AEC và thách thức đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam

pdf 12 trang Gia Huy 23/05/2022 830
Bạn đang xem tài liệu "AEC và thách thức đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfaec_va_thach_thuc_doi_voi_thi_truong_bao_hiem_viet_nam.pdf

Nội dung text: AEC và thách thức đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam

  1. AEC VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Chính Khoa Bảo hiểm, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) tạo ra thị trường chung cho 10 nền kinh tế trong khối bao gồm các thành viên ASEAN: Brunei, Cambodia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Việc gia nhập AEC của Việt Nam tất yếu giúp doanh nghiệp bảo hiểm cũng như thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng mở rộng và tham gia sâu hơn vào thị trường khu vực. Tuy nhiên, điều này cũng khiến cho thị trường và các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đối mặt với nhiều thách thức. Bài viết nghiên cứu các quy định của AEC liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm; nhận định các thách thức đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam và đưa ra một số khuyến nghị để vượt qua các thách thức mà thị trường phải đối mặt. Từ khóa: AEC, bảo hiểm, thị trường bảo hiểm, thách thức 1. AEC và các quy định liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm Ngày 7/10/2003, tại Bali - Indonesia, lãnh đạo các quốc gia thành viên ASEAN bao gồm: Brunei, Cambodia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam đã kí kết bản kế hoạch chiến lược nhằm hình thành và phát triển một cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community, viết tắt là AEC). AEC trở thành một trong ba trụ cột của Cộng đồng chung ASEAN (Cộng đồng An ninh ASEAN - ASC, Cộng đồng Kinh tế ASEAN - AEC và Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN - ASCC). AEC được xây dựng bao gồm 04 mục tiêu trụ cột (Hình 1). Hình 1: Bốn mục tiêu trụ cột của AEC AEC (1) Thị trường và (2) Khu vực (3) Phát triển (4) Hội nhập cơ sở sản xuất kinh tế kinh tế kinh tế duy nhất cạnh tranh cao cân bằng toàn cầu Nguồn: T c giả 57
  2. (1) Thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất Việc thực hiện AEC sẽ biến ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, theo đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN. AEC sẽ hỗ trợ hội nhập kinh tế của các khu vực ưu tiên, đồng thời cho phép tự do chu chuyển nguồn nhân lực có trình độ cao trong kinh doanh. Một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN bao gồm năm yếu tố cơ bản: chu chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, lao động có tay nghề; chu chuyển tự do hơn nữa các dòng vốn và dòng đầu tư. Hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan sẽ từng bước bị xóa bỏ. Các nhà đầu tư ASEAN sẽ được tự do đầu tư vào tất cả mọi lĩnh vực trong khu vực. Các chuyên gia và lao động có tay nghề sẽ được luân chuyển tự do trong khu vực. Những thủ tục hải quan và thương mại khi được tiêu chuẩn hóa hài hòa và đơn giản hơn sẽ góp phần làm giảm chi phí giao dịch. Một thị trường hàng hóa và dịch vụ thống nhất sẽ thúc đẩy phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN với vai trò là một trung tâm sản xuất toàn cầu đáp ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất mang lại lợi ích cho các ngành công nghiệp ưu tiên tham gia hội nhập như: nông nghiệp, hàng không (vận chuyển bằng đường hàng không), ô tô, e-ASEAN, điện tử, ngư nghiệp, chăm sóc sức khỏe, cao su, dệt may và thời trang, du lịch, ngành công nghiệp gỗ và các dịch vụ logistics khác, (2) Khu vực kinh tế cạnh tranh cao AEC hướng tới mục tiêu tạo dựng một khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, theo đó khu vực này sẽ ưu tiên sáu yếu tố chủ chốt đó là: chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế khóa và thương mại điện tử. AEC cam kết thúc đẩy văn hóa cạnh tranh công bằng thông qua việc ban hành các chính sách và luật cạnh tranh, đảm bảo sân chơi bình đẳng trong ASEAN và hiệu quả kinh tế khu vực ngày càng cao. 58
  3. (3) Phát triển kinh tế cân bằng Mục đích của hiệp định khung AEC đối với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) là thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khu vực này bằng cách lợi thế hóa phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực và công nghệ. Những động lực này để lấp đầy khoảng cách giữa các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế của Cambodia, Lào, Myanmar và Việt Nam, cho phép các nước thành viên cùng hướng tới một mục tiêu chung và đảm bảo tất cả các quốc gia này đều có lợi ích công bằng trong quá trình hội nhập kinh tế. (4) Hội nhập kinh tế toàn cầu Với thị trường tương tác lẫn nhau và các ngành công nghiệp hội nhập, có thể nói ASEAN là hoạt động trong một môi trường toàn toàn cầu hóa ngày càng cao. Do đó, không chỉ dừng lại ở AEC mà ASEAN còn phải xem xét tất cả các quy định trên thế giới để hình thành chính sách cho chính mình, như chấp thuận các tiêu chuẩn và kinh nghiệm sản xuất, phân phối quốc tế tối ưu nhất. Đây sẽ là động lực chính cho phép ASEAN có thể cạnh tranh thành công với thị trường toàn cầu, đạt được mục đích sản xuất, trở thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường quốc tế, đồng thời đảm bảo thị trường ASEAN có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Các quốc gia thành viên ASEAN cũng thống nhất tham gia nhiều hơn nữa vào mạng lưới cung ứng toàn cầu bằng việc nâng cao năng suất và hiệu quả công nghiệp. AEC sẽ trở thành tâm điểm của ASEAN với vai trò chủ động tham gia cùng các đối tác FTA ASEAN và đối tác kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới kiến trúc khu vực. Đối với lĩnh vực bảo hiểm, AEC cam kết tự do hóa ở các phương thức bao gồm: (1) cung cấp dịch vụ qua biên giới - Doanh nghiệp bảo hiểm ở các nước ASEAN có thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm trực tiếp cho các cá nhân, tổ chức trong các nước ASEAN khác; (2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ - Các cá nhân, tổ chức trong các nước ASEAN có thể tự do mua các dịch vụ bảo hiểm tại các nước ASEAN khác; (3) hiện diện thương mại - Doanh nghiệp bảo hiểm của các nước ASEAN được phép thành lập công ty hoặc chi nhánh để hoạt động tại các nước ASEAN khác; (4) hiện diện thể nhân - Các chuyên gia bảo hiểm có thể tự do kiếm việc làm và cung cấp dịch vụ ở tất cả các nước ASEAN. 59
  4. Về mức độ tự do hóa trong lĩnh vực bảo hiểm, các nước đã có những cam kết cơ bản để hướng tới mục tiêu tự do hóa hoàn toàn vào năm 2020. Tuy nhiên, đối với cam kết theo phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới, các nước còn hạn chế mở cửa như Brunei, Indonesia, Myanmar và Singapore hoặc chỉ mới mở cửa về dịch vụ vận chuyển hàng hải, hàng không quốc tế và hàng hóa quá cảnh. Đối với cam kết theo phương thức hiện diện thương mại, đa số các nước đều hạn chế về tỷ lệ góp vốn, không cho phép thành lập chi nhánh nước ngoài và sử dụng quyền xem xét đơn xin thành lập trên cơ sở lợi ích kinh tế. Đối với phương thức hiện diện thể nhân, các nước còn đang đóng cửa, chưa thông qua. Việt Nam hiện đã có cam kết thực hiện tự do hóa theo AEC, như mở cửa cung cấp dịch vụ cho người nước ngoài và dự án có vốn đầu tư nước ngoài và dịch vụ vận tải qua biên giới đối với phương thức 1, không có hạn chế đối với phương thức 2 (tiêu dùng ngoài nước), cho phép thành lập chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (phương thức 3), Bảng 1. Cam kết tự do hóa về lĩnh vực bảo hiểm của các nƣớc trong AEC Các quốc gia thành viên đã cam kết STT Các lĩnh vực bảo hiểm thực hiện tự do hóa 1 Bảo hiểm nhân thọ Indonesia, Philippines 2 Bảo hiểm phi nhân thọ Brunei, Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam 3 Tái bảo hiểm Brunei, Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam 4 Trung gian bảo hiểm Brunei, Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam 5 Các ngành dịch vụ hỗ trợ Brunei, Cambodia, Indonesia, Malaysia, của Bảo hiểm Philippines, Singapore và Việt Nam Nguồn: Ngô Trung Dũng - Hội nhập, ngành bảo hiểm chịu thách thức ở sân nhà, 2015 Mặt khác, trong Hội nghị thượng đỉnh Bảo hiểm ASEAN lần thứ nhất tại Singapore của Hội đồng Bảo hiểm ASEAN (AIC) và Ban Thư ký ASEAN (ASEC) diễn ra từ ngày 3/9/2014 đến ngày 2/10/2014 đã thống nhất một số 60
  5. cam kết cơ bản: các cơ quan quản lý trong khu vực ủng hộ quá trình tự do hóa, liên kết khu vực trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. 2. Thị trƣờng Bảo hiểm Việt Nam khi hội nhập AEC Thị trường bảo hiểm Việt Nam được hình thành sau khi Nghị định 100/1993/NĐ - CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ ban hành. Nếu trước năm 1993, thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm thuộc sở hữu của Nhà nước là Bảo Việt. Thì đến nay, thị trường bảo hiểm đã có hơn 60 doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm được cấp phép thành lập, tạo ra một thị trường cạnh tranh, cung cấp hơn 800 sản phẩm bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu đa dạng về bảo hiểm của các cá nhân và tổ chức kinh tế trong xã hội. Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã từng bước khẳng định vai trò là tấm lá chắn cho các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm trước những rủi ro, giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh, đồng thời là kênh huy động vốn dài hạn và hữu hiệu để đầu tư phát triển nền kinh tế, tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn người lao động. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ thị trường bảo hiểm phi nhân thọ do sự phát triển của hoạt động thương mại và công nghiệp tại Việt Nam trong những năm qua. Thực tế này cũng được thể hiện qua tỷ trọng phí bảo hiểm phi nhân thọ (trên tổng phí bảo hiểm) ngày càng tăng theo thời gian, từ mức 40,8% năm 2005 (5.535 tỷ trong tổng doanh thu phí 13.558 tỷ đồng) lên đến 50,1% năm 2014 (27.391 tỷ đồng trong tổng phí 54.718 tỷ đồng). Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường không ngừng tăng lên, kể cả trong giai đoạn khủng hoảng. Năm 2014, tổng doanh thu phí toàn thị trường đạt 54.718 tỷ đồng, tăng 14,89% so với năm 2013; trong đó, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 27.391 tỷ đồng, tăng 12,45% so với năm 2013; doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 27.327 tỷ đồng, tăng 17,44% so với năm 2013. Năm 2015 là năm cuối thực hiện mục tiêu trung hạn trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và Quyết định 1826/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán và DNBH. Trong bối cảnh đó, thị trường bảo hiểm phát 61
  6. triển khá tích cực. Tổng doanh thu phí toàn thị trường năm 2015 đạt 68.688 tỷ đồng, tăng 23,45% so với năm 2014. Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 32.038 tỷ đồng, tăng 17,18% so với năm 2014; doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 36.650 tỷ đồng, tăng 29,5% so với năm 2014. Tổng số tiền thực bồi thường và trả tiền bảo hiểm của các DNBH năm 2015 đạt 21.562 tỷ đồng. Trong đó, các DNBH nhân thọ đạt 7.983 tỷ đồng, các DNBH phi nhân thọ đạt 13.579 tỷ đồng. Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH năm 2015 đạt 150.443 tỷ đồng, tăng 12,5% so với năm 2014. Trong đó, các DNBH nhân thọ đạt khoảng 119.137 tỷ đồng, tăng 14,65% so với cùng kỳ năm 2014; các DNBH phi nhân thọ đạt khoảng 31.306 tỷ đồng, tăng 5% so với năm 2014. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của DNBH ngày càng được tăng cường vững chắc. Tổng tài sản toàn thị trường năm 2015 đạt 193.158 tỷ đồng (tăng 12,68% so với năm 2014). Trong đó, các DNBH phi nhân thọ có tổng tài sản đạt 61.499 tỷ đồng (tăng 11% so với năm 2014), các DNBH nhân thọ có tổng tài sản đạt 131.659 tỷ đồng (tăng 13,48% so với 2014). Tuy nhiên, có sự phân cấp khá lớn về thị phần giữa nhóm 5 DNBH lớn nhất thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cũng như thị trường bảo hiểm nhân thọ với nhóm các DNBH còn lại. Hình 2. Thị phần các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam năm 2015 Nguồn: Tổng quan thị trường bảo hiểm năm 2015 - Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm. 62
  7. Hình 3. Thị phần doanh thu khai thác mới của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam năm 2015 Nguồn: Tổng quan thị trường bảo hiểm năm 2015 - Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm. Mặc dù nền kinh tế trong nước và thế giới vừa trải qua một giai đoạn khủng hoảng kéo dài, ảnh hưởng đến hầu hết các ngành nghề kinh doanh. Tuy nhiên, với đặc trưng kinh doanh rủi ro của mình, ngành bảo hiểm vẫn tìm thấy được cơ hội trong khó khăn, thậm chí trong những năm 2010, 2011 và 2012, nhiều DNBH nhân thọ trên thị trường còn vượt chỉ tiêu kinh doanh đặt ra từ đầu năm. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển của ngành bảo hiểm ở Việt Nam. Năm 2016, theo Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt hơn 101.767 tỷ đồng trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 36.372 tỷ đồng, doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 49.677 tỷ đồng, doanh thu từ hoạt động đầu tư ước đạt 15.718 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau hơn 20 năm phát triển, đóng góp của ngành bảo hiểm Việt Nam trong GDP vẫn rất khiêm tốn. Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm hiện nay mới chỉ dưới 2% GDP, thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,35%), châu Á (5,37%) và thế giới (6,3%). 63
  8. 3. Những thách thức đối với thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam khi gia nhập AEC Việc gia nhập AEC không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thương mại nội địa hay qua biên giới mà còn ảnh hưởng đến các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ tài chính. Trong đó, ngành bảo hiểm với đặc trưng về tính quốc tế cao, thì đây sẽ là thách thức lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Thứ nhất: Cạnh tranh gay gắt từ các thị trường bảo hiểm trong khối AEC. Các doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các nước có ngành bảo hiểm phát triển hơn trong khu vực ASEAN. Không thể phủ nhận sau khi AEC hình thành, doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được tham gia thị trường thương mại - tài chính có quy mô lớn, được hưởng nhiều ưu đãi, thị trường nhiều tiềm năng, Tuy nhiên, nếu không khai thác tốt, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam không chỉ mất đi cơ hội chiếm lĩnh thị trường khu vực mà cũng khó có thể giữ vững thị trường nội địa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm còn bị cạnh tranh về lao động. Nhân lực có trình độ chuyên môn cao từ những doanh nghiệp bảo hiểm trong nước có xu hướng chuyển sang những tập đoàn bảo hiểm lớn khi AEC được thành lập. Thứ hai: Khó khăn trong việc tiếp cận thị trường bảo hiểm của các nước AEC. Tỷ trọng phí bảo hiểm trong GDP của Việt Nam còn rất thấp, chiếm 1,42%, trong khi bình quân của các nước ASEAN là 3,19%. Đặc biệt, đối với một số nước phát triển như Thái Lan, Malaysia, Singapore tỷ lệ này chiếm khoảng 15%. Đây là một thách thức rất lớn khi các DNBH Việt Nam muốn tiếp cận thị trường của các nước này. Trong khi đó, với lợi thế phát triển hơn, các DNBH của Thái Lan, Malaysia, Singapore sẽ có nhiều cơ hội hơn ngay trên thị trường Việt Nam. 64
  9. Hình 4. Tỷ trọng phí bảo hiểm trong GDP của Việt Nam so với các nƣớc và khu vực Bên cạnh đó, việc không thông thạo ngôn ngữ, văn hóa bản địa cũng là một rào cản lớn khi các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam tiếp cận thị trường các nước AEC. Thứ ba: Thách thức về kỹ thuật bảo hiểm và nguồn vốn của doanh nghiệp Các DNBH nước ngoài với sự tiến bộ hơn về kỹ thuật bảo hiểm, nguồn vốn lớn hơn, có thể thâm nhập vào những lĩnh vực bảo hiểm mà Việt Nam chưa kịp phát triển, từ đó chiếm lĩnh thị phần và điều tiết thị trường bảo hiểm trong nước. Trong khi đó, với các dịch vụ đang có thì chất lượng phục vụ thấp, các công ty cạnh tranh với nhau chủ yếu về phí bảo hiểm và hoa hồng. Phương thức bán hàng, kênh bán hàng vẫn tập trung vào kênh truyền thống, chưa tận dụng hết công nghệ hiện đại trong tiếp thị, khai thác và tương tác với khách hàng. Thứ tư: Sự thiếu hụt về chuẩn mực quốc tế Khi gia nhập sân chơi AEC, việc tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực quốc tế là điều bắt buộc. Tuy nhiên, số doanh nghiệp bảo hiểm đạt được các chuẩn mực quốc tế liên quan đến kỹ thuật, tài chính và nhân sự bảo hiểm ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Số cán bộ được đào tạo chuyên sâu về bảo hiểm còn chưa nhiều kể cả ở cấp độ quản lý và cán bộ chuyên môn. Thứ năm: Hạn chế về ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý Việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chưa tích hợp được quản lý hồ sơ khách hàng, quản lý rủi 65
  10. ro trước, trong và sau cấp đơn bảo hiểm qua hệ thống máy tính và mạng internet, dẫn đến những vấn đề phát sinh như: chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu khách hàng đầy đủ, đáng tin cậy; không kiểm soát được tình trạng trục lợi bảo hiểm; phải tuyển dụng thêm nhân lực hỗ trợ để nhập liệu, quản lý hóa đơn, ấn chỉ, từ đó làm tăng chi phí của doanh nghiệp. 4. Khuyến nghị đối với thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam khi gia nhập AEC Để vượt qua những thách thức, thị trường bảo hiểm Việt Nam cần có các giải pháp để giữ vững thị trường trong nước và từng bước chiếm lĩnh thị trường khu vực. Cụ thể: Đối với doanh nghiệp bảo hiểm - Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cần mạnh dạn tìm hiểu thị trường và đầu tư ra nước ngoài. Thâm nhập thị trường mới trước tiên cần xin phép mở văn phòng đại diện, nghiên cứu thị trường, hệ thống pháp luật, xây dựng quan hệ, trước khi quyết định có hay không đầu tư thành lập công ty/chi nhánh tại nước đó. Sau khi đã tìm hiểu, đánh giá thị trường, các DNBH có thể đầu tư bằng cách mua lại cổ phần của các DNBH ở nước sở tại. Đây là một hướng đi tắt, cho phép đẩy nhanh quá trình mở rộng hoạt động sang thị trường nước ngoài. Những công ty đang có thương hiệu tốt, mạng lưới rộng ở nước sở tại có thể là lựa chọn tốt để đầu tư, vì khi đó các DNBH Việt Nam không phải xây dựng bộ máy kinh doanh, hệ thống bán hàng từ đầu - đây là công việc chiếm nhiều thời gian, công sức và tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể thành lập công ty 100% vốn chủ sở hữu hoặc liên kết thành lập công ty liên doanh với doanh nghiệp của nước sở tại. Nếu thành lập công ty liên doanh, về lâu dài cũng nên tăng tỷ lệ sở hữu chi phối hoặc chuyển thành công ty 100% sở hữu để thực hiện được đúng định hướng kinh doanh và điều hành hoạt động. - Để chinh phục một thị trường mới, một trong những sự chuẩn bị quan trọng nhất là nhân sự. Trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam là ngôn ngữ và văn hóa của nước sở tại. Vì vậy, nếu doanh nghiệp bảo hiểm xác định chiến lược mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực, thì phải chuẩn bị nhân sự một cách bài bản ngay từ đầu, vì đào tạo ngôn ngữ, văn hóa là một quá trình lâu dài. 66
  11. - Các DNBH cần nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng phục vụ bằng cách áp dụng mạnh mẽ công nghệ tin học, từ đó sẽ giải quyết được nhiều vấn đề, dẫn đến những cải tiến về sản phẩm, dịch vụ, quy trình quản lý, tiết kiệm chi phí, hạn chế trục lợi. Công nghệ tin học sẽ giúp cải tiến quy trình giải quyết bồi thường, tăng cường kiểm soát qua hệ thống phần mềm, giảm bớt thủ tục, giấy tờ tài liệu. - Chuẩn hóa cán bộ ngành bảo hiểm theo hướng tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý cấp trung và cấp cao của doanh nghiệp. Phối hợp với các trường Đại học để đào tạo các kiến thức cơ bản, nâng cao về bảo hiểm; kỹ năng quản trị điều hành cho cán bộ của doanh nghiệp; tiếp cận với các chương trình chuẩn quốc tế như ANZIIF, CII, LOMA - đây là các chương trình đào tạo cấp chứng chỉ quốc tế về bảo hiểm được công nhận trong khu vực và trên thế giới. Đối với các cơ quan quản lý về bảo hiểm - Các cơ quan quản lý bảo hiểm cần chủ động, tích cực tham gia Diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm Đông Nam Á và Hiệp hội quốc tế của các cơ quan quản lý bảo hiểm; rà soát, đánh giá việc tuân thủ các nguyên tắc về quản lý, giám sát do Hiệp hội quốc tế của các cơ quan quản lý bảo hiểm đề ra. Trên cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách về kinh doanh bảo hiểm chặt chẽ hơn, phù hợp với các quy tắc, các hiệp định đã ký kết với AEC, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế về Bảo hiểm. - Bộ Tài chính, Hiệp hội Bảo hiểm và các DNBH Việt Nam phải tăng cường theo dõi, giám sát thực hiện quá trình hội nhập quốc tế; thường xuyên đánh giá tác động của việc hội nhập để kịp thời điều chỉnh cơ chế, chính sách sao cho phù hợp, phát huy tối đa các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập. - Cần đẩy mạnh công tác giám sát tài chính và quản lý rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm. Ở Việt Nam, việc giám sát tài chính và quản lý rủi ro còn chưa được chú trọng, công cụ phục vụ giám sát vẫn còn chưa đầy đủ. Bản thân các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính còn nhiều bất cập về nhân lực, phương tiện kỹ thuật và công nghệ thu thập, xử lý thông tin; các mô hình phân tích định lượng, cảnh báo, kiểm định rủi ro cho cả hệ thống tài chính và cho 67
  12. từng định chế tài chính còn ít được ứng dụng phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa Do vậy, quản lý giám sát thị trường bảo hiểm và hệ thống tài chính trong bối cảnh hội nhập sẽ là giải pháp bắt buộc nhằm xây dựng thị trường bảo hiểm minh bạch. Tài liệu tham khảo 1. Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm: “Tổng quan thị trường bảo hiểm” năm 2013, 2014, 2015, 2016 (ước tính). 2. Ngô Trung Dũng, (7/6/2015) “Hội nhập, ngành bảo hiểm chịu th ch thức ở sân nhà”; Đầu tư chứng khoán, Truy cập tại thach-thuc-o-san-nha-120348.html, ngày 7/6/2015. 3. Hà Văn Hội (2013), “Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN và những tác động đến thương mại quốc tế của Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 29, Số 4, Tr. 44-53. 4. Nguyễn Đức Thành, (5/9/2014) “Việt Nam và AEC 2015” , Thời b o kinh tế Sài Gòn Online, Truy cập tại Nam-va-AEC-2015.html, ngày 5/9/2014. 5. Trung tâm WTO - VCCI, (29/7/2015),“Tóm lược Cộng đồng Kinh tế ASEAN”; Truy cập tại luoc-cong-dong-kinh-te-asean-aec, ngày 29/7/2015. 6. Vũ Huy Hoàng (11/4/2016) “Cộng đồng Kinh tế ASEAN – ưu ti n hội nhập kinh tế ASEAN”; Truy cập tại 5083136/, ngày 11/4/2016. 7. “20 năm ngày thị trường Bảo hiểm Việt Nam: Dấu mốc quan trọng”, Truy cập tại BTC313679&dID=79242&_afrLoop=16409823109349737#!%40%40%3FdID% 3D79242%26_afrLoop%3D16409823109349737%26dDocName%3DBTC31367 9%26_adf.ctrl-state%3D15az5fxvhh_167, ngày 20/12/2013. 8. Swiss Re sigma World Insurance 2012. 68