Những cơ hội và thách thức của công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Việt Nam trong xu hướng hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN

pdf 17 trang Gia Huy 18/05/2022 2890
Bạn đang xem tài liệu "Những cơ hội và thách thức của công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Việt Nam trong xu hướng hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnhung_co_hoi_va_thach_thuc_cua_cong_nghiep_ho_tro_nganh_dien.pdf

Nội dung text: Những cơ hội và thách thức của công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Việt Nam trong xu hướng hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN

  1. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG XU HƯỚNG HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR VIETNAM’S SUPPORTING INDUSTRY FOR ELECTRONICS SECTOR IN THE INTEGRATION CONTEXT OF ASEAN ECONOMIC COMMUNITY ThS. Vũ Thị Thanh Huyền Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Bước sang năm 2016, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã chính thức được thành lập. Được đánh giá là một thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng và đang phát triển nhanh những năm gần đây, việc hình thành AEC sẽ mở ra những cơ hội mới,đồng thời là những thách thức lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Để có thể tận dụng tốt các cơ hội từ hội nhập, chính phủ và các doanh nghiệp đang hết sức quan tâm đến việc phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ;trong đó, Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ngành điện tử là một trong những ngành được chính phủ lựa chọn ưu tiên phát triển do những thành tích ấn tượng trong tăng trưởng xuất khẩu của ngành điện tử thời gian qua. Trong bối cảnh hội nhập AEC, CNHT ngành điện tử Việt Nam sẽ đứng trước một số cơ hội trong thu hút FDI, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời, sẽ phải đối mặt với những thách thức mới từ cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, Thông qua bài viết, tác giả đưa ra một số khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN và sự tham gia của Việt Nam ; phân tích tình hình phát triển CNHT ngành điện tử Việt Nam thời gian qua, từ đó, đưa ra những đánh giá về những cơ hội và thách thức đối với riêng CNHT ngành điện tử trong bối cảnh hội nhập AEC. Từ khóa: Công nghiệp hỗ trợ (CNHT), ngành điện tử, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) Abstract In 2016, the ASEAN Economic Community (AEC), which was officially established, is rated as a huge, potential and fast growing market in recent years. The formation of the AEC will open up new opportunities and pose major challenges for Vietnam's economy. To be able to take advantages of opportunities from integration and the governments, enterprises are very interested in developing supporting industry, of which the supporting industry of the electronics is one of the sectors that is prioritized for the development by the governmemt because of impressive track record of growth in electronics exports during the last time. In the context of the AEC integration, Vietnam's supporting industry for electronics sector will have a number of opportunities in attracting FDI and promoting export growth, the opportunity to participate in global value chains. However, there are new competition challenges that are more fierce, and so on. Through the article, the author gives an overview of the ASEAN Economic Community and the participation of Vietnam; analyzing the development situation of Vietnam's supporting industry for electronics sector during the last time, since then, making an assessment of opportunities and challenges for Vietnam's supporting industry for electronics sector in the context of the AEC integration. 135
  2. Key words: Supporting industry(SI), electronics industry, the ASEAN Economic Community (AEC) 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan nghiên cứu có liên quan đến bài viết Nghiên cứu về cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC, Nguyễn Văn Vỹ (2015) cho rằng AEC sẽ là cơ hội quý báu để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng đây cũng là cơ hội để Chính phủ Việt Nam hoàn thiện các thể chế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lao động, Về thách thức, tác giả phân tích 3 nhóm thách thức về cải cách thể chế; năng lực cạnh tranh và thị trường lao động. Còn theo tác giả Lê Thị Sáu (2015), việc gia nhập AEC mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc mở rộng thị trường và sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển; những khó khăn lớn nhất của Việt Nam khi tham gia vào AEC là sự chênh lệch về trình độ phát triển; vấn đề năng suất lao động thấp; sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khốc liệt hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các nhận định tương tự về các cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập AEC cũng được trình bày trong các bài viết củacác tác giả Nguyễn Quốc Trường và Nguyễn Thế Cường (2015), Đức Minh (2015). Nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Nguyễn Thị Kim Thu (2012) cũng chỉ ra các cơ hội và thách thức của CNHT Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Về cơ hội, thị trường cho các sản phẩm CNHT ngày càng mở rộng; Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; thúc đẩy chuyển giao công nghệ hiện đại và Xu hướng dịch chuyển cơ cấu sản xuất công nghiệp trên thế giới thúc đẩy CNHT phát triển. Về thách thức, cam kết hội nhập quốc tế của ngành CN Việt Nam làm gia tăng áp lực cạnh tranh đối với CNHT; sự xuất hiện của các cụm liên kết công nghiệp và Nguy cơ rút vốn đầu tư khỏi Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu về ngành điện tử, Nguyễn Thành Hưng (2015) đã tiến hành phân tích SWOT ngành công nghiệp điện tử Việt Nam. Trong đó, cơ hội cho ngành điện tử Việt Nam là: khả năng xuất khẩu hàng hóa CNTT, linh kiện điện tử của Việt Nam đang tăng cao; Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh; tiếp cận thị trường rộng lớn và cơ hội đưa Việt Nam trở thành công xưởng thứ hai của thế giới. Về thách thức, tác giả nhấn mạnh thách thức từ sức ép cạnh tranh ngay trên sân nhà; vấn đề thu hút nhân tài; tầm và quy mô của doanh nghiệp; các chính sách bảo hộ; Tóm lại, mặc dù đã có một số nghiên cứu về cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập AEC, cũng như một số nghiên cứu về cơ hội và thách thức của CNHT Việt Nam trong bối cảnh hội nhập; tuy nhiên, các đánh giá này nhìn chung vẫn còn khá chung chung, gắn với phạm vi rộng là cả nền kinh tế Việt Nam hoặc trong xu thế hội nhập chung, do đó, chưa làm rõ các cơ hội và thách thức đối với CNHT ngành điện tử Việt Nam trong bối cảnh hội nhập vào khu vực AEC. Nghiên cứu này hi vọng sẽ làm rõ hơn khoảng trống nhận thức này, đối với riêng CNHT ngành điện tử Việt Nam trong xu thế hội nhập vào AEC. 136
  3. 1.2. Phương pháp nghiên cứu Bài viết chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê mô tả, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu để làm rõ thực trạng phát triển Công nghiệp điện tử, CNHT ngành điện tử Việt Nam trong những năm gần đây và đưa ra những đánh giá về cơ hội và thách thức của CNHT ngành điện tử Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN. 2. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN 2.1. Khái niệm và các mục tiêu của cộng đồng kinh tế ASEAN Cộng đồng kinh tế ASEAN (tiếng Anh: ASEAN Economic Community, viết tắt: AEC) là một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN được thành lập vào năm 2015. Đây là cấp hội nhập thứ 4 trong số 6 cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II nhấn mạnh: Cộng đồng Kinh tế ASEAN là việc thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020”, nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do, và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lêch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020. Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004-2010)- Chương trình Hành động Vientian- đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là: tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN. Bốn trụ cột của Cộng đồng kinh tế ASEAN Để thực hiện các mục tiêu trên, ASEAN đã nỗ lực thực hiện các mục tiêu qua các giai đoạn 2008 – 2009, 2010 – 2011, 2012 – 2013, 2014 – 2015 với 4 trụ cột: (1) Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất với 5 nội dung, chu chuyển hàng hóa, chu chuyển tự do dịch vụ, chu chuyển tự do lao động có tay nghề, chu chuyển tự do giữa các dòng vốn và chu chuyển tự do đầu tư. (2) Khu vực kinh tế cạnh tranh cao sẽ ưu tiên phát triển 6 yếu tố: chính sách cạnh tranh; bảo vệ người tiêu dung; quyền sở hữu trí tuệ; phát triển cơ sở hạ tầng; hệ thống thuế khóa và thương mại điện tử. (3) Khu vực phát triển kinh tế đồng đều nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các nước thành viên với hai biện pháp chủ yếu là phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và sáng kiến hội nhập ASEAN. (4) Khu vực hội nhập đầy đủ vào kinh tế toàn cầu với 2 mục tiêu chính xây dựng một cách tiếp cận tổng thể, chặt chẽ về quan hệ kinh tế đối ngoại và thúc đẩy sự tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu trên cơ sở ký kết FTA với các nước ngoài khối. 2.2. Vị trí, vai trò của cộng đồng kinh tế ASEAN Việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ tạo nên ba trụ cột quan trọng trong Cộng đồng ASEAN trong đó ASEAN lấy vấn đề xây dựng kinh tế làm trung tâm. Sự ra đời của AEC sẽ là mốc đánh dấu sự trưởng thành toàn diện trong hợp tác của Cộng đồng kinh tế ASEAN sau hơn 45 năm thành lập. Các hội nghị cấp cao, các cuộc họp và những nỗ lực hợp tác toàn diện đã được các nước theo đuổi trong nhiều năm qua, trong đó 137
  4. mục tiêu kinh tế trở thành động lực và mục tiêu chính của các nước trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Trọng tâm của AEC là phát triển kinh tế khu vực dựa trên sự kết nối của 10 nước trong ASEAN với gần 650 triệu dân và tổng GDP hơn 1850 tỷ USD. Nếu trở thành một thực thể kinh tế chung, ASEAN sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới với GDP đạt 2400 tỷ USD, thương mại nội khối ASEAN lên tới 608,6 tỷ USD, chiếm 24,2% tổng thương mại của khu vực, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước ASEAN lên tới 122,4 tỷ USD (cao nhất so với toàn cầu) trong năm 2013 và có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới vào năm 2050 nếu xu hướng này tiếp tục phát triển. Với dân số gần 650 triệu người, thị trường tiềm năng của ASEAN lớn hơn nhiều so với thị trường EU và Bắc Mỹ, chỉ sau thị trường Trung Quốc và Ấn Độ. Đó là chưa kể ASEAN có lực lượng lao động lớn thứ ba trên thế giới và tương đối trẻ. Với việc xây dựng phát triển một thị trường ASEAN toàn diện sẽ tạo ra sự phát triển về mọi mặt nguồn nhân lực, thu hút vốn đầu tư, khoa học công nghệ, đặc biệt với những tiềm năng lợi thế hiện có khối gắn kết trong cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ tạo ra thị trường sản xuất, kinh doanh thống nhất, sức cạnh tranh, phát triển kinh tế đồng đều. Đây cũng là mục tiêu cơ bản nhất trong việc hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN bằng các nỗ lực của lãnh đạo cấp cao các nước những năm vừa qua. 2.3. Một số kết quả hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN Chủ động và tích cực hội nhập khu vực ASEAN luôn là chính sách nhất quán của Việt Nam trong những năm qua, điều này được thể hiện qua việc ASEAN luôn là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Trong những năm qua, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào các nước ASEAN đã có sự cải thiện. Trong 10 năm trở lại đây, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN tăng liên tục, chỉ có duy nhất năm 2009 trị giá xuất khẩu hàng hóa giảm do suy thoái kinh tế toàn cầu. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN năm 2014 đã tăng gấp 4,7 lần năm 2004 và ASEAN cũng là khu vực thị trường xuất khẩu đứng thứ 3 của Việt Nam (sau APEC và EU). Hình 2.1: Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang ASEAN/ triệu USD (Nguồn: Tổng cục Thống kê) 138
  5. Về nhập khẩu, trị giá hàng nhập khẩu của Việt Nam từ các nước ASEAN cũng có xu hướng tăng lên qua các năm. Tỷ trọng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ các nước ASEAN năm 2014 gấp 2,96 lần năm 2004, chiếm15,54 % tổng lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam.Điều này càng cho thấy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN đang có sự cải thiện theo hướng tích cực. Hình 2.2: Kim ngạch NK hàng hóa của Việt Nam từ các nước ASEAN (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Trong cơ cấu mặt hàng XNK của Việt Nam và các nước ASEAN: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang các nước ASEAN bao gồm dầu thô; lương thực; thiết bị điện, điện tử; máy móc, sắt thép, hàng thủy hải sản, Sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ các nước này bao gồm: dầu và các sản phẩm từ dầu; máy móc; thiết bị điện; nhựa và các sản phẩm từ nhựa; Điều này có nghĩa là giữa sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam và các nước ASEAN có sự tương quan lớn. Trong đó, điện tử là là một trong những sản phẩm mà chúng ta vừa xuất khẩu, vừa nhập khẩu với trị giá lớn trong quan hệ thương mại với ASEAN. Điều này đặt ra cơ hội trong việc phát triển các chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất trong toàn khối, đồng thời đặt ra thách thức cạnh tranh lớn cho các doanh nghiệp điện tử Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu hơn. 3. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH ĐIỆN TỬ VIỆT NAM 3.1. Tình hình phát triển ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam Công nghiệp điện tử (CNĐT) Việt Nam phát triển rất nhanh từ 2010 đến nay. Năm 2013, giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) đạt 335,857 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), chiếm tỷ trọng khoảng 8,7% toàn ngành công nghiệp. Tăng trưởng bình quân từ năm 2010 đến 2013 đạt trên 32%/ năm, cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp (9,4%/ năm). 139
  6. Bảng 3.1. Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 2010 ngành điện tử VN 2010 2011 2012 2013 Giá trị Tỷ Chỉ Giá trị Tỷ Chỉ Giá trị Tỷ Chỉ Gía trị Tỷ Chỉ trọng số trọng số trọng số PT trọn số % PT % PT % g PT Tổng số 2963499.7 100.0 110.5 3233178.2 100 109.1 3516651.7 100 108.8 3840767.1 100 109.2 Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi 112649.2 3.8 101.9 204131.4 6.3 181.2 267932.1 7.6 131.3 335856.7 8.7 125.4 tính và sản phẩm quang học (Nguồn: Tổng cục Thống kê,Niên giám Thống Kê 2012, 2013) Theo Niên giám thống kê năm 2013, số lượng doanh nghiệp điện tử tính đến ngày 31/12/2012 là 739 doanh nghiệp, thu hút được 289,757 lao động. Công nghiệp điện tử tập trung chủ yếu ở Vùng đồng bằng song Hồng (Hà Nội và các tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Nguyên) và vùng Đông Nam Bộ (thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Long An). Sản phẩm chủ yếu là điện thoại các loại, máy in, ti vi, trong đó lĩnh vực điện thoại di động có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Bảng 3.2. Sản phẩm chủ yếu của ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam 2010 2011 2012 2013 2014 Máy in Nghìn cái 14561.9 15467.9 15721.7 17297.7 16058.5 Điện thoại cố định Nghìn cái 9405.7 11047.8 9680.5 5531.2 4268.8 Điện thoại di động Triệu cái 37.5 79.6 109.4 132 181.6 Ti vi lắp ráp Nghìn cái 2800.3 3099.2 2600.4 3112.3 3666.1 (Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015) Về chỉ số sản xuất công nghiệp: Từ năm 2012 đến nay, chỉ số sản xuất công nghiệp điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học sau khi giảm xuống 102,2% vào năm 2013 đã tăng trở lại liên tục trong cả 2 năm 2014, 2015. Điều này cho thấy rằng khối lượng sản xuất sản phẩm điện tử đang có bước tăng trưởng rất ấn tượng. 140
  7. Hình 3.1. Chỉ số sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học của Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015 (Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2014, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 2015) Về cơ cấu sản phẩm ngành điện tử Việt Nam: sản phẩm thuộc nhóm điện tử dân dụng chiếm đến 80%, chỉ 20% thuộc nhóm điện tử chuyên dụng, đồng thời tỷ lệ nội đia hóa sản phẩm 20 – 30%. Hầu hết các sản phẩm trên thị trường điện tử hiện nay đều là hàng nhập khẩu nguyên chiếc và lắp ráp bằng các linh kiện nhập khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước mới chỉ tham gia vào khâu hoàn thiện sản phẩm bằng việc làm các loại bao bì, sách hướng dẫn, linh kiện chi tiết nhựa mà chưa vươn tới các linh kiện quan trọng có giá trị gia tăng cao hơn. Hơn nữa, trong số 80% sản phẩm điện tử dân dụng, vai trò tham gia thực sự của các doanh nghiệp trong nước rất mờ nhạt. 3.2. Tình hình phát triển Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ngành điện tử Theo số liệu thống kê năm 2013, sản xuất linh kiện điện - điện tử có 416 doanh nghiệp, tăng 291 doanh nghiệp so với năm 2005. Sau hơn 30 năm phát triển, ngành điện tử Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp điện tử trong nước vẫn gần như chỉ khai thác sản hoàn phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI trong ngành điện tử, điện máy đang đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong nước. Tuy nhiên, do số doanh nghiệp phụ trợ rất ít, chất lượng linh phụ kiện chưa đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh hoặc trực tiếp từ Nhật Bản. 141
  8. Bảng 3.3. Số lượng doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng Năm 2005 2011 2012 2013* TTBQ(%/năm) 2006-13 Linh kiện phụ tùng kim loại 304 552 604 656 10,09% Linh kiện điện- điện tử 125 322 369 416 16,22% Linh kiện nhựa- cao su 113 249 280 311 13,49% Tổng 542 1123 1253 1383 12,42% (Nguồn: Dự thảo tờ trình chính phủ vềDự thảo Nghị định phát triển công nghiệp hỗ trợ, Bộ Công thương, 2014) Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam, các doanh nghiệp FDI có "tên tuổi" đều phải nhập khẩu trên 90% linh kiện của nước ngoài, thậm chí có doanh nghiệp nhập khẩu cả 100% như Công ty Fujitsu Việt Nam. Điều này vừa gây thiệt thòi cho ngành công nghiệp Việt Nam, khiến chúng ta khó thoát khỏi tình trạng gia công, lắp ráp, vừa giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng điện tử trong nước. Bảng 3.4. Tỷ lệ sử dụng linh kiện điện-điện tử nội địa của các nhà lắp ráp ở Việt Nam Lĩnh vực hạ nguồn Tỷ lệ % cung ứng trong nước Điện tử gia dụng 30-35% Điện tử tin học, viễn thông 15% Điện tử chuyên dụng 5% Ô tô- xe máy 40% Công nghiệp công nghệ cao 5% (Nguồn: Dự thảo tờ trình chính phủ vềDự thảo Nghị định phát triển công nghiệp hỗ trợ, Bộ Công thương, 2014) Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm CNHT chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản xuất. Các sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp, giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới (do hạn chế nguồn lực, qui trình sản xuất kém ) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nội địa. Trừ lĩnh vực xe máy, các ngành khác doanh nghiệp nội địa chỉ cung cấp các loại linh kiện phụ tùng đơn giản, hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng rất thấp. Số lượng doanh nghiệp CNHT cũng quá ít so với các doanh nghiệp công nghiệp chính. Ngay cả khi đã chọn được nhà cung cấp nội địa, các doanh nghiệp lắp ráp cũng chưa yên tâm về chất lượng đồng đều của các loạt sản phẩm. Các doanh nghiệp CNHT muốn phát triển phải đáp ứng được 3 yếu tố, chất lượng ổn định, giao hàng đúng hẹn và giá cả hợp lý. Hiện nay, rất ít các doanh nghiệp Việt nam đáp ứng được cả 3 yếu tố trên. Trong giai đoạn trước mắt, việc các doanh nghiệp CNHT Việt Nam đóng vai trò nhà cung ứng lớp 1 cho các 142
  9. Tập đoàn lắp ráp đa quốc gia là hết sức khó khăn, đặc biệt đối với các linh kiện và vật liệu có hàm lượng công nghệ khá. Bảng 3.5. Năng lực cung ứng của lĩnh vực sản xuất linh kiện nhựa- cao su Lĩnh vực hạ nguồn Tỷ lệ % cung ứng trong nước Điện tử 20% Xe máy 95% Ô tô 15% Công nghiệp công nghệ cao 5% (Nguồn: Dự thảo tờ trình chính phủ vềDự thảo Nghị định phát triển công nghiệp hỗ trợ, Bộ Công thương, 2014) Vốn đầu tư trong nước vào lĩnh vực điện tử là rất ít, chủ yếu là các doanh nghiệp FDI; CNHT điện tử là lĩnh vực thu hút được nhiều vốn FDI nhất, với số vốn thu hút năm 2012 là trên 10 tỷ USD, tương ứng với 445 doanh nghiệp – trong đó, doanh nghiệp lớn là 176, doanh nghiệp vừa là 179, doanh nghiệp nhỏ là 90 (Theo số liệu của Cục đầu tư nước ngoài, 2012). Về xuất nhập khẩu Sản phẩm điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu danh mục xuất khẩu, năm 2014 đạt trên 23,6 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cũng tăng nhanh, năm 2014 đạt trên 11,4 tỷ USD, tăng gấp 2,4 lần so với năm 2011. Bảng 3.6: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm điện tử Đơn vị: triệu USD 2011 2012 2013 2014 Điện thoại các loại và linh kiện 6396 12716 21244 23607 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 4662 7837 10601 11440 Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 702 1688 1622 2220 Nguồn: Tổng cục hải quan, 2015 Mặc dù ngành điện tử có giá trị xuất khẩu cao, nhưng nguồn linh kiện, phụ tùng hầu hết phải nhập khẩu. Theo điều tra của Trung tâm phát triển doanh nghiệp CNHT (SIDEC), ngành điện tử phải nhập khẩu khoảng 77% giá trị sản phẩm. Phần sản xuất nội địa tập trung vào một số linh kiện cơ khí, nhựa – cao su, tỷ lệ cung ứng các linh kiện điện tử rất thấp. Các nhà cung ứng cấp một cho ngành điện tử cũng hầu hết là công ty FDI. Tuy nhiên đã có một số ít doanh nghiệp Việt Nam cung cấp linh kiện, vật tư cho các nhà cung ứng cấp một này. Năm 2013, giá trị nhập khẩu linh kiện ngành điện tử là trên 20,7 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân về giá trị nhập khẩu giai đoạn 2009 – 2013 lên đến 70,2%/năm. Nguồn nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc (36,4%); Hàn Quốc (30,8%) và các nước ASEAN (13,8%). Giá trị nhập khẩu lớn nhất là mạch tích hợp (mã HS:8542). Năm 2013, nhập khẩu mã 8542 là 10,1 tỷ 143
  10. USD, tăng trưởng giai đoạn 2009 – 2013 lên đến 67,5%/ năm, trong đó, nhập khẩu từ ASEAN đứng thứ 2, chiếm 25,9%, tỷ trọng và giá trị đều tăng mạnh từ năm 2010. Như vậy, có thể đánh giá, CNHT điện tử của Việt Nam còn khá non trẻ, tuy nhiên đã có bước tăng trưởng khá ấn tượng trong những năm gần đây, và sẽ là những tiền đề quan trong trong sự phát triển Công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trong thời gian tiếp theo. Trong quan hệ thương mại quốc tế, ASEAN là khu vực thị trường quan trọng cho cả xuất và nhập khẩu các sản phẩm điện tử của Việt Nam. Điều này sẽ đặt ra cho CNHT ngành điện tử cả những cơ hội và thách thức mới trong quá trình hội nhập AEC. 4. ĐÁNH GIÁ NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP AEC Bước sang năm 2016, kinh tế Việt Nam nói chung và công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử nói riêng đứng trước nhiều thuận lợi, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang trong đà phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn những năm trước, xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành điện tử. Mặt khác, với sự tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN, cũng như tiến tới hoàn thành ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại, FTA mới, CNHT ngành điện tử Việt Nam sẽ đứng trước những cơ hội và thách thức mới. 4.1. Những cơ hội Thứ nhất, AEC sẽ là cơ hội quý báu để Công nghiệp điện tử Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm điện tử và linh kiện điện tử. Trong cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa của ASEAN, thiết bị điện, điện tử (mã HS 85) hiện là nhóm sản phẩm đang đứng đầu trong cơ cấu các nhóm sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của ASEAN (đạt 22,22% tổng giá trị xuất khẩu vào năm 2014) và là nhóm sản phẩm nhập khẩu lớn thứ hai vào các nước khu vực này – tương ứng với 13,5% tổng giá trị nhập khẩu năm 2014 (Xem phụ lục 3,4). Do đó, việc tham gia AEC sẽ giúp cho ngành CNĐT Việt Nam có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm điện tử và linh kiện sang các nước trong khu vực, đồng thời tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất sản phẩm điện tử và linh kiện để xuất khẩu ra các nước khác trên thế giới.Trong số các quốc gia ASEAN, có một số quốc gia có ngành công nghiệp hỗ trợ tương đối phát triển như Thái Lan, Malaysia, Philippin. Việc hội nhập sâu hơn vào Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ giúp Việt Nam học hỏi, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm trong phát triển CNHT từ các quốc gia này, và từ đó, gia tăng cơ hội tiếp cận và tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng các sản phẩm CNHT điện tử trên thị trường toàn cầu. Mặt khác, về thuế quan, AEC là khu vực kinh tế chung, thị trường chung, xóa bỏ hàng rào thuế quan, khi đó thuế suất trong ASEAN sẽ là 0%. Theo Hiệp định ưu đãi thuế quan ATIGA, các nước ASEAN-6 (gồm Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Brunei, Philippines) đã xóa bỏ gần 100% dòng thuế từ năm 2010, trừ một số sản phẩm được miễn trừ vĩnh viễn vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức và sức khỏe. Từ năm 2015, Việt Nam đã tiến hành giảm 93% dòng thuế về 0%, chỉ giữ lại 7% số dòng thuế đến năm 2018, bao gồm các mặt hàng ô tô và linh kiện, sắt thép, linh kiện và phụ tùng xe máy, máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng, xe đạp và phụ tùng, rượu bia, sản phẩm chất dẻo, giấy các loại. Đến năm 2018, Việt Nam chỉ còn được duy trì thuế nhập khẩu với mức thuế suất tối đa là 5% đối với khoảng 3% số dòng thuế, bao gồm phần lớn là các mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm. Như vậy, các 144
  11. doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm CNHT điện tử của Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc không phải chịu thuế nhập khẩu tại thị trường ASEAN. Hơn nữa, việc nhập máy móc thiết bị , sản phẩm, nguyên phụ liệu, linh kiện điện tử, từ các nước ASEAN để phục vụ cho sản xuất trong nước cũng sẽ không phải chịu mức thuế nhập khẩu cao như trước đây, từ đó sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất sản phẩm điện tử trong nước. Về thị trường, khi AEC hình thành, thị trường mở rộng,với quy mô dân số khoảng 630 triệu dân,CNHT ngành điện tử Việt Nam cũng sẽ cơ hội thâm nhâp thị trường rộng lớn hơn hiện nay. Đặc biệt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng sẽ có cơ hội mở rộng tiếp cận thị trường, không chỉ có thị trường nội địa mà sẽ hướng ra thị trường chung và thị trường mà ASEAN đã có FTA như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Thứ hai, cơ hội thu hút đầu tư, với nhiều chính sách mở trong đầu tư kinh tế, thương mại, dịch vụ, cơ sở hạ tầng của các nước trong AEC sẽ tạo điều kiện thuận lợi không chỉ đối với các nước trong AEC đầu tư vào Việt Nam mà còn nhiều nền kinh tế lớn sẽ trực tiếp đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới. Ngành điện tử Việt Nam trong những năm qua đã thu hút được một khối lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đã tạo ra những kết quả ấn tượng trong tăng trưởng xuất khẩu, đây sẽ là động lực giúp cho CNHT điện tử Việt Nam tiếp tục thu hút thêm vốn đầu tư khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào AEC. Thứ ba, để đảm bảo cho việc hội nhập thị trường kinh tế ASEAN, đủ năng lực cạnh tranh trong khu vực và thế giới, đòi hỏi Chính phủ Việt Nam sẽ phải có nhiều nỗ lực để hoàn thiện các thể chế thuận tiện cho phát triển, sức đầu tư, phát triển thị trường, xây dựng cơ sở vật chất, nguồn lao động, Yêu cầu về năng lực sản xuất và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp được tăng cường và củng cố, khi AEC được hình thành, cơ hội giao thương hợp tác của các doanh nghiệp sản xuất CNHT điện tử trong nước với các doanh nghiệp trong khối AEC sẽ được thực hiện một cách dễ dàng hơn. Qua đó, các doanh nghiệp CNHT điện tử Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác, chuyển giao công nghệ nâng cao khả năng sản xuất, vị thế và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhờ đó cũng được cải thiện đáng kể. Thứ tư, cơ hội đưa Việt Nam trở thành “công xưởng thứ hai của thế giới” khi một loạt tập đoàn điện tử, viễn thông lớn tuyên bố rút lui khỏi Trung Quốc, chuyển sang khu vực Đông Nam Á. Sự quan tâm và tăng cường đầu tư của ba quốc gia hàng đầu về Công nghiệp điện tử là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ tạo đà kéo theo nhiều nhà đầu tư khác tham gia vào công cuộc phát triển CNHT ngành điện tử của Việt Nam. 4.2. Những thách thức Thứ nhất, cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn, không những cạnh tranh về sản phẩm, mà còn cạnh tranh trong việc thu hút nguồn vốn FDI vào sản xuất sản phẩm CNHT điện tử. Do Việt Nam và các nước ASEAN có tính tương đồng cao về cơ cấu hàng hóa, trong đó, một số quốc gia ASEAN có khả năng cạnh tranh cao và đi trước Việt Nam trong lĩnh vực phát triển ngành CNHT ngành điện tử như Thái Lan, Philipin, Malaysia, Chính vì vậy, sản phẩm CNHT điện tử của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn với các sản phẩm tương tự từ các quốc gia này; đồng thời, nếu CNHT của chúng ta không có sự phát triển kịp thời thì có thể dẫn đến một sự chuyển dịch vốn FDI từ Việt Nam chảy sang các quốc gia ASEAN khác. 145
  12. Thứ hai,các cam kết ngày càng cao về thực hiện lộ trình AEC và những yêu cầu ngày càng cao đối với hàng xuất khẩu sẽ là thách thức không nhỏ với các doanh nghiệp (DN), đặc biệt trong bối cảnh các biện pháp về phòng vệ thương mại đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể, khi hàng rào thuế quan tiệm cận mức 0% thì vấn đề quy tắc xuất xứ hàng hóa lại nổi lên như là một “rào cản” mới cho DN. Theo quy định, để được hưởng ưu đãi, bắt buộc hàng hóa các nước ASEAN phải chứng minh được nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng từ các nước này. Trong khi đó, theo tính toán hiện có đến 40% sản phẩm của các DN nhỏ và vừa của Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu về quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi. Trong khi đó, trong một số trường hợp quy tắc xuất xứ thậm chí trở thành một biện pháp kĩ thuật thay cho hàng rào thuế quan. Thứ ba, sức ép từ cải cách thể chế, tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao nâng cao trình độ khoa học – công nghệ và năng lực cạnh tranh. Hiện nay, trình độ phát triển của Việt Nam còn kém xa nhiều quốc gia trong ASEAN như : Singapo, Malaysia, Thái Lan , do vậy sức ép cải cách đặt ra với Việt Nam là rất lớn, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn hệ thống, trong đó có CNHT ngành điện tử Việt Nam. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ lạc hậu về công nghệ, năng suất thấp, sức cạnh tranh kém, lao động trình độ thấp, quản trị kém, mà còn là sự thiếu hiểu biết về thị trường AEC; điều này dễ dẫn tới tâm lý chủ quan, chậm cải tiến và khó cạnh tranh được với các doanh nghiệp từ các nước ASEAN. KẾT LUẬN AEC đang trở thành một thương hiệu riêng của ASEAN, thu hút sự quan tâm của các nền kinh tế lớn, các tổ chức kinh tế khu vực trên toàn cầu. Đối với Việt Nam, AEC sẽ là cơ hội quý báu để CNHT ngành điện tử Việt Nam bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Sự hình thành AEC vào năm 2015 sẽ thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hữu cơ giữa các nền kinh tế ASEAN, trong đó có Việt Nam. Các doanh nghiệp điện tử Việt Nam cần từng bước tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong quá trình xây dựng AEC, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. 146
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Hà Văn Hội (2013), Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN và những tác động đến thương mại quốc tế của Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 29, Số 4 (2013) 44-53. 2, Đức Minh (2015), Gia nhập AEC: Cơ hội nhiều, thách thức lớn, truy cập ngày 5/4/2016. 3, Nguyễn Văn Vỹ (2015), Hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN – Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới của hội nhập quốc tế, trường ĐH Kinh tế Quốc Dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 4, Lê Thị Sáu (2015), Cộng đồng kinh tế ASEAN – Những thuận lợi và khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập vào năm 2015, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới của hội nhập quốc tế, trường ĐH Kinh tế Quốc Dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 5, Nguyễn Quốc Trường, Nguyễn Thế Cường (2015), Cộng đồng kinh tế ASEAN – Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, te-asean-co-hoi-va-thach-thuc-doi-voi-viet-nam.html, truy cập ngày 5/4/2016. 6, Nguyễn Thành Hưng (2015), Xây dựng Việt Nam thành một nước sản xuất lớn về thiết bị điện từ vào năm 2030, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Việt nam trở thành một trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới sau năm 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Nhà xuất bản ĐH Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội. 7, Nguyễn Thị Kim Thu (2012), Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 8, Trung tâm Phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (2015), Niên giám về Công nghiệp hỗ trợ các ngành chế tạo Việt Nam 2014 – 2015, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công nghiệp, Bộ Công thương. 9, Bộ Công thương (2014), Dự thảo tờ trình Chính phủ vềDự thảo Nghị định phát triển công nghiệp hỗ trợ. 147
  14. PHỤ LỤC Phụ lục 1. Xuất khẩu sản phẩm thiết bị điện, điện tử của Việt Nam sang ASEAN (Mã HS 85) (Đơn vị: Nghìn đô la Mỹ) Quốc gia 2010 2011 2012 2013 2014 nhập khẩu Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Thế giới 7080771 100 12846282 100 22395624 100 32282861 100 36494505 100 Indonesia 162240 2.29 256659 2.00 404708 1.81 773858 2.40 1019013 2.79 Thailand 228884 3.23 368409 2.87 697988 3.12 955946 2.96 974338 2.67 Malaysia 93017 1.31 247607 1.93 1231618 5.50 1842366 5.71 867732 2.38 Singapore 227418 3.21 336292 2.62 463943 2.07 671717 2.08 771499 2.11 Philippines 244812 3.46 337540 2.63 367000 1.64 396620 1.23 455051 1.25 Campuchia 49232 0.70 96027 0.75 113284 0.51 92741 0.29 88879 0.24 Lào 9104 0.13 13231 0.10 16820 0.08 25893 0.08 38696 0.11 Myanmar 3383 0.05 6206 0.05 11187 0.05 14841 0.05 31939 0.09 Brunei 313 0.00 153 0.00 344 0.00 854 0.00 451 0.00 ASEAN 1018403 14.38 1662124 12.94 3306892 14.77 4774836 14.79 4247598 11.64 (Nguồn: www.trademap.org) 148
  15. Phụ lục 2: Nhập khẩu sản phẩm thiết bị điện, điện tử của Việt Nam từ các nước ASEAN (Mã HS 85) (Đơn vị: Nghìn đô la Mỹ) Quốc gia 2010 2011 2012 2013 2014 xuất khẩu Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Thế giới 9993449 100 14389650 100 22963270 100 31423616 100 34080845 100 Singapore 296172 2.96 481808 3.35 1154207 5.03 1989879 6.33 2464129 7.23 Malaysia 412824 4.13 540174 3.75 694983 3.03 1022518 3.25 1064255 3.12 Thailand 384960 3.85 506706 3.52 517561 2.25 558617 1.78 629500 1.85 Philippines 91730 0.92 211510 1.47 406457 1.77 460829 1.47 371909 1.09 Indonesia 139717 1.40 157708 1.10 209660 0.91 214590 0.68 177612 0.52 Cambodia 608 0.01 600 0.00 1610 0.01 3603 0.01 5667 0.02 Lao 1892 0.02 2287 0.02 2616 0.01 3563 0.01 4129 0.01 Myanmar 293 0.00 818 0.01 684 0.00 2695 0.01 477 0.00 Brunei 30 0.00 0 0.00 0 0.00 84 0.00 0 0.00 ASEAN 1328226 13.29 1901611 13.22 2987778 13.01 4256378 13.55 4717678 13.84 (Nguồn: www.trademap.org) 149
  16. Phụ lục 3: Nhóm 10 sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của nhóm các quốc gia ASEAN (Đơn vị: Nghìn đô la Mỹ) STT Mã HS Sản phẩm 2010 2011 2012 2013 2014 Tổng giá trị XK 1051780764 1244587641 1254516538 1273863497 1311533547 1 '85 Thiết bị điện, điện tử 235111268 247420778 260079481 278879245 291393211 2 '27 Nhiên liệu khoáng, dầu, 165489068 231159578 229433481 221671447 209953326 các sản phẩm chưng cất, vv 3 '84 Máy móc, lò phản ứng 132258858 131591919 138537513 139252859 139772606 hạt nhân, nồi hơi, vv 4 '39 Nhựa và các sản phẩm 30814485 37605115 39243424 39570597 43527157 của nhựa 5 '87 Phương tiện vận tải trừ 29841133 31456902 40040232 40629358 41439595 đường sắt, đường xe điện 6 '15 Mỡ động vật và dầu 34771980 47321674 43349374 37723825 39574785 thực vật, sản phẩm tách, vv 7 '71 Ngọc trai, đá quý, kim 28474404 27669216 28182592 26406793 39168194 loại, tiền xu, vv 8 '90 Thiết bị quang học, 21149451 24171034 30783594 31923107 34327243 hình ảnh, kỹ thuật, y tế, vv 9 '99 Hàng hóa chưa được 41219660 43850563 35084244 34835295 33809642 phân vào đâu 10 '29 Hóa chất hữu cơ 25950710 36737531 36572303 32683800 33391395 (Nguồn: www.trademap.org) 150
  17. Phụ lục 4: Nhóm 10 sản phẩm nhập khẩu nhiều nhất của các quốc gia ASEAN (Đơn vị: Nghìn đô la Mỹ) STT Mã HS Sản phẩm 2011 2012 2013 2014 Tổng giá trị NK 18238694336 18329977181 18705114822 18729446763 1 '27 Nhiên liệu khoáng, 3281978780 3402326316 3326250295 3111149250 dầu, các sản phẩm chưng cất, vv 2 '85 Thiết bị điện, điện 2325494916 2340933326 2470575268 2527512690 tử 3 '84 Máy móc, lò phản 2104822094 2100964478 2105850283 2155793058 ứng hạt nhân, nồi hơi, vv 4 '87 Phương tiện vận tải 1256263546 1287888735 1334059087 1381365529 trừ đường sắt, đường xe điện 5 '39 Nhựa và các sản 574170302 564113837 595141264 621770068 phẩm của nhựa 6 '71 Ngọc trai, đá quý, 567574947 674869933 712269366 596319678 kim loại, tiền xu, vv 7 '90 Thiết bị quang học, 518341681 535697172 548437729 558555040 hình ảnh, kỹ thuật, y tế, vv 8 '30 Dược phẩm 477706192 477765099 498843545 526391077 9 '29 Hóa chất hữu cơ 477149021 463270940 471935971 461143041 10 '72 Sắt thép 482754257 434819545 403000752 420749461 (Nguồn: www.trademap.org) 151