Phân tích chỉ số tài chính toàn diện của Việt Nam với các quốc gia Đông Nam Á

pdf 8 trang Gia Huy 24/05/2022 1190
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích chỉ số tài chính toàn diện của Việt Nam với các quốc gia Đông Nam Á", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphan_tich_chi_so_tai_chinh_toan_dien_cua_viet_nam_voi_cac_qu.pdf

Nội dung text: Phân tích chỉ số tài chính toàn diện của Việt Nam với các quốc gia Đông Nam Á

  1. PHÂN TÍCH CHỈ SỐ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á ThS. Đỗ Hoàng Oanh Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh Tóm tắt Tài chính toàn diện được coi là trụ cột quan trọng của tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững, góp phần huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội. Tuy nhiên, Việt Nam lại là một trong những quốc gia có chỉ số tài chính toàn diện thấp, chỉ tính riêng về năng lực trong việc tiếp cận tài chính ở người trưởng thành thì Việt Nam thuộc một trong 25 quốc gia kém nhất có tỷ lệ người trưởng thành không có tài khoản ngân hàng, chiếm 73% số người không có tài khoản trên toàn cầu (Ngân hàng Nhà nước, 2017). Do đó, mục tiêu chính của bài viết tập trung vào tài chính toàn diện, chỉ số tài chính và phân tích tình hình tài chính, cũng như kiến nghị một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại và nâng cao khả năng tiếp cận tài chính để những người chưa có sử dụng dịch vụ ngân hàng được tiết kiệm, thanh toán, vay vốn và mua bảo hiểm từ hệ thống tài chính chính thức, qua đó phát triển các nỗ lực hướng về tài chính toàn diện. Từ khóa: tài chính toàn diện, phổ cập tiếp cận tài chính, financial inclusion. 1. Tổng quan về tài chính toàn diện Tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi cá nhân và tổ chức, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng, nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người tiêu dùng, giúp luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định kinh tế - tài chính - xã hội. Leyshon và Thrift (1995) định nghĩa tài chính toàn diện là quá trình một số nhóm xã hội và cá nhân nhất định được tiếp cận với hệ thống tài chính chính thức. Sinclair (2001) cho rằng tài chính toàn diện là khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cần thiết bằng cách thức thích hợp. Còn theo Rangarajan (2008) định nghĩa tài chính toàn diện là quá trình đảm bảo các nhóm dân cư thiệt thòi chẳng hạn như tầng lớp yếu thế và nhóm thu nhập thấp có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính và tín dụng kịp thời và đầy đủ khi cần thiết với chi phí phải chăng. Liên Hiệp Quốc (UNCDF, 2006) cho rằng tài chính toàn diện là cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý cho người dân. Các dịch vụ tài chính cơ bản bao gồm tiết kiệm, tín dụng ngắn hạn và dài hạn, cho thuê và bao thanh toán, thế chấp, bảo hiểm, trợ cấp, thanh toán, chuyển tiền trong nước và chuyển tiền quốc tế. Ngân hàng Thế giới định nghĩa tài chính toàn diện (Financial inclusion) là việc các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả phải chăng, đáp ứng được các nhu cầu của họ bao gồm chuyển tiền, thanh toán, tiết kiệm tín dụng và bảo hiểm được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững. Mục tiêu tiếp cận tài chính toàn cầu đến 2020 là những người trưởng thành hiện chưa tiếp cận được hệ thống tài chính đều có được tài khoản giao dịch để lưu giữ tiền, gửi và nhận thanh toán như là một công cụ cơ bản để quản lý tài chính cho cuộc sống của họ (World Bank, 2017). 27
  2. Tổng quát lại, tài chính toàn diện là tất cả việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức (thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm ) một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu và với chi phí hợp lý tới tất cả người dân. Tài chính toàn diện không chỉ giới hạn trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người tiêu dùng. 2. Vai trò của tài chính toàn diện: Thứ nhất, tài chính toàn diện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường khả năng huy động các khoản tiết kiệm và đầu tư để phát triển sản xuất, cụ thể, Johnson và Nino-Lazarawa (2009) đã chỉ ra rằng tài chính toàn diện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua huy động tiết kiệm và đầu tư vào lĩnh vực sản xuất. Việc huy động tiết kiệm tạo điều kiện cho các đối tượng bị loại trừ trong hệ thống tài chính chính thức có thể tiếp cận tiết kiệm, tín dụng và các dịch vụ giảm nghèo để đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và cải thiện phúc lợi. Thứ hai, tài chính toàn diện góp phần hạn chế thông tin tài chính bất đối xứng, giảm chi phí giao dịch ký kết hợp đồng. Các chính sách tài chính toàn diện hiệu quả tác động lên các ngành kinh tế, góp phần giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế nhanh (Levine, 2005). Thứ ba, tài chính toàn diện còn góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và tăng phúc lợi cho người nghèo được tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính như tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, kiều hối và bảo hiểm, sẽ giúp người nghèo tăng khả năng tích lũy tài sản, chống chịu trước những cú sốc kinh tế, đồng thời tăng khả năng tạo công ăn việc làm, cải thiện thu nhập thông qua các khoản tín dụng tiếp cận được. Demirguc-kunt và cộng sự (2008) nhận thấy rằng tiếp cận tài chính không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn thúc đẩy giảm nghèo cũng như giảm bất bình đẳng thu nhập và cải thiện phúc lợi. Thứ tư, ngoài lợi ích về mặt tiết kiệm thu nhập an toàn và cơ hội vay vốn lớn hơn, tài chính toàn diện cũng mang lại nhiều kết quả tích cực như hạn chế lao động trẻ em và tăng năng suất nông nghiệp (Robinson, 2001). Collins (2009) đã tìm ra mối quan hệ nhân quả giữa khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính phù hợp, giá cả phải chăng và sự cải thiện phúc lợi và thu nhập cho người nghèo tại Bangladesh, Ấn Độ và Nam Phi. Cuối cùng, tài chính toàn diện còn đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thông qua tạo giá trị cho các doanh nghiệp nhỏ, đem lại tác động lớn cho việc cải thiện các chỉ số phát triển con người như y tế, dinh dưỡng, giáo dục và đẩy lùi bất bình đẳng, nghèo đói (Obstfield, 1994). Không chỉ thế, tài chính toàn diện còn giúp Chính phủ giảm bớt chi phí cho các chương trình trợ cấp an sinh xã hội thông qua việc chi trả qua tài khoản ngân hàng, làm tăng sự minh bạch, phòng chống tham nhũng tích cực hơn, nhờ đó quản lý xã hội tốt hơn, cải thiện công bằng và bình đẳng, năng lực của toàn xã hội theo đó cũng được nâng lên. Do đó, bài viết tập trung phân tích tài chính toàn diện được đo lường dựa trên ba khía cạnh: (i) xem sự thâm nhập của hệ thống tài chính ngân hàng, (ii) sự thuận tiện của các dịch vụ tài chính, và (iii) mức độ sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính theo nghiên cứu của Sarma (2015). 3. Các chỉ tiêu tài chính toàn diện: Theo Sarma (2015), chỉ số tài chính toàn diện (Index of Financial Inclusion - IFI) được đo lường trên ba khía canh: sự thâm nhập của các tổ chức tài chính - ngân hàng (penetration); sự thuận tiện (availability) và mức độ sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính (usage). Việc sử dụng kết hợp các chỉ tiêu vi mô liên quan đến tài chính cá nhân và các chỉ tiêu vĩ mô để đo lường chỉ số tài chính toàn diện sẽ phản ánh đầy đủ những khía cạnh khác nhau của tài chính toàn diện. Giá trị IFI càng cao thì việc tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức của người dân càng cao. Chỉ số tài chính toàn diện - IFI được tính tương tự như nghiên cứu Sarma (2015) 28
  3. Ai m i di w i Mi m i với wi là tỷ trọng của thành phần thứ i, 0 ≤ wi ≤ 1 và 0 ≤ di ≤ 1 Ai là giá trị thực tế của thành phần thứ i Mi là giá trị cao nhất của thành phần thứ i mi là giá trị thấp nhất của thành phần thứ i di là giá trị của thành phần thứ i Giá trị IFI được tính như sau: 2 2 2 2 2 2 1 d1 1 d 2 1 d 3 1 1 2 3 IFI d d d 1 2 n n Các chỉ tiêu thành phần của chỉ số toàn IFI gồm có: Thành phần 1: Sự thâm nhập của hệ thống ngân hàng (Banking penetration), cho biết mức độ sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức của người dân, số lượng người sử dụng các dịch vụ ngân hàng càng nhiều thì khả năng tiếp cận tài chính càng cao. Chỉ tiêu được sử dụng để đo lường thành phần 1 là số lượng tài khoản ngân hàng trên 1.000 dân. Thành phần 1 này sẽ có trọng số w1= 1. Thành phần 2: Sự thuận tiện của các dịch vụ ngân hàng (Availability of banking services), cho biết mức độ sẵn có của các dịch vụ ngân hàng. Chỉ tiêu được sử dụng để đo lường thành phần 2 bao gồm: số lượng máy ATM và số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 dân. Chỉ số thành phần 2 này được tính từ 2 chỉ tiêu trên, trong đó tỷ trọng của chi nhánh ngân hàng là 2/3 và tỷ trọng của số lượng ATM là 1/3. Thành phần 2 này sẽ có trọng số w2= 0,5. Thành phần 3: Mức độ sử dụng (Usage), đo lường sự hữu dụng của hệ thống ngân hàng. Chỉ tiêu được sử dụng để đo lường thành phần 3 là tổng của tỷ lệ tiền gửi và cho vay của hệ thống ngân hàng trên GDP. Thành phần 3 này sẽ có trọng số là w3= 0,5 Bài viết thực hiện theo các chỉ tiêu nghiên cứu của Sarma (2015) về cách đo chỉ số tài chính toàn diện cho Việt Nam, cũng như so sánh với các quốc gia Đông Nam Á được thu thập từ Global Financial Inclusion (WorldBank, 2018). Trong đó, năm chỉ tiêu được sử dụng để đo lường chỉ số tài chính toàn diện gồm: số lượng tài khoản ngân hàng trên 1.000 dân, số lượng máy ATM và số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 dân, cuối cùng là tỷ lệ tiền gửi và cho vay của hệ thống ngân hàng trên GDP. 4. Đánh giá tình hình tài chính toàn diện dựa trên các chỉ tiêu nghiên cứu Thứ nhất, Từ Bảng 1 cho thấy số lượng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại (NHTM) trên 1.000 người trưởng thành cho biết mức độ sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức của người dân. Chỉ tiêu cao cho thấy, người dân có nhu cầu sử dụng nhiều, khả năng tiếp cận tài chính càng cao, hệ thống ngân hàng càng thâm nhập và càng gần gũi với người dân. Malaysia và Singapore là hai quốc gia đứng đầu với 2.242 và 2.284 tài khoản năm 2016, 2.227 và 2.299 tài khoản vào năm 2017. Việt Nam đứng thứ 7/11 quốc gia với 944 và 955 tài khoản năm 2016 và 2017, bằng khoảng 42% so với 2 quốc gia kể trên. Còn quốc gia có số tài khoản thấp nhất là Myanmar với 251 năm 2016 và 224 tài khoản năm 2017. 29
  4. Bảng 1: Các chỉ tiêu đo lường tài chính toàn diện Số lượng chi Số lượng tài Số lượng Tỷ lệ Tỷ lệ nhánh ngân khoản tiền máy ATM tiền gửi tiền vay hàng trên gửi tại trên 100.000 tại tại Quốc gia Năm 100.000 IFI NHTM trên người NHTM NHTM người 1.000 người trưởng (% (% trưởng trưởng thành thành GDP) GDP) thành 2016 1.955,13 75,26 19,43 75,76 33,9 0,84 Brunei 2017 1.879,89 68,49 18,18 70,78 30,31 0,75 2016 279,82 14,49 7,24 68,55 67,43 0 Campuchia 2017 316,52 16,73 7,52 77,63 72,21 0,04 2016 1.731,27 21,24 14,06 62,93 49,32 0,48 Ấn Độ 2017 1.888,75 22,07 14,72 64,05 47,27 0,56 2016 1.055,58 54,75 17,39 38,98 35,28 0,34 Indonesia 2017 1.564,24 55,61 16,89 38,92 34,87 0,5 2016 579,16 24,28 3,04 47,18 46,21 -0,08 Lào 2017 634,34 26,09 3,13 48,34 47,56 -0,07 2016 2.242,34 48,11 10,26 101,13 115,09 0,93 Malaysia 2017 2.227,29 46,75 10,06 96,31 109,04 0,86 2016 251,84 2,67 3,41 32,32 16,28 -0,2 Myanmar 2017 224,52 4,38 4,7 31,09 17,99 -0,19 2016 577,09 27,15 8,87 51 29,88 -0,01 Philippine 2017 591,84 28,31 9,05 51,76 33,16 0,01 2016 2.284,90 57,75 8,98 139,42 144,26 1,16 Singapore 2017 2.299,41 65,16 8,49 135,57 145,75 1,13 2016 1.549,30 113,06 12,38 74,96 72,61 0,65 Thái Lan 2017 1610,29 117,28 11,88 73,45 71,24 0,66 2016 944,36 24,02 3,8 136,6 119,68 0,42 Việt Nam 2017 955,17 24,34 3,41 141,2 126,21 0,44 Nguồn: WorldBank (2019) * IFI: Chỉ số đo tài chính toàn diện (được tính toán từ công thức) Thứ hai, để xem xét sự thuận tiện của các dịch vụ ngân hàng (Availability of banking services) được đo lường thông qua hai chỉ tiêu là số lượng máy ATM và số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100 ngàn người trưởng thành. Thông qua các chỉ tiêu này, người dân dễ dàng tiếp cận và giao dịch thuận tiện dù theo bất cứ lúc nào hay nơi nào cũng có thể thực hiện giao dịch khi có nhu cầu. Thái Lan đứng đầu với 117 máy ATM và Brunei là quốc gia đứng đầu với chỉ tiêu chi nhánh ngân hàng (18 chi nhánh NHTM trên 100 ngàn người trưởng thành). Thấp nhất là Myanmar và Lào với bình quân khoảng 4 máy ATM và 4 chi nhánh trên 100 ngàn dân. Còn Việt Nam đứng thứ 9/11 quốc gia với 24,3 máy ATM, gần bằng hai quốc gia thấp nhất về số lượng ATM là Lào (24,28 máy ATM) và Campuchia (16,7 máy ATM). Còn về số chi nhánh ngân hàng thì Việt Nam và Lào hiện là thấp nhất với 3 chi nhánh ngân hàng, Campuchia là 7 chi nhánh ngân hàng cao hơn Lào và Việt Nam. Từ kết quả này, có thể thấy mức độ trải rộng các tiện nghi để người dân có thể thuận lợi trong việc giao dịch ở địa điểm hay thời gian bất kỳ lúc nào của Việt 30
  5. Nam còn rất hạn chế. Điều này cũng thể hiện để phát triển tài chính toàn diện thì Chính phủ và các NHTM cần quan tâm đến phát triển không chỉ về chất lượng mà còn là số lượng các phương tiện kỹ thuật cần thiết để người dân khi có nhu cầu thì có thể tiếp cận được dễ dàng. Thứ ba, để đo lường mức độ hữu dụng tài chính thông qua đóng góp tỷ lệ tiền gửi và tiền vay trên GDP của hệ thống ngân hàng vào nền kinh tế. Singapore và Việt Nam là 2/11 quốc gia đứng đầu với tỷ lệ tiền gửi là 139,4% GDP và Việt Nam là 141,2% GDP, tỷ lệ tiền vay Singapore 146% GDP và Việt Nam là 126,2% GDP. Đây là một dấu hiệu lạc quan đối với Việt Nam, mặc dù hệ thống tài chính vẫn chưa hoàn toàn phát huy được tính ảnh hưởng của nó (theo chỉ tiêu thứ hai) nhưng vai trò đóng góp mạnh mẽ của hệ thống NHTM vào sự tăng trưởng của nền kinh tế thì lại cao nhất trong các quốc gia. Nếu như Việt Nam có thể phát huy được tính ảnh hưởng của hệ thống NHTM vào người dân sâu rộng hơn thì cũng đồng thời phát triển hệ thống tài chính ngân hàng và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Và cuối cùng, chỉ số tài chính toàn diện IFI nhằm xem xét tổng hợp các yếu tố vi mô tài chính cá nhân và các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến hệ thống tài chính ngân hàng. IFI cao nhất trong các quốc gia Đông Nam Á thuộc về hệ thống tài chính ngân hàng của Singapore là 0,64; Brunei đứng thứ 2 với IFI là 0,47 và Thái Lan đứng thứ 3 với IFI là 0,45. Còn Lào và Mianmar thấp nhất với IFI là 0,08 và 0,01. Việt Nam đứng thứ 7/11 quốc gia với IFI là 0,31. Tuy nhiên, căn cứ theo tiêu chuẩn nghiên cứu Sarma (2015) đánh giá các quốc gia trên toàn thế giới, nếu chỉ số IFI ≥ 0,6 thì có hệ thống tài chính phát triển toàn diện, 0,3 ≤ IFI ≤ 0,6 thì có mức hệ thống tài chính ở mức độ trung bình và nếu IFI < 0,3 thì hệ thống tài chính yếu kém, người dân hầu như gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận hệ thống tài chính ngân hàng của quốc gia đó, thì chỉ có Singapore là có hệ thống tài chính toàn diện phù hợp với hệ thống tài chính phát triển của thế giới, còn các quốc gia Đông Nam Á còn lại thì hầu như là trung bình và yếu kém. Trong đó, IFI của Việt Nam là 0,31 nằm ở mức độ trung bình, giáp ranh mức đánh giá yếu kém. Điều này, cũng phù hợp với đánh giá của World Bank về các quốc gia trên thế giới thì có 25 quốc gia có chỉ số tài chính toàn diện thấp, chiếm 73% số người trưởng thành không có tài khoản tài chính trên toàn cầu và Việt Nam cũng là một trong số 25 quốc gia này với tỷ lệ người trưởng thành không có tài khoản ngân hàng vượt mức trung bình thế giới. Từ thực trạng này, bài viết đề cập về lý do cũng như những tồn đọng trong hệ thống tài chính quốc gia hiện nay và hướng đến kiến nghị để nâng cao chỉ số tài chính toàn diện, cũng như hướng đến sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam. 5. Những vấn đề tồn đọng trong hệ thống tài chính quốc gia khi hướng đến tài chính toàn diện: Thước đo đầu tiên và quan trọng nhất của tài chính toàn diện chính là chỉ tiêu tỷ lệ người có tài khoản tại các tổ chức tài chính chính thức. Nếu như ở những nước phát triển, tỷ lệ này có thể lên đến 95%-98% thì ở Việt Nam số người trưởng thành có tài khoản ngân hàng tính tới năm 2017 là 59% (nguồn: Vnexpress, 2017), tuy nhiên chủ yếu lại tập trung khu vực thành thị, và khuynh hướng được sử dụng nhiều ở những người giàu có hay có thu nhập ổn định. Việc này có mâu thuẫn với ý nghĩa tài chính toàn diện là dành để hỗ trợ và bảo vệ lợi ích của người nghèo và những người có thu nhập bấp bênh, thiếu ổn định. Do đó, Ngân hàng Thế giới (2017) thực hiện nghiên cứu và tìm thấy lý do những của người nghèo, người trưởng thành ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa không có tài khoản chính thức là vì không có đủ tiền, việc mở tài khoản là tốn kém, khoảng cách đến ngân hàng quá xa, thiếu những giấy tờ cần thiết đáp ứng yêu cầu của ngân hàng, thiếu tin tưởng vào ngân hàng, thậm chí chi phí duy trì tài khoản và mức phí cho mỗi lần giao dịch tài khoản đều là tốn kém. 31
  6. Hai là, còn về số lượng ATM Việt Nam đứng thứ 9/11 quốc gia Đông Nam Á và số chi nhánh ngân hàng thì Việt Nam là thấp nhất với khoảng 3 chi nhánh ngân hàng trong 11 quốc gia. Từ kết quả này, có thể thấy mức độ trải rộng các tiện nghi để người dân có thể thuận lợi trong việc giao dịch ở địa điểm hay thời gian bất kỳ lúc nào còn rất hạn chế. Điều này cũng thể hiện để phát triển tài chính toàn diện thì Chính phủ và các NHTM cũng cần quan tâm đến phát triển không chỉ về chất lượng mà còn là số lượng các phương tiện kỹ thuật cần thiết để người dân khi có nhu cầu thì có thể tiếp cận được dễ dàng. Ba là, tín dụng là một trong những dịch vụ tài chính quan trọng giúp tăng việc làm và thu nhập của các hộ gia đình. Trong trường hợp không có sự tiếp cận tín dụng từ các tổ chức tài chính ngân hàng, người dân bị buộc phải vay tiền từ gia đình, bạn bè và người cho vay tiền khác thường có lãi suất cao hơn. Trong bảng 2, có hơn một phần ba dân số vẫn phụ thuộc vào các khoản vay từ gia đình, bạn bè ở Indonesia, Philippines, Campuchia và Malaysia trong khi tỷ lệ các khoản vay này thấp ở Việt Nam, Singapore, Myanmar và Lào. Bảng 2: Nguồn vay nợ của các hộ gia đình năm 2015 Vay nợ từ Vay nợ tại gia đình và TCTD Vay nợ từ Vay nợ tại Vay nợ từ bạn bè (40% Vay nợ tại (40% người gia đình và Quốc gia TCTD gia đình và người có TCTD (%) có thu nhập bạn bè (nữ, %) bạn bè (%) thu nhập thấp nhất, (nữ, %) thấp nhất, %) %) Brunei - - - - - - Cambodia 27,65 29,36 3,2 36,23 36,77 36,5 Indonesia 13,14 11,17 6,6 41,49 41,23 43,77 Lao 18,13 17,2 3,02 15,62 14,43 14,74 Malaysia 19,52 16,58 64,8 38,96 29,85 45,59 Myanmar 15,52 11,8 0,4 21,81 21,38 24,46 Philippines 11,79 13,6 6,3 48,65 46,76 48,83 Singapore 14,2 14,32 39,7 4,45 3,08 4,57 Thailand 15,4 13,67 8,3 31,12 30,12 28,97 Vietnam 18,45 21,33 7,8 29,88 27,28 28,8 Nguồn: Lê Thị Khuyên và Bùi Ngọc Mai Phương (2018) Thêm vào đó, nếu như ở Singapore, kênh đi vay chủ yếu cho người có thu nhập thấp là tổ chức tài chính ngân hàng chiếm gần 40% thì ở Việt Nam chỉ có 7,8%, và tỷ lệ người vay là nữ tại các hộ gia đình ở Việt Nam trên tất cả kênh vay mượn từ tổ chức tài chính, gia đình, xã hội thì người vay nợ là nữ lại chiếm tỷ lệ cao hơn so với các quốc gia trong khu vực. 6. Kiến nghị một số giải pháp phát triển tài chính toàn diện Tài chính toàn diện là một vấn đề lớn đòi hỏi sự tham gia của toàn thể xã hội vào quá trình thực thi. Theo đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước giữ vai trò chủ chốt điều phối toàn bộ quá trình, bố trí nguồn lực quản lý, điều tiết nền kinh tế, cân bằng quyền lợi các bên liên quan và ban hành chính sách thực hiện. Còn Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tài chính đại diện về phía cung để thực hiện cụ thể các chính sách. Và cuối cùng là phía cầu, bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh, cá nhân trong việc sử dụng các dịch vụ tài chính và phản hồi những nhu 32
  7. cầu tài chính trong thực tế về lại các tổ chức tài chính. Khi các bên thực hiện một cách phối hợp hài hòa thì hệ thống tài chính sẽ trở nên phổ biến và phát triển một cách bền vững toàn diện. Bài viết kiến nghị một số giải pháp như sau: Nhà nước cần thể hiện rõ vai trò điều tiết vĩ mô: (i) việc phân phối các điểm truy cập tài chính ở những nơi chưa được phục vụ (chủ yếu nông thôn và khu vực vùng sâu vùng xa), tăng cường cam kết với các tổ chức tài chính quốc tế và chỉ định một cơ quan chuyên biệt để tạo điều kiện phối hợp các bên liên quan để thúc đẩy gia tăng mức độ tài chính toàn diện lớn hơn. (ii) Ban hành các quy định về ngân hàng đại lý, cho phép các tổ chức phi ngân hàng tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ thanh toán mới, mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa để thúc đẩy việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ thanh toán. (iii) Hơn nữa, đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam cần chủ động phát triển các dịch vụ tài chính trên nền tảng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số để đẩy nhanh tiến trình tài chính toàn diện trong nước và bắt kịp xu hướng của các nước khác trên thế giới. Về phía các định chế tài chính cần có sự phối hợp và thỏa thuận hợp lý về phí dịch vụ thanh toán để khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân thực hiện thanh toán điện tử, giảm chi phí sử dụng thẻ hàng năm và đơn giản thủ tục vay mượn để các cá nhân vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận và thực hiện được. Thêm vào đó, cần nghiên cứu kỹ đặc điểm các đối tượng chủ hộ để có những chính sách thu hút tiền gửi và cho vay phù hợp với nhu cầu hộ gia đình. Ngoài ra, gia tăng các điểm tiếp cận giao dịch, cùng với tiếp tục đầu tư và mở rộng mạng lưới ATM/POS/internet banking/mobile banking/cổng thanh toán/ví điện tử theo đặc điểm đối tượng ở từng khu vực nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt ở những khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và cả đối với những đối tượng chưa có tài khoản ngân hàng, trên cơ sở sử dụng mạng lưới sẵn có của các tổ chức tín dụng, mạng lưới bưu điện và cả mạng lưới của các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các cửa hàng bán lẻ. Cuối cùng, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, đào tạo, hướng dẫn cho cán bộ, nhân viên của các tổ chức cung ứng dịch vụ để có kỹ năng hướng dẫn khách hàng hiểu và sử dụng các dịch vụ, phương tiện thanh toán điện tử. Các cơ quan nhà nước, các định chế tài chính có thể kết nối với các trường đại học để bổ sung, cập nhật các nội dung, kiến thức cơ bản về thanh toán điện tử mới vào chương trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về kinh tế, tài chính, ngân hàng ; phối hợp với truyền hình, truyền thông phù hợp, hiệu quả để phổ biến kiến thức, giáo dục tài chính, kỹ năng tài chính cho các tổ chức, cá nhân có liên quan, kể cả người cao tuổi, người dân ở vùng nông thôn. Kết luận: Hệ thống tài chính là bộ phận thiết yếu trong sự phát triển của nền kinh tế, do đó, việc tiếp cận các dịch vụ tài chính đóng một vai trò rất lớn trong việc giảm nghèo, nâng cao năng lực sản xuất xã hội cũng như thúc đẩy phát triển bền vững. Thông qua phân tích thực trạng, cũng như đo lường được chỉ số tài chính toàn diện IFI của Việt Nam, và có sự so sánh đối chiếu với IFI của các quốc gia Đông Nam Á khác, cho thấy hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay đã có mức phát triển trung bình, nhưng vẫn còn nhiều rào cản tồn đọng làm cho hệ thống tài chính dễ rơi vào tình trạng yếu kém trở lại. Vì vậy, để thúc đẩy hoạt động cũng như để hệ thống tài chính có sự bền vững cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp phối hợp giữa NHNN, các định chế tài chính, những tổ chức kinh doanh, hộ gia đình và cá nhân như: tạo lập môi trường chính sách và pháp lý thuận lợi để ngân hàng, và cả tổ chức phi ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ tài chính, cũng như hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng tài chính, tăng cường các POS/ATM/điểm giao dịch và nâng cao công tác thông tin tuyên truyền đến hộ gia đình và các cá nhân. 33
  8. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aghion, P., & Durlauf, S. (2005). Handbook of economic growth. Elsevier. 2. Collins, D., Morduch, J., Rutherford, S., & Ruthven, O. (2010). Portfolios of the poor: how the world's poor live on $2 a day. Princeton University Press. 3. Demirgüç-Kunt, A., Beck, T., & Honohan, P. (2008). Finance for all?: Policies and pitfalls in expanding access. Washington, DC: World bank. 4. Johnson, S., & Nino-Zarazua, M. (2009). Financial exclusion in Kenya and Uganda [Trực tuyến]. Địa chỉ: 5. Levine, R. (1999). Financial development and economic growth: views and agenda. The World Bank. 6. Leyshon, A., & Thrift, N. (1995). Geographies of financial exclusion: financial abandonment in Britain and the United States. Transactions of the Institute of British Geographers, 312-341. 7. Rangarajan, C. (2008). Report of the committee on financial inclusion. Ministry of Finance, Government of India. 8. Robinson, M. S. (2001). The microfinance revolution: Sustainable finance for the poor. The World Bank. 9. Sarma, M. (2015). Measuring financial inclusion. Economics Bulletin, 35(1), 604-611. 10. Sinclair, S. P. (2001). Financial exclusion: An introductory survey. Edinburgh, UK: CRSIS, Edinburgh College of Art/Heriot Watt University. 11. UNCDF, U. (2006). Building Inclusive Financial Sectors for Development (Blue Book). New York, USA. 12. Worldbank, 2017 [Trực tuyến]. Địa chỉ: 13. Lê Thị Khuyên và Bùi Ngọc Mai Phương (2018). Tiếp cận tài chính toàn diện của các nước ASEAN và một số khuyến nghị đối với Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, số 1. 14. Nghiêm Thanh Sơn (2017). Đặc san toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam 2017 [Trực tuyến]. Địa chỉ: thanh-toan-190246.html 15. Nguyễn Quốc Đại Trường An (2018). Tài chính toàn diện: Tổng quan và định hướng phát triển tại Việt Nam. Chuyên san Kinh tế Tài chính Ngân hàng. Đại học Kinh tế Luận số 16. 16. Phạm Thị Hồng Vân và các tác giả (2018). Kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số quốc gia trên thế giới. Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 193. Vnexpress (2017). Ngân hàng Nhà nước: 59% người dân có tài khoản ngân hàng. [Trực tuyến]. Địa chỉ: 34