả của rủi ro, con người có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau như: + Chấp nhận rủi ro - tự gánh chịu, là việc một tổ chức, cá nhân do nhận thức được các rủi ro có thể gặp phải đã lập ra quỹ riêng để tự mình hạn chế, khắc phục hậu quả rủi ro như: tiết kiệm, lập quỹ chung dự phòng, cứu trợ. Các hình thức này còn được gọi là tự bảo hiểm. Tự bảo hiểm tương tự hình thức dự trữ thuần tuý. Song, một đơn vị không thể mang hết vốn để lập quỹ dự phòng, một cá nhân không thể mang hết thu nhập của mình để tiết kiệm. + Chuyển giao rủi ro - các loại hình bảo hiểm, là một cơ chế mà nhờ nó một tổ chức, một cá nhân có thể thực hiện việc chuyển những rủi ro tiềm tàng của mình cho một tổ chức hoặc một cá nhân khác. Có 2 hình thức chuyển giao rủi ro: a) Chuyển giao rủi ro không bằng bảo hiểm, là hình thức mà một tổ chức hoặc một cá nhân có thể chuyển giao rủi ro của mình cho một tổ chức hoặc cá nhân khác không phải là một tổ chức bảo hiểm. b) Chuyển giao rủi ro bằng bảo hiểm, là hình thức mà một tổ chức hoặc một cá nhân bằng việc đóng góp một khoản tiền nhất định để chuyển giao rủi ro tiềm tàng của mình cho tổ chức khác - Tổ chức bảo hiểm. Nhận trách nhiệm trước những rủi ro được chuyển giao, tổ chức bảo hiểm thực hiện việc bù đắp thiệt hại hoặc trả một khoản tiền nhất định nếu xảy ra rủi ro như đã thỏa thuận. Theo cơ chế này, hậu quả rủi ro có thể rất nặng nề, trầm trọng đối với mỗi tổ chức, cá nhân đều có thể được khắc phục một cách dễ dàng hơn bởi nó được chia nhỏ cho nhiều tổ chức, cá nhân khác có cùng khả năng gặp phải rủi ro đó. Nói cách khác, quỹ tiền tệ được tạo 8
  5. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm lập từ sự đóng góp của số đông những người có cùng khả năng gặp phải rủi ro, dùng để khắc phục hậu quả, bù đắp thiệt hại cho số ít người thực sự gặp phải rủi ro đó. Tổ chức đứng ra tạo lập, quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ đó là tổ chức Bảo hiểm. Có 2 loại hình tổ chức bảo hiểm cơ bản: 1) Bảo hiểm không mang tính chất kinh doanh (Bảo hiểm xã hội) 2) Bảo hiểm mang tính chất kinh doanh (Bảo hiểm Thương mại) Thực tế đã chứng minh cách khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua sự đảm bảo về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng là một trong những biện pháp khắc phục hậu quả rủi ro có hiệu quả. Bảo hiểm là một quỹ tiền tệ được huy động từ số đông người tham gia bảo hiểm nên khả năng tài chính lớn, việc xử lý rủi ro linh hoạt, không bị phụ thuộc vào thời gian. Việc đảm bảo bằng bảo hiểm được tiến hành trên cơ sở những văn bản pháp lý cụ thể. Quỹ bảo hiểm được tạo lập và sử dụng thông qua các tổ chức bảo hiểm nên có thể xử lý rủi ro trên cả hai phương diện đề phòng và khắc phục hậu quả rủi ro. Mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. 1.4- Khái niệm bảo hiểm Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp, do các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành nhận trách nhiệm trước rủi ro và bồi thường, trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng bảo hiểm khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm với điều kiện người kia ký kết hợp đồng và chấp nhận đóng góp một khoản phí nhất định cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba để đổi lấy cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra. Người bảo hiểm thường căn cứ vào yếu tố rủi ro để giới hạn phạm vi trách nhiệm của mình trong các hợp đồng bảo hiểm. - Trong hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí, người bảo hiểm giải quyết bồi thường trong trường hợp xảy ra tổn thất. Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít. Bảo hiểm là việc trả tiền để đổi cái không chắc chắn lấy cái chắc chắn. - Do nhu cầu của con người và của sản xuất kinh doanh mà hoạt động bảo hiểm ra đời và ngày càng phát triển theo mức sống ngày càng cao của con người, theo đà phát triển của sản xuất kinh doanh và sự mở rộng của giao lưu kinh tế giữa các nước, các khu vực. Những khái niệm kể trên trong một chừng mực nhất định đã phản ánh thực chất hoạt động bảo hiểm thương mại dưới những góc độ tiếp cận khác nhau. 9
  6. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Tuy nhiên, ở một tầm nhìn khái quát nhất, có thể hiểu: "Bảo hiểm là phương thức xử lý rủi ro, nhờ đó việc chuyển giao phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm". 2- Các thuật ngữ - khái niệm cơ bản trong bảo hiểm Rủi ro, là thuật ngữ dùng để chỉ khả năng xảy ra một biến cố bất thường với hậu quả thiệt hại hoặc đem lại kết quả không như dự tính. Người bảo hiểm chỉ nhận trách nhiệm trước những rủi ro thoả mãn những tiêu chuẩn nhất định. 2.1. Rủi ro có thể được bảo hiểm và rủi ro không thể được bảo hiểm Xét trên 2 mặt: + Kỹ thuật nghiệp vụ: về nguyên tắc chỉ bảo hiểm cho những sự cố hoàn toàn ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm. Còn những sự cố có tính chất cố ý do người được bảo hiểm gây ra thì không được bảo hiểm. Rủi ro chỉ có thể bảo hiểm được khi xác suất xảy ra rủi ro nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Mặt khác, rủi ro chỉ được chấp nhận bảo hiểm khi mà hậu quả tổn thất có thể qui được về mặt vật chất, lượng hoá thành tiền. Về mức độ tổn thất, có những rủi ro có thể xác định được giá trị thiệt hại tối đa có thể. Song, cũng không ít trường hợp không thể lường hết được giá trị thiệt hại. Về nguyên tắc người bảo hiểm thường chỉ chấp nhận bảo hiểm cho những rủi ro có thể xác định được giá trị thiệt hại tối đa có thể. Cũng có những bảo hiểm đặc biệt như bảo hiểm cho những ngón tay của nghệ sĩ dương cầm Song, điều đó không có ý nghĩa lớn trong kinh doanh bảo hiểm. + Về mặt pháp lý, hoạt động bảo hiểm không thể đi ngược lại những gì mà luật pháp đã bảo vệ, được xã hội thừa nhận và tôn trọng. * Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ + Rủi ro được bảo hiểm, chỉ sự cố đã được nêu trong phần phạm vi bảo hiểm của qui tắc bảo hiểm. + Rủi ro loại trừ, chỉ sự cố dù có gây thiệt hại, người bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tổn thất do rủi ro gây ra. Để đối phó với những tổn thất không lường trước được do các rủi ro gây ra, cách tốt nhất là bảo hiểm, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. 10
  7. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm 2.2- Đối tượng bảo hiểm Là phạm trù mà rủi ro có thể tác động trực tiếp vào và chính vì để đảm bảo quyền lợi về tài chính của đối tượng bảo hiểm trước các rủi ro mà người được bảo hiểm đã quyết định giao kết một hợp đồng bảo hiểm. 2.3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm, là giá trị bằng tiền của đối tượng bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm và thường được dùng trong bảo hiểm tài sản. Số tiền bảo hiểm, là khoản tiền nhất định ghi trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm trong bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm. 2.4. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm phải trả để nhận được sự bảo đảm trước các rủi ro đã được người bảo hiểm chấp nhận. Nội dung phí bảo hiểm gồm 2 phần: - Phí thuần là khoản phí cho phép người bảo hiểm thực hiện việc chi trả bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm đối với các trách nhiệm phát sinh từ những hợp đồng ký kết. - Phụ phí là khoản phí cho phép người bảo hiểm bảo đảm các chi phí cần thiết trong hoạt động kinh doanh, gồm có: Chi phí ký kết hợp đồng. Chi phí quản lý. Thuế nộp cho Ngân sách Nhà nước. 2.5. Bồi thường, trả tiền bảo hiểm - Bồi thường, là việc người bảo hiểm thực hiện cam kết của hợp đồng, chi trả một khoản tiền nhất định nhằm đền bù cho người được bảo hiểm khi có thiệt hại vật chất xảy ra. - Trả tiền bảo hiểm là việc người bảo hiểm thực hiện cam kết trả một khoản tiền nhất định theo những qui định trong hợp đồng. 2.6. Một số qui tắc cơ bản trong bồi thường, trả tiền bảo hiểm - Qui tắc áp dụng mức miễn thường: khi áp dụng qui tắc này, người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường những vụ tổn thất mà trị giá thiệt hại vượt quá một mức mà hai bên đã thoả thuận được miễn thường. Cần phân biệt hai loại miễn thường: Miễn thường có khấu trừ (còn gọi là mức khấu trừ) là số tiền bồi thường của người bảo hiểm bị giảm đi bởi mức khấu trừ. 11
  8. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Miễn thường không khấu trừ, người bảo hiểm bồi thường toàn bộ thiệt hại (chỉ khi nào thiệt hại lớn hơn mức miễn thường). - Qui tắc tỷ lệ: khi áp dụng qui tắc này, người bảo hiểm chỉ bồi thường một phần thiệt hại theo những tỷ lệ nhất định. Có những loại tỷ lệ tiêu biểu sau đây: + Tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm của hợp đồng và giá trị bảo hiểm của đối tượng. Quy tắc này thường được áp dụng đối với trường hợp bảo hiểm dưới giá trị: Số tiền bảo hiểm Số tiền bồi thường = Trị giá thiệt hại x Giá trị bảo hiểm + Tỷ lệ phí bảo hiểm được sử dụng khi có sự khai báo rủi ro sai sót không cố ý của người tham gia bảo hiểm. Sự khai báo sai sót này dẫn đến mức phí trong hợp đồng thấp hơn mức phí tương ứng với rủi ro: Số phí đã nộp Số tiền bồi thường = Trị giá thiệt hại x Số phí lẽ ra phải nộp + Trong nhiều hợp đồng, hai bên có thể thoả thuận, định ra những tỷ lệ bồi thường cụ thể, trên cơ sở tỷ lệ ấn định sẵn đó tính ra số tiền bồi thường. - Qui tắc bồi thường theo rủi ro đầu tiên: Thuật ngữ “rủi ro đầu tiên” để chỉ một khoảng giá trị thiệt hại không vượt qua một giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm. Nếu theo “rủi ro đầu tiên” người bảo hiểm chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm của hợp đồng. Như vậy: + Nếu giá trị thiệt hại nhỏ hơn số tiền bảo hiểm thì số tiền bồi thường bằng giá trị thiệt hại. + Nếu giá trị thiệt hại lớn hơn hoặc bằng số tiền bảo hiểm thì số tiền bồi thường bằng số tiền bảo hiểm hoặc hạn mức trách nhiệm của hợp đồng. 2.7. Giám định bảo hiểm Giám định bảo hiểm là quá trình xem xét, đánh giá, phân tích sự kiện xảy ra để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Khi giám định phải có biên bản giám định và chỉ cung cấp cho người yêu cầu giám định. Để bồi thường các rủi ro gây ra tổn thất, ngoài các biện pháp tự bảo hiểm (phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm), người ta lập ra Quĩ Dự trữ bảo hiểm. Có nhiều loại quĩ dự trữ bảo hiểm, trong đó có bảo hiểm thương mại. 12
  9. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm ii- Phân loại bảo hiểm 1- Theo luật định, căn cứ vào Điều 7, Chương I - Luật Kinh doanh Bảo hiểm, nghiệp vụ bảo hiểm được xếp thành 2 nhóm: - Bảo hiểm nhân thọ - Bảo hiểm phi nhân thọ 2. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, nghiệp vụ bảo hiểm được xếp vào ba nhóm - Bảo hiểm tài sản. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự. - Bảo hiểm con người. 3. Theo phương thức triển khai, có 2 nhóm - Hình thức bảo hiểm tự nguyện. - Hình thức bảo hiểm bắt buộc. 4. Căn cứ vào kỹ thuật quản lý, được xếp vào 2 nhóm 4.1. Những nghiệp vụ bảo hiểm áp dụng kỹ thuật phân chia, đối với những bảo hiểm có đặc tính cơ bản: - Hợp đồng bảo hiểm có thời hạn ngắn và có thể được tái tục liên tục. - Rủi ro tương đối ổn định. Kỹ thuật phân chia đòi hỏi người bảo hiểm phải lập những dự phòng nghiệp vụ, đặc biệt là dự phòng phí và dự phòng bồi thường. 4.2. Những nghiệp vụ bảo hiểm áp dụng kỹ thuật tồn tích, gồm có các nghiệp vụ: - Hợp đồng ký kết cho một thời gian dài (qua nhiều năm tài chính). - Rủi ro thay đổi. - Phí bảo hiểm có thể nộp một lần toàn bộ hoặc thông thường thành nhiều kỳ (năm, quí, tháng) trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Kỹ thuật tồn tích với phương pháp quản lý đặc biệt, một mặt cho phép người bảo hiểm thu phí định kỳ theo một mức cố định. Đó là mức phí trung bình đã được san bằng nhờ một phương pháp tính toán đặc biệt. Mặt khác, đòi hỏi người bảo hiểm phải lập quĩ dự phòng toán học. Quĩ này hình thành nhằm mục đích bảo tồn, tích luỹ các khoản phí tiết kiệm đã thu từ các hợp đồng bảo hiểm trước. 13
  10. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm iii. Hợp đồng bảo hiểm 1. Khái quát về hợp đồng bảo hiểm: Tại Chương II, mục 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm và Điều 571 Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam qui định: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bồi thường hoặc tiền trả bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều 574 qui định về hình thức hợp đồng: “Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm”. Như vậy, hợp đồng bảo hiểm liên quan tới hai bên: bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm. - “Người bảo hiểm” chỉ tổ chức bảo hiểm được Nhà nước cho phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm. “Người bảo hiểm” có quyền thu phí bảo hiểm (Điều 576). Trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí bảo hiểm theo định kỳ hoặc hết thời hạn do bên bảo hiểm ấn định mà không đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng chấm dứt hoặc số tiền bảo hiểm sẽ giảm. Người bảo hiểm có quyền đề nghị sửa đổi hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng nếu người mua bảo hiểm vi phạm những qui định của hợp đồng. Người bảo hiểm có nghĩa vụ phải đảm bảo thực hiện cam kết trả tiền bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi có rủi ro (được bảo hiểm) xảy ra (Điều 580) và thông tin cho bên mua bảo hiểm biết những thông tin cần thiết. Nếu người bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm thì phải trả cả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tại thời điểm trả tiền bảo hiểm tương ứng với thời gian chậm trả. - “ Bên được bảo hiểm”, liên quan đến 3 người: + Người tham gia bảo hiểm: là người đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thoả thuận, trực tiếp ký kết hợp đồng với người bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo qui định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự, có quyền đề nghị sửa đổi hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng (do rủi ro tăng, giảm). Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ: Khai báo rủi ro theo quy định tại Điều 577. Nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn. Thông báo kịp thời và bảo đảm những thủ tục, chứng từ cần thiết đối với những thiệt hại, sự cố bảo hiểm xảy ra. 14
  11. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm + Người được bảo hiểm: là người có tài sản, trách nhiệm hoặc thân thể trực tiếp bị rủi ro đe doạ và được bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm thường cũng chính là người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, trong một số hợp đồng: hợp đồng bảo hiểm cho trẻ em, bảo hiểm nhân thọ, họ là hai người khác nhau. + Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm (còn gọi là người thụ hưởng) là người được hưởng khoản tiền bồi thường hoặc tiền trả bảo hiểm từ người bảo hiểm. 2. Thiết lập, thực hiện, chấm dứt hợp đồng 2.1. Thiết lập hợp đồng + Khai báo rủi ro khi giao kết hợp đồng: Cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thiết lập hợp đồng là đề nghị bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Đề nghị bảo hiểm được thực hiện khi người tham gia bảo hiểm khai báo rủi ro - Giấy yêu cầu bảo hiểm. Trong đó, người tham gia bảo hiểm cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm, cho người bảo hiểm. Khi được người bảo hiểm chấp nhận, giấy yêu cầu bảo hiểm trở thành một bộ phận của hợp đồng, là bằng chứng về tính trung thực, chính xác khi khai báo rủi ro. + Chấp nhận bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm được ký kết khi bên bảo hiểm chấp nhận đề nghị bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Người bảo hiểm cấp cho người tham gia bảo hiểm đơn bảo hiểm tạm thời hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm là văn bản pháp lý, bằng chứng của hợp đồng đã ký kết. Song, chỉ đề cập đến những thông tin cơ bản: tên, địa chỉ hai bên bảo hiểm và tham gia bảo hiểm, số đơn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm). Hợp đồng bảo hiểm đầy đủ phải bao gồm: Điều kiện chung của hợp đồng: được áp dụng chung cho các hợp đồng cùng loại nghiệp vụ bảo hiểm, nó có thể là những rủi ro được bảo hiểm (phạm vi bảo hiểm), những quy định về loại trừ bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ các bên Điều kiện riêng của hợp đồng: đề cập đến những đặc thù cho từng hợp đồng. 2.2. Chấm dứt hợp đồng, trong các trường hợp - Hợp đồng đã hoàn thành. - Đối tượng không còn tồn tại hoặc không còn rủi ro đe doạ. - Do hai bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. - Theo thoả thuận của hai bên. 15
  12. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm iV. vai trò và nguyên tắc hoạt động của BHTM 1. Vai trò và tác dụng của bảo hiểm thương mại - Hoạt động bảo hiểm, trước hết là nhằm khắc phục hậu quả tài chính của rủi ro. Rủi ro xẩy ra có thể mang lại những thiệt hại tài chính bất thường cho các cá nhân, tổ chức. Các cá nhân, tổ chức không gặp phải rủi ro rất cần đến nguồn tài chính kịp thời để bù đắp thiệt hại, lấy lại sự cân bằng và ổn định tình hình tài chính. Các tổ chức bảo hiểm sẽ đáp ứng nhu cầu đó một cách nhanh chóng và kịp thời, bảo đảm vật chất và tài chính trước rủi ro, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất trắc cho những người được bảo hiểm. Với những hoạt động này, bảo hiểm thương mại góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống của người tham gia bảo hiểm không may bị rủi ro gây tổn thất. - Bên cạnh tính nhân văn của hoạt động bảo hiểm, nghề nghiệp bảo hiểm phải thường xuyên thực hiện việc nghiên cứu rủi ro, thống kê tổn thất để tìm kiếm các biện pháp phòng tránh và giảm thiểu tổn thất, phát triển các dịch vụ cứu trợ. Những hoạt động đó sẽ góp phần phòng ngừa chống đỡ rủi ro, thiên tai, tai họa của toàn thể cộng đồng. - Hoạt động bảo hiểm đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể làm việc ở các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, mạng lưới đại lý bảo hiểm, Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao, sự thu hút một lực lượng lớn lao động vào các hoạt động nói trên của bảo hiểm đã và sẽ góp phần tạo việc làm cho xã hội cũng đồng nghĩa góp phần an sinh xã hội. - Trong nền kinh tế quản lý theo cơ chế thị trường, với nội dung phong phú đa dạng của hoạt động bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm đã đóng vai trò quan trọng của trung gian tài chính, thu hút và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi thông qua nhiều khoản phí bảo hiểm nhỏ và sử dụng nguồn vốn đó vào đầu tư trung và dài hạn. Hoạt động bảo hiểm tạo nên kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế và được sử dụng vào đầu tư đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận, tăng thu nhập và thực hiện bảo toàn vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm. - Các hoạt động trên của bảo hiểm cũng đồng thời hỗ trợ các hoạt động kinh doanh, thúc đẩy hoạt động thương mại, tại đó những hàng hóa, dịch vụ cũng như những tài sản thế chấp sẽ được thuận lợi hơn trong kinh doanh nếu kèm theo các hợp đồng bảo hiểm, hoặc sự bảo đảm của bảo hiểm cho các khoản đầu tư cũng góp phần gián tiếp kiến tạo nên hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng cơ sở của Nhà nước, vì “ không một nhà đầu tư nào dám mạo hiểm bỏ ra hàng tỷ đô la cần thiết để xây dựng những toàn nhà chọc trời ở Manhattan mà không có bảo đảm được bồi thường nếu hoả hoạn hoặc sai phạm về xây dựng xẩy ra”*. - Tăng tích luỹ và tiết kiệm chi cho Ngân sách. - Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. * Henry Ford - một nhân vật nổi tiếng trong giới kỹ nghệ Mỹ. 16
  13. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm 2- Bảo hiểm thương mại hoạt động theo một số nguyên tắc chính sau đây: 2.1. Nguyên tắc vận dụng qui luật số lớn và thống kê rủi ro 21.1. Qui luật số lớn: theo qui luật này, số lần thực hiện phép thử càng lớn, kết quả thu được sẽ xích gần lại xác suất lý thuyết xảy ra biến cố đang xem xét. Nếu thực hiện được việc nghiên cứu trên một số lượng đủ lớn các trường hợp, người ta sẽ tính toán được xác suất chính xác. Như vậy, người ta có thể làm chủ được sự ngẫu nhiên trong việc xảy ra biến cố đó. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tính được tần suất của loại biến cố đó. Điều này chỉ có thể thực hiện được nhờ thống kê rủi ro. Vì vậy, qui luật số lớn là cơ sở kỹ thuật quan trọng của bảo hiểm. 2.1.2. Thống kê rủi ro Thống kê rủi ro phải bảo đảm những nguyên tắc: - Thống kê phải được tiến hành trên số lượng lớn rủi ro. - Thống kê rủi ro phải trên cơ sở phân nhóm rủi ro; phân nhóm đối tượng theo những tiêu thức thích hợp (tính đồng nhất của rủi ro). - Thống kê rủi ro phải được tiến hành trên một địa bàn đủ rộng. - Số liệu phải được thu thập trong một khoảng thời gian dài, phù hợp đặc tính của từng loại rủi ro. 2.2. Nguyên tắc sàng lọc rủi ro Khi thực hiện các dịch vụ bảo hiểm, người bảo hiểm đứng trước nhiều loại đối tượng bảo hiểm, khách hàng trong hoàn cảnh không giống nhau và hiển nhiên là độ trầm trọng của rủi ro phải khác nhau. Do đó, đòi hỏi người bảo hiểm phải sàng lọc, từ chối những trường hợp mà độ trầm trọng của rủi ro quá lớn, khách hàng đưa đến rủi ro “quá xấu”. Đồng thời sắp xếp các đối tượng bảo hiểm rủi ro được bảo hiểm thành những nhóm, hạng tương đối đồng nhất, đồng đều về tính chất (theo những tiêu thức thích hợp với từng loại nghiệp vụ). Ví dụ: sắp xếp các rủi ro khó cháy, rủi ro dễ cháy trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn. 2.3. Nguyên tắc phân tán, phân chia rủi ro Sự đa dạng của nhu cầu bảo hiểm, phức tạp của rủi ro, khiến người bảo hiểm gặp không ít trường hợp “đặc biệt” đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết phù hợp. Để không bị mạo hiểm, người bảo hiểm phải tôn trọng nguyên tắc phân tán, phân chia rủi ro. 17
  14. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Phân tán rủi ro: đòi hỏi người bảo hiểm có mạng lưới bảo hiểm rộng rãi, không thể chỉ nhận bảo hiểm cho các đối tượng tập trung ở một vùng hạn hẹp nào đó, đặc biệt là rủi ro có khả năng tích tụ, tập trung (ví dụ: hoả hoạn). Phân chia rủi ro: người bảo hiểm phải dùng kỹ thuật đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm khi cần thiết. + Đồng bảo hiểm: là sự phân chia theo tỷ lệ cùng một rủi ro giữa nhiều người bảo hiểm. Về phương diện pháp lý, người được bảo hiểm có quan hệ trực tiếp với từng người bảo hiểm thông qua hợp đồng. Đồng bảo hiểm có thể được diễn tả qua sơ đồ sau: Người được bảo hiểm rủi ro 100% Rủi ro (50%) Rủi ro (30%) Rủi ro (20%) Người bảo hiểm A Người bảo hiểm B Người bảo hiểm C + Tái bảo hiểm, là nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử dụng để chuyển một phần rủi ro đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho một hoặc nhiều người bảo hiểm khác. Các công ty bảo hiểm đã nhận bảo hiểm rủi ro cho các đơn vị và cá nhân tham gia bảo hiểm, đến lượt mình cũng trở thành đối tượng được bảo hiểm. Vì rằng, một khi những tai nạn rủi ro được bảo hiểm xảy ra dồn dập hoặc khi có tổn thất quá lớn, công ty bảo hiểm không đủ khả năng tài chính để thanh toán bồi thường, có thể dẫn tới phá sản. Để ngăn ngừa tình trạng trên, trong hoạt động bảo hiểm còn sử dụng tái bảo hiểm: một mặt đảm bảo được yêu cầu của người tham gia bảo hiểm. Mặt khác, bảo vệ được các công ty bảo hiểm, cho phép các công ty bảo hiểm phối hợp hoạt động, thoả mãn nhu cầu bảo hiểm của xã hội. Tái bảo hiểm trở thành một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm là sự phân chia rủi ro mà người bảo hiểm phải gánh chịu cho các người bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một phần phí bảo hiểm qua hợp đồng tái bảo hiểm. 18
  15. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm trực tiếp với người được bảo hiểm, người bảo hiểm trực tiếp đề nghị một hay nhiều người bảo hiểm khác bảo hiểm lại cho mình một phần trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm trực tiếp bằng một hay nhiều hợp đồng tái bảo hiểm và có thể tiếp tục xa hơn với hoạt động nhượng tái bảo hiểm. Tổng quát lại, tái bảo hiểm có tác dụng: + Phân tán rủi ro, nguy hiểm góp phần ổn định kinh doanh cho công ty bảo hiểm. Với hợp đồng tái bảo hiểm, giúp người bảo hiểm một khả năng tài chính có thể linh hoạt, chủ động hơn trước sự đa dạng về nhu cầu bảo hiểm. Đồng thời, giúp các công ty nhỏ hoặc mới ra đời ổn định và phát triển. + Góp phần phát triển hợp tác kinh tế giữa các nước, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước. Tuy nhiên, nếu xét trên quan điểm ảnh hưởng của tái bảo hiểm đối với kết quả hoạt động tài chính của một công ty bảo hiểm thì tái bảo hiểm cũng có mâu thuẫn nhất định: + Một mặt, bảo vệ được các dịch vụ bảo hiểm khỏi ảnh hưởng của các sự cố bảo hiểm lớn và có tính chất tai họa - tái bảo hiểm có ảnh hưởng tốt đến quá trình tài chính chung của công ty chuyển nhượng. + Mặt khác, tái bảo hiểm có thể làm tăng hay làm giảm một cách đáng kể chi tiêu tài chính của công ty chuyển nhượng trong một năm nào đó, do công ty chuyển nhượng phải chuyển một bộ phận đáng kể phí bảo hiểm cho công ty tái bảo hiểm. + Mặc dù tái bảo hiểm phát sinh gắn với nhu cầu bảo hiểm của người được bảo hiểm, nhưng giữa họ không có mối quan hệ hợp đồng ràng buộc: với thiệt hại xảy ra cho đối tượng được bảo hiểm, người được bảo hiểm không có quyền khiếu nại trực tiếp người nhận tái bảo hiểm. Ngày nay, tái bảo hiểm trở thành phương thức hoạt động chủ yếu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các nước. Khi nói đến tái bảo hiểm, cần phải nói đến thị trường tái bảo hiểm. Thị trường tái bảo hiểm là nơi cung cấp và chấp nhận các dịch vụ tái bảo hiểm. ở đây, các công ty có thể mang nghiệp vụ của mình để chào mời (quảng cáo) tái bảo hiểm cho các công ty khác. Đồng thời xem xét, lựa chọn để nhận tái bảo hiểm một phần nghiệp vụ của các công ty khác. 19
  16. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Chào mời tái bảo hiểm hoặc nhận tái bảo hiểm trên thị trường diễn ra dưới hai hình thức: tái bảo hiểm trực tiếp và tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Thị trường tái bảo hiểm nổi tiếng nhất là Luân đôn. Tái bảo hiểm được diễn tả qua sơ đồ sau: Người được bảo hiểm rủi ro Hợp đồng bảo hiểm gốc Người bảo hiểm gốc (trực tiếp) (hay người nhượng tái bảo hiểm) Các hợp đồng tái bảo hiểm Người nhận tái Người nhận tái Những người nhận bảo hiểm A bảo hiểm B tái bảo hiểm khác Hợp đồng nhượng tái bảo hiểm Người nhận tái bảo hiểm C (người nhận chuyển nhượng tái bảo hiểm) Tóm lại, việc tuân thủ các nguyên tắc trên sẽ giúp cho người bảo hiểm quản lý tốt hơn các khoản tiền vốn mà khách hàng đã phó thác. Như vậy, kinh doanh bảo hiểm sẽ tốt hơn. 3. Các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại Theo sự phát triển kinh tế - xã hội, nghiệp vụ bảo hiểm thương mại ngày càng phong phú và đa dạng. Hiện nay các nước trên thế giới thường có các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại sau: - Bảo hiểm tài sản, thí dụ: bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tầu, bảo hiểm cháy.v.v 20
  17. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự, thí dụ: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người sản xuất sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự nghề nghiệp .v.v - Bảo hiểm con người gồm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sức khoẻ. Các nghiệp vụ bảo hiểm được triển khai như thế nào còn tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, trình độ tổ chức và quản lý của ngành bảo hiểm. V. Pháp luật trong kinh doanh bảo hiểm 1- Sự cần thiết của quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm Pháp luật luôn là công cụ đắc lực cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Trong nền kinh tế quản lý theo cơ chế thị trường, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước được thực hiện chủ yếu là thông qua hệ thống luật pháp. Bảo hiểm là một ngành kinh doanh dịch vụ của nền kinh tế thị trường, vì thế giống như các ngành sản xuất kinh doanh khác, phải có sự quản lý của Nhà nước. Không những thế, quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải chặt chẽ về nhiều mặt - giá bán dịch vụ (phí bảo hiểm), hoa hồng bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc, danh mục đầu tư Sự nghiêm ngặt đó là do những đặc thù của bản thân lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đòi hỏi, đó là: - Thứ nhất: Kinh doanh bảo hiểm vẫn tồn tại một sự bất bình đẳng nhất định giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. - Thứ hai: Bản thân kỹ thuật tính phí bảo hiểm đã tiềm ẩn những rủi ro đe dọa đến quyền lợi của bên được bảo hiểm và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. - Thứ ba: Với đặc tính "đảo ngược của chu trình kinh doanh", doanh nghiệp bán bảo hiểm thu phí bảo hiểm trước, việc bồi thường, trả tiền bảo hiểm chỉ có thể thực hiện sau một thời gian và với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ của hợp đồng bảo hiểm. Phần lớn số phí bảo hiểm thu trước được người bảo hiểm sử dụng vào đầu tư trong thời gian tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng. Việc đầu tư bằng phí bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi của bảo hiểm nếu không được quản lý thì hoạt động bảo hiểm sẽ có thể thoát ly hoàn toàn khỏi mục đích cũng như khả năng sẵn sàng cho việc bồi thường, trả tiền bảo hiểm, thậm chí sẽ có thể đặt quyền lợi của các khách hàng mua bảo hiểm bên bờ vực thẳm do người bảo hiểm quá mạo hiểm trong đầu tư. 21
  18. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm - Thứ tư: Tính chất phức tạp trong cạnh tranh bảo hiểm Như vậy, trên nhiều phương diện, quản lý Nhà nước về bảo hiểm là một tất yếu khách quan vì mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm; bảo hộ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp bảo hiểm; điêù chỉnh, thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển theo yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. 2. Quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. 2.1- Cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm Mặc dù năm 1964 Nhà nước đã có Quyết định số 179/HĐBT ngày 17/12/1964 thành lập Công ty bảo hiểm Việt Nam với nhiệm vụ triển khai một số nghiệp vụ bảo hiểm cần thiết nhưng đến năm 1980 công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm mới chính thức được đưa vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam. Giai đoạn từ năm 1965 đến tháng 6/1992 do tính độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm nên Bộ tài chính đã giao cho Công ty bảo hiểm Việt Nam thực hiện đồng thời cả hai chức năng: quản lý nhà nước và trực tiếp kinh doanh bảo hiểm. Trong sự chuyển biến của nền kinh tế thị trường bảo hiểm hình thành, phát triển và đòi hỏi phải có sự thay đổi về phương thức tổ chức quản lý . Đáp ứng yêu cầu quản lý trong nền kinh tế thị trường, tháng 6 /1992 Bộ Tài chính đã quyết định tách chức năng quản lý khỏi chức năng kinh doanh của Bảo Việt. Bộ phận quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thành lập từ thời điểm đó đã đánh dấu một giai đoạn mới trong quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở nước ta. Tháng 12 năm 2000, Luật kinh doanh bảo hiểm được thông qua và tại chương VII từ điều 120 đến điều 122 của luật đã quy định rõ về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Trong đó, Điều 121, quy định "Chính Phủ thống nhất về quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài Chính chịu trách nhiệm trước Chính Phủ thực hiện quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm theo quy định của luật pháp". Tổ chức quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đang dần được hoàn thiện. Phương thức quản lý mới theo hướng hạn chế dần sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm; tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh và trong việc thực thi pháp luật. 22
  19. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm 2.2. Khung pháp lý của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam ở Việt nam, trong một thời gian dài (1965 - 1993), hệ thống văn bản pháp lý về hoạt động kinh doanh bảo hiểm Việt Nam chủ yếu là các Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng; các thông tư, quyết định của Bộ Tài chính và các cấp có thẩm quyền; các quy định trong các bộ luật liên quan như: Luật hàng hải, Luật hàng không Việt Nam Với sự chuyển biến của nền kinh tế Việt nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm. Đó là một dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa X, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm (số 24/2000/QH10) và có hiệu lực từ ngày 01/4/2001. Luật kinh doanh bảo hiểm gồm 9 chương và 129 điều bao quát mọi hoạt động của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm; đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài; quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm; khen thưởng và xử lý vi phạm. Bên cạnh luật kinh doanh bảo hiểm, còn có nhiều văn bản pháp luật khác, như: Bộ luật Dân sự Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ban hành ngày 28/10/1995 có hiệu lực từ ngày 01/7/1996. Tại chương 2, mục 11 từ Điều 571 đến Điều 584 quy định về các loại hợp đồng bảo hiểm, hình thức hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm . Bộ luật hàng hải Việt Nam, ban hành ngày 30/6/1990 có hiệu lực từ ngày 01/1/1991. Chương 16 (từ Điều 200 đến Điều 240) bao hàm những quy phạm pháp luật về hợp đồng bảo hiểm hàng hải - về đối tượng bảo hiểm, giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, các vấn đề chuyển giao quyền theo hợp đồng bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm bao, thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hải, đòi người thứ ba, từ bỏ đối tượng bảo hiểm, thanh tóan tiền bồi thường. Luật hàng không dân dụng Việt Nam, ban hành ngày 26/12/1991 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/1992. Trong luật này có một số quy định liên quan đến bảo hiểm hàng không. Điều 72: "Người vận chuyển hàng không phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của mình đối với tính mạng, sức khỏe, thương tích của hành khách tới mức giới hạn trách nhiệm dân sự của người vận chuyển và theo quy định của pháp luật về bảo hiểm" . 23
  20. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Trong những trường hợp cụ thể, việc đièu chỉnh quan hệ bảo hiểm còn liên quan đến một số bộ luật khác như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các văn bản dưới Luật khác. Thực tế, hoạt động kinh doanh bảo hiểm có những tình huống, sự vụ phát sinh liên quan đồng thời đến các quy định của nhiều văn bản pháp luật nói trên, thậm chí còn có thể có liên quan đến các luật pháp nước ngoài. Trong trường hợp đó, việc viện dẫn, vận dụng buộc phải tuân theo nguyên tắc về trình tự áp dụng các nguồn luật trong pháp luật. 2.3- Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm Nội dung quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm sẽ tuỳ thuộc vào hệ thống luật pháp của từng quốc gia và trong từng thời kỳ. ở Việt nam hiện nay, nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm được trình bày tại Điều 120, chương VII, luật kinh doanh bảo hiểm trong đó nội dung quan trọng của quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm là kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, đó là: - Kiểm tra các tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Mục đích của việc kiểm tra các tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nhằm lựa chọn những doanh nghiệp có đủ khả năng mọi mặt cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm và điều tiết sự phát triển của thị trường bảo hiểm theo mục tiêu nhất định. - Kiểm tra, giám sát trong quá trình hoạt động Bên cạnh việc kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định trong giấy phép kinh doanh; các quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm đã đăng ký, phê chuẩn; các quy định của luật pháp về khai thác bảo hiểm, trả hoa hồng bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm, chuyển giao hợp đồng bảo hiểm , vấn đề phức tạp và quan trọng bậc nhất trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm là giám sát tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm . Giám sát tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm phải được thực hiện trên nhiều mặt: Thứ nhất: Khả năng thanh toán. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng thanh toán trước các trách nhiệm đã và có thể phát sinh từ những hợp đồng đã ký kết. 24
  21. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Thứ hai: Dự phòng nghiệp vụ. Kỹ thuật bảo hiểm đòi hỏi các doanh nghiệp phải trích lập nhiều loại dự phòng nghiệp vụ. Thực tế mức trích lập dự phòng nghiệp vụ sẽ chi phối trực tiếp khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm (không phải chỉ trong một năm mà cả về lâu dài), kết quả kinh doanh (lỗ lãi), khoản thuế phải nộp cho ngân sách Nhà nước, lợi tức/ cổ phiếu Vì thế, dự phòng nghiệp vụ luôn là một trọng yếu trong nội dung kiểm tra, giám sát của quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Thứ ba: Hoạt động đầu tư. Đầu tư vốn là hoạt động tài chính không thể thiếu trong kinh doanh bảo hiểm. Đối với các hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, hiệu quả đầu tư quyết định sự sống còn của doanh nghiệp bảo hiểm; trong kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ thì kết quả đầu tư sẽ chi phối năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm và chiếm tỷ trọng lớn trong lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm. ở Việt Nam, quản lý Nhà nước sẽ tập trung vào việc xác định lượng vốn nhàn rỗi hợp lý mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng để đem đi đầu tư, phạm vi đầu tư và cơ cấu danh mục đầu tư, nguồn từ dự phòng nghiệp vụ. - Giám sát việc chia tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể và phá sản doanh nghiệp bảo hiểm Chia tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể và phá sản doanh nghiệp là những hiện tượng rất dễ phát sinh trong nền kinh tế quản lý theo cơ chế thị trường. Thực hiện chức năng quản lý và sự giám sát của cơ quan quản lý nhà nước trước hết phải đảm bảo việc tách, nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp đó tiến hành đúng theo quy định của pháp luật, như: chia, tách doanh nghiệp bảo hiểm phải đi đôi với việc phân định rõ ràng tài sản, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm mới; hợp nhất các doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp bảo hiểm phải diễn ra đồng thời với việc hợp nhất, sáp nhập về tài sản và các quyền lợi nghĩa vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm có liên quan 2.4- Xử lý vi phạm pháp luật kinh doanh bảo hiểm Sự phức tạp của các mối quan hệ trong hoạt dộng kinh doanh bảo hiểm và pháp luật kinh doanh bảo hiểm khiến lĩnh vực này tiềm ẩn nhiều khả năng phát sinh các hiện tượng vi phạm. Tại Việt nam, Điều 51, chương VI, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các hình thức xử lý các hiện tượng vi phạm gồm có: a) Cảnh cáo b) Tạm đình chỉ hoạt động 25
  22. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm c) Thu hẹp nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động d) Thu hồi giấy phép Sau đó, ngày 13/10/ 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 118/NĐ-CP quy định rõ về nguyên tắc xử phạt, thời hiệu xử phạt, các hình thức xử phạt và mức xử phạt, thủ tục xử phạt và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Các quy định pháp lý nói trên bước đầu đã góp phần tăng cường hiệu lực của quản lý Nhà nước, đưa hoạt động của thị trường bảo hiểm vào khuôn khổ luật pháp. VI. lịch sử phát triển của bảo hiểm 1. Trên thế giới Tiến trình ra đời của hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thế giới đã được ghi lại bằng các dấu mốc lịch sử sau: Khoảng năm 4500 trước Công nguyên, những người thợ đẽo đá ở Ai Cập đã lập ra các quỹ tương hỗ để giúp đỡ, chia sẻ rủi ro cho những người gặp hoạn nạn. Những người Trung Hoa cổ đại, thời nhà Chu vào khoảng những năm 500 trước Công nguyên cũng đã sử dụng kỹ thuật phân chia rủi ro đơn giản bằng cách tổ chức các đoàn thuyền vận chuyển hàng hóa và súc vật trên dòng sông Dương Tử, trong đó hàng hóa của mỗi chủ hàng được chia nhỏ cho mỗi thuyền chuyên chở nếu chiếc nào bị chìm thì các thương gia cùng nhau gánh chịu. ở Babylone, vào khoảng năm 1700 trước Công nguyên và ở Athens (Hy Lạp) vào khoảng năm 500 trước Công nguyên đã xuất hiện quan hệ tín dụng với lãi suất rất cao trong lĩnh vực buôn bán, vận chuyển hàng hóa trên biển và qua sa mạc. Điều đặc biệt trong quan hệ tín dụng này là nếu hàng hóa bị tổn thất thì người cho vay phải chịu rủi ro mất vốn và lãi. Tại Rôme, hệ thống cho vay với điều kiện tương tự cũng đã ra đời, lãi suất có thể lên đến 50%. Thực chất đó đã là một sự kết hợp giữa hoạt động tín dụng với ý đồ bảo hiểm và do đặc trưng bằng cơ chế lãi suất cao và chấp nhận rủi ro nên được mệnh danh là "cho vay mạo hiểm lớn". Lãi suất cao có thể hiểu như tiền thân của phí bảo hiểm. Hoạt động cho vay mạo hiểm lớn tồn tại khá dài và phố biến trên nhiều khu vực trên thế giới. Tại Rôme, kéo dài đến tận thời kỳ Trung Cổ - thời kỳ thống trị của Nhà thờ Thiên chúa giáo. “Cho vay mạo hiểm lớn” đã bị lạm dụng và vào khoảng năm 1234 nhà thờ Thiên chúa giáo đã ra sắc lệnh cấm hoạt động cho vay nặng lãi. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm ra một phương thức bảo đảm cho các khoản tín dụng mà chủ nhà băng đã cấp cho nhà buôn (con nợ có rủi ro cao) khi không còn sự bảo đảm bằng lãi suất "cắt cổ". Trước sự đòi hỏi đó, đã hình thành một hệ thống bảo đảm mới. Những thỏa thuận bảo hiểm đầu tiên được gắn liền với hoạt động thương mại và vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã ra đời vào 26
  23. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm khoảng giữa thế kỷ 14. Bút tích của bản hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy được ký kết tại Gênes năm 1347. Có thể đã có những bản hợp đồng cổ hơn mà người ta không tìm thấy do chúng đã bị hủy ngay sau khi con tàu cập bến đồng nghĩa với việc thực hiện xong bảo đảm. Năm 1424, cũng tại hải cảng Gênes, Công ty bảo hiểm đầu tiên của ngành vận tải đường biển và đường bộ được thành lập. Từ thế kỷ 13, một số văn bản liên quan đến thương mại đường biển đã liên tục được ban hành ở các nước châu Âu. Những văn bản này đã đánh dấu những bước phát triển hệ thống luật pháp về hoạt động bảo hiểm. Sau bảo hiểm hàng hải, tiếp đến là sự ra đời của các loại bảo hiểm khác như: bảo hiểm hỏa hoạn ra đời tại Anh sau năm 1666; bảo hiểm nhân thọ năm 1762 Cuối thế kỷ 19, cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện và phát triển rất nhanh như bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm vỡ kính, bảo hiểm mưa đá và băng tuyết, bảo hiểm ôtô, bảo hiểm trách nhiệm dân sự Ngày nay, bảo hiểm đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và ngành bảo hiểm đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia, nhất là các nước phát triển. 2- Tại Việt Nam Vào những năm 30 của thế kỷ 20, các đại lý bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm Pháp đã ký được những hợp đồng bảo hiểm đầu tiên ở nước ta, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được biết đến nhưng không đáng kể, không có một công ty bảo hiểm nào được thành lập. Giai đoạn từ 1954 đến 1975, ở miền Nam Việt Nam đã tồn tại 57 công ty bảo hiểm dưới nhiều loại hình pháp lý: công ty cổ phần, công ty tương hỗ và công ty bảo hiểm nước ngoài. Sau 1975, một số công ty bảo hiểm tư nhân ở miền Nam đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào tổ chức bảo hiểm nhà nước là Công ty bảo hiểm Việt Nam. ở miền Bắc, Chính phủ đã có Quyết định số 179/CP ngày 17-12-1964 cho phép thành lập Công ty bảo hiểm Việt Nam (tên giao dịch là Bảo Việt) trực thuộc Bộ Tài chính. Bảo Việt chính thức hoạt động vào tháng 1 năm 1965, thực hiện hai chức năng quản lý nhà nước và trực tiếp kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. Tính độc quyền khiến hoạt động bảo hiểm trước năm 1990 được biết đến dưới tên là bảo hiểm nhà nước. Mặc dù có vị trí nhỏ bé với một doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất, nhưng ngành bảo hiểm Việt Nam đã góp phần đáng kể trong chia sẻ rủi ro của những ngành kinh tế quan trọng như ngoại thương, vận tải đường biển, hàng không thông qua hoạt động bảo hiểm hàng hải, tái bảo hiểm và hoạt động đại lý giám định cho các công ty bảo hiểm của các nước XHCN. 27
  24. Chương 1 - Tổng quan về bảo hiểm Sang thập kỷ 90, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến lớn theo cơ chế thị trường, hoạt động bảo hiểm đã có những thay đổi phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Bảo Việt không còn chức năng quản lý nhà nước và trở thành một doanh nghiệp kinh doanh thuần túy. Tháng 12 năm 1993, Nghị định 100/CP ngày 23/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm được ban hành đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm của một doanh nghiệp nhà nước duy nhất đã chấm dứt với sự ra đời một loạt các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế. Tháng 8/1996, Bảo Việt đã triển khai những loại bảo hiểm nhân thọ đầu tiên và với những bước nhảy vọt về tốc độ tăng trưởng và bảo hiểm nhân thọ đã nhanh chóng khẳng định vị thế quan trọng trong ngành bảo hiểm. Ngày 3/5/1999 Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ đã có quyết định phê duyệt Điều lệ của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam. Hiệp hội bảo hiểm Việt nam đã lấy ngày 3/5 làm ngày hội truyền thống hàng năm của những người làm bảo hiểm ở Việt nam. Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm không ngừng được hoàn thiện, chỉnh sửa và bổ sung. Ngày 09 tháng 12 năm 2000, Luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội CHXHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 8, khoá X và có hiệu lực từ ngày1/4/2001, đặt nền móng pháp lý cơ bản cho sự phát triển thị trường bảo hiểm bền vững và lành mạnh. Hiệu ứng tích cực của sự biến chuyển của hệ thống pháp luật về bảo hiểm là quy mô và tốc độ phát triển của thị trường Việt Nam tăng không ngừng trong các năm. Tính đến tháng 9 năm 2005, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có 8 doanh ngiệp bảo hiểm nhân thọ, 15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 1 Tổmg công ty tái BH, 5 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và hàng chục vạn đại lý bảo hiểm. Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm bình quân giai đoạn 1993 - 2002 đạt 29%/năm. 9 tháng đầu năm 2005 doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường đạt khoảng 9794 tỷ đồng,tăng 6.6% so với cùng kỳ năm trước. Những năm đầu của thế kỷ 21, sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đã tác động rất mạnh tới ngành dịch vụ bảo hiểm. Bên cạnh những thành quả không thể phủ nhận, thị trường bảo hiểm Việt nam đang bộc lộ những yếu điểm về chất lượng và thương hiệu dịch vụ bảo hiểm, về năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập của các doanh nghiệp bảo hiểm, về năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước Chiến lược phát triển của thị trường bảo hiểm Việt nam giai đoạn 2003 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 29/8/ 2003 đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạch định và ổn định chiến lược kinh doanh trong tương lai. Mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, tăng tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm / GDP (2,5% vào năm 2005 và 4,2% vào năm 2010), bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được tiếp cận những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế đang đòi hỏi nỗ lực từ nhiều phía mà trước hết là Nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm có mặt trên thị trường bảo hiểm Việt nam. 28
  25. Chương 2 Bảo hiểm tài sản I. Khái quát về bảo hiểm tài sản 1. Khái niệm: Là thể loại bảo hiểm bao gồm những đối tượng bảo hiểm là tài sản các loại. Tài sản các loại là: - Tài sản hữu hình tồn tại dưới hình thể vật chất: nhà cửa, phương tiện vận tải, cây trồng, vật nuôi - Tài sản vô hình không có hình thể vật chất: phát minh sáng chế, bản quyền, lợi thế thương mại trong kinh doanh Cho đến nay không phải tất cả các tài sản đều đã được trở thành đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, cũng đã hình thành nhiều loại bảo hiểm tài sản khác nhau. Các loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản thường được hình thành trên cơ sở phân nhóm, phân loại rủi ro theo đặc tính nhất định. 2. Đặc trưng của bảo hiểm tài sản 2.1. Tài sản là đối tượng bảo hiểm - Xác định quyền sở hữu của chủ tài sản: người chủ sở hữu tài sản hoặc người được giao quyền sở hữu, sử dụng tài sản sẽ là người ký kết hợp đồng bảo hiểm. 29
  26. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản - Tài sản chỉ có thể được bảo hiểm khi xác định được giá trị của chúng, vì nó là cơ sở của việc thoả thuận về số tiền bảo hiểm của người bảo hiểm trong hợp đồng. Về nguyên tắc, người bảo hiểm có thể chấp nhận bảo hiểm một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản, nhưng không được vượt quá giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn xảy ra ba trường hợp: a. Số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm: đây là hình thức bảo hiểm dưới giá trị. Trường hợp này rất phổ biến. Khi gặp sự cố bảo hiểm này xảy ra, người bảo hiểm sẽ vận dụng qui tắc tỷ lệ khi xác định số tiền bồi thường. b. Số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm: trường hợp này là lý tưởng, nhưng phải xác định chính xác giá trị bảo hiểm. c. Số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm: còn gọi là bảo hiểm trên giá trị. Có trường hợp này là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan: vì xác định giá trị tài sản làm căn cứ tính giá trị bảo hiểm lúc ký kết hợp đồng không chính xác. Hoặc, do giá cả tài sản trên thị trường thường biến động. 2.2. Nguyên tắc bồi thường: là nguyên tắc cơ bản chi phối việc bồi thường trong mọi nghiệp vụ bảo hiểm tài sản. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là số tiền bồi thường mà người được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không được vượt quá thiệt hại của họ trong sự cố bảo hiểm. Nguyên tắc này không cho phép việc kiếm lời không hợp lý từ quan hệ bảo hiểm. Thực hiện nguyên tắc này, trong một số trường hợp khá phức tạp: bảo hiểm trên giá trị, bảo hiểm trùng, trường hợp người thứ ba phải chịu trách nhiệm về thiệt hại của tài sản được bảo hiểm đòi hỏi cách xử lý phải thích hợp: - Nguyên tắc thế quyền: được sử dụng trong trường hợp xác định được rõ người thứ ba phải chịu trách nhiệm trong thiệt hại tài sản được bảo hiểm, người bảo hiểm sau khi bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm được phép thế quyền người được bảo hiểm để đòi lại người thứ ba phần thiệt hại thuộc trách nhiệm của người đó (theo Luật Dân sự). (1) Ví dụ: Một chủ hàng thuê một chủ xe vận chuyển một lô hàng trị giá 100 triệu đồng từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh. Lô hàng này đã được bảo hiểm tại Công ty bảo hiểm A theo quy tắc bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa. Số tiền bảo hiểm bằng với giá trị lô hàng, và mất cắp là một trong những rủi ro được bảo hiểm. Giả sử trong quá trình vận chuyển do sơ suất của chủ xe, một phần hàng trị giá 20 triệu đồng đã bị kẻ gian lấy cắp. 30
  27. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản Như vậy, trong trường hợp này Công ty bảo hiểm A sẽ bồi thường cho chủ hàng 20 triệu đồng sau đó được thay thế chủ hàng khiếu nại đòi chủ xe bồi thường. Có những trường hợp đặc biệt mà việc thế quyền trở nên phức tạp, như: + Tài sản được bảo hiểm dưới giá trị. Việc bồi thường của bảo hiểm sẽ thấp hơn thiệt hại của người được bảo hiểm trong sự cố bảo hiểm. Như vậy, người được bảo hiểm sẽ giữ một phần khiếu nại người thứ ba có lỗi. (2) Ví dụ: Cũng dữ kiện như ví dụ trên nhưng số tiền bảo hiểm là 80 triệu đồng. 80 Trường hợp này Công ty bảo hiểm A chỉ bồi thường 20 x 16 triệu đồng. Do đó chủ 100 hàng vẫn được quyền đòi chủ xe bồi thường 4 triệu đồng. + Nếu người thứ ba có lỗi lại là người được bảo hiểm của một hợp đồng trách nhiệm dân sự tương ứng với cùng người bảo hiểm tài sản đó thì cần có sự phối hợp giữa hai loại hợp đồng đó khi giải quyết bồi thường. + Nếu người thứ ba có lỗi lại là người được bảo hiểm của hợp đồng trách nhiệm dân sự tương ứng với một người bảo hiểm khác thì có thể áp dụng quyền khiếu nại trực tiếp giữa người bảo hiểm tài sản và người bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Việc thế quyền đó được qui định bởi luật pháp. Tuy nhiên, luật pháp cũng qui định: không được áp dụng thế quyền trong một số trường hợp khi người thứ ba có lỗi có những mối quan hệ nhất định với người được bảo hiểm (vợ, chồng, con ). Hợp đồng bảo hiểm cũng đòi hỏi người được bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo thực hiện việc khiếu nại người thứ ba có lỗi đối với người bảo hiểm. Vậy thì người bảo hiểm có thể áp dụng các hình thức phạt nếu người được bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ đó đầy đủ (không cung cấp thông tin cần thiết, chuyển giao giấy tờ, bằng chứng kịp thời ) Thực hiện thế quyền đúng đắn sẽ đảm bảo được đồng thời nguyên tắc bồi thường của bảo hiểm và bồi thường theo Luật Dân sự của người thứ ba có nghĩa vụ. Phương pháp giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản có thể trả bằng tiền tương ứng với thiệt hại thực tế và với giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm, hoặc tài sản tương đương, hoặc sửa chữa nhằm khôi phục lại tài sản trở về trạng thái như trước khi xảy ra tổn thất. 31
  28. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản 2.3 Bảo hiểm trùng: là thuật ngữ dùng để chỉ trường hợp một đối tượng bảo hiểm được đồng thời bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng (với nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm), phạm vi bảo hiểm của các hợp đồng đó có một hay nhiều rủi ro được bảo hiểm giống nhau và tổng số tiền bảo hiểm từ các hợp đồng lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tượng. Như vậy, rất có thể xảy ra sự cố làm phát sinh trách nhiệm của nhiều hợp đồng. ở Việt Nam hiện nay, thông thường các công ty bảo hiểm xác định số tiền bồi thường trong trường hợp có bảo hiểm trùng, theo công thức sau: Số tiền bồi thường Trị giá Số tiền bảo hiểm của từng hợp đồng = x của từng hợp đồng thiệt hại Tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng Với cách thức giải quyết nói trên, người được bảo hiểm sẽ không thể nhận được số tiền bồi thường lớn hơn thiệt hại của họ trong sự cố bảo hiểm. Như vậy, nguyên tắc bồi thường được thực hiện đầy đủ. (3) Ví dụ: Một xe ôtô trị giá 200 triệu đồng, đồng thời được bảo hiểm bởi 2 hợp đồng: - Hợp đồng bảo hiểm thứ nhất: với Công ty bảo hiểm A; số tiền bảo hiểm = 120 triệu đồng - Hợp đồng bảo hiểm thứ hai: với Công ty bảo hiểm B; số tiền bảo hiểm = 180 triệu đồng Giả sử xảy ra một tai nạn phải sửa chữa hết 30 triệu đồng thuộc phạm vi bảo hiểm của cả 2 hợp đồng. Như vậy: 120 - Công ty bảo hiểm A bồi thường: 30 x 12 triệu đồng 300 180 - Công ty bảo hiểm B bồi thường: 30 x 18 triệu đồng 300 Cách tính toán khác cũng có thể được sử dụng. Song, đều xuất phát từ yêu cầu thực hiện nguyên tắc bồi thường: số tiền bồi thường cao nhất từ tất cả các hợp đồng là bằng thiệt hại của người được bảo hiểm trong sự cố bảo hiểm. Những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm tài sản nói trên sẽ được cụ thể hoá trong kỹ thuật của từng nghiệp vụ bảo hiểm tài sản ở phần tiếp theo. 32
  29. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản 3. Các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản hiện hành Hiện nay các công ty bảo hiểm ở Việt Nam đang triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản chủ yếu sau đây: - Bảo hiểm hàng hoá xuất - nhập khẩu. - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong nước. - Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. - Bảo hiểm thân tàu biển. - Bảo hiểm thân tàu, thuyền hoạt động trong vùng sông, hồ, nội thuỷ và lãnh hải Việt Nam. - Bảo hiểm thân máy bay. - Bảo hiểm xây lắp. - Bảo hiểm các công trình thăm dò và khai thác dầu khí. - Bảo hiểm hoả hoạn. - Bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng và vật nuôi). và một số nghiệp vụ bảo hiểm khác. ii. Nội dung cơ bản của một số nghiệp vụ bảo hiểm tài sản hiện hành ở Việt Nam Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu 1. Đặc điểm và trách nhiệm các bên trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá 1.1. Đặc điểm xuất nhập khẩu hàng hoá - Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua hợp đồng (số lượng, phẩm chất, ký mã hiệu, qui cách, đóng gói, giá cả, trách nhiệm thuê tàu và trả cước phí, phí bảo hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh toán ) giữa người mua và người bán. - Hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới một quốc gia, phải chịu sự kiểm soát của Hải quan, kiểm dịch Đồng thời, để được xuất (hoặc nhập) qua biên giới thì phải mua bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm thể hiện quan hệ giữa bên bảo hiểm và người được bảo hiểm. - Hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng các phương tiện khác nhau theo hợp đồng vận chuyển. 33
  30. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản 1.2 Trách nhiệm các bên liên quan Quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên. Phải giám định trách nhiệm các bên trước những phát sinh, đặc biệt là những phát sinh liên quan đến rủi ro tổn thất xảy ra trong quá trình vận chuyển. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thông thường được thực hiện thông qua ba loại hợp đồng: - Hợp đồng mua bán được ký kết giữa người bán và người mua. - Hợp đồng chuyên chở được ký kết giữa người bán hoặc người mua với người chuyên chở. - Hợp đồng bảo hiểm được ký giữa người bán hoặc người mua với người bảo hiểm. 1.2.1. Trách nhiệm của người mua và người bán Hàng hoá xuất nhập khẩu được thực hiện thông qua hợp đồng mua bán. Việc mua bán được điều chỉnh trên cơ sở hợp đồng thương mại và các luật lệ xuất nhập khẩu, hải quan của các nước và quốc tế. Trong hợp đồng, người ta vẫn thường dẫn chứng áp dụng điều kiện thương mại quốc tế theo Incoterms, có 13 điều kiện giao hàng. Trong đó, thông dụng và phù hợp nhất với vận chuyển biển là những điều kiện giao hàng theo giá FOB (Free On Board), giá CFR và giá CIF (Cost Insurance Freight) (Xem phụ lục số 1). Các điều kiện giao hàng đó xác định rõ trách nhiệm của người bán và người mua, đồng thời với trách nhiệm rủi ro, tổn thất của hàng hoá. Đặc biệt là thời điểm chuyển rủi ro, tổn thất. Thời điểm đó của cả ba loại giá trên đều là lúc mà hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng xếp hàng lên tàu. Như vậy, nếu người bán tham gia bảo hiểm cho hàng thì phải làm thủ tục ký vào đơn bảo hiểm để trong một số trường hợp có thể chuyển quyền lợi bảo hiểm cho người mua. 1.2.2. Trách nhiệm của người thuê tàu và người vận chuyển Trách nhiệm trên được thể hiện trên hợp đồng thuê tàu hoặc lưu cước tàu (hàng lẻ). Người thuê tàu có thể là người bán (theo điều kiện CIF, C and F) hoặc người mua (theo điều kiện FOB). Người thuê tàu phải chọn con tàu thích hợp có đủ điều kiện chuyên chở hàng hoá đã ký kết trong hợp đồng thương mại (hàng container, hàng rời ). 34
  31. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản Người chuyên chở có trách nhiệm cung cấp một con tàu có đủ điều kiện chuyên chở hàng hoá đã ký kết trong hợp đồng thương mại: tiếp nhận hàng tại cảng, đi theo đúng thời gian quy định, hành trình hợp lý, phù hợp với năng lực bốc xếp tại cảng đi và đến, có đủ khả năng đi biển, có tham gia bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm của chủ tàu. Người chuyên chở phải có trách nhiệm hợp lý trong việc bảo quản, chăm sóc hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Nếu rủi ro, tổn thất xảy ra cho hàng hoá do lỗi của người chuyên chở, người chuyên chở sẽ phải bồi thường. Những thoả thuận và tập quán quốc tế chỉ cho phép người chuyên chở được miễn trách nhiệm trong một số trường hợp nhất định bất khả kháng như bão, sóng thần 1.2.3. Trách nhiệm của người mua bảo hiểm - Người bán hàng theo giá CIF phải mua bảo hiểm, gửi đơn bảo hiểm và chuyển quyền đòi bồi thường cho người mua nếu có tổn thất xảy ra. - Người mua hàng hoá theo điều kiện FOB hay CFR phải có trách nhiệm mua bảo hiểm ngay khi nhận được thông báo giao hàng của người bán (kê khai tên hàng, số lượng, trị giá, cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải) và trả phí bảo hiểm. - Người bảo hiểm căn cứ vào tính chất hàng hoá, điều kiện bảo hiểm, số lượng, trị giá, quãng đường chuyên chở để tính phí bảo hiểm và cấp đơn bảo hiểm. 2. Các loại rủi ro trong bảo hiểm hàng hải 2.1. Khái niệm về rủi ro hàng hải. Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ của biển gây ra làm hư hỏng hàng hoá và phương tiện chuyên chở. 2.2. Phân loại rủi ro Có nhiều loại rủi ro và người ta xếp chúng vào các nhóm: a. Theo nguyên nhân: - Rủi ro do thiên tai. - Rủi ro do tai nạn bất ngờ như mắc cạn, đắm, chìm, cháy nổ, mất tích, đâm va b. Theo nghiệp vụ bảo hiểm, rủi ro được chia ra b.1 Nhóm rủi ro thông thường trên biển - Nhóm rủi ro chính: Là những rủi ro được bảo hiểm ngay từ những ngày sơ khai của bảo hiểm hàng hải. Những rủi ro đó thường gây nên tổn thất lớn và là những rủi ro đặc trưng của hàng hải: 35
  32. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản + Mắc cạn: là hiện tượng đáy tàu chạm sát đáy biển hoặc nằm trên một chướng ngại vật khác làm cho tàu không chạy được. Mắc cạn phải là hiện tượng bất bình thường. Nếu nguyên nhân gây ra mắc cạn thuộc phạm vi bảo hiểm thì những tổn thất do mắc cạn đó sẽ được bảo hiểm bồi thường, không phân biệt tổn thất đó xảy ra trước hoặc sau khi bị mắc cạn. Nếu mắc cạn làm chậm trễ hành trình thì những tổn thất và chi phí phát sinh trực tiếp do chậm chễ sẽ không thuộc phạm vi bảo hiểm. + Chìm đắm: là hiện tượng phương tiện vận chuyển chìm hẳn xuống nước, không chạy được và hành trình bị chấm dứt. + Cháy: là hiện tượng hàng hóa bị oxy hoá hay vật thể khác trên tàu có toả nhiệt lượng cao. Bảo hiểm chỉ bồi thường cháy do nguyên nhân khách quan: thiên tai, sơ suất của con người (không phải là người được bảo hiểm), do buộc phải thiêu huỷ để tránh địch bắt hoặc lây lan dịch bệnh. Cháy lây lan sang hàng hoá khác hay hàng bị hỏng do bơm nước chữa cháy thì những tổn thất này vẫn thuộc trách nhiệm của bảo hiểm. + Đâm va: là hiện tượng phương tiện vận chuyển va chạm vào các vật thể khác cố định hoặc di động. - Nhóm rủi ro thông thường khác được bảo hiểm, gồm có: + Hành vi phi pháp: ý đồ xảo trá, lừa gạt, buôn lậu, lái tầu chệch hướng, làm chậm trễ hành trình + Mất tích: là khi con tàu không đến cảng đã qui định và sau một thời gian hợp lý (theo luật Hàng hải Việt Nam, thời gian hợp lý để tuyên bố tàu mất tích là 3 lần thời gian hành trình nhưng không ít hơn 3 tháng) vẫn không nhận được tin tức của con tàu này thì được coi là tàu đã mất tích. + Ném hàng xuống biển. Trong một số trường hợp cần thiết phải ném một số hàng hoá hoặc trang thiết bị trên tàu xuống biển. Hàng hoá bị ném xuống biển vì hư hỏng. Do thời tiết xấu, do chậm trễ hành trình thì không thuộc rủi ro vứt hàng xuống biển. Nhưng nếu ném hàng hóa xuống biển do tình thế cấp thiết để cứu người, cứu hành trình sẽ là rủi ro được bảo hiểm. 36
  33. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản Hàng bị vứt xuống biển vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ hàng, nếu thấy không ảnh hưởng đến giá trị sử dụng, họ có quyền bỏ chi phí cứu vớt hàng và được bồi thường chi phí đã bỏ ra, nhưng không được bồi thường vượt quá giá trị hàng vứt xuống biển. + Mất cắp, giao thiếu hàng. Hàng giao thiếu do tổn thất thương mại, hao hụt tự nhiên, do bao bì rách vỡ, kém phẩm chất không chịu đựng được trong quá trình vận chuyển thì không thuộc rủi ro này. + Rủi ro cướp biển. b.2. Nhóm rủi ro riêng Đó là những rủi ro không được bảo hiểm với điều kiện bảo hiểm thông thường trừ khi người được bảo hiểm chấp nhận tham gia thêm rủi ro này. Phí bảo hiểm cho rủi ro này thường rất cao. Tách thành rủi ro riêng nhằm tăng thêm ý nghĩa thương mại để người bảo hiểm thu hút thêm khách hàng. + Rủi ro do nguyên nhân chiến tranh (nội chiến, khởi nghĩa ). + Rủi ro do nguyên nhân đình công (do mục đích kinh tế là chủ yếu ). b.3. Nhóm rủi ro loại trừ Là những rủi ro không được bảo hiểm trong mọi trường hợp, bị loại trừ khỏi trách nhiệm người bảo hiểm hàng hoá, dù hàng hoá đó có được bảo hiểm theo điều kiện nào: + Hành vi sơ suất, lỗi lầm , cố ý của chủ hàng. + Mất mát, hư hại và chi phí có liên quan do tàu hoặc xà lan không đủ khả năng đi biển hoặc không thích hợp với việc vận chuyển hàng hóa. + Hao hụt tự nhiên, hao hụt thương mại + Chậm trễ hành trình. + Mất mát hư hỏng hay : phát sinh do việc đóng gói hoặc chuẩn bị hàng hóa không đầy đủ hoặc không thích hợp do việc xếp hàng hỏng lên tàu. + Do người quản lý, người thuê tầu, người điều hành thiếu hụt về tài chính gây ra. (Xem thêm phụ lục số 2) 3. Tổn thất và chi phí trong bảo hiểm hàng hải Tổn thất và chi phí trong bảo hiểm hàng hải chính là những hậu quả mà rủi ro để lại cho chủ hàng. Có nhiều dạng tổn thất: - Tổn thất bộ phận: là sự mất mát hoặc giảm một phần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản. 37
  34. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản (Tổn thất về giảm trọng lượng, thể tích do hao hụt tự nhiên cần được loại trừ khi xét bồi thường). - Tổn thất toàn bộ: do tình trạng tài sản bị tiêu huỷ hoàn toàn, bị mất hoặc bị tước quyền sở hữu, bị mất hoàn toàn giá trị sử dụng. Có 2 trường hợp: + Tổn thất toàn bộ thực tế: Tài sản bị mất hoàn toàn giá trị và giá trị sử dụng: cháy, nổ, chìm đắm, bị chiếm đoạt + Tổn thất toàn bộ ước tính: Tài sản bị tổn thất dù có dùng mọi biện pháp và chi phí hợp lý vẫn không tránh khỏi tổn thất, thậm chí kể cả chi phí phải bỏ ra lớn hơn giá trị còn lại của tài sản cứu được. Chủ hàng muốn được bồi thường đối với tổn thất này thì phải gửi thông báo từ bỏ hàng cho người bảo hiểm biết và phải được người bảo hiểm chấp nhận. Tuy nhiên, nếu hàng được bảo hiểm đã bị tổn thất toàn bộ thực tế hoặc người được bảo hiểm nhận được thông báo về tình trạng tổn thất quá chậm thì không cần phải gửi thông báo từ bỏ. - Tổn thất riêng: tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho riêng quyền lợi của một vài chủ sở hữu đối với tài sản trên hành trình mà không liên quan đến các chủ sở hữu tài sản khác (có mặt trên hành trình). Như vậy, tổn thất riêng có thể là tổn thất toàn bộ hay bộ phận. Bảo hiểm sẽ bồi thường không những đối với tổn thất riêng thuộc rủi ro bảo hiểm mà còn bồi thường cả chi phí hợp lý phát sinh của vụ tổn thất riêng: dỡ hàng, phân loại, đóng gói lại - Tổn thất chung: là sự hy sinh quyền lợi của một số ít (một vài chủ hàng, chủ tàu) do hành động tổn thất chung gây ra nhằm cứu vãn tất cả quyền lợi của các chủ hàng, chủ tàu trên hành trình khi gặp tai nạn. Nói cách khác, nó bao gồm những tài sản hoặc chi phí bỏ ra được thực hiện một cách có ý thức và hợp lý vì sự an toàn chung nhằm cứu tàu, cứu hàng hoá, tiền cước vận chuyển thoát khỏi hiểm họa chung. - Các chi phí: Ngoài những tồn thất được đề cập ở trên, dù hàng hóa được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm nào, người bảo hiểm còn chịu trách nhiệm bồi thường chi phí sau: Chi phí cứu nạn liên quan đến hàng hóa được bảo hiểm Chi phí bốc dỡ, lưu kho, chuyển tiếp hàng hóa từ cảng lánh nạn hoặc cảng dọc đường phát sinh do hậu quả của rủi ro được bảo hiểm Chi phí phòng tránh và giảm thiểu tổn thất 38
  35. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản Chi phí tố tụng khiếu nại Chi phí giám định tổn thất. 4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu 4.1. Khái niệm: hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một văn bản, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, nếu người được bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. 4.2. Nội dung hợp đồng bảo hiểm, gồm những nội dung chủ yếu sau: - Tên, địa chỉ của người bảo hiểm, người được bảo hiểm. - Hàng hoá được bảo hiểm. - Điều kiện bảo hiểm. - Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm. - Phí bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm. - Nơi giám định, người và nơi nhận hồ sơ khiếu nại, bồi thường tổn thất. 4.3. Các loại hợp đồng bảo hiểm + Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm được ký kết cho từng chuyến hàng chuyên chở từ địa điểm này đến địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. + Hợp đồng bảo hiểm bao: là hợp đồng bảo hiểm cho nhiều chuyến hàng trong một thời gian nhất định (1năm). Trong đó, người được bảo hiểm cam kết tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm cam kết bảo hiểm cho tất cả hàng hoá xuất nhập khẩu của người bảo hiểm. Tuỳ theo đặc điểm kinh doanh, các chủ hàng có thể ký kết một trong hai hợp đồng trên. Hiệu lực của hai loại hợp đồng trên khác nhau (xem QTCB 1998). 4.4. Giá trị bảo hiểm: là một nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm, là giá trị thực tế của lô hàng hoá gồm: giá tiền hàng hoá + cước phí vận chuyển + phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác. Như vậy, giá trị bảo hiểm gồm 2 bộ phận chính: giá CIF của hàng hoá và lãi ước tính (nếu khách hàng muốn bảo hiểm thêm). 39
  36. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản 4.5. Số tiền bảo hiểm: là số tiền đăng ký bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm đăng ký dựa trên cơ sở giá trị bảo hiểm. Số tiền đăng ký bảo hiểm tối đa bằng giá trị bảo hiểm của hàng hoá. Thông thường, số tiền đăng ký bảo hiểm = giá trị bảo hiểm. 4.6. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là một khoản tiền do khách hàng nộp cho công ty bảo hiểm đã nhận bảo hiểm cho hàng hoá của mình. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm nhân (x) với tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí đó phụ thuộc loại hàng hoá, phương tiện vận chuyển, hành trình được bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm. Phí bảo hiểm được xác định theo công thức sau: (C F)(a 1) I xR (1 R) hoặc (C F) I xR )1( (1 R) Trong đó: I là phí bảo hiểm C là tiền hàng ghi trên hóa đơn thương mại F là cước phí a là số phần trăm lãi dự tính R là tỷ lệ phí bảo hiểm Trong thực tế, người ta thường áp dụng công thức sau: CF I = CIF x R (nếu không bảo hiểm lãi dự tính). (2) CIF 1 R hoặc I = (CIF + 10% CIF) x R (nếu bảo hiểm cả lãi dự tính). 40
  37. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản 4.7. Điều kiện bảo hiểm Điều kiện bảo hiểm bao gồm những điều khoản qui định cụ thể về trách nhiệm của người bảo hiểm trước những rủi ro tổn thất, chi phí phát sinh đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Các điều kiện đó được qui định bởi các công ty bảo hiểm và các chủ hàng có thể lựa chọn để phù hợp với loại hàng và nhu cầu bảo hiểm của mình khi ký hợp đồng bảo hiểm. Chẳng hạn khi ký hợp đồng với Bảo Việt sẽ áp dụng một trong các điều kiện của QTCB 1998 (xem phụ lục số 2). 4.8. Hiệu lực của hợp đồng Hiệu lực của hợp đồng phụ thuộc trước hết vào loại hợp đồng bảo hiểm (hợp đồng bảo hiểm chuyến hay hợp đồng bảo hiểm bao). Đối với từng chuyến hàng, hiệu lực hợp đồng bị chi phối bởi hai yếu tố thời gian và không gian. Rủi ro chỉ được bảo hiểm khi xảy ra vào thời điểm và địa điểm hợp lý so với hành trình bảo hiểm. 4.9. Bồi thường bảo hiểm Điều đáng chú ý là trong bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, người bảo hiểm không những phải chịu trách nhiệm về tổn thất vật chất xảy ra cho hàng hoá mà còn phải chịu trách nhiệm về những chi phí mà chủ hàng phải bỏ ra, nếu chi phí đó liên quan đến rủi ro, tổn thất được bảo hiểm, chi phí giám định tổn thất, chi phí hạn chế tổn thất hợp lý trong thời gian hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, chi phí tại cảng lánh nạn, cảng dọc đường, chi phí lưu kho, lưu bãi Như vậy, số tiền bồi thường trong trường hợp đặc biệt có thể vượt quá số tiền bảo hiểm của hợp đồng. Trên cơ sở thư khiếu nại và hồ sơ đòi bồi thường của người được bảo hiểm cùng với biên bản giám định của bảo hiểm, người bảo hiểm sẽ bồi thường tổn thất và các chi phí hợp lý gây nên bởi rủi ro được bảo hiểm (nói trên). 41
  38. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới Xe cơ giới được sử dụng phổ biến trong giao thông vận tải đường bộ. Hoạt động của xe cơ giới được coi là một loại rất dễ gây nên tai nạn nguy hiểm. Vì thế, bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới có vị trí hàng đầu trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bảo hiểm xe cơ giới bao gồm bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh từ hoạt động của xe cơ giới và bảo hiểm bản thân chiếc xe. ở phần trình bày này chỉ đề cập đến nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. 1- Đối tượng bảo hiểm và giới hạn trách nhiệm bảo hiểm 1.1- Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm là xe cơ giới nói chung. Xe cơ giới được bảo hiểm có các điều kiện sau: Xe cơ giới phải được gắn với động cơ. Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn. Xe cơ giới phải có tối thiểu chỗ ngồi cho người điều khiển. Như vậy, xe cơ giới bao gồm nhiều loại xe: môtô, ôtô (chở người, chở hàng hoá), các xe có động cơ chuyên dùng khác. Để có thể trở thành đối tượng được bảo hiểm, xe cơ giới phải bảo đảm những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành: giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật, giấy phép lưu hành xe. Trong các tổng thành của phương tiện, thân vỏ xe chiếm tỷ trọng lớn cả về mặt giá trị lẫn ảnh hưởng nhiều đến hậu quả tai nạn. Vì vậy, Công ty bảo hiểm thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe. 1.2- Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm: Cách thức bảo hiểm toàn bộ xe hoặc chỉ bảo hiểm thân vỏ xe sẽ quyết định về số tiền bảo hiểm: Nếu bảo hiểm toàn bộ xe, số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào giá trị bảo hiểm của xe. Giá trị bảo hiểm của xe là giá trị thực tế của xe tại thời điểm giao kết hợp đồng. 42
  39. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản Nếu bảo hiểm bộ phận (thân vỏ xe) thì số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào giá trị bảo hiểm toàn bộ xe và tỉ lệ (%) phần giá trị của bộ phận đó trên giá trị toàn bộ xe (tỷ lệ này, người bảo hiểm đã quy định cho từng loại xe). Thí dụ: Giá trị xe vào thời điểm tham gia bảo hiểm là 100 triệu đồng, chủ xe tham gia bảo hiểm bộ phận tổng thành thân vỏ. Theo quy định, tỷ trọng giá trị của tổng thành thân vỏ của loại xe này là 53%. Vậy giá trị bảo hiểm thân vỏ xe này là: 100 tr x 53% = 53 triệu đồng. Bảo hiểm dưới giá trị cũng được người bảo hiểm chấp nhận. Tuy nhiên, thường kèm theo quy định về tỉ lệ tối thiểu (giữa tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm) và việc áp dụng quy tắc tỉ lệ trong bồi thường. Ngoài việc bảo hiểm phần thiệt hại vật chất xảy ra đối với phương tiện được bảo hiểm, còn được người bảo hiểm bảo đảm một số chi phí liên quan: chi phí hạn chế tổn thất, chi phí cẩu xe đến nơi sửa chữa, chi phí giám định 2- Những rủi ro: 2.1- Rủi ro được bảo hiểm: Rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe (đâm va, lật đổ ). Rủi ro bất thường dễ phát sinh khác (cháy, nổ ). Rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên (bão, lụt ). Rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội (mất cắp, đập phá ). 2.2- Rủi ro loại trừ trong các trường hợp: Thiệt hại hoặc chi phí phát sinh do hành vi cố ý của chủ xe, lái xe. Thiệt hại và chi phí phát sinh do vi phạm nghiêm trọng luật lệ an toàn giao thông đường bộ. Những rủi ro không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu nhiên, khách quan, mà do yếu tố chủ quan của chủ phương tiện gây ra trong quản lý: hỏng hóc, hư hỏng, không do tai nạn gây ra. Những rủi ro có tính xã hội: chiến tranh Những rủi ro khác (xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam). 43
  40. Chương 2 - Bảo hiểm tài sản 3- Giám định và bồi thường thiệt hại: 3.1- Giám định tổn thất: Giám định tổn thất được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, nhằm có căn cứ để kết luận chính xác về nguyên nhân tai nạn, mức độ thiệt hại làm cơ sở cho việc xác định trách nhiệm của bảo hiểm phải bồi thường và số tiền bồi thường. 3.2- Bồi thường thiệt hại: Xác định số tiền bồi thường phải dựa trên cách thức bảo hiểm xe (toàn bộ, bộ phận), dạng tổn thất (thực tế toàn bộ, ước tính toàn bộ, bộ phận ) và việc áp dụng các loại quy tắc bồi thường (quy tắc tỷ lệ? Quy tắc miễn thường?). Cách thức bồi thường, có thể áp dụng: Bồi thường trên cơ sở chi phí sửa chữa, khôi phục lại phương tiện. Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại. Bồi thường toàn bộ và thu hồi xử lý phương tiện. Việc lựa chọn cách thức giải quyết bồi thường, phải tuỳ vào từng trường hợp, mức độ thiệt hại, chất lượng, khả năng nơi sửa chữa, khả năng cung ứng phụ tùng thay thế có sự thống nhất giữa người bảo hiểm và chủ phương tiện trong việc lựa chọn phương án giải quyết kinh tế có lợi nhất cho cả hai bên. 44
  41. Chương 3 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự I. Khái quát về bảo hiểm trách nhiệm dân sự 1. Trách nhiệm dân sự và cơ sở pháp lý Trách nhiệm dân sự phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ dân sự được hiểu là việc mà theo qui định của pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể phải làm hoặc không được làm một công việc nào đó vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Nghĩa vụ dân sự có thể phát sinh từ hợp đồng dân sự, từ hành vi dân sự, từ việc gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật hoặc từ việc chiếm hữu, sử dụng hay được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Trong thực tế, trách nhiệm dân sự được biểu hiện dưới hai dạng: trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo hợp đồng (tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại). Thí dụ: - Trách nhiệm bồi thường của chủ xe khách đối với những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của hành khách phát sinh trong tai nạn giao thông đường bộ là trách nhiệm theo hợp đồng (giữa các chủ thể có quan hệ hợp đồng). - Trách nhiệm bồi thường của người đi xe máy do sơ suất đâm phải người đi đường là trách nhiệm ngoài hợp đồng (giữa các chủ thể không có quan hệ hợp đồng). 45
  42. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Đối với cả hai loại trên, trách nhiệm bồi thường đều phải được xác định trên các cơ sở pháp luật. Ngoài những qui định liên quan đến việc xác định trách nhiệm dân sự trong luật pháp của mỗi nước, ở một số lĩnh vực do sự đòi hỏi phải áp dụng thống nhất một nguồn luật nên đã ra đời các văn bản luật mang tính quốc tế. Tuy còn sự khác nhau, song nhìn chung đều thống nhất ở các yếu tố cấu thành nên trách nhiệm dân sự, đó là: - Phải có thiệt hại thực tế của bên bị hại. - Phải có lỗi của người gây thiệt hại. - Phải có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế. Nói chung, Luật Dân sự đều qui định rõ: - Những trường hợp mà cá nhân, pháp nhân phải chịu trách nhiệm bồi thường: bồi thường thiệt hại do cây cối, súc vật, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra được qui cho người chủ sở hữu. - Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại. - Về phương pháp tính toán thiệt hại cụ thể: tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người. - Trong một số trường hợp, Luật có thể cho phép giới hạn trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm dân sự có thể phát sinh ở nhiều lĩnh vực: trách nhiệm về sản phẩm, sử dụng lao động, trách nhiệm của chủ phương tiện vận tải, trách nhiệm của chủ vật nuôi Thực tế việc phát sinh trách nhiệm dân sự thường mang yếu tố bất ngờ và trách nhiệm bồi thường được qui thành tiền nhiều khi vượt quá khả năng tài chính của người gây thiệt hại và đó chính là cơ sở khách quan của sự xuất hiện nhu cầu về thể loại bảo hiểm này. Tương ứng với nhu cầu về bảo hiểm các loại trách nhiệm khác nhau đã hình thành nhiều nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Chúng có những nét đặc trưng đặc biệt so với bảo hiểm tài sản hay bảo hiểm con người. 2. Đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự Do tính chất rủi ro, đặc điểm phát sinh, nguồn luật chi phối của mỗi loại sản phẩm trách nhiệm không giống nhau, nên mỗi nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự phải có một qui tắc vận hành riêng, dẫn tới những đặc tính riêng. 46
  43. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự 2.1. Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang tính trừu tượng Đối tượng bảo hiểm không nhìn thấy được, không thể cảm nhận được bằng giác quan của con người, vì chúng không tồn tại trong không gian. Đối tượng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ biểu hiện cụ thể và chỉ có thể tính toán được khi có sự cố xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường của người được bảo hiểm. Nhiều trường hợp vào thời điểm ký kết hợp đồng không xác định được thiệt hại tối đa có thể. Với đặc tính đó của đối tượng bảo hiểm, nên đã hình thành hai phương thức bảo hiểm: a- Bảo hiểm có giới hạn Do tính chất đặc thù của các loại rủi ro, nên người bảo hiểm thường tìm cách giới hạn trách nhiệm của mình trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, số tiền bảo hiểm được ấn định trước, số tiền này còn gọi là hạn mức trách nhiệm, vì trong mọi trường hợp, người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường tối đa là bằng số tiền này. Thí dụ: Chủ xe cơ giới tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3 theo mức trách nhiệm: - Về người: 30 triệu đồng/người/vụ - Về tài sản: 80 triệu đồng/vụ Như vậy, người bảo hiểm chỉ phải bồi thường (nếu có trách nhiệm của người được bảo hiểm phát sinh trong tai nạn) thiệt hại về người của người thứ 3 cho tới mức bằng 30 triệu đồng/người/vụ. Phần vượt quá (nếu có), người được bảo hiểm phải tự gánh chịu. Phương thức này có ưu điểm: + Làm cho người bảo hiểm chủ động hơn trong việc dự phòng các tình huống có phát sinh trách nhiệm, vì họ có thể đánh giá được mức độ bồi thường tối đa rơi vào từng hợp đồng. + Là yếu tố làm giảm mức phí bảo hiểm phải đóng. + Người bảo hiểm có thể chia sẻ mức bồi thường của mình thành nhiều mức khác nhau cho phù hợp với sự phân đoạn thị trường. 47
  44. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Tuy nhiên, trong phương thức này, người được bảo hiểm không được bảo vệ hoàn toàn rủi ro của mình và tất nhiên họ phải tự bảo hiểm phần trách nhiệm vượt quá số tiền bảo hiểm trong hợp đồng. b- Bảo hiểm không giới hạn Hợp đồng không xác định số tiền bảo hiểm: nếu như trách nhiệm dân sự trong sự cố bảo hiểm phát sinh bao nhiêu thì người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm bồi thường bấy nhiêu. Với phương thức này, người bảo hiểm không thể đánh giá được mức độ tối đa của tổn thất thuộc trách nhiệm của họ khi thiết lập hợp đồng. Do đó, có nguy cơ đẩy người bảo hiểm bị phá sản khi có nhiều tổn thất lớn liên tiếp. Vì vậy, khi nhận bảo hiểm theo phương thức này, người bảo hiểm phải sử dụng triệt để mọi biện pháp có thể để phân tán rủi ro. Điển hình của phương thức bảo hiểm này là bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển thông qua hoạt động của tổ chức bảo hiểm P and I (Protection and Indermnity Clubs): Hội bảo trợ và bồi thường. 2.2. Quan hệ giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thứ ba - Người được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là người phải chịu trách nhiệm dân sự về những thiệt hại và được người bảo hiểm bảo vệ bằng cách nhận trách nhiệm bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại: người bảo hiểm và người được bảo hiểm có mối quan hệ hợp đồng với nhau. - Người thứ ba với tư cách là “nạn nhân” trong sự cố, người thứ ba có thể là một người, đại diện cho một quyền lợi, hoặc cũng có thể là nhiều người, đại diện cho nhiều quyền lợi. Người thứ ba là người có tính mạng, sức khoẻ, hoặc tài sản trực tiếp bị thiệt hại trong sự cố. Người thứ ba hoàn toàn không có mối quan hệ về mặt hợp đồng với người bảo hiểm. Nhưng, họ lại đóng vai trò là nạn nhân, được quyền khiếu nại đòi người được bảo hiểm bồi thường cho mình. Vì vậy, cho dù không có quan hệ về mặt hợp đồng với người bảo hiểm nhưng người bảo hiểm có thể căn cứ vào hợp đồng đã được ký kết với người được bảo hiểm để bồi thường cho người thứ ba theo yêu cầu của người được bảo hiểm về thiệt hại thực tế của người thứ ba. 48
  45. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Trường hợp người mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ ba thì có quyền yêu cầu bên bảo hiểm phải bồi hoàn khoản tiền mà mình đã trả cho người thứ ba nhưng không vượt quá mức trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật đã qui định. 3. Nguyên tắc bồi thường Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một loại bảo hiểm thiệt hại, tránh cho người được bảo hiểm thiệt hại vật chất khi phát sinh nghĩa vụ bồi thường cho người khác. Do đó, trong việc bồi thường bảo hiểm phải áp dụng nguyên tắc bồi thường. Nội dung của nguyên tắc bồi thường là số tiền bồi thường của người bảo hiểm không vượt quá phần thiệt hại mà người được bảo hiểm phải gánh chịu trong việc bồi thường cho người thứ ba, bên thứ ba. Người bảo hiểm chỉ bồi thường trên cơ sở người được bảo hiểm đã thừa nhận nghĩa vụ bồi thường hoặc đã thực hiện sự bồi thường cho người thứ ba theo đúng qui định pháp lý liên quan. 4. Các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở Việt Nam - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với hàng hoá vận chuyển trên xe. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với hành khách và những người được chở trên xe. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu biển. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thuyền hoạt động trên sông hồ nội thuỷ và lãnh hải Việt Nam. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các hãng hàng không đối với hành khách, hành lý, hàng hoá, tư trang của họ và đối với người thứ ba khác. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ vật nuôi. - Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm. - Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là quá trình xây lắp công trình 49
  46. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự II. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 1. Khái niệm Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (phương tiện vận tải đường bộ) là trách nhiệm bồi thường tổn thất theo luật định do phương tiện của chủ xe cơ giới gây ra cho người thứ ba. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ phương tiện vận tải có tác dụng khuyến khích các chủ phương tiện có các biện pháp đề phòng, ngăn ngừa tai nạn, góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi tai nạn xẩy ra (nghĩa là có vốn để bồi thường kịp thời mà không làm ảnh hưởng đến tài chính của chủ phương tiện). Đồng thời, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, có những thiệt hại do trường hợp sau, chủ phương tiện không có lỗi: - Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. - Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết. Trách nhiệm dân sự chủ phương tiện vận tải đối với người thứ ba là một loại trách nhiệm ngoài hợp đồng. Tức là chỉ bao hàm nghĩa vụ bồi thường của chủ phương tiện với người thứ ba không có quan hệ hợp đồng liên quan đến vấn đề sử dụng phương tiện, với chủ xe. Do đó, không thể coi việc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc áp dụng một biện pháp hình sự hoặc hình phạt phụ. 2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện 2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự - Phải có thiệt hại, là yếu tố quan trọng để xác định rõ trách nhiệm bồi thường có phát sinh hay không. Thiệt hại về tài sản, chi phí phát sinh, thu nhập bị giảm sút hay bị mất do có thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ đưa đến. Thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại thực tế, thực sự đã xảy ra và có thể tính toán được. - Phải có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật (thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, uy tín, tài sản của người khác). Loại trừ trường hợp thực hiện công vụ, phòng vệ chính đáng. 50
  47. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Trường hợp phạm pháp về hình sự, người gây ra tai nạn không những phải bồi thường thiệt hại mà còn bị truy tố trước pháp luật. - Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại. Thiệt hại xẩy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. - Phải có lỗi của người gây thiệt hại. Đây là yếu tố quan trọng để xác định người gây thiệt hại có phải bồi thường hay không, phải bồi thường toàn bộ hay chỉ một phần của thiệt hại. Lỗi của người gây thiệt hại được đánh giá trên cơ sở mức độ sai phạm của chủ phương tiện. 2.2. Người chịu trách nhiệm bồi thường theo pháp luật: là người có quyền sở hữu phương tiện, gọi là chủ phương tiện. Người lái phương tiện gây ra tai nạn, thông thường chủ phương tiện là người phải chịu trách nhiệm bồi thường mặc dù không phải là người điều khiển phương tiện. Tuy nhiên, nếu người lái phương tiện gây ra tai nạn khi sử dụng phương tiện vào việc riêng, chủ phương tiện phải bồi thường nhưng được quyền đòi hỏi trách nhiệm của người lái phương tiện. Đối với trường hợp phương tiện cho người khác mượn, khi gây ra tai nạn, người mượn phương tiện phải chịu trách nhiệm bồi thường. 2.3. Đối tượng bảo hiểm Cơ quan bảo hiểm chỉ nhận trách nhiệm bảo hiểm trong giới hạn trách nhiệm của các chủ xe về sự hoạt động và điều khiển phương tiện của người lái phương tiện. Như vậy, đối tượng bảo hiểm là nghĩa vụ hay trách nhiệm bồi thường của chủ phương tiện. Đối tượng này không xác định trước mà chỉ khi nào phương tiện lưu hành gây ra tai nạn, khi đó đối tượng mới được xác định cụ thể. Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về trách nhiệm hành chính, hình sự, trách nhiệm dân sự khác. 2.4. Phạm vi bảo hiểm và loại trừ bảo hiểm - Cơ quan bảo hiểm nhận bảo hiểm các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn, làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện: trách nhiệm bồi thường của chủ phương tiện được bảo hiểm phát sinh thì trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm cũng phát sinh theo. 51
  48. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường trên cơ sở chủ phương tiện đã thừa nhận nghĩa vụ bồi thường của họ. Phạm vi bảo hiểm (xem phụ lục số 1). - Các trường hợp loại trừ (xem phụ lục số 1). Không thuộc phạm vi bảo hiểm những trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường theo hợp đồng của chủ phương tiện. Không thuộc phạm vi bảo hiểm những hành động cố ý của chủ phương tiện. Ngoài ra, không bao gồm những trường hợp: + Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành. + Chiến tranh. + Thiệt hại gián tiếp như đình trệ sản xuất kinh doanh. 3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 3.1. Số tiền bảo hiểm Do đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự làm cho người bảo hiểm không thể xác định được mức độ bồi thường tối đa. Để chủ động trong kinh doanh, người bảo hiểm thường giới hạn trách nhiệm của mình ở một số tiền nhất định trong mỗi hợp đồng. Số tiền bảo hiểm thể hiện hạn mức trách nhiệm đã ghi trong hợp đồng hoặc trong giấy chứng nhận bảo hiểm mà chủ phương tiện được cấp. Thời hạn thường là 1 năm. Hạn mức trách nhiệm trên đây chỉ có ý nghĩa áp dụng cho từng vụ tổn thất. Do đó trong năm bảo hiểm, phương tiện bảo hiểm có thể gây ra nhiều hơn một vụ tai nạn. Tiền bồi thường tính theo từng vụ (độc lập nhau) và số tiền bồi thường từng vụ tối đa bằng với hạn mức trách nhiệm. 3.2. Phí bảo hiểm Do đặc trưng của loại bảo hiểm này nên phí bảo hiểm phụ thuộc vào một số yếu tố sau: mức độ rủi ro đối với từng đối tượng bảo hiểm và trách nhiệm của người bảo hiểm trước rủi ro đó. Ngoài ra, có thể coi phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm, nên nó còn tăng, giảm phụ thuộc vào tình hình cung - cầu, cạnh tranh trên thị trường. 52
  49. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự 3.2.1. Phương pháp xác định phí bảo hiểm Trong nghiệp vụ bảo hiểm này, phí bảo hiểm được tính theo năm cho riêng từng phương tiện và được xác định theo công thức: Phí bảo hiểm/xe/năm = Phí thuần + Phụ phí. (tính theo năm) f F 1 d Trong đó: F: phí bảo hiểm thu mỗi đầu xe/năm. f: phí thuần (phí rủi ro) n  ()Số vụ tai nạn x Mức tổn thất BQ) năm i i 1 n  Số xe cùng loại lưu hành trong năm i i 1 d: tỷ lệ phụ phí 3.2.2. Đóng phí và hoàn phí Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (kể cả xe của người nước ngoài), mức phí đóng được xác định như sau: F x Số tháng hoạt động M = 12 tháng Trường hợp đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng vào một thời điểm nào đó, phương tiện ngừng hoạt động, có thể xét để hoàn lại phí: Phí Tỷ lệ Mức phí cả năm (F) x Số tháng không hoạt động = x hoàn lại hoàn phí 12 tháng Thí dụ: Chủ phương tiện tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự từ 1/1 năm N đến 31/12 năm N và đã đóng phí năm. Giả sử ngày 1/7 năm N, chủ phương tiện đi nước ngoài để học 6 tháng, chủ phương tiện có thể yêu cầu công ty bảo hiểm hoàn lại phí đã đóng (giả sử mức phí năm là 120.000 đ, tỷ lệ hoàn phí là 80%). Vậy phí hoàn lại: 80% x 120.000 d x 6tháng 48.000 đ. 12 53
  50. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Sở dĩ người bảo hiểm không hoàn lại 100% phí, vì một phần bảo hiểm đã chi cho những khoản chi từ trước theo hợp đồng: chi phí ký kết hợp đồng, chi phí quản lý, .v.v Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm của các chủ phương tiện. Nếu nộp chậm có thể bị phạt (chậm từ 1 ngày đến 2 tháng nộp thêm 100% mức phí cơ bản. Từ 2-4 tháng nộp thêm 200% ). 4. Trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện, khi tai nạn xảy ra, cơ quan (người) bảo hiểm có nhiệm vụ: 4.1. Xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba Theo qui định của pháp luật, việc xác định mức độ thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khoẻ của con người trong tai nạn căn cứ vào nguyên tắc và cách thức xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 4.1.1. Thiệt hại về tài sản, có hai trường hợp: + Tài sản bị mất mát, hư hỏng hoàn toàn hoặc hư hỏng không thể sửa chữa được. Thiệt hại được xác định theo giá mua của tài sản cùng loại tương đương trên thị trường hoặc chi phí hợp lý để làm lại tài sản đó. + Tài sản bị hư hỏng có thể sửa chữa được. Thiệt hại được xác định theo chi phí thực tế hợp lý để sửa chữa tài sản đó, đưa nó về trạng thái trước khi bị hư hỏng. Thiệt hại được xác định không tính đến những hư hỏng phát sinh mà không liên quan đến tai nạn. Thời điểm xác định thiệt hại là thời điểm hoà giải hoặc xét xử. Việc xác định thiệt hại đối với tài sản đặc biệt: vũ khí, khí tài của lực lượng vũ trang cần dựa vào ý kiến của cơ quan chức năng. 4.1.2. Thiệt hại về người: là vấn đề phức tạp vì tính mạng con người là vô giá, sức khoẻ con người khó xác định giá trị. Để xác định thiệt hại về con người được tương đối chính xác và hợp lý, có hai trường hợp: + Nạn nhân bị thương, thiệt hại được xác định bằng những khoản chi phí hợp lý sau đây: - Cấp cứu, điều trị bao gồm tiền thuốc, viện phí, chụp phim, dịch vụ phẫu thuật, tiền truyền máu, truyền dịch 54
  51. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự - Bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ - Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (do sau tai nạn mất khả năng lao động kiếm sống ) - Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc nạn nhân trong thời gian điều trị. - Bồi thường thiệt hại tinh thần cho nạn nhân. + Nạn nhân bị chết, thiệt hại được xác định bằng chi phí hợp lý để: - Cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc nạn nhân trước khi chết. - Chi phí mai táng. - Cấp dưỡng cho những người thân ruột thịt mà khi nạn nhân còn sống phải nuôi. - Bồi thường tổn thất về tinh thần cho những người thân. Vậy toàn bộ thiệt hại của bên thứ ba bao gồm: Thiệt hại Thu nhập Thiệt hại về Chi phí về Thiệt hại phi vật thực tế của = + + bị giảm + tài sản nạn nhân chất về người bên thứ ba sút 4.2 Xác định tiền bồi thường Số tiền bồi thường của người bảo hiểm được xác định dựa vào: - Số tiền bồi thường của chủ phương tiện cho bên thứ 3 phát sinh theo luật. + Số tiền này được xác định như sau: Số tiền bồi thường của Thiệt hại của Mức độ lỗi của chủ = x chủ xe cho bên thứ 3 bên thứ ba phương tiện - Hạn mức trách nhiệm mà chủ xe tham gia với bảo hiểm, nếu: + Số tiền bồi thường của chủ phương tiện cho bên thứ 3 phát sinh theo luật nhỏ hơn hạn mức trách nhiệm người bảo hiểm bồi thường = Số tiền bồi thường của chủ phương tiện cho bên thứ 3. + Số tiền bồi thường của chủ phương tiện cho bên thứ 3 phát sinh theo luật lớn hơn hạn mức trách nhiệm người bảo hiểm bồi thường = Hạn mức trách nhiệm 55
  52. Chương 3 - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Thí dụ: Chủ xe tham gia bảo hiểm TNDS đối với người thứ 3. Mức trách nhiệm thỏa thuận: - Về người : 30 triệu đồng/người/vụ - Về tài sản : 30 triệu đồng/vụ. Giả sử trong một vụ tai nạn gây ra cho một người đi đường, theo xác minh của cơ quan chức năng: - Lỗi chính thuộc về chủ xe: 70% - Lỗi phụ thuộc về người đi đường: 30%. Thiệt hại của người đi đường được tính toán hợp lý là: - Thiệt hại về người : 20 triệu đồng - Thiệt hại về xe : 4 triệu đồng Như vậy, trách nhiệm bồi thường của chủ xe phát sinh liên quan đến: - Thiệt hại về người : 70% x 20 triệu = 14 triệu đồng - Thiệt hại về xe : 70% x 4 triệu = 2,8 triệu đồng Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm: - Về người là 14 triệu đồng - Về xe là 2,8 triệu đồng Chủ xe không phải bồi thường thêm cho người đi đường. 56
  53. Chương 4 bảo hiểm con người I. Sự cần thiết khách quan Đời sống của nhân dân nói chung, của người lao động nói riêng không ngừng được cải thiện. Song, những rủi ro như ốm đau, tai nạn bất ngờ trong lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt hàng ngày: thiếu việc làm, giết người, cướp của vẫn đe dọa đến tính mạng và thân thể con người. Do đó, cần thiết phải có bảo hiểm con người. Bảo hiểm con người là bảo hiểm toàn bộ thân thể của người được bảo hiểm, là hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, là một hình thức bảo hiểm bổ sung cho bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo ổn định đời sống của thành viên trong xã hội trước rủi ro bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sức khoẻ làm giảm sút thu nhập của họ. Bảo hiểm con người phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa người tham gia bảo hiểm với người bảo hiểm thông qua hợp đồng bảo hiểm. Cần lưu ý rằng, các hợp đồng bảo hiểm con người không phải là những hợp đồng bồi thường (như các loại hợp đồng khác) vì sinh mạng con người, không thể định giá bằng tiền. Số tiền bảo hiểm sinh mạng mà một người có thể ký phụ thuộc vào khả năng tài chính của họ. Số tiền bảo hiểm cũng là giới hạn trách nhiệm để người bảo hiểm xem xét “hoàn lại” một phần hay toàn bộ cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro. Trong bảo hiểm thương mại về con người, cần phân biệt: người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người được chỉ định hưởng quyền lợi bảo hiểm (hay là người được chỉ định hưởng “bồi thường” của bảo hiểm). 57