Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

pdf 10 trang Gia Huy 18/05/2022 4210
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_fdi_den_tang_truong_kinh_te_cua_viet_nam.pdf

Nội dung text: Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

  1. 118 Tr•êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM Nguyễn Thị Hồng Nhâm1, Nguyễn Văn Tuấn Học viện Chính sách và Phát triển Tóm tắt: Trong những năm gần đây, dòng vốn FDI có tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong bài báo này, chúng tôi nghiên cứu tác động của dòng vốn FDI tới tăng trưởng kinh tế giai đoạn từ 1991 đến 2014. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình VAR để phân tích mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Các kết quả cho thấy FDI có tác động rất tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam và ngược lại. Nghiên cứu cũng chỉ rõ, nguồn vốn FDI đã kích thích xuất khẩu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ, là những tiền đề quan trọng cho sự tăng trưởng bền vững của kinh tế Việt Nam. Từ khóa: FDI, tăng trưởng kinh tế, mô hình VAR. 1. GIỚI THIỆU Kể từ năm 1988, khi Luật Đầu tư có hiệu lực, cùng với chính sách mở cửa giao lưu với quốc tế, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều dòng vốn đầu tư từ những nhà đầu tư nước ngoài. Sự có mặt của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã mang đến một làn gió mới cho nền kinh tế Việt Nam, bổ sung cho nguồn vốn đầu tư trong nước, cung cấp công nghệ mới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao trình độ quản lí Vì vậy, FDI có ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng kinh tế đất nước. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, bên cạnh những tác động tích cực của FDI mang lại thì ở nhiều địa phương, việc thu hút FDI bằng mọi giá có thể gây những tác động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Cụ thể là: Thứ nhất, có sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ. Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó, chỉ những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao mới được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Còn những dự án, lĩnh vực rất cần thiết cho dân sinh nhưng không đưa lại lợi nhuận thoả đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án, các nhà đầu tư nước ngoài thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội thuận lợi. Do đó, các thành phố 1 Nhận bài ngày 03.12.2015, gửi phản biện và duyệt đăng ngày 14.12.2015.
  2. T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015 119 lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án FDI nhất. Trong khi đó, các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng này đã dẫn đến nghịch lý là những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được FDI nhiều, do đó tăng trưởng kinh tế cao hơn mức trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án FDI, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp. Thứ hai, hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa cao. Trong công nghiệp – xây dựng, các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; có quá ít dự án về cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông – lâm – ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần trong khi đây là những ngành Việt Nam có thế mạnh. FDI vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ, môi trường còn hạn chế. Thứ ba, mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn), chuyển giao công nghệ chưa đạt như kỳ vọng. Nhìn chung, công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại Việt Nam. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam cũng như sự yếu kém trong kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu nên đã đưa vào Việt Nam một số máy móc, thiết bị lạc hậu, thậm chí là loại phế thải của các nước khác. Thứ tư, hiệu ứng lan toả của khu vực FDI sang khu vực khác của nền kinh tế còn hạn chế, có dấu hiệu chèn lấn. Mặc dù doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi từ đầu tư nước ngoài chủ yếu thông qua tác động mở rộng thị trường nhưng từ năm 2007 (Việt Nam chính thức tham gia WTO) đến nay, doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trong nước ở một số lĩnh vực đã chịu tác động chèn lấn của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Thứ năm, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên. Nhiều dự án của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tiến hành nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiểm môi trường, không được phát hiện kịp thời. Có nhiều hướng dịch chuyển dòng đầu tư nước ngoài tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường vào Việt Nam nhưng nhiều địa phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường. Thứ sáu, tác động xấu đến môi trường sinh thái. Có thể nói một trong những tác động tiêu cực nhất của FDI đối với nước nhận đầu tư là những ảnh hưởng về môi trường. Đặc biệt là tình hình xuất khẩu ô nhiễm từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua FDI ngày càng gia tăng. Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao, nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam Hiện
  3. 120 Tr•êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi nay, vấn đề xử lý nước thải tại Việt Nam chưa được chú trọng, hầu hết các xí nghiệp chưa có hệ thống xử lý chất thải. Các chương trình giám sát, xử phạt vẫn chưa được thực hiện một cách toàn diện trong khi ngày càng có nhiều dự án khai thác tài nguyên, vận chuyển dầu với hiểm họa tràn dầu có nguy cơ gia tăng trong các năm tới. Bên cạnh đó, sự mở rộng của các khu công nghiệp, khu du lịch đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái tự nhiên ở Việt Nam, diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy. Trong khi đó, vấn đề bảo vệ tốt môi trường vẫn đang là thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay. Điểm lại hoạt động của nguồn vốn FDI trong thời gian qua, nhận thấy một số điểm đen như sự việc Công ty Vedan phá hoại môi trường Việt Nam suốt 14 năm được lấy làm ví dụ điển hình để phân tích về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Việc xả thải không qua xử lý xuống sông Thị Vải, việc trốn nộp phí môi trường suốt nhiều năm của Công ty Vedan được cho là một cách tiết kiệm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp mà bỏ qua những quy chuẩn về môi trường. Chúng ta đều biết, FDI tác động tích cực lên GDI và tăng trưởng kinh tế khi các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp những cơ hội đầu tư mới cho các doanh nghiệp trong nước bằng việc giới thiệu máy móc và công nghệ mới (Sun 1998), tạo ra nhiều nhu cầu nhân lực mới cho các địa phương và giới thiệu các ngành công nghiệp mới cho nền kinh tế nước chủ nhà. FDI có thể trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi việc chuyển giao công nghệ dẫn đến việc mua lại tri thức bổ sung thông qua việc đào tạo lao động, phát triển kỹ năng, phương thức quản lý mới, và phong cách tổ chức mới (De Mello 1999). Từ quan điểm này, FDI chỉ có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn vì trong dài hạn các nguồn lực bị giảm dần. Trái với quan điểm đó, Barro và Sala-i-Martin (1995) đã chứng tỏ rằng FDI có tác động dài hạn đến tăng trưởng kinh tế, thông qua việc chuyển giao tri thức vĩnh viễn mà các công ty nước ngoài mang vào. Các hiệu ứng tích cực bên ngoài và hiệu ứng lan tỏa từ những tri thức mới sẽ mang lại lợi ích lớn dẫn đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Khi FDI được phân bổ trong các ngành công nghiệp tài nguyên, sẽ giúp kích thích GDI trong các ngành công nghiệp có liên quan. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã ủng hộ quan điểm này. Chẳng hạn, Sun (1998) đã tìm thấy bằng chứng về tương quan cùng chiều giữa FDI và GDI thông qua phân tích dữ liệu mảng. Shan (2002) đã sử dụng mô hình tự hồi quy dạng vector (VAR) với số liệu của Trung Quốc để nghiên cứu mối quan hệ thực nghiệm giữa FDI, tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp và các biến khác. Nghiên cứu của Shan (2002) cũng cho thấy có một tác động cùng chiều của FDI đến nền kinh tế Trung Quốc. Ở chiều ngược lại, FDI có thể có tác động tiêu cực đến GDI và sự tăng trưởng của nền kinh tế nước chủ nhà nếu các doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước trong việc sử dụng các nguồn lực trong nước và làm giảm cơ hội đầu tư
  4. T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015 121 của các nhà đầu tư trong nước (Agosin và Mayer 2000). Lợi thế về quyền sở hữu của các doanh nghiệp đa quốc gia (như công nghệ tiên tiến, chi phí giao dịch thấp, kỹ năng quản lý, v.v ) có thể dẫn đến sức mạnh độc quyền và có thể dẫn đến việc kiểm soát nguồn cung đầu vào của nền kinh tế nước chủ nhà. Điều này sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài so với các doanh nghiệp trong nước mà cuối cùng sẽ buộc các doanh nghiệp trong nước phải rời khỏi thị trường. Từ quan điểm này, một số tác giả cho rằng FDI có thể thay thế GDI trong dài hạn. FDI cũng có thể thay thế GDI khi các doanh nghiệp đa quốc gia cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước trong việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư hạn hẹp và khi nó làm nhiễu loạn sự liên kết ngược thông qua việc thay thế hoạt động nhập khẩu vào vị trí của hàng hóa địa phương. Trong bối cảnh này, chúng ta nhận thấy FDI có thể lấn át GDI. FDI cũng có thể có ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế nếu các doanh nghiệp nước ngoài không nhận được sự nhượng bộ từ nước chủ nhà (Buckley và C. Wang2002). Để có được lợi ích từ dòng vốn dài hạn, nước chủ nhà cần có đủ cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển nguồn nhân lực phù hợp, một nền kinh tế ổn định và thị trường được tự do hóa (Bengoa và Sanchez-Robles 2003). Bài báo được bố cục như sau: Mục 1 giới thiệu tổng quan về hướng nghiên cứu; Mục 2 trình bày mô hình nghiên cứu, nguồn dữ liệu, các biến, độ đo của các biến và cách tiếp cận thực nghiệm. Mục 3 trình bày các kết quả nghiên cứu và mục cuối cùng trình bày một số thảo luận và khuyến nghị. 2. MÔ HÌNH VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU Để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa FDI và GDI cũng như ảnh hưởng của hai yếu tố này đến sự tăng trưởng bền vững kinh tế của Việt nam tác giả sử dụng mô hình VAR với nguồn dữ liệu thứ cấp từ năm 1991-2014, gồm 24 quan sát. Mô hình thực nghiệm như sau: Yt = C + F1 Yt-1 + F2 Yt-2; (t = 1, , 24) trong đó: Y = (DFDI, GDP, GDI, DHDI, DEX). Các biến trong mô hình này được xây dựng như sau: GDP: đo lường hoạt động của nền kinh tế ở Việt Nam, đơn vị tính USD hiện tại. HDI: Chỉ số phát triển con người là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau: Sức khỏe (đo bằng tuổi thọ trung bình); Tri thức (được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục: tiểu học, trung học, đại học); Thu nhập (mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người). EX: biến này được tính là phần trăm GDP của tổng giá trị xuất khẩu hàng năm. Thương mại quốc tế có thể đẩy mạnh tính cạnh tranh và đổi mới bởi vì một nền kinh tế mở
  5. 122 Tr•êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi thể hiện tính cạnh tranh nhiều hơn và từ đó ít có khả năng cho các công ty đầu tư không hiệu quả. Tất cả những điều này dẫn đến giả thuyết là xuất khẩu có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Biến này cũng có thể được xem là nhân tố thu hút đối với FDI tìm kiếm năng suất vì nó thường hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi để xuất khẩu sản phẩm. GDI: tổng tích lũy tài sản được sử dụng để đại diện cho tổng vốn đầu tư trong nước bao gồm cả đầu tư từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. FDI: giá trị của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được sử dụng qua từng năm, đơn vị tính USD hiện tại. Các thống kê cơ bản về các biến trên được cho trong Bảng 1 sau đây. Bảng 1: Tóm tắt thống kê của các biến được sử dụng trong mô hình GDP HDI FDI GDI XK Mean 6.43E+10 0.624458 3.88E+09 2.04E+12 55.42301 Median 4.03E+10 0.657500 1.95E+09 1.28E+12 51.73529 Maximum 1.81E+11 0.733000 1.20E+10 6.44E+12 83.87515 Minimum 9.61E+09 0.464000 3.75E+08 1.45E+11 28.72278 Std. Dev. 5.36E+10 0.091728 3.54E+09 1.76E+12 17.35542 Observations 24 24 24 24 24 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trước khi đưa các biến vào mô hình, chúng tôi tiến hành kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root Test) của các chuỗi số liệu bằng tiêu chuẩn kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey-Fuller (ADF), Phillip-Perron (PP) và Elliott-Rothenberg-Stock DF- GLS test statistic (DF-GLS). Kết quả kiểm định tính dừng trong Bảng 2 cho thấy các biến HDI, FDI, XK đều dừng ở sai phân bậc 1; các biến còn lại GDP, GDI dừng ở chuỗi gốc. Bảng 2. Các kết quả của kiểm định nghiệm đơn vị ADF và PP Tên chuỗi Dickey Fuller Phillip-Perron GDP 9.69 9.82 GDI 1.65 1.76 HDI 0.16 0.21 D(HDI) -3.21 -3.02 FDI 1.65 1.72
  6. T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015 123 D(FDI) -3.01 -2.84 EX 2.12 2.35 D(EX) -4.36 -4.13 Nguồn: tác giả ước lượng từ số liệu Ghi chú: ( ) có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Để chọn được độ trễ tối ưu cho mô hình VAR, chúng tôi tiến hành sử dụng công cụ Lag Structure trong Eviews. Kết quả lựa chọn độ trễ với các tiêu chuẩn lựa chọn khác nhau được cho trong Bảng 3. Với các tiêu chuẩn lựa chọn AIC, PPE, SC, HQ ta nhận thấy độ trễ 2 phù hợp với mô hình. Bảng 3. Xác định độ trễ tối ưu Lag LogL LR FPE AIC SC HQ 0 -1613.486 NA 6.03e+60 154.1416 154.3902 154.1955 1 -1513.278 143.1550 5.07e+57 146.9788 148.4710 147.3027 2 -1472.236 39.08730* 1.81e+57* 145.4511* 148.1867* 146.0448* Tiếp theo, kiểm định tính ổn định cho thấy các nghiệm của đa thức đặc trưng (Roots of Characteristic Polynominal) đều nhỏ hơn 1 và nằm trong vòng tròn đơn vị. Cuối cùng, tiến hành kiểm định tự tương quan trong mô hình (Bảng 4) ta nhận thấy mô hình VAR thoả mãn giả thiết, hầu như không gặp hiện tượng tự tương quan của các sai số ngẫu nhiên trong các hồi qui. Bảng 4. Tương quan giữa các phần dư D(FDI) GDP GDI D(EX) D(HDI) D(FDI) 1.000 0.611 0.779 0.549 0.296 GDP 0.611 1.000 0.225 0.929 0.032 GDI 0.779 0.225 1.000 0.234 0.351 D(EX) 0.549 0.929 0.234 1.000 -0.031 D(HDI) 0.296 0.032 0.351 -0.031 1.000 Bây giờ, ta phân tích tác động từ hàm phản ứng nhằm đánh giá phản ứng của tất cả các biến đối với các cú sốc của mỗi biến trong mô hình. Chúng tôi thực hiện phân tích hàm phản ứng theo thứ tự các biến: GDP, D(FDI), GDI, D(EX), D(HDI). Kết quả thu được cho trong các bảng sau.
  7. 124 Tr•êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi Bảng 5. Tác động của tăng trưởng đến thu hút FDI Response of DLNGDP: Period GDP D(FDI) GDI D(HDI) D(EX) 1 0.007651 0 0 0 0 2 0.004391 8.65E-05 0.001491 -0.00028 0.000333 3 0.00255 0.000861 0.002088 -0.00014 0.000595 4 0.001144 0.001205 0.0014 0.000273 -8.97E-05 5 0.001418 0.000689 -0.00057 7.67E-05 -0.00033 Bảng 6. Tác động của biến động FDI đến tăng trưởng kinh tế Response of DLNFDI: Period GDP D(FDI) GDI D(HDI) D(EX) 1 0.101232 0.103323 0 0 0 2 0.041011 0.05547 0.01421 0.005771 0.009638 3 0.068033 0.003215 -0.05921 -0.01062 -0.01654 4 -0.00679 -0.02147 -0.01603 - -0.00902 0.008308 5 0.002489 -0.01273 0.004806 -0.0107 0.007592 Dựa vào các Bảng 5 và 6, một tác động của nhịp tăng vốn FDI (còn gọi là một cú sốc) ảnh hưởng đến nhịp tăng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội ngay ở thời kỳ thứ 1 ngoại trừ nhịp tăng GDP. Một cú sốc FDI năm t sẽ: - Tác động tăng nhịp tăng GDP từ năm thứ 2 và kéo dài khoảng 4 năm. Tuy nhiên, 1% tăng của FDI có tác động đến nhịp tăng của GDP không đáng kể (hệ số dương nhưng lại nhỏ). Điều đó cho thấy sự phù hợp với mục tiêu thu hút FDI của Việt Nam trong những năm qua là nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Song, số liệu thực tế lại cho thấy FDI có ảnh hưởng nhưng chưa thực sự là đòn bẩy cho tăng trưởng GDP như mong đợi. - Sốc FDI có tác động kích thích tích lũy vốn trong nước trong vòng từ năm thứ hai nhưng lại làm chậm quá trình tăng vốn trong nước trong các năm sau đó. Điều này cho thấy do có sự gia tăng về nguồn FDI đã gây ra sự cạnh tranh đầu tư với nguồn vốn, làm tăng tích lũy vốn trong nước để tạo đối trọng với khu vực FDI hay ít nhất là một tỷ lệ đối ứng cao hơn của vốn trong nước trong năm thứ hai khi nhịp tăng FDI cao hơn. Kết quả cũng cho thấy ở năm thứ 3 và năm thứ 4 dấu phản ứng của tích lũy vốn trong nước với sự gia tăng FDI là âm. Điều này hàm ý để quá trình tích lũy vốn trong nước được gia tăng liên
  8. T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015 125 tục ở những năm sau đó thì việc duy trì nhịp tăng FDI hàng năm là cần thiết ở Việt Nam hiện nay. - Đối với HDI, FDI có tác động tích cực đến giáo dục, y tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, tác động này là không lớn và có xu thế yếu dần theo thời gian. Như vậy, nhịp tăng về HDI không có tác động tích cực đến việc thu hút FDI nhưng ngược lại FDI có vai trò như thúc đẩy nhịp tăng của HDI. - Tạo nên một kích thích cho EX của nền kinh tế ngay năm đó. Năm thứ 3 có tác động âm và các năm tiếp theo có tác động dương nhưng giảm dần. Điều này phản ánh thực tế về mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là thông thường trong ngắn hạn họ chiếm lĩnh và cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước và về trung và dài hạn là tận dụng lợi thế về nguồn tài nguyên và lao động rẻ tại nước tiếp nhận đầu tư để sản xuất ra hàng hóa và bán ra thị trường thế giới. Do đó, xuât khẩu của nền kinh tế từ sốc FDI làm cho hệ số ảnh hưởng từ năm thứ 4 trở đi lại có dấu dương. Một trong những ứng dụng quan trọng của mô hình VAR là chức năng phân rã phương sai nhằm phân tích mức tác động của cú sốc mỗi biến trong việc giải thích biến động của một biến trong mô hình. Kết quả phân rã phương sai như sau: Bảng 7. Bảng phân rã các nhân tố tác động đến biến FDI trong mô hình VAR Period S.E. GDP D(FDI) GDI D(HDI) D(EX) 1 0.14465 48.97758 51.02242 0 0 0 2 0.16353 44.61013 51.42982 0.755091 0.124558 0.347346 3 0.188109 46.79466 38.89724 10.47888 0.41291 1.03531 4 0.190572 45.71942 39.16735 10.91764 0.626507 1.198791 5 0.191995 45.06129 39.02842 10.81913 0.92782 1.337475 Tăng trưởng FDI biến động do chính quá trình này sinh ra khoảng 39%-51%. Các yếu tố khác có ảnh hưởng từ 39% -61%. Trong đó, tăng trưởng kinh tế gây ra biến động cho quá trình này khoảng 45%-49%. Các yếu tố còn lại góp phần không đáng kể vào biến động của FDI. 4. KẾT LUẬN Trong bài báo này, chúng tôi phân tích được phản ứng đồng thời của các biến qua mô hình VAR. Kết quả nghiên cứu khẳng định quan hệ tương tác hai chiều theo hướng tích cực của FDI và các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhịp tăng vốn FDI sẽ ảnh hưởng đến nhịp tăng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội ngay ở thời kỳ thứ nhất ngoại trừ nhịp tăng GDP. Quá trình tăng FDI có tính quán tính với chính nó rất rõ ràng và có thể duy trì quán tính trong 2 năm, sau đó có thể tốc độ tăng giảm dần vào các năm tiếp theo. Một hệ thống chính sách
  9. 126 Tr•êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi thu hút nguồn vốn FDI tốt sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng, tích luỹ vốn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agosin Manuel R. and Ricardo Mayer, Foreign ivestment in developing countries: Does it crowd in domestic Investment? UNCTAD Discussion Paper, No.146, Geneva: UNCTAD, 2000. 2. Barro, R J. and X. Sala-i-Martin, Economic Growth, Boston: McGraw-Hill, 1995. 3. Bengoa, M. and B.a Sanchez-Robles, Foreign direct investment, economic freedom and growth: New evidence from Latin America, European Journal of Political Economy 19, 2003, pp.529-545. 4. Buckley, P. J., J. Clegg and C. Wang, The impact of inward FDI on the performance of Chinese manufacturing firms, Journal of International Business Studies 33(4), 2002, pp.637-655. 5. De Mello, L.R. Jr., Foreign direct investment-led growth: Evidence from panel data, Oxford Economic Papers5, 1999, pp.133-151. 6. Granger, C.W.J., Causality, cointegration, and control, Journal of Economic Dynamics and Control 12, 1988, pp.551-559. 7. Johansen, S. and K. Juselius, Maximum likelihood estimation and inference on cointegration with applications the demand for money, Oxford Bulletin of Economics and Statistics 52(2), 1990, pp.169-210. 8. Nguyen, P.L. and Sajid A., Foreign direct investment and economic growth in Vietnam, Asia Pacific Business Review 16, 2010, pp.183-202. 9. Nguyên, T.T., FDI và đầu tư trong nước của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, Kỳ chuyên đề tháng 5, 2015, tr.42-44. 10. Shan, J., A VAR Approach to the economics of FDI in China, Applied Economics 7(34), 2002, pp.885-893. 11. Sun, H., Macroeconomic impact of direct foreign investment in China: 1979- 96, World Economy 21(5), 1998, pp. 675-694. THE IMPACT OF FDI ON THE GROWTH OF VIETNAM ECONOMY Abstract: In recent years, FDI flows have a significant impact on the growth of Vietnam economy. In this research, we study the impact of FDI inflows on total investment in the period from 1991 to 2014. This research uses VAR model to analyse the relation
  10. T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015 127 between FDI and the growth of economy in Vietnam. The results show that FDI has positive effect on the growth of Vietnam economy and the contrary. In addition, this research also indicates that FDI flows stimulated export as well as improved human resources’s quality, technology, being important premiss for firm gorwth of Vietnam economy. Keywords: FDI, growth of economy, VAR model.