Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở (Phần 2) - Nguyễn Vinh Hiển

pdf 73 trang Hùng Dũng 02/01/2024 2030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở (Phần 2) - Nguyễn Vinh Hiển", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphuong_phap_ban_tay_nan_bot_trong_day_hoc_cac_mon_khoa_hoc_o.pdf

Nội dung text: Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở (Phần 2) - Nguyễn Vinh Hiển

  1. CHƯƠNG 3 CÁC KỸ THUẬT DẠY HỌC VÀ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG CHO HỌC SINH TRONG PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" 3.1. Tổ chức lớp học 3.1.1. Bố trí vật dụng trong lớp học Thực hiện dạy học khoa học theo phương pháp BTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy nếu muốn tiện lợi cho việc tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học nên được sắp xếp bàn ghế theo nhóm cố định. Nếu được như vậy thì giáo viên đỡ mất thời gian sắp xếp bàn ghế mỗi khi thực hiện hoạt động nhóm cho học sinh. Tuy nhiên đa số các phòng học tại Việt Nam đều được sắp xếp theo dãy truyền thống, vì vậy bắt buộc giáo viên phải tổ chức lại bàn ghế trong lớp học theo nhóm nếu muốn tổ chức giảng dạy theo phương pháp BTNB. Đối với những trường có điều kiện, nhà trường nên tổ chức một phòng học đa phương tiện, với bàn ghế sắp xếp theo hướng tiện lợi cho hoạt động nhóm. Sau đây là một số gợi ý để giáo viên sắp xếp bàn ghế, vật dụng trong lớp học phù hợp với hoạt động nhóm: 58
  2. - Các nhóm bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng học sinh trong lớp; - Cần chú ý đến hướng ngồi của các học sinh sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy rõ thông tin trên bảng; - Giáo viên nên lưu ý đối với các học sinh bị các tật quang học ở mắt như cận thị, loạn thị để bố trí cho các em ngồi với tầm nhìn không quá xa bảng chính, màn hình máy chiếu projector, máy chiếu qua đầu (overhead); - Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật, tạo điều kiện đi lại dễ dàng cho học sinh khi lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết; - Chú ý đảm bảo ánh sáng cho học sinh; - Đối với những bài học có làm thí nghiệm thì giáo viên cần có chỗ để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh. Không nên để sẵn các vật dụng thí nghiệm lên bàn của học sinh trước khi dạy học vì nhiều học sinh quá hiếu động, không chịu nghe lời dặn của giáo viên, có thể sẽ mất tập trung vì mải nghịch các vật dụng trên bàn. Một lý do nữa đó là sẽ làm lộ ý đồ dạy học của giáo viên khi giáo viên muốn học sinh tự đề xuất thí nghiệm nghiên cứu. Cũng với các lý do nói trên mà giáo viên nên thu hồi các đồ dùng dạy học không cần thiết (sau khi đã sử dụng xong cho mục đích dạy học và chuyển nội dung dạy học); - Mỗi lớp học nên có một tủ đựng đồ dùng dạy học cố định (kính lúp, tranh ảnh, mô hình, cân, bơm tay, kéo cắt giấy ). Nếu có điều kiện để thực hiện gợi ý này, giáo viên sẽ không phải vất vả di chuyển đồ dùng dạy học mỗi khi thực hiện tiết dạy. Nếu không làm được như gợi ý trên, giáo viên có thể để các đồ dùng dạy học ở phòng bộ môn hoặc phòng thiết bị. Giáo viên có thể nhờ học sinh giúp mình để di chuyển các đồ dùng dạy học trong trường hợp lớp đông và đồ dùng dạy học nhiều. Cần nhắc nhở học sinh cẩn thận khi di chuyển đồ dùng dạy học, chỉ nên cho học sinh mang các đồ vật nhẹ, không dễ vỡ, 59
  3. hư hỏng vì độ tuổi của các em chưa đủ để điều khiển tốt các hoạt động hành vi của mình; - Một số trường hợp có phòng học bộ môn hoặc phòng học đặc biệt thì nên bố trí các vật dụng theo yêu cầu trong phòng này để tiện lợi cho việc dạy học của giáo viên và học sinh; - Chú ý sắp xếp bàn ghế không nên gập ghềnh vì gây khó khăn cho học sinh khi làm một số thí nghiệm cần sự cân bằng hoặc gây khó khăn khi viết. 3.1.2. Không khí làm việc trong lớp học Phương pháp BTNB khuyến khích học sinh xây dựng kiến thức thông qua làm việc chung, tiến hành thử nghiệm, chia sẻ ý tưởng, khác với một số phương pháp dạy học giáo viên luôn bận tâm với việc học sinh cần phải đưa ra câu trả lời đúng. Để có một bầu không khí học tập sôi nổi trong lớp, giáo viên cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa các học sinh trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngợi quá mức một vài học sinh nào đó hoặc để cho các học sinh khá, giỏi trong lớp luôn làm thay công việc của cả nhóm, trả lời tất cả các câu hỏi nêu ra mà không tạo cơ hội làm việc cho các học sinh khác. Giáo viên cần phải chú ý và bao quát lớp học, khuyến khích các học sinh có ý tưởng tốt nhưng rụt rè không dám trình bày. Một không khí làm việc tốt trong dạy học theo phương pháp BTNB có hiệu quả là giáo viên tạo được sự thoải mái cho tất cả các học sinh, việc học không trở nên là một điều gì đó quá căng thẳng, các học sinh có thể tham gia và ham thích các hoạt động dạy học được giáo viên tổ chức trong lớp như: thực hiện thí nghiệm, suy nghĩ, thảo luận, trao đổi, trình bày bằng lời nói hay viết 3.2. Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu Biểu tượng ban đầu của học sinh thường là quan niệm hay khái quát chung chung về sự vật hiện tượng, có thể sai hoặc chưa thực sự 60
  4. chính xác về mặt khoa học. Vì là lần đầu tiên được hỏi đến nên học sinh ngại nói, sợ sai và sợ bị chê cười. Do đó giáo viên cần khuyến khích học sinh trình bày ý kiến của mình. Cần biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy. Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân nên giáo viên phải đề nghị học sinh làm việc cá nhân để trình bày biểu tượng ban đầu. Nếu một vài học sinh nào đó nêu ý kiến đúng, giáo viên không nên vội vàng khen ngợi hoặc có những biểu hiện chứng tỏ ý kiến đó là đúng vì nếu làm như vậy giáo viên đã vô tình làm ức chế các học sinh khác tiếp tục muốn trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu của học sinh càng đa dạng, phong phú, càng sai lệnh với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi, thú vị, gây hứng thú cho học sinh và ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện hơn. Khi học sinh làm việc cá nhân để đưa ra biểu tượng ban đầu bằng cách viết hay vẽ ra giấy thì giáo viên nên tranh thủ đi một vòng quan sát và chọn nhanh những biểu tượng ban đầu không chính xác, sai lệnh lớn với kiến thức khoa học. Nên chọn nhiều biểu tượng ban đầu khác nhau để đối chiếu, so sánh ở bước tiếp theo của tiến trình phương pháp. Làm tương tự khi học sinh nêu biểu tượng ban đầu bằng lời nói. Giáo viên tranh thủ ghi chú những ý kiến khác nhau lên bảng. Những ý kiến tương đồng nhau thì chỉ nên ghi lên bảng một ý kiến đại diện vì nếu ghi hết sẽ rất mất thời gian và ghi nhiều sẽ gây khó khăn việc theo dõi các ý kiến khác nhau của giáo viên cũng như của học sinh. Sau khi có các biểu tượng ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ dạy học, giáo viên giúp học sinh phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn cho học sinh đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó. 3.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh Dạy học theo phương pháp BTNB chú trọng nhiều đến hoạt động thảo luận của học sinh vì như đã nói ở trên hoạt động tìm tòi - 61
  5. nghiên cứu để xây dựng kiến thức mới của học sinh là kết quả của hoạt động hợp tác. Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết nối với nhau bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. Học sinh cần được khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của mình trước các học sinh khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các học sinh trong lớp đối chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của lớp học. Thảo luận được thực hiện ở nhiều thời điểm trong dạy học bằng phương pháp BTNB, có thể là thảo luận để bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh, có thể là thảo luận để đề xuất câu hỏi, đề xuất thí nghiệm hay cũng có thể để rút ra kết luận sau một thí nghiệm hay rút ra kết luận kiến thức cho bài học. Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp BTNB: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm lớn (toàn bộ lớp học). Thảo luận nhóm nhỏ tạo điều kiện cho các học sinh đều có cơ hội trình bày ý tưởng của mình. Tuy nhiên, thảo luận nhóm nhỏ lại không yêu cầu cao đối với học sinh trong việc trình bày. Trong mức độ thảo luận này, các học sinh có thể tự do trình bày ý kiến với các thành viên của nhóm. Học sinh mạnh dạn hơn vì ý kiến được trình bày trong một cộng đồng nhỏ. Thảo luận theo nhóm lớn (toàn bộ lớp học) có thể được tổ chức sau khi thực hiện thảo luận theo nhóm nhỏ, các nhóm cử đại diện nhóm trình bày hoặc được tổ chức sau khi cho học sinh làm việc cá nhân (đối với những câu hỏi ngắn hoặc những công việc không cần thiết phải thực hiện hoạt động nhóm nhỏ trước đó). Cần phân biệt rõ thảo luận theo truyền thống trong một số phương pháp dạy học và thảo luận trong phương pháp BTNB. Thảo luận truyền thống được thực hiện bằng cách giáo viên đặt câu hỏi, lựa chọn một học sinh trả lời, sau đó nhận xét đúng hay sai trước khi chuyển sang một câu hỏi mới hoặc chuyển sang một học sinh khác 62
  6. cũng với câu hỏi đó. Thảo luận trong phương pháp BTNB hoàn toàn khác biệt vì được thực hiện bằng sự tương tác giữa các học sinh với nhau, có nghĩa là phần trả lời của học sinh sau bổ sung cho học sinh trước, hoặc đặt câu hỏi đối với ý kiến trước; hoặc trình bày một quan điểm mới; hoặc đưa ra tranh cãi ý kiến của nhóm mình. Cần thiết phải dành thời gian để rèn luyện các kỹ năng này của học sinh vì thảo luận theo hình thức này giúp rèn luyện ngôn ngữ nói cho học sinh rất hiệu quả. Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của học sinh trong lớp học, ngoài việc tổ chức dạy học thoải mái, không gò bó, tạo một không khí làm việc tốt cho học sinh, giáo viên cần chú ý đến một số gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động của lớp học được thành công: - Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt động nhóm cho học sinh. - Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ việc thành lập nhóm làm việc (nhóm nhiều người hay nhóm hai người), nội dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo viên càng rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện đúng yêu cầu. Không nên đưa ra các lệnh chung chung như "Bây giờ các em thảo luận theo nhóm đi" - Khi học sinh thảo luận, cần để không khí lớp học sôi nổi, tất nhiên không có nghĩa là ồn ào và lộn xộn. Nhắc nhở học sinh trao đổi, thảo luận vừa nghe trong nhóm (đối với thảo luận nhóm nhỏ). - Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với tốc độ nhanh bởi có nhiều ý kiến của các học sinh khá, giỏi, giáo viên nên làm chậm tốc độ thảo luận lại để các học sinh có năng lực yếu hơn có thể tham gia. Tất nhiên việc làm chậm lại tùy thuộc vào thời gian của tiết học. - Giáo viên nên để một thời gian ngắn (5-10 phút) cho học sinh suy nghĩ trước khi trả lời để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt các ý tưởng, lập luận, câu chữ. Khoảng thời gian này có thể giúp học sinh 63
  7. xoáy sâu thêm suy nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa ra các ý tưởng mới. - Nếu quan sát thấy một học sinh nào đó còn rụt rè chưa muốn nêu ý kiến, mặc dù giáo viên cảm nhận được em này đang muốn nói, giáo viên cần khuyến khích thậm chí chỉ định để học sinh này mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình. Giáo viên cũng nên phân tích cho học sinh hiểu là cần phải nêu ý kiến cá nhân của mình để người khác được biết, thông qua đó mọi người có thể so sánh với ý kiến của mình để cùng tranh luận xây dựng kiến thức. Một số gợi ý giúp cho giáo viên phát hiện học sinh biết hoặc có ý kiến nhưng rụt rè không muốn phát biểu là: học sinh đang nghe người khác trình bày tỏ vẻ không đồng tình rồi im lặng, hoặc quay sang người bên cạnh bàn luận về ý kiến của người đang nói, hoặc đưa tay xin phát biểu mà không dám đưa cao để giáo viên thấy (những nhận biết này tùy theo kinh nghiệm của giáo viên trong quá trình dạy học). Muốn làm được điều này bắt buộc giáo viên phải quan sát tinh tế, bao quát lớp. - Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và chọn nhóm có ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước để gây mâu thuẫn, kích thích các nhóm khác có ý kiến chính xác hơn phát biểu bổ sung. Để tránh mất thời gian khi các nhóm có ý kiến bổ sung lặp lại ý kiến nhóm trước, giáo viên yêu cầu các nhóm tiếp theo chỉ bổ sung ý kiến khác biệt hoặc bổ sung thêm những ý còn thiếu, làm rõ những ý chưa rõ ràng. Công việc này được thực hiện tương tự đối với thảo luận chung cả lớp với từng ý kiến cá nhân mà không phải ý kiến chung của cả nhóm. - Khi học sinh trình bày ý kiến chưa đúng, giáo viên không nên chê bai hoặc nhận xét tiêu cực để tránh sự rụt rè, xấu hổ của học sinh. Những nhận xét tiêu cực không đúng thời điểm và nhất là khi học sinh trình bày trước tập thể lớp sẽ phản tác dụng giáo dục, gây bất lợi cho quá trình dạy học, vì sau đó học sinh ngại không chịu phát biểu hoặc phát biểu miễn cưỡng khi được yêu cầu, gây không khí nặng nề cho lớp học. Như đã nói ở trên, ý đồ dạy học theo phương pháp BTNB sẽ thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó 64
  8. giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay nhận xét đúng hay sai mà được xuất phát khách quan qua các thí nghiệm nghiên cứu. Ví dụ: Khi úp cốc thuỷ tinh lên ngọn nến đang cháy, có học sinh cho rằng nến vẫn tiếp tục cháy bình thường, có học sinh nói ngọn nến sẽ tắt ngay lập tức, ý kiến khác lại cho rằng ngọn nến tiếp tục cháy một thời gian ngắn rồi tắt. Lúc đó giáo viên không nên nhận xét ngay học sinh nào có ý kiến đúng mà yêu cầu các em làm thí nghiệm. Khi thực hiện thí nghiệm, chính học sinh sẽ rút ra kết luận và đối chiếu với ý kiến ban đầu của mình để nhận thấy mình đúng hay sai. - Khi một học sinh có ý kiến ngây ngô, gây cười cho cả lớp hoặc một bộ phận học sinh, giáo viên nên chấn chỉnh mà phân tích cho học sinh thấy rằng cần phải tôn trọng ý kiến của người khác. Việc chấn chỉnh này nên thựa hiện một cách nhẹ nhàng ví dụ như: "Các em không nên cười ý kiến của bạn, cần tôn trọng lắng nghe ý kiến của người khác. Mà hiện tại chúng ta cũng đã biết các ý kiến được trình bày là đúng hay sai đâu? Vậy em A có ý kiến gì khác về vấn đề này?" - Khi trả lời hoặc nêu ý kiến cá nhân, đa số học sinh có thói quen nhìn vào giáo viên và hướng phần trả lời của mình vào giáo viên. Giáo viên chú ý nên nhắc nhở nhẹ nhàng để học sinh biết là mình đang thảo luận với các bạn trong lớp chứ không phải đang thảo luận với giáo viên. Một số câu nhắc nhở mà giáo viên có thể sử dụng như: "B à, em đang thảo luận với bạn A chứ không phải với Cô (Thầy)"; "Bạn C đang muốn đặt câu hỏi cho em đấy!"; "D, em nghĩ gì về ý kiến của bạn E"; "H, em có bổ sung gì thêm cho ý kiến của bạn K không?" - Như đã nói ở trên, vai trò của giáo viên trong phương pháp BTNB, cũng giống như đối với các phương pháp dạy học tích cực khác, đó là hướng dẫn. Người giáo viên không phải là trung tâm của quá trình dạy học, chỉ nói và đặt câu hỏi mà ngược lại, giáo viên nên nói ít cũng như hạn chế đưa ra những câu trả lời chuẩn xác cho học sinh. Điều quan trọng ở đây là giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo 65
  9. luận, giúp các em tìm thấy sự thống nhất ý kiến và khuyến khích học sinh thảo luận tích cực. - Khi học sinh bế tắc trong thảo luận, giáo viên có thể gợi ý thêm bằng các câu hỏi gợi ý hoặc những câu khẳng định mang tính chất dẫn dắt để học sinh chú ý đến những dữ liệu, thông tin, đặc điểm liên quan đến việc tìm ra câu trả lời. Ví dụ: "Chúng ta hãy nhìn vào những số liệu này "; "Các em để ý ở "; "Các em hãy thử " - Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học. - Trong quá trình thảo luận mở theo tinh thần phương pháp BTNB, học sinh có thể sẽ đặt ra các câu hỏi khó, vượt ngoài tầm kiến thức trong chương trình hoặc những câu hỏi mà với những thí nghiệm thực hiện không thể tìm ra câu trả lời hay chứng minh; thậm chí đôi khi giáo viên gặp những câu hỏi khó vượt khả năng kiến thức của mình để trả lời cho học sinh. Cách giải quyết khi điều khiển thảo luận là giáo viên nên ghi lại những câu hỏi trên bảng, có thể sắp xếp theo một tiêu chí nào đó tùy theo mục đích dạy học hoặc phân thành hai nhóm: nhóm câu hỏi có thể trả lời qua việc thực hiện thí nghiệm, tìm tòi - nghiên cứu của học sinh và nhóm câu hỏi không thể tìm thấy câu trả lời qua các thí nghiệm, học sinh sẽ tìm được câu trả lời từ giáo viên, từ các nhà khoa học, từ sách báo, tài liệu hoặc từ Internet. Đối với những câu hỏi vượt ngoài tầm kiến thức của chương trình, giáo viên nên giải thích với học sinh "Câu hỏi này rất thú vị nhưng ở chương trình năm nay chúng ta chưa học, chúng ta sẽ tìm hiểu nó vào năm lớp "; "Câu hỏi này rất thông minh nhưng các thí nghiệm đơn giản trong lớp học này chúng ta không thể làm thí nghiệm để chứng minh nó được, sau này khi học lên những bậc học cao hơn, có điều kiện các em sẽ được tìm hiểu thêm" Khi giáo viên gặp câu hỏi khó, vượt ngoài sự hiểu biết của mình, không thể trả lời ngay cho học sinh thì nên nói nhẹ nhàng như: "Câu hỏi này rất hay, Cô (Thầy) cũng chưa biết phải trả lời thế nào nhưng chúng ta sẽ cố gắng cùng nhau tìm hiểu"; "Đây là câu hỏi khó, trong thời gian ở lớp, chúng ta dành để tập trung giải quyết các vấn đề 66
  10. đơn giản trước. Vấn đề này cô (thầy) sẽ tìm hiểu và chúng ta sẽ trở lại với nó trong những tiết học sau" Sau khi thông báo như vậy, giáo viên phải ghi chú lại để tìm hiểu và trả lời cho một học sinh ở một dịp khác. Tuyệt đối không nên nói cho qua chuyện và quên lời hứa vì làm như vậy học sinh sẽ mất lòng tin ở giáo viên, gây tác dụng không tốt trong giáo dục. 3.4. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Muốn tổ chức tốt hoạt động nhóm cần tập cho học sinh làm quen dần dần qua nhiều tiết học, nhiều môn học. Khi học sinh đã quen với kiểu hoạt động này thì việc thực hiện hoạt động nhóm của giáo viên sẽ thuận lợi hơn. Kỹ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở nhiều phương pháp dạy học khác, không phải một đặc trưng của phương pháp BTNB. Tuy nhiên trong việc dạy học theo phương pháp BTNB, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều và thông qua đó giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc khoa học, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh mà chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn trong phần nói và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh. Mỗi nhóm không được quá nhiều học sinh vì khi số lượng đông sẽ có một số học sinh không có cơ hội làm việc nếu các học sinh này rụt rè hoặc một số học sinh sẽ không chịu làm việc do chây lười. Nhóm làm việc lý tưởng là từ 4 đến 6 học sinh. Trong một số trường hợp giáo viên có thể thực hiện nhóm làm việc hai học sinh khi không cần phải thảo luận nhiều hoặc những hoạt động chỉ cần hai người là đủ. Ví dụ: cho từng cặp hai học sinh làm việc theo nhóm 2 người co duỗi tay và sờ nắn vào cánh tay lẫn nhau để cảm nhận điều gì đang xảy ra trong cánh tay cử động. Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng và một thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần trình bày ra giấy (viết lên áp-phích) của nhóm. Nhóm trưởng sẽ là người đại diện cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình. Việc của nhóm trưởng hay thư kí là do nhóm học sinh tự định đoạt. Giáo viên không nên can thiệp sâu vào vấn đề tổ chức nhóm này 67
  11. của học sinh. Tuy nhiên, qua nhiều tiết dạy khác nhau, giáo viên nên yêu cầu các học sinh trong nhóm thay đổi, luân phiên nhau làm nhóm trưởng, làm thư ký để các em tập trình bày (bằng lời hay viết). Giáo viên cần phân tích cho học sinh hiểu không nhất thiết cứ luôn luôn phải cử học sinh khá giỏi làm trưởng nhóm. Vì nếu làm như vậy, phần lớn hoạt động của nhóm sẽ chủ yếu là hoạt động của cá nhân học sinh này trong trường hợp các học sinh khác của nhóm có trình độ yếu hơn học sinh làm trưởng nhóm. Tuy nhiên, lúc đầu mới cho học sinh làm quen với hoạt động nhóm thì giáo viên nên đề nghị nhóm chọn các học sinh khá, giỏi làm nhóm trưởng, thư ký để thực hiện thành công mục đích dạy học và làm mẫu cho học sinh khác theo dõi cách trình bày, diễn giải Nhất thiết phải có nhóm trưởng (người đại diện nhóm) để trình bày phần thảo luận của nhóm trước lớp nhưng không nhất thiết nhóm phải có thư ký. Có thể nhóm trưởng vừa kiêm công việc của một thư ký. Nói chung là trong trường hợp này không có quy tắc nào cho việc tổ chức nhân sự của nhóm. Mấu chốt quan trọng nhất là các học sinh trong nhóm cần làm việc tích cực với nhau, trao đổi, thảo luận sôi nổi, các học sinh tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết lắng nghe, tạo cơ hội cho tất cả mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, biết chia sẻ đồ dùng thí nghiệm, biết tóm tắt các ý kiến thống nhất của nhóm, các ý kiến chưa thống nhất, có đại diện trình bày ý kiến chung của nhóm sau thảo luận trước tập thể lớp là một nhóm hoạt động đúng yêu cầu. Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên nên di chuyển đến các nhóm, tranh thủ quan sát hoạt động của các nhóm. Giáo viên không nên đứng một chỗ trên bàn giáo viên hoặc bục giảng để quan sát lớp học. Việc di chuyển của giáo viên có hai mục đích cơ bản: quan sát bao quát lớp, làm cho học sinh hoạt động nghiêm túc hơn vì có giáo viên tới; kịp thời phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc tranh thủ chọn ý kiến kém chính xác nhất của một nhóm nào đó để yêu cầu trình bày đầu tiên trong phần thảo luận, cũng như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào đó chính xác nhất để yêu cầu trình bày sau cùng. 68
  12. Trong quá trình quan sát, khi phát hiện nhóm nào đó thực hiện sai lệnh thì giáo viên chỉ nên nói nhỏ, đủ nghe cho nhóm đó để điều chỉnh lại hoạt động, không nên nói to làm ảnh hưởng và phân tán sự chú ý của các nhóm khác (các nhóm làm đúng theo lệnh). Gợi ý về cách sắp xếp bàn ghế, vật dụng để tổ chức hoạt động nhóm xem mục 1.1 - Chương 3: "Bố trí vật dụng trong lớp học". 3.5. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên Trong dạy học theo phương pháp BTNB, câu hỏi của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của của phương pháp và thực hiện tốt ý đồ dạy học. Câu hỏi của giáo viên có thể là câu hỏi cho từng cá nhân học sinh, câu hỏi cho từng nhóm (khi đại diện các nhóm trình bày ý kiến, hoặc khi giáo viên gợi ý thảo luận cho từng nhóm), câu hỏi chung cho cả lớp. Câu hỏi "tốt" có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của mình, và làm tiến trình dạy học đi đúng hướng. Trong cuốn sách Wynne Haden "Enseigner les sciences comment faire?" (Dạy khoa học, làm thế nào?) đã khẳng định: Một câu hỏi tốt là bước đầu tiên của câu trả lời; đó là một vấn đề đặt ra mà trong đó đã tồn tại phương án giải quyết. Một câu hỏi tốt là một câu hỏi kích thích, một lời mời đến sự kiểm tra chăm chú nhiều hơn, một lời mời đến một thí nghiệm mới hay một bài tập mới Người ta gọi những câu hỏi này là câu hỏi "mở" vì nó kích thích một "hành động mở". Các câu hỏi "mở" khuyến khích học sinh suy nghĩ tới những câu hỏi riêng của học sinh và phương án trả lời những câu hỏi đó. Các câu hỏi dạng này cũng mang đến cho nhóm một công việc và một sự lập luận sâu hơn. Các câu hỏi "đóng" là các câu hỏi yêu cầu một câu trả lời ngắn. Ví dụ như: Pin là gì? Tên của đồ vật này là gì? Có phải dòng điện chạy từ cực dương sang cực âm hay không? Nói như vậy không có nghĩa là cấm giáo viên không được dùng các câu hỏi "đóng" trong một số trường hợp, nhưng nếu các câu hỏi đặt ra để yêu cầu học sinh suy nghĩ hành động thì cần phải được chuẩn bị tốt và bắt buộc phải là những câu hỏi "mở". 69
  13. 3.4.1. Câu hỏi nêu vấn đề Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay môđun kiến thức. Câu hỏi nêu vấn đề còn được gọi là câu hỏi xuất phát, được hình thành qua tình huống xuất phát (hay còn gọi là tình huống nêu vấn đề). Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề của bài học nhưng cũng đủ "mở" để kích thích sự tự vấn của học sinh. Ví dụ: câu hỏi "Theo các em, cần phải có gì để làm sáng bóng đèn với những viên pin?" không "tốt" bằng câu hỏi "Cái gì làm cho bóng đèn sáng?". Câu hỏi nêu vấn đề thường là câu hỏi nhằm mục đích hình thành biểu tượng ban đầu của học sinh. Giáo viên phải đầu tư suy nghĩ và cẩn trọng trong việc đặt câu hỏi nêu vấn đề vì chất lượng của câu hỏi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo của tiến trình phương pháp và sự thành công của bài học. 3.4.2. Câu hỏi gợi ý Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi "ít mở" hơn hoặc là dạng câu hỏi "đóng". Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của học sinh. Ví dụ: "Đâu là sự khác nhau và giống nhau giữa các sự vật (hiện tượng) này?"; "Vì sao các em nghĩ các kết quả này khác với những thí nghiệm trước?"; "Theo em, điều gì đã xảy ra?"; "Em giải thích điều đó như thế nào?"; "Làm thế nào để chúng ta có thể tin điều đó là đúng?" Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý tùy thuộc vào tình huống xảy ra trong lớp học, xuất phát từ hoạt động học của học sinh (làm thí nghiệm, thảo luận ). Khi đặt câu hỏi gợi ý, giáo viên nên dùng các cụm từ bắt đầu như "Theo các em", "Em nghĩ gì ", "Theo ý em " vì các cụm từ này cho thấy giáo viên không yêu cầu học sinh đưa ra một câu trả lời chính xác mà chỉ yêu cầu học sinh giải thích ý kiến, đưa ra nhận định 70
  14. của các em mà thôi. Ví dụ đặt câu hỏi "Em nghĩ nó sẽ diễn ra như thế nào?" thay cho câu hỏi " Nó sẽ diễn ra như thế nào?" 3.4.3. Một số lưu ý khi đặt câu hỏi cho học sinh - Khi đặt câu hỏi nên để một thời gian ngắn cho học sinh suy nghĩ hoặc có thời gian trao đổi nhanh với các học sinh khác, từ đó giúp học sinh tự tin hơn khi trình bày và trình bày mạch lạc hơn khi có thời gian chuẩn bị; - Tuyệt đối ko được gọi tên học sinh sau đó mới đặt câu hỏi; - Khi nêu câu hỏi, giáo viên cần nói to, rõ. Nếu trường hợp học sinh chưa nghe rõ câu hỏi thì phải nhắc lại, tuy nhiên không nên nhắc lại nhiều lần vì làm như vậy sẽ làm phân tán học sinh (cắt tạm thời suy nghĩ của học sinh) do học sinh tưởng rằng giáo viên đưa ra câu hỏi mới. - Câu hỏi không nên quá dài vì như vậy học sinh sẽ không thể nắm bắt yêu cầu của câu hỏi. - Đối với các câu hỏi gợi ý, giáo viên nên đặt câu hỏi ngắn, yêu cầu trong một phạm vi hẹp mà mình muốn gợi ý cho học sinh. Nếu là những câu hỏi gợi ý cho một nhóm khi các học sinh đang thảo luận thì chỉ nên hỏi với một âm lượng vừa đủ cho nhóm này nghe để tránh phân tán suy nghĩ của các nhóm khác không liên quan. - Trong khi điều khiển tiết học, nếu giáo viên đặt câu hỏi mà học sinh không hiểu, hiểu sai ý hoặc câu hỏi dẫn đến nhiều cách nghĩ khác nhau, giáo viên nhất thiết phải đặt lại câu hỏi cho phù hợp. Tuyệt đối không được cố chấp tiến tới vì làm như vậy sẽ phá vỡ hoàn toàn ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo. - Để thuần thục trong việc đặt câu hỏi và có những câu hỏi "tốt", đặc biệt là câu hỏi nêu vấn đề, giáo viên phải rèn luyện, chuẩn bị kỹ những câu hỏi có thể đề xuất cho học sinh. Giáo viên nên làm việc, trao đổi, thảo luận với các giáo viên khác cùng trường hoặc đồng nghiệp khác trường nhưng dạy cùng khối lớp để tham khảo ý kiến đặt câu hỏi. Làm như vậy sẽ tốt hơn việc giáo viên tự suy nghĩ câu hỏi vì có thể do chủ quan mà giáo viên không đánh giá được chất lượng câu 71
  15. hỏi mình đặt ra. Khi đồng nghiệp lắng nghe và góp ý, giáo viên sẽ có thể điều chỉnh câu hỏi cho phù hợp và hay hơn. - Thông qua quá trình dạy học, giáo viên có thể rút ra kinh nghiệm trong việc đặt câu hỏi. Giáo viên nên ghi chú lại câu hỏi "tốt", định hướng rõ ràng cho học sinh và thực hiện thành công trong các tiết học để làm tài liệu giảmg dạy cho riêng mình hoặc chia sẻ cho các giáo viên khác. 3.6. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp BTNB Mặc dù phương pháp Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học dựa trên thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, nhưng ngoài việc làm thí nghiệm, khám phá kiến thức, học sinh cần được chú ý rèn luyện ngôn ngữ nói và viết. Đây là một đặc điểm quan trọng của phương pháp và cũng là một nhiệm vụ quan trọng trong dạy học ở bậc tiểu học, khi mà học sinh đang trong quá trình phát triển ngôn ngữ. Vấn đề rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh được phân thành hai mảng chính đó là rèn luyện ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Theo suy nghĩ bình thường, chúng ta cho rằng việc ghi chép của học sinh được thực hiện sau khi nghe giảng nhằm mục đích ghi lại rõ ràng và chính xác thông tin thu nhận được, lưu giữ tóm tắt bài học để học lại ở nhà. Chính vì suy nghĩ này nên chúng ta cho rằng phần ghi chép của học sinh phải là phần tóm tắt kiến thức được thực hiện bởi giáo viên hoặc là tổng hợp kiến thức sau khi cả lớp thảo luận với ý kiến đồng thuận của cả tập thể. Nhưng điều đó đã vô hình làm giảm đi tác dụng của việc rèn luyện ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cho học sinh. Ngay từ khi học sinh làm việc theo nhóm nhỏ 2 hoặc 4 người, sự trao đổi được thực hiện dựa trên ý kiến đồng thuận cũng như ý kiến khác biệt của các thành viên trong nhóm. Chính những sự khác biệt đã thúc đẩy học sinh tìm hướng giải quyết, nghiên cứu, tìm tòi để bảo vệ ý kiến của mình. Việc ghi chép trong khi thảo luận, làm việc nhóm cũng chính là nghiên cứu, làm minh bạch những ý tưởng, để suy đoán 72
  16. các giả thuyết. Học sinh có thể viết vào vở thí nghiệm những gì các em sẽ làm, những gì các em dự đoán sẽ diễn ra trong các thí nghiệm Phần viết này không phải để lưu giữ mà viết như vậy là để suy nghĩ. Chính vì vậy trong phương pháp BTNB, cần chú trọng việc sử dụng vở thí nghiệm trong dạy học khoa học mà chúng ta đã đề cập đến vấn đề này ở trên. Dạy học theo phương pháp BTNB là sự hòa quyện 3 phần gần như tương đương nhau đó là thí nghiệm, nói và viết. Học sinh không thể làm thí nghiệm mà không suy nghĩ và các em thể hiện suy nghĩ bằng cách thảo luận (nói) hoặc viết. Vấn đề của học sinh trong quá trình học được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau để xây dựng kiến thức: có thể là viết tóm tắt, ghi chú nhanh các ý kiến của các học sinh khác, những ý kiến nhanh của một vấn đề, một câu hỏi, hoặc ghi chú, mô tả lại hướng giải quyết, những đề xuất thí nghiệm cần phải làm, ghi chú lại phần tổng kết của cả lớp sau khi thảo luận, ghi chú lại phần tóm tắt của giáo viên. Học sinh không chỉ viết, ghi chú bằng lời văn mà có thể thay thế bằng biểu đồ, bằng hình vẽ, bằng các sơ đồ. Vấn đề này cần được khuyến khích trong dạy học khoa học. Nhiều vấn đề khi trình bày bằng sơ đồ, hình vẽ hay biểu đồ lại rõ ràng, minh bạch hơn việc trình bày bằng lời. Như vậy có thể hiểu việc rèn luyện ngôn ngữ viết cho học sinh trong dạy học khoa học theo phương pháp BTNB cũng bao gồm việc trình bày thông tin một cách khoa học thông qua các sơ đồ, biểu đồ, hình vẽ khoa học ngoài việc trình bày bằng lời văn. Thông qua việc viết, học sinh học cách mô tả, trình bày ý tưởng của mình. Viết biểu diễn suy nghĩ của cá nhân học sinh trước một vấn đề đặt ra và đó là một phương tiện giao tiếp ý tưởng của mình với các học sinh khác, là bằng chứng để trao đổi, thảo luận với các học sinh khác. Thực hiện viết nhiều cấp độ khác nhau, nhiều lần khác nhau trong một tiết học và nhiều tiết học khác nhau trong suốt quá trình dài sẽ giúp học sinh học được cách diễn đạt ý tưởng, mô tả hiệu quả hơn suy nghĩ của mình. Từ đó học sinh chủ động và thuần thục hơn trong sử dụng vốn từ ngữ, thuật ngữ khoa học, khái niệm mà học sinh thu 73
  17. nhận được qua quá trình học tập khoa học. Sự tiến bộ này cũng là một thước đo về việc hiểu, thể hiện năng lực tiếp thu kiến thức đã được học của học sinh. Càng làm thí nghiệm nhiều, học sinh càng hiểu sâu những vấn đề mà học sinh nghiên cứu, quan sát và qua đó học sinh càng có năng lực mô tả chính xác hơn, hiệu quả hơn suy nghĩ, ý tưởng của mình. Một vấn đề cần làm rõ ở đây là giáo viên không rèn luyện cho học sinh nói và viết quá ngắn. giáo viên phải phân biệt rõ các cấp độ biểu hiện ngôn ngữ của học sinh. Ví dụ khi cần ghi chú nhanh thì học sinh có thể viết ngắn gọn bằng các từ quan trọng để kịp thời gian cho phép nhưng khi cần phải biểu diễn các ý tưởng rõ ràng, hay các thông địêp để trao đổi với học sinh khác thì học sinh phải viết rõ ràng bằng các câu đầy đủ, ít nhất cũng đủ để học sinh khác hay giáo viên đọc và hiểu được ý của thông điệp đó nói gì. Việc rèn luyện cho học sinh viết các câu đầy đủ được thực hiện thông qua viết áp-phích của các nhóm, ghi chép các ý tưởng của học sinh lên bảng khi thảo luận hay thông qua kết luận kiến thức. Thông qua nhiều hoạt động trong các tiết học, học sinh có cơ hội để thể hiện các phần viết của mình. Thông qua việc viết, học sinh cũng được rèn luyện về cách trình bày lôgic, sắp xếp hợp lý các ý tưởng, lý luận của mình. Sự thành công của việc rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh là giúp cho học sinh kết hợp thuần thục sự thể hiện ngôn ngữ và suy nghĩ. Học sinh suy nghĩ một cách lôgic các sự vật, hiện tượng sẽ thể hiện qua việc trình bày các ý tưởng một cách lôgic, hợp lý và ngược lại. Từ việc học khoa học hàng ngày thông qua thảo luận, viết trên các áp-phích, vở thí nghiệm, mỗi học sinh không chỉ học được các kiến thức mà còn được rèn luyện về mặt ngôn ngữ. Dần dần học sinh sẽ sử dụng tốt hơn vốn từ ngữ, cách đặt câu được chuẩn xác hơn, các lý lẽ được trình bày lôgic hơn, phức tạp hơn; mô tả cũng rõ ràng hơn. Học sinh sẽ không thấy gò bó khi diễn đạt bằng lời nói đối với người khác, hiểu hơn về sự cần thiết phải làm phong phú cách trình bày để 74
  18. biểu đạt tốt hơn ý tưởng, thí nghiệm để người khác dễ hiểu hơn, dễ chấp nhận hơn. 3.5.1. Rèn luyện ngôn ngữ nói Giao tiếp bằng lời là không thể tách rời với các hoạt động tìm tòi - nghiên cứu và có mặt ở mọi thời điểm sao cho học sinh có thể: - Diễn đạt các biểu tượng (ý kiến) của mình, đặt câu hỏi; - Miêu tả các quan sát của mình; - Trao đổi các thông tin; - Tranh luận, bảo vệ các ý kiến của mình. Để tổ chức trong lớp học một sự giao tiếp bằng lời bổ ích, giáo viên phải: - Tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc trao đổi và những cuộc tiếp xúc tập thể mà ở đó học sinh có thể thảo luận với nhau dễ dàng; - Tổ chức (khi hoạt động đã sẵn sàng) hoạt động theo nhóm. 3.5.2. Rèn luyện ngôn ngữ viết Chỉ rõ một thiết bị Dự đoán một kết quả, một sự Hành động lựa chọn thiết bị thí nghiệm Lập kế hoạch nghiên cứu Lưu lại những điều đã quan sát được, những nghiên cứu, Viết cho chính mình bản thân mình nhằm Ghi nhớ những điều đọc được Nhớ lại một hành động trước đó Ghi lại kết quả Tổ chức lại, lựa chọn, cấu trúc Tìm mối quan hệ giữa các bài Hiểu viết Trình bày các bài viết từ những kết luận tập thể 75
  19. Cái mà học sinh đã hiểu, một Truyền đạt kết luận, một bản tổng hợp Giải thích Cho một học sinh khác, cho giáo viên Viết cho những người khác nhằm Cái đã làm Đặt câu hỏi Cái đã hiểu Những đề xuất Tác dụng của các Tác dụng của các Tác dụng của các bài viết cá nhân bài viết của nhóm bài viết tập thể của Tổng hợp Tổ chức theo thứ tự, thiết lập các mối quantoàn hệ l ớp học - Giải thích điều mà - Trao đổi với một - Tổ chức lại học sinh nghĩ nhóm khác, với toàn - Đề xuất các nghiên - Nói về cái học sinh lớp và với lớp khác cứu làm, điều mà học - Đặt câu hỏi về một - Đặt câu hỏi, bằng sinh quan sát được . thiết bị cách dựa trên các bài - Giải thích các kết - Tổ chức lại, viết lại viết khác quả - Thực hiện một trình - Chính xác hóa các - Phát biểu lại các tự về mặt thời gian kiến thức thu nhận kết quả tập thể gắn với một hành được cùng với cách động, một trật tự thức để biểu đạt lôgic gắn với một chúng kiến thức cần nắm bắt 3.5.3. Làm chủ ngôn ngữ 76
  20. Làm chủ được ngôn ngữ là một vấn đề quan trọng trong mục tiêu dạy học đối với các bậc học không chỉ riêng đối với bậc tiểu học. Việc thực hành các hoạt động khoa học ở lớp thông qua phương pháp BTNB góp phần cho việc rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập tại lớp, học sinh có thể học cách tìm kiếm một từ, dạng động từ hay những dạng thức ngôn ngữ cho phép các em trình bày tốt nhất những quan sát của mình. Học sinh cũng học đọc hiểu, tập xây dựng các biểu đồ, các bảng kết quả thu được, các sơ đồ, (các dạng trình bày kết quả nghiên cứu khoa học). Trong bối cảnh thường là đa dạng, do xuất phát từ các hiện tượng tự nhiên và các quan sát chung của học sinh, hoạt động khoa học giúp học sinh vượt qua được những rào cản của ngôn ngữ và các quan niệm truyền thống khác. Nói: Phương pháp BTNB khuyến khích trao đổi bằng ngôn ngữ nói về những quan sát, những giả thuyết, những thí nghiệm và những giải thích. Một số học sinh có khó khăn về ngôn ngữ nói trong một số lĩnh vực nào đó đã phát biểu ý kiến một cách tự giác hơn khi các thao tác trong hoạt động khoa học bắt buộc chúng phải làm việc tập thể và phải đối mặt với các hiện tượng tự nhiên. Tính nghiêm ngặt của phát biểu khoa học, sự đòi hỏi khách quan hóa, hợp thức hóa có thể góp phần hình thành tư tưởng biết phê phán về những phát biểu phi khoa học. Sự tranh luận khoa học cũng có thể tạo thành kiểu tranh luận trong xã hội cả khi bản chất của các kiểu tranh luận đó là khác nhau (đồng thuận khoa học không thể dựa trên bỏ phiếu như các cuộc họp tập thể). Học sinh học cách bảo vệ quan điểm của mình, biết lắng nghe người khác, biết thừa nhận trên cơ sở của lí lẽ, biết làm việc cho mục đích chung của một khuôn khổ nhất định. Viết: Văn phong (lối viết) là cách thức thể hiện ra ngoài những hoạt động suy nghĩ của mình. Nó cũng cho phép giữ lại dấu vết của các thông tin đã thu nhận được, tổng hợp và hình thức hóa để làm nảy sinh ý tưởng mới. Nó cũng làm cho thông báo được dễ dàng tiếp nhận 77
  21. dưới dạng đồ thị vì thông tin đôi khi khó phát biểu và cho phép ghi lại các kết quả tranh luận. Chuyển từ nói sang viết: Chuyển từ một cách thức thông báo này sang một cách thức thông báo khác là một giai đoạn quan trọng. Phương pháp BTNB đề nghị dành một thời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể những câu thuật lại các kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các cách thức viết khác nhau. 3.7. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh Trong các tiết học theo phương pháp BTNB, giáo viên cần nhanh chóng nắm bắt ý kiến phát biểu của từng học sinh và phân loại các ý tưởng đó để thực hiện ý đồ dạy học. Ý kiến phát biểu của học sinh rất đa dạng, đặc biệt là đối với các kiến thức phức tạp. Để thuần thục trong việc chọn ý tưởng và nhóm ý tưởng của học sinh thì giáo viên cần phải rèn luyện nhiều qua các tiết dạy để nâng cao kỹ năng sư phạm của bản thân. Nắm bắt nhanh ý tưởng và phân loại ý tưởng để từ đó điều khiển lớp học đi đúng ý đồ dạy học đóng vai trò quan trọng trong sự thành công về mặt sư phạm của giáo viên. Khi chọn ý tưởng và nhóm ý tưởng của học sinh giáo viên cần chú ý những điểm sau: - Cho học sinh phát biểu ý kiến tự do và tuyệt đối không nhận xét đúng hay sai các ý kiến đó ngay sau khi học sinh phát biểu. - Khi một học sinh nào đó đã nêu ý kiến thì giáo viên yêu cầu học sinh khác trình bày các ý kiến khác hay bổ sung cho ý kiến mà học sinh trước đã trình bày. Làm như vậy để tránh mất thời gian vào những ý kiến phát biểu giống nhau (ý tưởng giống nhau). - Đối với những ý tưởng phức tạp hay có nhiều ý kiến khác biệt, giáo viên nên ghi chú lại ở một góc trên bảng để học sinh dễ theo dõi. Khi ghi chú những ý kiến nào cùng chung ý thì viết gần nhau để tiện cho việc nhận xét của học sinh. - Đối với những biểu tượng ban đầu được học sinh trình bày bằng hình vẽ, sơ đồ thì giáo viên quan sát và chọn một số hình vẽ tiêu biểu, có những điểm sai lệch nhau rõ rệt để dán lên bảng, giúp học sinh dễ so sánh, nhận xét. Để tiến hành nhanh và tránh mất thời gian, 78
  22. trong khi học sinh thực hiện lệnh (vẽ hình, sơ đồ ) giáo viên tranh thủ di chuyển, bao quát lớp để tìm những ý tưởng tiêu biểu. - Đối với những ý tưởng (biểu tượng ban đầu) được học sinh trình bày dưới dạng mô tả bằng cách viết vào vở thí nghiệm thì giáo viên cũng thực hiện tương tự như trên, tranh thủ bao quát lớp, ghi nhớ những học sinh có ý tưởng tiêu biểu để có thể yêu cầu các học sinh này trình bày ý kiến khi kết thúc thời gian làm việc cá nhân (đối với việc thảo luận nhóm thì việc lọc ý tưởng của các nhóm cũng thực hiện tương tự). Khi yêu cầu học sinh trình bày, nên cho những học sinh có ý tưởng sai lệch nhiều với kiến thức đúng trình bày trước, những học sinh có ý kiến tốt hơn trình bày sau. Giáo viên không nhận xét ý kiến của học sinh khi học sinh phát biểu. - Việc nhóm ý tưởng, giáo viên cần có chủ ý nhanh, tuy nhiên nên để một hoặc hai học sinh nhận xét các ý kiến mà các học sinh khác vừa nêu (các ý kiến tiêu biểu, sai khác nhau). Sau đó giáo viên có thể giúp học sinh thấy rõ những khác biệt của các ý tưởng hay nhóm ý tưởng. Từ các sự khác biệt đó sẽ giúp học sinh thắc mắc vậy ý tưởng nào là đúng, làm sao để kiểm chứng nó Đó là mâu thuẫn nhận thức để giúp học sinh đề xuất ra các thí nghiệm kiểm chứng hoặc các phương án tìm ra câu trả lời. - Khi yêu cầu học sinh phát biểu, nêu ý kiến (ý tưởng), giáo viên cần chú ý về mặt thời gian, hướng dẫn học sinh cách trả lời thẳng vào câu hỏi, không kéo dài, trả lời vòng vo mà cần trả lời gắn gọn đủ ý. Làm như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian của tiết học, đồng thời sẽ giúp học sinh rèn luyện được suy nghĩ, ý tưởng của mình về mặt ngôn ngữ. - Ý kiến của học sinh càng khác biệt, có ý kiến sai lệch so với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi và giáo viên cũng dễ điều khiển tiết học hơn. Những ý kiến gần nhau về về ý tưởng rất khó để học sinh nhận biết sự khác biệt. - Khi yêu cầu học sinh khác nhận xét ý kiến của học sinh trước, giáo viên nên yêu cầu học sinh nhận xét theo hướng "đồng ý và có bổ 79
  23. sung" hay "không đồng ý và có ý kiến khác" chứ không nhận xét "ý kiến bạn này đúng, bạn kia sai". - Giáo viên cần tóm tắt ý tưởng của học sinh khi viết ghi chú lên bảng, không nên viết theo câu đầy đủ mà nên viết theo các từ chính tương tự với yêu cầu của câu hỏi đặt ra để tránh mất thời gian và cũng để học sinh dễ nhận biết cốt lõi của ý tưởng đó. 3.8. Hướng dẫn học sinh đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả lời của học sinh cũng là một bước khá phức tạp, đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng sư phạm để điều khiển tiết học, tránh để học sinh đi quá xa yêu cầu nội dung của bài học. Tùy từng trường hợp cụ thể mà giáo viên có phương pháp phù hợp, tuy nhiên cần chú ý mấy điểm sau: - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án mà học sinh đề xuất. Ví dụ: Để tìm hiểu cấu tạo bên trong của hạt đậu, giáo viên dự kiến học sinh có thể yêu cầu mở hạt đậu ra để quan sát hoặc đề xuất xem tranh vẽ khoa học về cấu tạo bên trong của hạt đậu để trả lời cho câu hỏi về cấu tạo của hạt đậu. - Đối với các kiến thức phức tạp, thí nghiệm cần thực hiện để kiểm chứng, học sinh khó đề xuất đầy đủ và chuẩn xác, giáo viên có thể chuẩn bị một loạt các vật dụng liên quan đến việc làm thí nghiệm (không dùng để làm thí nghiệm) sau đó yêu cầu các nhóm lên lấy các đồ dùng cần thiết để làm thí nghiệm chứng minh. Như vậy học sinh sẽ phải suy nghĩ để tìm những vật liệu hợp lý cho ý tuởng thí nghiệm của mình. Với phương pháp này, giáo viên có thể định hướng được học sinh làm thí nghiệm không quá xa với thí nghiệm cần làm đồng thời cũng dễ dàng chuẩn bị vật liệu thí nghiệm cho tiết học. Chú ý khi đưa các vật liệu làm thí nghiệm phải ghi chú rõ tên các vật dụng hoặc giới thiệu nhanh cho học sinh biết các vật dụng trong hộp đựng dụng cụ thí nghiệm. Nên để một số vật dụng có công dụng gần giống nhau để học 80
  24. sinh có thể thiết kế các thí nghiệm với nhiều kiểu thí nghiệm khác nhau cùng chức năng. VD: Có thể bỏ ống nghiệm và một chai nhựa không nắp, hai vật dụng này đều có thể dùng để đựng chất lỏng. Như vậy có nhóm sẽ dùng ống nghiệm nhưng có nhóm sẽ dùng chai nhựa để đựng chất lỏng. - Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (biểu tựong ban đầu) của học sinh, vì vậy giáo viên nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp học sinh tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời. - Một số phương án tìm câu trả lời có thể không phải làm thí nghiệm mà tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu các tài liệu (sách giáo khoa, từ rơi thông tin khoa học do giáo viên cung cấp ), hoặc quan sát (trên vật thật, trên mô hình, tranh vẽ khoa học ). - Đối với học sinh tiểu học, giáo viên nên giúp các em suy nghĩ đơn giản với các vật liệu thí nghiệm thân thiện, quen thuộc, hạn chế dùng những thí nghiệm phúc tạp hay dùng những vật dụng thí nghiệm quá xa lạ đối với học sinh. - Khi học sinh đề xuất phương án tìm câu trả lời, giáo viên không nên nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các học sinh khác nhận xét, phân tích. Nếu các học sinh khác không trả lời được thì giáo viên gợi ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý để học sinh tự rút ra nhận xét và loại bỏ phương án. Giáo viên cũng có thể ghi chú trên bảng một lượt các ý kiến khác nhau rồi yêu cầu cả lớp cho ý kiến nhận xét. Ví dụ để tìm hiểu hình dạng của xương cánh tay, học sinh A cho rằng nên mổ cánh tay ra để quan sát, học sinh B nói có thể dùng mô hình bộ xương người để quan sát hình dạng xương cánh tay, học sinh C trả lời rằng có thể dùng phim chụp X - quang cánh tay để xem hình dạng xương cánh tay Giáo viên gợi ý cho cả lớp mổ cánh tay ra để quan sát có thể thực hiện được trong lớp không? Nếu chỉ để xem hình dạng xương cánh tay mà phải mổ cánh tay ra thì có nên không? 81
  25. Từ những gợi ý đó học sinh sẽ tự nhận thấy phương án mình đưa ra không hợp lý bằng các phương án khác. - Giáo viên cũng nên chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống học sinh không nêu được phương án tìm câu trả lời hoặc các phương án đưa ra quá ít, nghèo nàn về ý tưởng (đối với những trường hợp có nhiều phương án tìm câu trả lời). Với trường hợp này giáo viên chuẩn bị sẵn một số phương án để đưa ra hỏi ý kiến của học sinh. - Giả sử một lớp học mà học sinh quá nhút nhát, thụ động, nghèo ý tưởng, hoặc không đưa ra được phương án nào để tìm câu trả lời thì giáo viên có thể giải quyết tình huống này bằng cách đưa ra hai hoặc 3 phương án khác nhau cho học sinh nhận xét. Gợi ý, dẫn dắt bằng các câu hỏi nhỏ để học sinh tìm được phương án tối ưu. Đây là cách giải quyết đối với những kiến thức không phải làm thí nghiệm trực tiếp. 3.9. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm 3.9.1. Vở thí nghiệm của học sinh Vở thí nghiệm thực chất là một cuốn vở của học sinh được sử dụng để ghi chép cá nhân về biểu tượng ban đầu; ghi chép nội dung, cách làm, kết quả thí nghiệm trong khi thực hiện tìm tòi - nghiên cứu. Hay còn được hiểu như là "cuốn vở nháp cẩn thận" của học sinh để ghi chú trong quá trình học ở lớp, làm thí nghiệm theo phương pháp BTNB. Vở thí nghiệm không phải là vở nháp cũng không phải là vở ghi chép thông thường của học sinh. Vở thí nghiệm không phải là cuốn vở để giáo viên dùng để sửa lỗi của học sinh mà nhằm mục đích chính là để học sinh tự do diễn đạt suy nghĩ, ý kiến của mình thông qua ngôn ngữ viết. Tuy nhiên vở thí nghiệm khác với vở nháp bình thường ở chỗ học sinh ghi chép trong đó theo trình tự bài học, các ghi chú được thực hiện trong quá trình học theo yêu cầu của giáo viên, không phải ghi 82
  26. chép bất kỳ (kể cả những thứ không liên quan đến bài học như hình vẽ chơi, đánh cờ caro ) hoặc lộn xộn như vở nháp thông thường. Vở thí nghiệm được lưu giữ và được giáo viên xem xét như là một phần biểu hiện sự tiếp thu kiến thức, thái độ học tập, làm việc của học sinh. Thông qua vở thí nghiệm, giáo viên có thể nhìn nhận được quá trình tiến bộ của học sinh trong học tập. Giáo viên, phụ huynh có thể nhìn vào các ghi chú để tìm hiểu xem học sinh có hiểu vấn đề không, tiến bộ như thế nào (so với trước khi học kiến thức), có thể nhận thấy những vấn đề học sinh chưa thực sự hiểu. Và thậm chí học sinh có thể nhìn lại những phần ghi chú để nhận biết mình đã tiến bộ như thế nào so với suy nghĩ ban đầu, giúp học sinh nhớ lâu hơn và hiểu sâu hơn kiến thức. Vở thí nghiệm là một đặc trưng quan trọng trong thực hiện phương pháp BTNB. Thông qua việc ghi chép trong vở thí nghiệm, học sinh được tập làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và giáo viên cũng giúp học sinh rèn luyện ngôn ngữ viết thông qua cuốn vở này. Nội dung ghi chú trong vở thí nghiệm có thể là các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban đầu) trước khi học kiến thức, các dự kiến, đề xuất, có thể là các sơ đồ, tiến trình thí nghiệm đề xuất của học sinh khi làm việc với nhóm, hoặc có thể là các câu hỏi cá nhân mà học sinh đưa ra trong khi học Vở thí nghiệm được ghi chép bằng lời, vẽ hình, sơ đồ, bảng biểu Vở thí nghiệm chứa đựng các phần ghi chú cá nhân, phần ghi chú tổng kết của nhóm (học sinh viết lại phần thống nhất thảo luận trong nhóm) hoặc phần ghi chú tổng kết thảo luận của cả lớp (kết luận về kiến thức) được xây dựng bởi trí tuệ tập thể. Ngoài các cá nhân ghi chú riêng của học sinh, vở thí nghiệm còn có các tờ rời dán vào theo từng bài học. Các tờ rời có thể là tóm tắt kiến thức của bài học, kết luận chung hay những mẫu ghi chép mà giáo viên chuẩn bị sẵn để học sinh tiện ghi chú trong một số thí nghiệm phức tạp. 83
  27. Đối với học sinh nhỏ tuổi (mẫu giáo hay lớp 1 tiểu học), khả năng ghi chép của học sinh còn hạn chế hoặc chưa biết viết (mẫu giáo), phần viết ở vở đôi khi là do chính giáo viên. Việc làm này của giáo viên cho học sinh thấy mình được tôn trọng, lắng nghe ý kiến và giáo viên đã giúp mình ghi chép những điều muốn ghi chú. Trong phạm vi cuốn sách này chúng tôi không đề cập đến vấn đề này và xem như học sinh có thể tự ghi chép dù là mức độ đơn giản của bậc tiểu học. 3.9.2. Sự cần thiết phải có vở thí nghiệm - Vì cần thiết để học sinh sử dụng vốn từ mà các em có thể diễn đạt ý tưởng, tập ghi chép dựa trên những gì học sinh hiểu và những gì học sinh thực hiện trong quá trình học. Tuy là một cuốn vở cá nhân nhưng nó lại giúp học sinh đối chiếu những gì mình ghi chép với ý kiến của học sinh khác khi thảo luận và với ý kiến chung của tập thể. - Thông qua việc ghi chép cá nhân học sinh có thể lưu giữ những việc đã làm (thí nghiệm hoặc ý kiến ban đầu) và từ đó giúp học sinh so sánh những quan điểm cá nhân với các học sinh khác trong nhóm, hình thành cho học sinh khả năng phân tích, bình luận. - Việc ghi chép trong vở thí nghiệm minh chứng cho con đường tiến triển trong nhận thức của học sinh, phản ánh những thử nghiệm và những lỗi sai của học sinh trong quá trình học tập. Bằng cách xem lại những phần đã viết trong vở thí nghiệm, cá nhân học sinh nhận thấy được sự tiến bộ dần dần, thấy rõ sự thành công sau những lỗi sai và những sự mò mẫm ban đầu. - Một vấn đề quan trọng nữa đó là chính học sinh tự ghi chép khoa học bằng chính ngôn ngữ của các em sẽ tốt hơn việc chép lại những câu chữ được trau chuốt và quá hoàn hảo do giáo viên cung cấp, đối lập với những gì học sinh hiểu. 3.9.3. Chức năng của vở thí nghiệm Vở thí nghiệm sẽ được phụ huynh học sinh xem ở nhà, chính vì vậy nhiều giáo viên cho rằng phần ghi chép cá nhân của học sinh phải được sửa lỗi. Tuy nhiên giáo viên không nên sửa chữa phần viết riêng 84
  28. của học sinh trong cuốn vở này với mục đích để học sinh được tự do thể hiện trong đó ý tưởng của các em thông qua vốn từ, hình vẽ của mình. Cũng chính từ đó học sinh sẽ tìm thấy được niềm vui thông qua việc được viết ra những suy nghĩ, các kết quả hay lý luận của mình. Dần dần học sinh có thể tự sửa lỗi cho chính mình vì học sinh luôn mong muốn cuốn vở được sạch, đẹp và chính xác, học sinh hãnh diện về phần trình bày của cá nhân mình. Nhìn chung, phụ huynh học sinh sau khi đã được giải thích rõ về vấn đề không sửa lỗi trong vở thí nghiệm, họ sẽ hiểu và chấp nhận. Sau một thời gian họ sẽ hài lòng về những tiến bộ của con mình khi nhìn vào phần trình bày trong vở thí nghiệm. Giáo viên hãy xem vở thí nghiệm của học sinh như những cuốn sổ ghi chép trong phòng thí nghiệm của các nhà khoa học, dùng để ghi chép các thí nghiệm, thử nghiệm. Cần làm cho cuốn vở thí nghiệm của học sinh trong giảng dạy khoa học theo phương pháp BTNB là một cuốn vở thể hiện sự tiến bộ của học sinh. Nếu giáo viên muốn sửa một số lỗi quá đặc biệt thì không nên dùng bút đỏ vì như vậy sẽ làm cho học sinh liên tưởng đến việc sửa lỗi chính tả, đánh dấu sai trong các bài kiểm tra môn học. Việc không sửa lỗi trong vở thí nghiệm sẽ giúp học sinh mạnh dạn hơn trong giao tiếp trong lớp học. Học sinh sẽ tự tin phát biểu ý kiến của mình khi biết được giáo viên tôn trọng lắng nghe, mà không sợ sai, sợ bị đánh giá. Từ đó sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực hơn. 3.9.4. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm - Giáo viên nên yêu cầu học sinh chuẩn bị vở thí nghiệm cẩn thận như một cuốn vở ghi chép trong các môn học bình thường, tức là được bao bọc cẩn thận, có nhãn vở ghi họ tên, trường lớp, môn học. Đối với học sinh tiểu học thì nên yêu cầu vở thí nghiệm là vở có kẻ ô li vì sẽ giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc ghi chép, vẽ hình, kẻ bảng 85
  29. - Để ghi chú trong vở thí nghiệm, giáo viên yêu cầu học sinh nên dùng ít nhất 2 màu mực: Một loại mực dành cho ghi chú cá nhân và thảo luận nhóm; một loại mực dành cho việc ghi chép sự thống nhất sau khi thảo luận cả lớp (kết luận kiến thức). Yêu cầu học sinh thống nhất loại mực nào dành cho ghi chú gì dùng từ đầu đến cuối. Phân biệt hai loại mực như vậy, học sinh sẽ dễ dàng nhìn thấy những quan niệm của mình ban đầu thế nào, kiến thức đúng ra sao. Điều này rất có hiệu quả trong việc xóa bỏ "chướng ngại" (các quan niệm ban đầu trước khi học kiến thức) như đã nói ở phần "Biểu tượng ban đầu". - Đối với các hình vẽ quan sát, giáo viên nên yêu cầu học sinh vẽ bằng bút chì để dễ tẩy, xóa, sửa chữa khi cần thiết. - Giáo viên nên nhắc nhở học sinh ghi ngày vào đầu trang vở khi bắt đầu tiết học có sử dụng vở thí nghiệm để dễ theo dõi. - Phần ghi chú cá nhân, học sinh ghi chú các quan niệm ban đầu, suy nghĩ, các câu hỏi cá nhân đặt ra trong quá trình học, thảo luận và làm thí nghiệm, những ghi chú trong quá trình học tập của mình. Đây là ý kiến cá nhân nên giáo viên khuyến khích học sinh tự do ghi chú theo suy nghĩ, không nên gò bó hay yêu cầu một khuôn mẫu nào trong trường hợp này. Vì các hoạt động diễn ra nhanh nên không cần thiết phải yêu cầu học sinh ghi nắn nót, trình bày đẹp các phần ghi chú này để tránh mất thời gian. Học sinh có thể ghi chú bằng nhiều cách khác nhau sao cho khi nhìn vào học sinh có thể hiểu được nhũng vấn đề mà mình ghi chú. - Phần ghi chú tổng kết của nhóm sau khi thảo luận, yêu cầu học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm và bao giờ kèm theo lệnh này giáo viên cũng yêu cầu mỗi nhóm phải ghi nội dung thảo luận sau khi có sự thống nhất của nhóm lên áp-phích (tiến trình thí nghiệm đề xuất, hình vẽ ). Công việc này thực hiện bởi trưởng nhóm hoặc thư ký của nhóm. Bên cạnh đó giáo viên cần yêu cầu các học sinh còn lại ghi chú tương tự vào vở thí nghiệm của mình. Yêu cầu đối với các học sinh còn lại như vậy giáo viên thực hiện được hai mục đích là giúp học sinh ghi nhớ ngắn hạn phần thống nhất sau thảo luận của nhóm 86
  30. mình và tránh việc học sinh ngồi chơi đùa trong khi thư ký hoặc nhóm trưởng thay mặt nhóm viết báo cáo chung của nhóm. - Phần ghi chú tổng kết sau khi thảo luận của cả lớp, đây là phần ghi chú sau khi thảo luận của cả lớp, rút ra kết luận khoa học chung (còn gọi là kiến thức). Phần ghi chú này được giáo viên định hướng, chỉnh sửa về ngôn từ chính xác về mặt khoa học. Đây là kiến thức của bài học rút ra sau khi thực hiện hoạt động dạy học. Giáo viên nên yêu cầu học sinh viết bằng một màu mực khác, để phân biệt như đã nói ở trên. - Học sinh chỉ ghi chép vào vở thí nghiệm vào những thời điểm nhất định và nên có lệnh của giáo viên trước khi ghi chú để tránh mất thời gian và phân tán khi đang thực hiện các hoạt động khác. Với học sinh tiểu học thì vấn đề này rất quan trọng vì học sinh chưa biết chủ động trong công việc ghi chép của mình, đặc biệt là đối với các lớp học mới áp dụng phương pháp BTNB. - Vở thí nghiệm chỉ hữu ích thực sự đối với học sinh khi học sinh sử dụng thuần thục trong việc ghi chép trong hoạt động học tập của mình. Học sinh không thể có ngay khả năng này. Vì vậy việc giáo viên rèn luyện cho học sinh tiếp cận và học cách sử dụng dần dần vở thí nghiệm trong giảng dạy khoa học sẽ hình thành cho các em thói quen và kỹ năng làm việc với vở thí nghiệm. Đối với các học sinh nhỏ tuổi (lớp 1, 2, 3), có thể giáo viên chỉ yêu cầu học sinh vẽ hình, sơ đồ đơn giản hoặc viết những câu đơn giản, không yêu cầu trình bày theo những yêu cầu phân tích nói trên. Đối với học sinh lớn tuổi hơn (lớp 4, 5) giáo viên có thể đề nghị học sinh trình bày vở thí nghiệm kỹ hơn như yêu cầu cao hơn về từ ngữ khoa học, viết báo cáo chi tiết hơn, hình vẽ, sơ đồ, biểu đồ rõ ràng hơn Ngay cả đối với học sinh lớp 4, 5 mà giáo viên mới thử nghiệm thực hiện giảng dạy theo phương pháp BTNB thì giáo viên cũng chưa nên vội yêu cầu cao đối với việc trình bày và sử dụng vở thí nghiệm. Trước khi thực hiện dạy học bằng phương pháp BTNB thì giáo viên nên hướng dẫn riêng cho học sinh về vở thí nghiệm cũng như tập làm quen cho học sinh về hoạt động nhóm, thảo luận trong các tiết học. 87
  31. - Với quan điểm xem vở thí nghiệm như là một "vở nháp cẩn thận", vì vậy giáo viên nên tạo cho học sinh sự tự do trong trình bày, bỏ qua yêu cầu "vở sạch, chữ đẹp" thường thấy trong dạy học ở bậc tiểu học. Cần thiết cho học sinh không cảm thấy bị giáo viên bắt lỗi, đánh giá về lỗi chính tả, từ ngữ, hình vẽ không đẹp, không cẩn thận, kết luận sai Thay vì đánh giá và sửa lỗi trực tiếp đối với từng học sinh, giáo viên có thể tranh thủ thời gian khi quan sát học sinh thảo luận, theo dõi hoạt động nhóm mà nhắc nhở nhẹ nhàng. Ví dụ như "Em làm thế nào để trình bày lại lần sau các số liệu này cho dễ đọc hơn?"; "Cô (thầy) thấy em vẽ hình như vậy hơi nhỏ và khó nhìn, lần sau vẽ to hơn nhé!"; "Trong sơ đồ mô tả thí nghiệm này em chưa ghi rõ phần ghi chú", "Hãy cố gắng trình bày chi tiết hơn phần dự đoán này!"; "Phần tổng kết này em viết tốt đấy nhưng viết bằng màu mực khác để dễ theo dõi hơn nhé!" Giáo viên cố gắng sử dụng các năng lực sư phạm và ngôn ngữ của mình để đưa ra những nhận xét nhẹ nhàng, nhắc nhở học sinh để các em sửa chữa trong những lần tới. - Ngoài việc hướng dẫn trình bày, giáo viên cố gắng hướng dẫn học sinh sử dụng phần ghi chép trong vở thí nghiệm như một công cụ hữu ích để so sánh kết quả, ý tưởng với các học sinh khác, theo dõi kết quả của cá nhân học sinh, tìm thấy những lý lẽ để giải thích cho thí nghiệm của mình Nếu học sinh chỉ biết ghi chép và trình bày trong vở thí nghiệm mà không biết dùng nó để so sánh, trao đổi với các học sinh khác trong hoạt động học thì việc ghi chép đó chẳng qua là một sự ghi chép bắt buộc theo lệnh của giáo viên mà thôi. Điều đó càng tồi tệ hơn khi học sinh làm qua loa chiếu lệ, thậm chí chép của những học sinh khác để có ghi chép trong vở, như vậy sẽ phản tác dụng của mục đích sử dụng vở thí nghiệm trong phương pháp BTNB. - Để tiết kiệm thời gian và giành thời gian cho học sinh tập trung vào các hoạt động khác, đôi khi giáo viên nên phát cho học sinh các phần kết luận của bài học để dán vào vở thí nghiệm thay vì chép những kết luận đó từ áp-phích hay từ bảng vào vở. - Để thực hiện hiệu quả hơn, tiết kiệm thời gian và giúp học sinh trình bày tốt hơn các số liệu, biểu bảng , giáo viên nên chuẩn bị các mẫu sẵn để học sinh trình bày theo, hoặc nếu có điều kiện giáo 88
  32. viên in sẵn các tờ rời với mẫu có sẵn để học sinh điền vào, sau đó dán vào vở thí nghiệm của mình. Nên thực hiện cách thức này đối với các học sinh nhỏ tuổi (lớp 1, 2, 3) vì ở độ tuổi này học sinh chưa đủ khả năng để trình bày vở thí nghiệm như yêu cầu của giáo viên được. - Ban đầu, khi bắt đầu làm quen với phương pháp BNTB và làm việc với vở thí nghiệm, học sinh sẽ chưa thể tự ghi chép một cách tự giác vì vậy cần có sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên. Dần dần học sinh sẽ tự biết cách ghi chép và quen dần với phương pháp học tập với vở thí nghiệm. Việc này không thể thực hiện một sớm một chiều được. Để học sinh làm quen từ từ với việc ghi chép trong vở thí nghiệm, giáo viên có thể đưa ra các gợi ý bằng các câu hỏi để học sinh tiếp cận dần với việc hình thành một ghi chép khoa học như: "Tôi đặt ra những câu hỏi gì?"; "Tôi đã làm những gì?"; "Vì sao tôi làm như vậy"; "Tôi đã sử dụng những vật liệu gì?"; "Tôi đã quan sát những gì?"; "Tôi có thể kết luận gì" Sau đây là một bảng các gợi ý theo từng bước của tiến trình thí nghiệm khoa học, một gợi ý ghi chép trong vở thí nghiệm ban đầu cho học sinh làm quen. Ở đây các câu hỏi gợi ý được phân theo ý kiến của học sinh (tôi) và ý kiến của lớp học (chúng ta) được đề xuất cho học sinh ở vùng Dordogne (Pháp): CÁC BƯỚC TIẾN TRÌNH THÍ NGHIỆM KHOA HỌC Vấn đề đặt ra 1 Vấn đề tôi cần nghiên cứu: Vấn đề chúng ta cần nghiên cứu: Giả thiết 2 Tôi nghĩ: Chúng ta nghĩ: Tôi nghĩ phải làm: Chúng ta nghĩ phải làm: Tôi đề xuất: Chúng ta đề xuất: Tôi muốn kiểm chứng: Chúng ta muốn kiểm chứng: Thí nghiệm 3 Tôi làm: Chúng ta làm: 89
  33. Kết quả thí nghiệm 4 Tôi quan sát: Chúng ta quan sát: Tôi đo: Chúng ta đo: Kết luận 5 Tôi có thể nói rằng: Chúng ta kết luận rằng: Tôi rút ra: Chúng ta rút ra: Bảng trên được sử dụng để học sinh làm quen với cách trình bày trong vở thí nghiệm ban đầu khi mới tiếp cận với phương pháp BTNB. Khi học sinh đã có thói quen, học sinh có thể trình bày theo tiến trình trên mà không cần phải kẻ bảng hay dựa theo những gợi ý của giáo viên như trên nữa. Nói tóm lại việc thực hiện vở thí nghiệm đối với học sinh trong dạy học theo phương pháp BTNB là một vấn đề không dễ. Tùy theo đối tượng học sinh (độ tuổi, trình độ, khả năng ngôn ngữ, đã có thói quen hay chưa ) mà giáo viên quyết định hình thức làm việc với vở thí nghiệm cho học sinh để đạt được mục đích sư phạm của phương pháp. 3.9.5. Gợi ý để giúp học sinh tiến bộ trong ghi chép vào vở thí nghiệm: Ngoài việc hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí ngiệm và làm quen với việc sử dụng chúng trong các tiết học khoa học, giáo viên cũng cần chú ý đến việc giúp các em tiến bộ trong phần ghi chép cá nhân của mình vào vở thí nghiệm. Đây cũng là một vấn đề quan trọng mấu chốt trong rèn luyện ngôn ngữ viết cho học sinh: - Giáo viên yêu cầu học sinh tự sửa chữa một số lỗi sai của mình thông qua kết luận của toàn lớp học sau khi thảo luận chung, ví dụ như các thuật ngữ khoa học, các kết luận chung của các thí nghiệm 90
  34. - Giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh trao đổi vở thí nghiệm của mình cho một bạn khác cùng lớp và ngược lại để các học sinh có thể ghi nhận những phần chỉnh sửa của mình và có thể giải thích những sự chỉnh sửa đó. - Yêu cầu học sinh ghi chú lại các thuật ngữ mới và hữu dụng cho thí nghiệm. - Cũng có thể cho học sinh so sánh vở thí nghiệm với nhau để giúp các em có thể nhìn thấy sự khác biệt trong quan niệm, ghi chép của mình. Từ đó, có thể kích thích học sinh đặt ra các câu hỏi, thảo luận để đi đến đề xuất các thí nghiệm kiểm chứng hoặc kích thích học sinh tìm đến chân lý (kiến thức khoa học). Ví dụ khi cho học sinh so sánh vở thí nghiệm về hình vẽ quan niệm ban đầu cấu tạo bên trong của hạt đậu, từ những điểm khác nhau bên trong các hình vẽ trên vở thí nghiệm, học sinh sẽ đặt ra những câu hỏi thắc mắc, tranh cãi hình vẽ nào đúng, hình vẽ nào sai - Giáo viên cũng có thể đề nghị học sinh viết một danh sách các thuật ngữ mới trong cuốn vở thí nghiệm của mỗi học sinh để học sinh có thể lưu ý, bổ sung vào vốn từ của mình những thuật ngữ mới được học. 3.9.6. Một số vấn đề giáo viên cần trao đổi với phụ huynh học sinh trong việc sử dụng vở thí nghiệm của học sinh - Giáo viên chủ nhiệm nêu vấn đề sử dụng vở thí nghiệm đối với học sinh trong dạy học khoa học ở bậc tiểu học theo phương pháp BTNB tại buổi họp phụ huynh đầu năm hoặc đánh máy thành một lưu ý nhỏ về vấn đề nà gửi cho phụ huynh qua thư hoặc sổ liên lạc. Việc làm này giúp giáo viên có thể giải thích rõ ràng vấn đề sử dụng vở thí nghiệm, việc chấp nhận các lỗi sai và việc ghi chép theo ý muốn của học sinh trong cuốn vở thí nghiệm. - Yêu cầu phụ huynh không sửa lỗi trong vở thí nghiệm của học sinh để giáo viên có thể giúp học sinh tiến bộ trong ghi chép theo ý đồ sư phạm của phương pháp. 91
  35. - Giải thích cho phụ huynh rõ và nhờ họ giúp đỡ trong việc tạo ra ý thức giữ gìn và có thói quen ghi chép cẩn thẩn trong vở thí nghiệm của học sinh. - Yêu cầu phụ huynh nhắc nhở học sinh giữ các vở thí nghiệm của từng năm học để giáo viên có thể giúp học sinh đối chiếu những ghi chép hiện tại với những ghi chép trước đó, giúp các em thấy rõ được sự tiến bộ cũng như giúp các em sửa chữa các lỗi sai, tự nhận ra và điều chỉnh các phần ghi chép của mình. Sự tiến bộ trong tiếp thu kiến thức, trong ngôn ngữ, vốn thuật ngữ khoa học được thể hiện rõ trong vở thí nghiệm qua từng năm học. 3.10. Hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận Khi làm thí nghiệm hay quan sát hoặc nghiên cứu tài liệu để tìm ra câu trả lời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết chú ý đến các thông tin chính để rút ra kết luận tương ứng với câu hỏi. Đối với học sinh tiểu học vấn đề này hoàn toàn không đơn giản. Học sinh cần được hướng dẫn làm quen dần dần. Nếu giáo viên chỉ nêu lệnh rồi học sinh tự rút ra kết luận thì học sinh sẽ rất khó thực hiện, thậm chí còn đặt trọng tâm chú ý vào những điểm không cần thiết, mất thời gian. Giáo viên cần chú ý mấy điểm sau: - Lệnh thực hiện phải rõ ràng, gắn gọn, dễ hiểu để giúp học sinh nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn. Đôi khi giáo viên nên ghi tóm tắt lệnh của mình lên bảng (nếu dùng máy chiếu thì phóng lệnh lên màn hình). - Quan sát, bao quát lớp khi học sinh làm thí nghiệm. Gợi ý vừa đủ nghe cho nhóm khi học sinh làm sai lệnh hoặc đặt chú ý vào những chỗ không cần thiết cho câu hỏi. Không nên nói to vì sẽ gây nhiễu cho các nhóm học sinh khác đang làm đúng vì tâm lý học sinh khi nghe giáo viên nhắc thì cứ nghĩ là giáo viên đang hướng dẫn cách làm đúng và nghi ngờ vào hướng thực hiện mà mình đang làm. - Đối với các thí nghiệm cần quan sát một số hiện tượng trong thí nghiệm để rút ra kêt luận, giáo viên nên lưu ý cho học sinh chú ý 92
  36. vào các hiện tượng hay phần thí nghiệm đó để lấy thông tin, nhắc nhở học sinh bám vào mục đích của thí nghiệm để làm gì, trả lời cho câu hỏi nào - Đối với các thí nghiệm cần đo đạc, lấy số liệu, giáo viên yêu cầu học sinh ghi chép lại các số liệu để từ đó rút ra nhận xét. Tốt nhất nên có mẫu ghi chú kết quả thí nghiệm cho học sinh để học sinh ghi chú ngắn gọn, khoa học (thông qua các tờ rời phát cho học sinh lúc bắt đầu làm thí nghiệm). Điều này đối với học sinh tiểu học là rất cần thiết vì học sinh chưa thể tự mình thành lập bảng biểu hay trình bày khoa học các số liệu, thông tin thu nhận trong quan sát hay làm thí nghiệm. - Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau học sinh có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành khác nhau theo quan niệm của các em, giáo viên không được nhận xét đúng hay sai và cũng không có biểu hiện để học sinh biết ai đang làm đúng, ai đang làm sai. Khuyến khích học sinh độc lập thực hiện giữa các nhóm, không nhìn và học theo nhau. Tất nhiên không tránh khỏi việc học sinh nhìn nhóm khác để thực hiện khi nhóm mình làm không thành công thí nghiệm. Nếu phát hiện được điều này giáo viên không nên ngăn chặn hay có thái độ không hài lòng mà cứ để các nhóm hoàn thành hết và sẽ bắt nhóm "copy ý tưởng" của nhóm khác trình bày, giải thích vì sao mình làm như vậy. Nếu nhóm "copy ý tưởng" và nhóm bị "copy ý tưởng" đều thực hiện thí nghiệm không thành công thì đây là dịp để giáo viên giáo dục cho học sinh cần độc lập suy nghĩ và tin tưởng vào sự suy luận của mình không nên "copy ý tưởng" của người khác vì có thể họ cũng không đúng. 3.11. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học Trong hoạt động học của học sinh theo phương pháp BTNB, học sinh khám phá các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên theo con đường mô phỏng gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học. Học sinh đưa ra dự đoán, thực hiện thí nghiệm, thảo luận với nhau và đưa ra kết luận như công việc của các nhà khoa học thực thụ để xây dựng kiến thức. Nhưng các kiến thức của học sinh 93
  37. không phải là các kiến thức khoa học mới với nhân loại mà chỉ là mới với vốn kiến thức của học sinh. Các kiến thức này cũng được trình bày ở nhiều sách, tài liệu khoa học khác ngoài sách giáo khoa. Do vậy, ngoài việc hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức, giáo viên cũng nên giới thiệu thêm sách, tài liệu hay thông tin trên internet mà học sinh có thể có điều kiện tiếp cận được để giúp các em hiểu sâu hơn các kiến thức được học, không bằng lòng và dừng lại với những hiểu biết yêu cầu trong chương trình. Điều này rất cần thiết đối với các học sinh khá, giỏi, học sinh ham thích tìm hiểu. Tất nhiên, giáo viên phải biết lựa chọn tài liệu đơn giản, dễ hiểu, phù hợp cho học sinh tham khảo. Sự hướng dẫn này chỉ là gợi ý cho những học sinh ham thích tìm hiểu chứ không phải là một yêu cầu bắt buộc cho cả lớp. Về nguyên tắc, học sinh hiểu và nắm bắt được các kiến thức yêu cầu ở mức độ của chương trình đưa ra là đủ. 3.12. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp BTNB Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp BTNB là một vấn đề khá mới mẻ trong việc áp dụng phương pháp BTNB vào chương trình tiểu học tại Việt Nam. Như chúng ta đã biết, phương pháp BTNB mặc dù đã được triển khai mạnh mẽ tuy nhiên việc áp dụng vẫn chưa phải là phổ biến, đa số đang dùng lại ở mức thử nghiệm. Vì vậy hình thức đánh giá học sinh đặc biệt cho phương pháp này cần phải được thống nhất trong các trường tiểu học, giữa các giáo viên với nhau và có sự chỉ đạo chuyên môn của các cấp quản lý (Phòng Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo). Ở đây chúng tôi đưa ra một số gợi ý để giáo viên áp dụng, tùy hoàn cảnh trong quá trình dạy học. - Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học: Trong các tiết học theo phương pháp BTNB, học sinh được khuyến khích phát biểu ý kiến và trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ hay trước toàn thể lớp học. Trong một số trường hợp giáo viên không được nhận xét tính chính xác ý kiến của học sinh (ví dụ như khi hỏi học sinh ý kiến ban đầu), đề xuất câu hỏi, phương án thí nghiệm Tuy nhiên, giáo viên có thể khuyến khích học sinh phát 94
  38. biểu ý kiến bằng cách ghi chú lại số lần phát biểu ý kiến và tính chính xác cũng như sự tiến bộ của học sinh trong một tiết học hay một số tiết học nhất định. Từ đó giáo viên có thể cho điểm học sinh thay cho điểm kiểm tra miệng (kiểm tra bài cũ theo truyền thống). - Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm: Sự tích cực, năng động, tinh thần trách nhiệm, tính nghiêm túc trong học tập và thực hiện các hoạt động học được yêu cầu bởi giáo viên. - Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh trong vở thí nghiệm: Giáo viên có thể quan sát trong quá trình học sinh ghi chép ở lớp hoặc thu vở thí nghiệm 1 lần/tháng (vào cuối tháng) hay cuối kỳ học để xem sự tiến bộ của học sinh. Việc đánh giá (có thể là cho điểm hay nhận xét vào vở thí nghiệm của học sinh) sẽ giúp học sinh có ý thức hơn trong làm việc tại lớp với vở thí nghiệm, đưa lại hiệu quả sử dụng của vở thí nghiệm khi thực hiện dạy học theo phương pháp BTNB. Nói tóm lại, dạy học theo phương pháp BTNB là giúp cho học sinh rèn luyện các kỹ năng, tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn là việc làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học sinh cũng nên thay đổi theo hướng kiểm tra kỹ năng, kiểm tra năng lực nhận thức (sự hiểu) hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức. 95
  39. CHƯƠNG 4 SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ 4.1. Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng phương pháp BTNB tại Việt Nam 4.1.1. Thuận lợi Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là một trong các nhiệm vụ cấp bách. Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác đang được triển khai, phương pháp BTNB đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định đầu tư nghiên cứu, biên soạn tài liệu, tổ chức tập huấn để tưng bước triển khai áp dụng trong các trường tiểu học và trung học cơ sở. Phương pháp BTNB là một phương pháp có tiến trình dạy rõ ràng, dễ hiểu, có thể áp dụng được ở điều kiện của Việt Nam. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên luôn nhiệt tình, ham học hỏi là điều kiện tốt thúc đẩy việc áp dụng phương pháp BTNB vào trong dạy học các môn khoa học ở trường THCS. Qua quá trình thử nghiệm, áp dụng phương pháp BTNB vào trong các lớp học, có thể nhận thấy sự ham thích của học sinh. Các em hứng thú với những hoạt động tìm hiểu kiến thức mới. Điều này chứng tỏ học sinh luôn ham thích được học tập, hăng say tìm tòi và sang tạo. 4.1.2. Khó khăn a) Về điều kiện, cơ sở vật chất 96
  40. Trong các lớp học hiện nay, bàn ghế được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau, không thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm. Trong khi đó, phần lớn các trường học chưa có phòng học học bộ môn và phòng thí nghiệm để thuận lợi cho việc giảng dạy các bộ môn khoa học. Trang thiết bị nói chung trong các lớp học chưa đầy đủ phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, nhất là còn thiếu các phương tiện hỗ trợ hoạt động báo cáo, thảo luận của học sinh như máy tính, projector, máy chiếu sách, flip chart, máy chiếu bản trong Dụng cụ thí nghiệm còn chưa đồng bộ và thiếu chính xác. Nguồn tài liệu bổ trợ cho hoạt động tìm tòi - khám phá của học sinh còn hạn chế. Mặt khác, số học sinh trên một lớp quá đông nên việc tổ chức học tập theo nhóm rất khó khăn. Điều này cũng gây khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động tham quan, dã ngoại, điều tra tế cho học sinh. b) Về đội ngũ giáo viên Trình độ giáo viên hiện nay chưa đồng đều cả về chuyên môn và năng lực sư phạm. Kiến thức chuyên sâu về khoa học của một bộ phận không nhỏ giáo viên còn hạn chế. Vì vậy, giáo viên thường gặp nhiều khó khăn trong việc trả lời, giải đáp các câu hỏi cũng như khó khăn trong việc lí giải thấu đáo các thắc mắc của học sinh nêu ra trong quá trình học. Đây là một trở ngại rất lớn trong việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp BTNB nói riêng. Năng lực sư phạm của giáo viên trong việc áp dụng các phương pháp dạy học mới nói chung còn hạn chế. Điều đó thể hiện ở việc giáo viên thường gặp nhiều khó khăn trong việc nêu ra tình huống mở đầu cho mỗi bài dạy trong phương pháp BTNB. Thường thì tình huống đưa ra phải gắn với nội dung bài dạy, làm sao đảm bảo được vấn đề khơi sự tò mò, ham thích trước vấn đề sắp học nhưng vẫn "giấu kín được kết quả của bài học". Đây là việc làm gây nhiều lúng túng cho người dạy. Trong tiến trình dạy học, ở một số bài học, giáo viên không có đủ kiến thức, khả năng để tìm ra một số thí nghiệm chứng 97
  41. minh cho kiến thức bài học trong trường hợp học sinh không tự nêu ra được thí nghiệm kiểm chứng cho biểu tượng ban đầu của mình. c) Về công tác quản lí Hiện nay, một vấn đề còn nổi cộm, gây nhiều cản trở cho công tác đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là vấn đề đánh giá hoạt động dạy học của giáo viên. Trong khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai áp dụng các phương pháp dạy học mới, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức hoạt động học tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh nhưng một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lí chuyên môn ở các Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo chưa theo kịp với tiến trình đổi mới đó. Vì thế, quan điểm đánh giá giờ dạy của họ vẫn mang nặng tính hình thức với các tiêu chí đánh giá như: giáo viên có dạy hết kiến thức trong bài hay không; giáo viên có sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học hay không; giáo viên sử dụng thí nghiệm và các phương tiện dạy có thành công hay không mà chưa chú ý nhiều đến hiệu quả hoạt động nhận thức cho học sinh. Vì vậy, giáo viên thường rất dè dặt khi áp dụng phương pháp dạy học mới, khi mà ở đó giáo viên phải tổ chức cho học sinh hoạt động nên nhiều khi không thể chủ động hoàn toàn về mặt thời gian. Trong quá trình học sinh hoạt động, thường có nhiều diễn biến bất ngờ mà giáo viên có thể không lường trước được dẫn đến có thể không hoàn thành tất cả các khâu trong một tiết học và vì thế mà giờ dạy lại không được đánh giá cao. Công tác kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh hiện nay cũng là một vấn đề gây cản trở đến việc đổi mới phương pháp dạy học. Các bài thi và kiểm tra hiện nay chủ yếu vẫn là kiểm tra sự ghi nhớ và vận dụng lí thuyết của học sinh. "Thi gì, học nấy" luôn là tiêu chí lựa chọn của đại đa số mọi người trên thế giới. Chính vì vậy mà các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp BTNB nói riêng chưa có được "chỗ đứng" vững chắc trong mỗi giáo viên, học sinh và trong cả nền giáo dục Việt nam khi mà công tác kiểm tra, đánh giá, thi cử chưa đổi mới theo hướng đánh giá kĩ năng và sự sáng tạo của học sinh. 98
  42. 4.2. Lựa chọn chủ đề dạy học theo phương pháp BTNB Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp BTNB, học sinh cần phải được quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó. Trong quá trình tìm hiểu, học sinh phải lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên. Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn. Mục tiêu chính của quá trình dạy học là giúp học sinh chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật, học sinh được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói. Những yêu cầu mang tính nguyên tắc nói trên của phương pháp BTNB là sự định hướng quan trọng cho việc lựa chọn các chủ đề dạy học. Như vậy, việc lựa chọn các chủ đề dạy học cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau đây: - Các chủ đề dạy học phải gần gũi với đời sống mà học sinh dễ cảm nhận và đã có ít nhiều những quan niệm ban đầu về chúng. Việc lựa chọn nội dung dạy học ở đây là lựa chọn theo chủ đề chứ không phải theo bài học trong sách giáo khoa. Vì vậy, căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học, giáo viên có thể xác định nội dung kiến thức khoa học trong một hay nhiều bài học trong sách giáo khoa để tạo thành một chủ đề dạy học. Cũng chính vì thế, tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB không nhất thiết phải diễn ra đủ 5 bước trong một tiết học mà có thể kéo dài trong một số tiết học tương ứng với quỹ thời gian được sử dụng theo chương trình. Ví dụ chủ đề "Lực đẩy Ác si mét và sự nổi" là nội dung kiến thức của 3 bài học trong chương trình Vật lí lớp 8. Lựa chọn chủ đề này để tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp BTNB, giáo viên có thể sử dụng 3 tiết học và vì thế 5 bước của tiến trình dạy học được diễn ra trong 3 tiết học. Chẳng hạn, hết tiết thứ nhất, học sinh mới có thể hoàn thành đến bước 3 - Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm. Đến buổi học sau (theo 99
  43. thời khóa biểu) học sinh mới thực hiện bước 4 - Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, bao gồm cả việc nghiên cứu các tài liệu khoa học và sách giáo khoa. Sau khi giáo viên tổng kết, hợp thức hóa kiến thức, học sinh sử dụng tiết thứ 3 ở buổi học tiếp theo để làm thí nghiệm thực hành nhằm nghiệm lại công thức tính lực đẩy Ác si mét. Như vậy, với quỹ thời gian cho phép theo chương trình là 3 tiết, giáo viên có thể sử dụng để tổ chức cho học sinh hoạt động theo đúng tiếp trình sư phạm của phương pháp BTNB. Tuy nhiên, với việc tổ chức như vậy, hoạt động học tập và nghiên cứu tài liệu khoa học của học sinh không chỉ dừng lại ở 3 tiết trên lớp mà hoạt động này còn tiếp diễn ở nhà, trong khoảng thời gian giữa các buổi học. - Việc lựa chọn các chủ đề dạy học cần phải được tổ chức thành hệ thống từ thấp đến cao trong phạm vi một lớp cũng như cả cấp học. Đặc biệt là khi lựa chọn các chủ đề, giáo viên các môn khoa học dạy cùng một lớp cần phải có sự trao đổi, thống nhất với nhau để có sự phối hợp khi cần thiết. Trước hết, việc trao đổi giữa các giáo viên bộ môn sẽ tránh được sự chồng chéo hoặc gây quá tải đối với học sinh khi các em phải thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng một lúc. Hơn nữa, do có cùng một tiêu chí là lựa chọn các chủ đề gần gũi với học sinh trong cuộc sống nên cần có sự phối hợp giữa các giáo viên bộ môn để có thể cùng lựa chọn một số chủ đề mang tính tích hợp. Điều này vừa tiết kiệm được thời gian đồng thời nâng cao được hiệu quả dạy học về ứng dụng của kiến thức khoa học vào cuộc sống cho học sinh. - Việc lựa chọn các chủ đề dạy học theo phương pháp BTNB cần phải chú ý đến một điểm rất quan trọng của phương pháp này là học sinh phải tự đề xuất được các phương án thí nghiệm và tự lực tiến hành các thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu. Vì vậy, đối với các chủ đề cần tiến hành thí nghiệm thì các phương án thí nghiệm trong dạy học các chủ đề này phải là các phương án thí nghiệm đơn giản, với các dụng cụ gần gũi với học sinh, nhất là ưu tiên phát triển các thí nghiệm tự làm với các dụng cụ dễ kiếm trong cuộc sống hàng ngày. 100
  44. 4.3. Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học trong phương pháp BTNB 4.3.1. Yêu cầu chung khi sử dụng thiết bị dạy học trong phương pháp BTNB Thiết bị dạy học (TBDH) là một phần không thể thiếu của quá trình dạy học trên lớp của giáo viên và học sinh. Trong quá trình thực hiện bước thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu của phương pháp BTNB, TBDH làm cho tiết học trở nên sinh động, dễ hiểu. Khi sử dụng phương pháp BTNB, TBDH có ý nghĩa to lớn đối với quá trình dạy học vì học sinh được tri giác trực tiếp đối tượng. Con đường nhận thức này được thể hiện qua việc học sinh quan sát các đối tượng nghiên cứu, thông qua các TBDH để tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện các bước thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, học sinh tri giác không phải bản thân các đối tượng nghiên cứu mà tri giác những hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ, mô hình hóa phản ánh một bộ phận nào đó của đối tượng cũng như nghiên cứu những đặc tính cơ bản của sự vật hiện tượng. TBDH còn giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết luận có độ tin cậy), giúp học sinh hình thành cảm giác thẩm mỹ, được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thông tin chứa trong đồ dùng dạy học. TBDH giúp làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập bộ môn, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học. Trong phương pháp BTNB, TBDH được sử dụng bao gồm các TBDH truyền thống như: bảng đen, bảng trắng, mô hình, vật thật, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, dụng cụ thí nghiệm và các TBDH hiện đại như máy tính, các loại máy chiếu, các loại băng đĩa, phim khoa học Việc kết hợp hài hoà các loại TBDH sẽ tạo được hứng thú, tăng hiệu quả học tập cho học sinh và giảm sự vất vả cơ bản của giáo viên trong quá trình dạy học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh tăng dần theo cấp độ của tri giác nên khi đưa các TBDH vào dạy học, giáo viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực học tập, đôc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu 101
  45. quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các em. Khi sử dụng phương pháp BTNB, giáo viên cần phải sử dụng TBDH phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ, để tạo được hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn, ở bước "Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề", giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh hay video khoa học để kích thích hứng thú nhận thức và khơi dậy những biểu tượng ban đầu vốn có của các em về chủ đề nghiên cứu. Trong bước "Tiến hành hoạt động tìm tòi - nghiên cứu", giáo viên có thể cho học sinh sử dụng máy tính, mạng internet, tranh ảnh khoa học, sơ đồ, vật thật để giúp học sinh tìm ra những đặc điểm, tính chất của đối tượng cần nghiên cứu. Với phương pháp mô hình, giáo viên có thể sử dụng các mô hình tự tạo hoặc các mô hình có sẵn, sưu tầm để giúp học sinh khám phá những đặc tính cơ bản của đối tượng khó quan sát bằng vật thật (trái đất, mặt trời, mặt trăng, vì sao). Khi sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu trong áp dụng phương pháp BTNB, giáo viên có thể kết hợp các tài liệu khoa học, hình vẽ khoa học với các PTDH hiện đại nhằm giúp học sinh nghiên cứu nội dung kiến thức cần thiết cho đối tượng cần tìm hiểu. Việc sử dụng TBDH trong Phương pháp BTNB cso những yêu cầu bắt buộc, khác xa so với các phương pháp dạy học khác. Với các phương pháp dạy học thông thường, việc sử dụng tranh ảnh, bảng biểu, mô hình, vật thật nhiều khi chí mang tính minh họa, kiểm chứng kiến thức do giáo viên đưa ra. Trong phương pháp BTNB, giáo viên chỉ đưa cho học sinh tìm hiểu tranh vẽ khoa học, mô hình, vật thật khi học sinh đã đề xuất được các phương án thí nghiêm nghiên cứu (quan sát mô hình, thí nghiệm trực tiếp, nghiên cứu tài liệu). Trước đó, các TBDH phải được cất dấu nhằm yêu cầu học sinh phải tự suy nghĩ và đề xuất phương án thí nghiệm nghiên cứu. Trong trường hợp giáo viên cùng học sinh chuẩn bị các vật dụng cho bài dạy, giáo viên chỉ phân cho các nhóm chuẩn bị những vật dụng đơn giản mà học sinh không biết chúng được dùng để làm gì trong bài học. Khi khai thác các tranh ảnh khoa học, vật thật trong phương pháp BTNB, giáo viên cần chú ý sử dụng chúng trong bước "Tình 102
  46. huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề" sao cho không lộ ra nội dung kiến thức của bài học cũng như các thí nghiệm sẽ làm ở các bước tiếp theo vì điều đó sẽ làm mất đi đặc trưng cơ bản của phương pháp BTNB . Trong các bước "Bộc lộ biểu tượng ban đầu" và "Đề xuất câu hỏi", giáo viên không nên sử dụng các tranh ảnh khoa học, vật thật hay mô hình mà chỉ nên sử dụng chúng cho bước "Đề xuất phương thí nghiệm". Trước mỗi bài học, giáo viên cần phải kiểm tra các hình ảnh, thiết bị dạy học để đảm bảo độ an toàn và áp dụng của chúng. Với các bài học có sử dụng phương pháp thí nghiệm trực tiếp, giáo viên cần làm trước các thí nghiệm với các thiết bị đã sử dụng để không lúng túng trong quá trình làm ở lớp cùng học sinh và chủ động trong việc kiểm tra xem kết quả của thí nghiệm của học sinh có như yêu cầu đặt ra không. Trong quá trình tiến hành thí nghiệm trực tiếp tại lớp học, giáo viên nên sử dụng các vật dụng khác nhau cho mỗi thí nghiệm khác nhau, không sử dụng chung một vật dụng (ly, cốc, thìa ) cho nhiều thí nghiệm khác nhau, nhất là đối với các thí nghiệm hóa học để không ảnh hưởng đến kết quả thí nghệm. Nếu các vật dụng thí nghiệm không đảm bảo về số lượng thì sau mỗi thí nghiệm, giáo viên nên yêu cầu học sinh rửa sạch các vật dụng đã dùng rồi mới tiến hành các thí nghiệm tiếp theo. Khi sử dụng phương pháp BTNB, học sinh cần phải tự tiến hành thí nghiệm và tiến hành nhiều lần để có kết quả tốt, vì vậy giáo viên cần phả chú ý vấn đề an toàn trong quá trình các em làm thí nghiệm. 4.3.2. Phát triển thiết bị dạy học tự làm trong phương pháp BTNB Trong điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo cho việc dạy và học, việc tự làm TBDH của giáo viên rất quan trọng và cần thiết. TBDH tự làm giúp giáo viên chủ động hơn trong quá trình xây dựng tiến trình cho bài học và quá trình tổ chức hoạt động học cho học sinh lên lớp. Từ đó có thể giúp học sinh chiếm lĩnh được các tri thức của bài học một cách chủ động, biến quá trình dạy và học của thầy trò là một quá trình gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành. Trong 103
  47. trường hợp TBDH được cung cấp theo danh mục bị hư hỏng hoặc không hoạt động tốt, giáo viên có thể tự làm TBDH để thay thế, vì thế dễ dàng hơn cho giáo viên khi sử dụng, bảo quản và sửa chữa (nếu có). Các TBDH tự làm thường nhẹ, được làm từ những vật liệu dễ kiếm với chi phí đầu tư rất thấp tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi bảo quản, di chuyển, thay thế các vật dụng (nếu cần) và sử dụng cho nhiều năm. TBDH tự làm trong phương pháp BTNB cần đảm bảo: - Về chất lượng: TBDH tự làm phải đảm bảo cho học sinh tiếp thu được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo; giúp cho giáo viên tổ chức một cách thuận lợi các kiến thức, thí nghiệm phức tạp, để học sinh sau quá trình tìm tòi - khám phá với các TBDH ấy có thể hiểu thấu đáo các nội dung của hoạt động học. Nội dung và cấu tạo của các TBDH phải đảm bảo các đặc trưng của việc dạy lý thuyết và thực hành, phải phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và phương pháp giảng dạy, thúc đẩy khả năng tiếp thu năng động của học sinh. Các TBDH hợp thành một bộ phải có mối liên hệ chặt chẽ về nội dung, bố cục và hình thức, trong mỗi cái phải có vai trò và chỗ đứng riêng. - Sự phù hợp của TBDH với tiêu chuẩn tâm sinh lý của giáo viên và học sinh: TBDH gây được sự hứng thú cho học sinh và thích ứng với quá trình tìm tòi nghiên cứu của thầy và trò. Những TBDH cần phải có màu sắc sáng sủa, hài hòa, giống màu sắc của vật thật (mô hình tranh vẽ). TBDH đảm bảo các yêu cầu về độ an toàn và không gây độc hại. - Sự phù hợp với các tiêu chuẩn sư phạm: TBDH phải đảm bảo tỷ lệ cân xứng, hài hòa. TBDH phải làm cho học sinh thích thú khi sử dụng, kích thích tình yêu nghề trong giáo viên, làm cho học sinh nâng cao cảm nhận chân, thiện, mỹ. Đồ dùng dạy học phải có cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển, chắc chắn, có khối lượng và kích thước phù hợp, có kết cấu thuận lợi cho việc vận chuyển, đảm bảo được độ bền để có thể sử dụng cho nhiều năm. - Tính kinh tế: TBDH ít chi phí, phải có tuổi thọ cao, chi phí bảo quản thấp và mang lại hiệu quả cao cho quá trình dạy và học. 104
  48. 4.4. Tổ chức hoạt động quan sát và thí nghiệm trong phương pháp BTNB Trong dạy học các bộ môn khoa học, những đặc điểm của phương pháp khoa học nhất thiết phải được phản ánh trong lí luận dạy học bộ môn. Cũng như các phương pháp dạy học khác, trong quá trình dạy học các môn khoa học theo phương pháp BTNB, việc sử dụng các hoạt động quan sát và thí nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan trọng, cần phải được vận dụng một cách rộng rãi và linh hoạt trong các khâu khác nhau của quá trình dạy học. Ví dụ như khi diễn giảng, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh quan sát, thí nghiệm để minh họa cho các kiến thức đã được trình bày; giáo viên cũng có thể biểu diễn thí nghiệm hoặc mẫu vật cho học sinh quan sát và rút ra kết luận. Tuy nhiên, việc tổ chức cho học sinh thông qua hoạt động tự lực quan sát, thao tác thí nghiệm tác động trên đối tượng nghiên cứu và rút ra kết luận mới đem lại hiệu quả cao nhất. Trong phương pháp BTNB, hoạt động quan sát và thí nghiệm của học sinh đặc biệt quan trọng, quyết định đến sự thành công hay thất bại của ý đồ sư phạm của giáo viên. Từ bước đầu tiên, khi giáo viên đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề, học sinh đã phải liên tưởng được đến những hiểu biết ban đầu của mình về các sự vật, hiện tượng thông qua sự quan sát trong cuộc sống hàng ngày. Trong thảo luận về các biểu tượng ban đầu giữa các nhóm, học sinh cũng cần phải có kĩ năng quan sát để thấy được những điểm khác biệt để từ đó xuất hiện các câu hỏi, các giả thuyết hay dự đoán. Đặc biệt, quan sát, thí nghiệm là hoạt động chủ yếu trong giai đoạn tìm tòi - nghiên cứu, giải quyết vấn đề của học sinh. 4.4.1. Nguyên tắc thiết kế quy trình các hoạt động quan sát, thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh Theo TS. Nguyễn Vinh Hiển, khi thiết kế hoạt động quan sát, thí nghiệm cho học sinh cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc 1: Đảm bảo mục tiêu của từng chương và của từng bài học về kiến thức, kĩ năng và thái độ Nhiệm vụ của cả quá trình dạy học được cụ thể hóa thành mục tiêu của từng chương, từng bài trong chương trình. Quan niệm phổ 105
  49. biến hiện nay ở các trường phổ thông là kết thúc mỗi tiết dạy, giáo viên phải cố gắng truyền đạt bằng hết những nội dung có trong sách giáo khoa cho học sinh nắm được ngay tại lớp. Quan niệm một cách cứng nhắc như vậy là chưa hợp lí mà cần phải thông qua những hoạt động độc lập, tự lực của học sinh kể cả ở nhà nữa thì mới đạt được mục tiêu đã đề ra của bài học. Vì vậy, việc xác định mức độ nội dung để kiểm tra, đánh giá cần được cân nhắc, xem xét cẩn thận tại từng thời điểm của quá trình dạy học. Điều này cũng cho phép giáo viên có thể linh hoạt bố trí các hoạt động trên lớp sao cho vừa đủ, tập trung vào các vấn đề then chốt; dành lại một phần nội dung với khối lượng công việc và mức độ khó khăn hợp lí để học sinh tự lực (hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm) ở nhà. Tuy nhiên cần phải đảm bảo chắc chắn rằng khi bước vào bài học tiếp theo sau thì các nhiệm vụ của bài trước đó đã cơ bản hoàn thành. Nguyên tắc 2: Phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo; bồi dưỡng hứng thú học tập; phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện phương pháp tự học; phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lí học sinh Nguyên tắc này nhằm đáp ứng yêu cầu chiến lược và cấp bách của giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng hiện nay. Tính tích cực học tập có ba mức độ từ thấp đến cao là: bắt chước, tìm tòi và sáng tạo. Đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, tổ chức tập dượt từng bước để học sinh thực hiện các hoạt động tìm tòi và phần nào có sự sáng tạo. Các yếu tố tâm lí như hứng thú, tực giác, tích cực, độc lập và sáng tạo luôn có tác động thúc đẩy qua lại lẫn nhau. Chúng vừa là nguyên nhân, lại vừa được kích thích bởi các thành công mà học sinh đạt được trong quá trình học tập. Do vậy, mỗi biện pháp, mỗi phương pháp dạy học tích cực đều có hiệu quả tốt cho tất cả các yếu tố tâm lí và đảm bảo tốt hơn đối với kết quả học tập. Hiện nay, ở trường tiểu học và trung học cơ sở, việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, trong đó có phương pháp BTNB là hết sức cần thiết nhằm phát huy triệt để tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trong dạy học. Việc tổ chức hoạt động học tập theo 106
  50. nhóm nhỏ như phương pháp BTNB, kết hợp với các phương pháp tích cực đã có trong hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống như: vấn đáp tìm tòi, thí nghiệm nghiên cứu, công tác độc lập dần dần làm cho trong mỗi tiết học bình thường, học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường lĩnh hội nội dung học tập. Nguyên tắc 3: Đảm bảo sự thống nhất giữa phương pháp khoa học và phương pháp dạy học bộ môn Nguyên tắc này đòi hỏi khi dạy học giáo viên phải chuyển hóa tri thức trong chương trình đã được thể hiện bằng nội dung các bài học trong sách giáo khoa thành các tri thức học sinh cần lĩnh hội trong học tập; giáo viên gợi ra những vấn đề để học sinh tự giải quyết, sao cho hoạt động của học sinh nhất thời "gần giống" với hoạt động của nhà nghiên cứu. Đây cũng chính là đặc trưng quan trọng của tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB đã trình bày ở trên. Theo nguyên tắc này, giáo viên có thể và cần phải gia công sư phạm nội dung sách giáo khoa cho phù hợp với lôgíc tổ chức hoạt động nhận thức sáng tạo của học sinh như đã trình bày trong phần lựa chọn chủ đề dạy học theo phương pháp BTNB. Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính khả thi của các hoạt động quan sát, thí nghiệm trong nhiều hoàn cảnh dạy học khác nhau Nghề dạy học có cả hai khía cạnh là kĩ thuật và nghệ thuật. Với khía cạnh nghệ thuật, nó được phát triển phụ thuộc vào năng khiếu riêng của từng giáo viên, không phải bất cứ ai có tay nghề thành thạo đều có thể đạt tới trình độ nghệ thuật. Nhưng là một loại hình hoạt động của con người, dạy học không thể thiếu phương tiện và những phương pháp, cách thức tiến hành. Đó chính là khía cạnh kĩ thuật của hoạt động dạy học. Muốn dạy tốt, người giáo viên nhất định phải làm chủ kĩ thuật dạy học ở mức độ thành thạo. Tuy nhiên, hiệu quả chất lượng của kĩ thuật lại phụ thuộc vào quy trình công nghệ mà trong đó kĩ thuật cùng với các yếu tố khác hợp thành quy trình hợp lí, bao gồm những công đoạn, những hành động, những thao tác được thiết kế và thi công một cách cụ thể, cho những kết quả ổn định. 107
  51. 4.4.2. Ví dụ về quy trình tổ chức hoạt động quan sát, thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh a) Quy trình dạy học loại bài kiến thức hình thái thực vật môn Sinh học Các bước Giáo viên Học sinh - Nêu câu hỏi, yêu cầu tái - Suy nghĩ, trả lời các câu hiện kiến thức. hỏi của giáo viên. Xác định - Gợi ý sự chưa đủ trong - Nhận ra sự thiếu hụt nhiệm vụ vốn kiến thức của học sinh. trong vốn kiến thức của học tập - Diễn đạt nhiệm vụ quan mình. sát, tìm tòi. - Xuất hiện nhu cầu quan sát, tìm hiểu đối tượng. - Kiểm tra mẫu vật, dụng cụ - Lấy ra mẫu vật điển hình của học sinh. theo yêu cầu của giáo - Hướng dẫn phân tích mẫu viên. vật điển hình, hướng dẫn - Sơ bộ phân tích mẫu vật Hướng lập mẫu phiếu học tập. điển hình, tham gia xây dẫn quan - Hướng dẫn, làm mẫu việc dựng mẫu phiếu học tập. sát mẫu quan sát, nhận xét đặc điểm, - Thực hành quan sát, rút chức năng từng bộ phận của ra các nhận xét về đặc mẫu vật điển hình. điểm, chức năng từng bộ phận của mẫu vật, ghi vào phiếu học tập. - Chia nhóm học sinh, kiểm - Lập thành các nhóm, tra mẫu vật, phân công phân công người đại diện, nhiệm vụ, nêu mục đích, người ghi chép; chọn ra Tự quan yêu cầu của quan sát. mẫu vật; hiểu mục đích, sát dựa yêu cầu của việc quan sát. theo mẫu - Theo dõi các nhóm, giúp đỡ riêng từng nhóm gặp khó - Quan sát, thảo luận khăn. nhóm, rút ra nhận xét sơ bộ, ghi vào các ô tương 108
  52. - Tổ chức việc báo cáo, thảo ứng trong phiếu học tập. luận kết quả quan sát, chỉnh - Đại diện các nhóm báo lí các câu nhận xét, kết cáo kết quả quan sát, cả luận. lớp theo dõi, thảo luận và sửa theo phiếu học tập từng câu nhận xét, kết luận đã được giáo viên chỉnh lí. - Đánh giá chung kết quả - Tự đánh giá, đánh giá hoạt động quan sát của cả lẫn nhau. lớp. - Hoạt động tư duy lĩnh Đánh giá, - Chính xác hóa kiến thức. hội kiến thức dưới dạng chính xác khái niệm. hóa, mở - Hướng dẫn, tổ chức vận rộng kiến dụng kiến thức. - Vận dụng kiến thức đã thức - Thông báo thêm các kiến lĩnh hội để giải quyết thức có liên quan. nhiệm vụ học tập mới. - Lĩnh hội kiến thức mới có liên quan. Hướng Phổ biến, hướng dẫn mục - Ghi chép, hiểu, nhớ các dẫn, giao đích, yêu cầu, nội dung nội dung do giáo viên phổ bài tập quan sát và ghi chép ở nhà biến, yêu cầu. quan sát ở - Ý thức rõ nhiệm vụ quan nhà sát, ghi chép ở nhà. b) Quy trình dạy học loại bài kiến thức cấu tạo trong thực vật môn Sinh vật Các bước Giáo viên Học sinh Xác định - Nêu câu hỏi yêu cầu tái - Phát biểu tái hiện về nhiệm vụ hiện và phân nhỏ chức năng chức năng của cơ quan học tập của cơ quan thực vật thực vật. 109
  53. - Gợi ý nhiệm vụ quan sát. - Ý thức rõ nhiệm vụ quan sát. - Đưa ra tiêu bản, mô hình, - Quan sát cá nhân, thảo tranh ảnh. luận với bạn ngồi cạnh để - Yêu cầu học sinh nhận ra gọi tên và nêu được chức những bộ phận đã biết, phát năng của những bộ phận Quan sát hiện những bộ phận mới đã biết. tái hiện gặp lần đầu - Bước đầu nhận thấy có - Hướng dẫn lập phiếu học những bộ phận "mới". tập. - Tham gia xây dựng mẫu phiếu học tập. - Hướng dẫn học sinh quan - Quan sát, thảo luận sát, thảo luận để tìm hiểu kĩ nhóm, mô tả đặc điểm cấu hơn những bộ phận đã biết, tạo phù hợp chức năng cấu tạo những bộ phận mới của từng bộ phận trong cơ biết trong mối quan hệ phù quan thực vật. Ghi nhận Quan sát hợp với chức năng của từng xét sơ bộ vào phiếu học phát hiện bộ phận. tập. mới - Tổ chức báo cáo, thảo - Báo cáo kết quả quan luận kết quả quan sát. sát; thảo luận và ghi vào - Chỉnh lí các câu nhận xét, phiếu học tập các câu kết luận của học sinh. nhân xét, kết luận đã được giáo viên chỉnh lí. - Đánh giá, động viên kết - Tự đánh giá, đánh giá quả quan sát của cả lớp. lẫn nhau. Đánh giá, - Chính xác hóa kiến thức. - Hoạt động tư duy lĩnh chính xác hội khắc sâu kiến thức hóa, mở - Hướng dẫn, tổ chức vận dưới dạng khái niệm. rộng kiến dụng kiến thức. thức - Vận dụng kiến thức đã lĩnh hội để giải quyết nhiệm vụ học tập mới. 110