Tác động kinh tế - xã hội của hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA)

pdf 19 trang Gia Huy 18/05/2022 2980
Bạn đang xem tài liệu "Tác động kinh tế - xã hội của hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftac_dong_kinh_te_xa_hoi_cua_hiep_dinh_thuong_mai_tu_do_eu_vi.pdf

Nội dung text: Tác động kinh tế - xã hội của hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA)

  1. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÁC ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO EU – VIỆT NAM (EVFTA) TS. Huỳnh Thị Diệu Linh Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 1. Giới thiệu Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam hiện là một trong những nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất trong khu vực ASEAN, chỉ thấp hơn Singapore. Tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ cùng với cải thiện đáng kể trong quy định về quyền sở hữu trí tuệ (IPR) cũng làm thay đổi cơ cấu thương mại. Trong năm 2018, Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu của cả nước lập kỷ lục, đạt 480,17 tỷ USD, tăng hơn 52 tỷ USD về mặt số tuyệt đối so với kết quả thực hiện của một năm trước đó. Kết quả này vẫn còn thấp hơn mức tăng tuyệt đối 76,75 tỷ USD của năm 2017 so với năm 2016. Như vậy, chỉ số độ mở của nền kinh tế Việt Nam (xuất nhập khẩu hàng hóa/GDP) trong năm 2018 ước tính là 196%. Theo WTO, trong năm 2017, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam có vị trí thứ 27 trên thế giới và nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam có thứ hạng 25 trên phạm vi toàn cầu. Kết quả ấn tượng này là nhờ vào quá trình cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với việc hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Từ năm 1995, Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác hàng đầu trong hệ thống kinh tế thế giới như Cộng đồng Châu Âu, Mỹ. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối thương mại, đầu tư và hội nhập chính trị tích cực trong phạm vi ASEAN với việc tham gia vào những cam kết mới có tính tham vọng hơn về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Trong mấy năm gần đây, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam bắt đầu hội nhập kinh tế theo khung khổ ưu đãi đặc biệt với một số đối tác, với việc Việt Nam tham gia vào năm hiệp định thương mại tự do (FTA): ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Nhật Bản và ASEAN-Úc-Niu Di-lân. Gần đây, nhờ có sức hút về kinh tế, Việt Nam đã bắt đầu đàm phàn FTA với một số đối tác tiềm năng khác, như Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Trong những năm gần đây, hình thức FTA (Free Trade Agreement) “thế hệ mới” song phương hoặc đa phương ngày càng trở nên phổ biến hơn, với phạm vi hợp tác rộng hơn, và dần sẽ có khả năng thay thế cho các thỏa thuận thương mại thế hệ cũ. Một số lượng khá lớn các FTA đã được kí kết và thực hiện gần đây thu hút được rất nhiều sự chú ý, quan sát và đánh giá các tác động xung quanh các hiệp định này, ví dụ như Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP), EVFTA, CPTPP, . Xu hướng tham gia đàm phán và kí kết các FTA “thế hệ mới” đã trở thành xu thế tất yếu trong thời điểm hiện nay, khi mà sự hợp tác kinh tế song phương hoặc đa phương không còn chỉ dừng ở mức là cắt giảm thuế quan mà còn liên quan đến các vấn đề quan trong khác như lao động, bảo vệ môi trường, khai thác đánh bắt có chọn lọc, hay thậm chí là xã hội dân sự. Hiện nay theo cách xác định của một số tổ chức nghiên cứu trên thế giới, cũng như tại Việt Nam thì chúng ta chỉ mới có 2 FTA “thế hệ mới” đã kết thúc việc đàm phán đó là CPTPP và EVFTA, trong đó CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ 01/2019 (Hiền & Bích, 2016; Ninh, 2019; Wang, 2018). Việc xem xét và đánh giá những tác động (có thể xảy ra) của 2 FTA này là vô cùng quan trọng, khi mà xu hướng tham gia kí kết các FTA mới sẽ tuân theo các bộ quy tắc do 2 FTA này đã tạo ra. Nghiên cứu này phục vụ hai mục đích cụ thể. Một là, báo cáo nhằm đánh giá tác động của Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới” EVFTA đến nền kinh tế Việt Nam. Để làm được điều này, báo cáo cập nhật nội dung những tài liệu nghiên cứu sẵn có (như các báo cáo của Dự án MUTRAP 2011; European Commission, 2017; v.v.) về đánh giá tác động của EVFTA. Hai là, nghiên cứu xác định những chuẩn bị liên quan ở cả cấp chính sách và doanh nghiệp để đảm bảo rằng việc thực hiện hai FTA “thế hệ mới” này sẽ tạo ra lợi ích ròng tối đa cho nền kinh tế Việt Nam. Sự chuẩn bị này là rất cần thiết vì với phạm vi và mức độ của 107
  2. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng các hiệp định này có thể đưa đến những cơ hội và thách thức chưa từng có với hoạt động kinh doanh và đầu tư. 2. Tổng quan về quan hệ thương mại EU-Việt Nam Trong khi Việt Nam là một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển nhanh với tốc độ tăng GDP bình quân là 6,4% trong giai đoạn 2000 – 2017, thì EU lại có tốc độ phát triển không đều, thậm chí tốc độ tăng GDP của EU còn có giá trị âm trong các năm 2009 và 2012. Trong năm 2017, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,8%, cao gần gấp 3 lần tốc độ tăng của EU, 2,4%. Tuy nhiên để so sánh 2 nền kinh tế thì chúng ta cần phải nhìn nhận một thực tế là EU và Việt Nam là 2 đối tác không hề tương đồng trong rất nhiều khía cạnh. Đầu tiên, nền kinh tế của EU lớn hơn và có sức ảnh hưởng hơn rất nhiều so với Việt Nam. Tổng GDP của EU gấp 80 lần so với GDP của Việt Nam, trong khi dân số chỉ gấp 5 lần. Điều đó dẫn đến một khía cạnh tiếp theo là thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ khoảng bằng 1/15 so với thu nhập bình quân đầu người tại EU, tương ứng là 2.080 EUR/người so với 29.900 EUR/người. Theo đánh giá của Ủy Ban Châu Âu (European Commission – EC), EVFTA sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp Châu Âu tham gia và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, từ đó sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh. 2.1. Thương mại và đầu tư 2.1.1. Thương mại hàng hóa Trong năm 2017, Châu Âu là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam (19%), chỉ thấp hơn Mỹ (20%) và vượt trên Trung Quốc (14%) (Hình 1). Tổng kim ngạch XNK năm 2017 giữa 2 nền kinh tế là 50,4 tỉ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 38,298 tỉ USD và nhập khẩu 12,132 tỉ USD. Sáu nhóm mặt hàng xuất khẩu hàng đầu vào EU (điện và điện tử 15,26 tỉ USD, giày dép 4,8 tỉ USD, quần áo và dệt may 2,6 tỉ USD, cà phê 1,57 tỉ USD, trái cây 1,1 tỉ USD và đồ gỗ 1 tỉ USD) chiếm tới 70% tổng giá trị xuất khẩu vào EU trong năm 2017. Hình 1: Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, 2017 Nguồn: IMF Về phía nhập khẩu thì EU là đối tác lớn thứ 4 của Việt Nam chiếm tổng sản lượng nhập khẩu khoảng 6% trong năm 2017 (Hình 2). Trong khi đó Trung Quốc là đối tác lớn nhất khi chiếm hơn ¼ tổng kim ngach nhập khẩu của Việt Nam, tiếp sau đó là Korea và Japan tương ứng là 20% và 8%. Khi nhìn vào tầm quan trọng của Việt Nam trong thương mại EU, cần nhắc lại quy mô tương đối của hai nền kinh tế: năm 2017, thương mại hàng hóa ngoài EU gần gấp 10 lần so với Việt Nam với phần còn lại của thế giới. Năm 2017, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU trị giá 38 tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng lượng hàng hóa nhập khẩu của EU, trở thành nhà cung cấp lớn thứ 10 của EU. Trong cùng năm đó, Việt 108
  3. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Nam đã mua hơn 12 tỷ USD hàng hóa từ EU, chiếm không quá 0,6% tổng doanh số hàng hóa của EU cho phần còn lại của thế giới. Theo truyền thống, và là kết quả của lợi thế so sánh của đất nước về hàng hóa thâm dụng lao động, Việt Nam là nhà cung cấp giày dép, mũ và các loại mũ khác cũng như hàng dệt may. Bảng 1 cho thấy các sản phẩm may mặc chiếm khoảng 1/5 lượng nhập khẩu của EU từ Việt Nam. Một số lĩnh vực còn khá mới đối với Việt Nam như máy móc và thiết bị (chủ yếu là thiết bị viễn thông như điện thoại di động và máy tính bảng) tuy nhiên đã chiếm hơn một nửa số mua hàng của EU. Điều thứ hai minh họa rõ ràng tầm với của sự chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam và chỉ ra vai trò quan trọng của các công ty đa quốc gia trong quá trình này. Hình 2: Đối tác chính nhập khẩu của Việt Nam, 2017 Nguồn: IMF. Bảng 1: Các mặt hàng XK chính của VN vào EU, 2017 Ngành hàng (theo mã HS) XK (triệu USD) % Tổng cộng (toàn bộ sản phẩm) 38.298,721 100 [84-85] Sản phẩm điện, điện tử, viễn thông 18.081 47,63 [64] Giày dép 4.784 12,49 [62] Hàng dệt may 3.744 9,77 [09] Coffee, trà 1.573 4,10 [94] Đồ nội thất 1.103 2,88 [08] Trái cây và các loại hạt 1.062 2,77 [03] Thủy hải sản 940 2,45 [42] Túi xách, dây đai, vali, 898 2,34 [39] sản phẩm từ nhựa 675 1,76 Nguồn: ASEAN stats, tác giả biên soạn EU là đối tác lớn thứ năm (sau Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan) xuất khẩu hàng hoá có xuất xứ EU sang Việt Nam năm 2017. Nhiều nhóm hàng được nhập khẩu từ thị trường này chiếm tỷ trọng 109
  4. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam bao gồm: dược phẩm, sữa và sản phẩm sữa, sản phẩm hóa chất. Bảng 2: Các mặt hàng NK chính từ EU, 2017 Ngành hàng Trị giá (triệu USD) % Tổng cộng (toàn bộ sản phẩm) 12.132,246 100 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác 3431,55 28.37 Dược phẩm 1449,39 11.98 Sản phẩm hoá chất 512,13 4.23 Nguyên phụ liệu dệt may, da, giầy 312,62 2.58 Linh kiện, phụ tùng ô tô 249,17 2.06 Chất dẻo nguyên liệu 233,85 1.93 Hoá chất 221,34 1.83 Sữa và sản phẩm từ sữa 217,66 1.80 Nguồn: TCTK Về cán cân thương mại hàng hoá giữa Việt Nam với EU: số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan ghi nhận trong các năm qua, Việt Nam luôn thặng dư cán cân thương mại trong trao đổi hàng hóa với EU. Trong năm 2017, Việt Nam xuất siêu sang thị trường này 26,166 tỷ USD hàng hóa các loại. Trong số các nước thành viên EU, Hà Lan là thị trường mà Việt Nam đạt được mức thặng dư cán cân thương mại (nhập siêu với Việt Nam) lớn nhất với 6,44 tỷ USD; tiếp theo là Anh: 4,68 tỷ USD, Áo: 3,40 tỷ USD, Đức: 3,16 tỷ USD, Tây Ban Nha: 2 tỷ USD, Pháp: gần 2 tỷ USD Trong khi đó, ở chiều ngược lại, Ireland và Phần Lan là hai thị trường mà Việt Nam có thâm hụt thương mại lớn nhất, lần lượt đạt 1,27 tỷ USD và 128 triệu USD 2.1.2. Thương mại dịch vụ Thương mại dịch vụ của Việt Nam vẫn còn rất hạn chế trên phạm vi toàn cầu. Năm 2017, xuất khẩu dịch vụ thương mại chỉ đạt 13 tỷ USD trong khi nhập khẩu ở mức 17 tỷ USD. Tuy nhiên, tăng trưởng thương mại dịch vụ rất mạnh, trung bình 16% từ năm 2010 đến 2017. Du lịch thống trị xuất khẩu dịch vụ (khoảng 67% tổng số), tiếp theo là vận tải (20%). Tương tự, nhập khẩu chủ yếu được thúc đẩy bởi vận tải (48%) và du lịch (30%). Hình 3: Thương mại dịch vụ EU-Vietnam, million Euro Nguồn: EC 110
  5. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Thương mại dịch vụ của EU với Việt Nam cũng tụt hậu so với thương mại hàng hóa. Xuất khẩu sang Việt Nam đã tăng 32% kể từ năm 2010 lên tổng số gần 2 tỷ euro trong năm 2016 (xem Hình 3). Nhập khẩu cũng đã tăng từ 1,3 tỷ euro trong năm 2010 lên 1,7 tỷ euro trong năm 2016. Dữ liệu cho năm 2016 cho thấy EU có thặng dư thương mại dịch vụ khoảng 200 triệu euro với Việt Nam. Đã có những biến động đáng kể trong cán cân thương mại trong giai đoạn bảy năm với cả nhập khẩu và xuất khẩu khác nhau về giá trị. Tất cả điều này phản ánh sự phát triển tương đối kém của các ngành dịch vụ tại Việt Nam và chỉ ra tiềm năng còn có khả năng khai thác cho các mối liên kết thương mại dịch vụ lớn hơn trong tương lai cho cả 2 bên. Các hoạt động dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế của EU và chúng cũng có tiềm năng tăng trưởng quan trọng tại Việt Nam. Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng và tiền lương ngày càng tăng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy sản xuất và tăng cường nhu cầu dịch vụ tại Việt Nam. 2.1.3. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Trong những năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn FDI được kích hoạt bởi việc gia nhập WTO vào năm 2007 và các chính sách được thực hiện để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài. Hình 4 cho thấy các luồng vốn FDI hàng năm vào Việt Nam (inward FDI) đã tăng gấp bảy lần từ năm 2005 đến 2017 để đạt mức 14 tỷ USD. Sự hấp dẫn của Việt Nam đối với vốn đầu tư nước ngoài được nhấn mạnh bởi sự phục hồi nhanh chóng của dòng vốn FDI từ sự sụt giảm FDI trên toàn thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009. Bên cạnh đó, luồng vốn FDI ra nước ngoài (outward FDI) của Việt Nam đã tăng từ 184 triệu USD trong năm 2007 lên 1,38 tỷ USD trong năm 2016. Các quốc gia thuộc EU là một trong những nguồn quan trọng cho dòng vốn FDI vào Việt Nam, trong đó có thể kể đến: Hà Lan (9,33 tỷ USD), Pháp (3,62 tỷ USD), Luxembourg (2,33 tỷ USD), Đức (hơn 1,8 tỷ USD) . Tuy nhiên, việc thu hút FDI từ EU vẫn còn hạn chế khi mà đầu tư ra nước ngoài của EU trong năm 2017 là hơn 435 tỷ USD, nhưng tổng số FDI vào VN từ EU trong 2017 chỉ là 797,62 triệu USD, chiếm khoảng 5,6% của tổng lượng vốn đầu tư. Có thể nói, tiềm năng để Việt Nam thu hút FDI từ EU vẫn còn rất lớn, khi mà hiệp định EVFTA được chính thức đi vào thực hiện cùng với việc duy trì tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam như hiện nay. Việt Nam với thị trường tiêu dùng với gần 95 triệu dân thực sự là điểm đến lý tưởng của hàng tiêu dùng châu Âu, nhất là nông sản, thực phẩm, sản phẩm thịt, sữa và dược phẩm. Hình 4: FDI vào và ra của VN, 2005 – 2017 Nguồn: UNCTAD 2.2. Thuế quan giữa VN và EU Từ sau khi gia nhập WTO năm 2017, Việt Nam đã tuân thủ hoàn toàn việc thực hiện tự do hóa thương mại theo quy chế tối huệ quốc (MFN). Trong năm 2016, thuế suất bình quân gia quyền (lấy trọng số là 111
  6. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng thương mại) của Việt Nam với hàng hóa nhập khẩu từ EU là 5%, đồng thời thuế bình quân gia quyền của EU dành cho hàng hóa VN rơi vào khoảng 2,3%. Tuy nhiên hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU thường rơi vào các dòng thuế có mức thuế suất cao (như: quần áo và dệt may: 9%, thủy sản: 8,3% và giày dép: 9%) (xem Bảng 3). Như vậy, việc xóa bỏ thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tạo ra lợi thế quan trọng cho Việt Nam khi cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường EU. Về thuế nhập khẩu, các mặt hàng xuất khẩu từ EU vào Việt Nam hiện đang chịu mức thuế cao bao gồm: giày dép 22,9%, thực phẩm, đồ uống: 23%. Riêng mặt hàng ô tô thì có sự phân hóa rất lớn giữa các chủng loại hàng hóa dẫn đến sự khác biệt cao giữa thuế trung bình giản đơn (19,1%) và thuế bình quân gia quyền (2,3%). Bảng 3: Thuế nhập khẩu các mặt hàng chính của VN vào EU, theo mã HS (2016) Mã HS Hàng hóa Giá trị NK: Thuế trung Thuế bình quân million € bình (%) gia quyền (%) 01 Live animals, animal products 700 5.4 5.0 02 Vegetable products 2,224 6.1 0.3 03 Animal or vegetable fats and oils 2 11.3 2.9 04 Foodstuffs, beverages, tobacco 506 10.2 8.3 05 Mineral products 30 0.0 0.0 06 Products of the chemical or allied 172 0.5 0.2 industries 07 Plastics, rubber and articles thereof 793 0.7 1.1 08 Raw hides, skins and saddlery 804 1.3 0.9 09 Wood, charcoal, cork and articles thereof 147 0.7 0.2 10 Pulp of wood, paper and paperboard 25 0.0 0.0 11 Textiles and textile articles 3,205 7.3 9.0 12 Footwear, hats and other headgear 3,635 4.5 9.0 13 Articles of stone, glass, ceramics 173 1.7 0.9 14 Pearls, precious metals and articles 117 0.0 0.0 thereof 15 Base metals and articles thereof 735 0.4 0.6 16 Machinery and appliances 17,261 0.2 0.0 17 Transport equipment 361 0.8 1.6 18 Optical and photographic instruments 391 0.1 0.2 19 Arms and ammunition 0 2.9 3.0 20 Miscellaneous manufactured articles 1,321 0.1 0.1 21 Works of art, antiques 1 0.0 0.0 Total 32,603 2.9 2.3 Nguồn: EC, DG Trade, MacMap 112
  7. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Bảng 4: Thuế nhập khẩu các mặt hàng chính của EU vào VN, theo mã HS (2017) Mã HS Hàng hóa Giá trị NK: Thuế trung Thuế bình quân million € bình (%) gia quyền (%) 01 Live animals, animal products 498 13.1 9.9 02 Vegetable products 223 16.2 6.9 03 Animal or vegetable fats and oils 10 10.7 10.3 04 Foodstuffs, beverages, tobacco 448 28.7 23.0 05 Mineral products 43 4.3 4.6 06 Products of the chemical or allied 1,486 2.8 3.0 industries 07 Plastics, rubber and articles thereof 295 7.9 6.6 08 Raw hides, skins and saddlery 317 10.8 6.2 09 Wood, charcoal, cork and articles thereof 124 8.2 0.9 10 Pulp of wood, paper and paperboard 160 11.4 5.0 11 Textiles and textile articles 260 12.7 12.5 12 Footwear, hats and other headgear 13 25.0 22.9 13 Articles of stone, glass, ceramics 68 17.8 13.1 14 Pearls, precious metals and articles thereof 125 10.9 3.7 15 Base metals and articles thereof 298 7.8 7.0 16 Machinery and appliances 2,484 4.7 3.0 17 Transport equipment 1,984 19.1 2.3 18 Optical and photographic instruments 512 5.4 0.5 19 Arms and ammunition 4 2.3 0.4 20 Miscellaneous manufactured articles 118 18.1 14.9 21 Works of art, antiques 2 4.3 1.6 Total 9,471 9.9 5.0 Nguồn: EC, DG Trade, MacMap 2.3. Các rào cản khác ảnh hưởng đến thương mại EU-VN Trong những FTA ký kết gần đây của mình, EU xóa bỏ thuế quan với hầu hết các sản phẩm và tiến hành tự do hóa trên phạm vi rộng đối với thương mại dịch vụ theo mọi phương thức cung cấp. Các hiệp định này có các quy định về đầu tư đối với cả lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp với các nguyên tắc quan trọng áp dụng với nhiều lĩnh vực, như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, mua sắm của Chính phủ, cạnh tranh, minh bạch hóa và phát triển bền vững (gồm môi trường và các quyền dân sự). Các quy định khác cũng có mặt trong các hiệp định này, theo đó các bên đưa ra các cam kết cụ thể đối với một số ngành về xóa bỏ các rào cản phi thuế đối với thương mại (ví dụ: trong hiệp định với Hàn Quốc có các ngành như ô tô, dược phẩm và điện tử được đưa vào cam kết). Thông thường, các bên đối tác của EU cũng cam kết cắt giảm thuế quan theo lộ trình dưới 10 năm, có thể có ngoại lệ đối với một số ngành cụ thể. Về các hàng rào kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ, đàm 113
  8. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng phán FTA là cơ hội để thảo luận và giải quyết các vấn đề bất cập mà các nhà xuất khẩu Việt Nam gặp phải khi xuất khẩu sang EU. Ngoài ra, phía EU cũng lo ngại về thời gian của quy trình đăng ký sở hữu trí tuệ (Intellectual property – IP) đối với nhãn hiệu cũng như chậm trễ trong các thủ tục kháng cáo. Trong khi các cơ quan có thẩm quyền ở cấp quốc gia được phía EU đánh giá là khá tích cực, thì các điểm yếu vẫn được ghi nhận ở cấp địa phương. Điều này đòi hỏi sự cải cách hơn nữa trong các vấn đề liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ (IPR). Trong các báo cáo gần đây, các nhà hoạt động trong lĩnh vực IP của EU cho rằng các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn phổ biến trên cả nước, đặc biệt là ở các thị trường đường phố và khu vực thương mại. Có một thực tế là các biện pháp trừng phạt vẫn chưa đủ tính chất răn đe với những người vi phạm đồng thời Việt Nam vẫn còn thiếu các quan chức IP được đào tạo, bao gồm cả trong các đơn vị thuộc lực lượng hải quan. Trong Báo cáo thường niên của Ủy ban về thực thi IPR của Hải quan EU năm 2016, Việt Nam vẫn là một trong "top 7" quốc gia có hàng hóa vi phạm IPR bị giam giữ và tịch thu tại biên giới EU. Có thể nói rằng, hệ thống thực thi của Việt Nam vẫn còn rất phức tạp, khiến cho các chủ sở hữu quyền IP gặp khó khăn rất nhiều trong việc tự bảo vệ khỏi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. 3. Tác động của hiệp định EVFTA Trong phần này báo cáo tổng hợp các phân tích tác động của hiệp định EVFTA dựa trên các nghiên cứu đã được thực hiện bởi MUNTRAP (2011) và EC (2017). Các nghiên cứu này đã sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận bao gồm cả định tính và định lượng nhằm đưa ra các kết quả kịch bản đảm bảo tính khoa học, bền vững của mô hình, khách quan và toàn diện nhất có thể trong phạm vi cho phép với các dữ liệu có thể thu thập được. Bên cạnh việc đọc toàn bộ văn bản thỏa thuận nhằm xác định những thay đổi chính mà nó mang lại cho các điều kiện khung trong quan hệ thương mại và đầu tư giữa EU và Việt Nam, báo cáo còn cung cấp kết quả nghiên cứu định lượng đánh giá tác động của thỏa thuận tự do hóa, như giảm thuế và thuế xuất khẩu, được thực hiện bằng phương pháp mô phỏng dựa trên mô hình CGE. 3.1. Cắt giảm thuế quan và các thủ tục XNK Như với bất kỳ hiệp định thương mại tự do nào, việc dỡ bỏ các hạn chế biên giới đóng vai trò trung tâm trong EVFTA. Cụ thể, thỏa thuận giữa EU và Việt Nam có thể thấy trước việc loại bỏ thuế quan trung bình khoảng 2,2% ở EU và 5% tại Việt Nam trên cơ sở trọng số thương mại. Đối với hầu hết tất cả các thuế nhập khẩu, việc cắt giảm này sẽ được thực hiện trong vòng bảy năm tại EU và mười năm tại Việt Nam, kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Tuy nhiên, một số trường hợp linh hoạt sẽ được xem xét dành cho các sản phẩm nhạy cảm. Ví dụ, thuế quan của EU đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ được gỡ bỏ trong vòng từ năm đến bảy năm đối với các mặt hàng nhạy cảm và trong ba năm hoặc trực tiếp có hiệu lực đối với hàng hóa ít nhạy cảm hơn. Đối với giày dép, thuế quan của EU sẽ được loại bỏ sau bảy năm đối với các mặt hàng nhạy cảm và ba năm hoặc khi có hiệu lực đối với các mặt hàng ít nhạy cảm hơn. Về phía mình, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế đối với hàng xuất khẩu của EU đối với hầu hết các mặt hàng máy móc và thiết bị và tất cả hàng dệt may khi có hiệu lực của hiệp định. Ngoài ra, khoảng một nửa sản phẩm dược phẩm xuất khẩu của EU sẽ có thể được miễn thuế ngay lập tức khi vào thị trường Việt Nam. Đối với sản phẩm nông nghiệp: • Hàng xuất khẩu từ EU sang Việt Nam sẽ được tự do hóa hoàn toàn trong vòng không quá 7 năm (trừ gia cầm, bia, thuốc lá). • Nhập khẩu nông sản Việt Nam hầu hết sản phẩm (khoảng 90%) đã được miễn thuế dựa trên quy chế MFN. Một số ít còn lại (mì, gạo, tinh bột sắn) sẽ bị hạn chế mở một phần dưới dạng hạn ngạch (tariff rate quotas - TRQs). • Thuế quan đối với thịt bò sẽ được loại bỏ trong 3 năm và đối với thịt lợn trong vòng 7 năm. • Liên quan đến gia cầm, vốn là chủ đề của một cuộc thảo luận khó khăn với sự nhạy cảm của Việt Nam, cam kết của EU trong việc cung cấp tính tương hỗ của ngành dẫn đến việc tự do hóa (trong vòng 10 năm). Đây là một sản phẩm mà EU là nhà xuất khẩu hàng đầu sang Việt Nam. 114
  9. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng • Đối với sữa và các sản phẩm từ sữa, tất cả thuế sẽ được bãi bỏ trong tối đa 5 năm, và 3 năm với hầu hết các loại phô mai, sữa bột và sữa nước. • Đối với đồ uống có cồn, tất cả các hàng rào thuế sẽ được loại bỏ trong 7 năm, ngoại trừ bia (10 năm). • Chocolate và các sản phẩm liên quan (thuế hiện nay cao nhất là 30%) sẽ được tự do hóa hoàn toàn trong khoảng thời gian 5 - 7 năm. Pasta (thuế 20% đến 38%) sẽ được tự do hóa hoàn toàn trong vòng 7 năm (10 năm đối với một số mì ống nhồi, có chứa thịt). Thuế 20% đối với cà chua chế biến sẽ được tháo dỡ trong vòng 5 năm. 3.2. Cắt giảm các hàng rào phi thuế quan 3.2.1. Hàng rào kĩ thuật Thỏa thuận cũng đưa ra những đột phá quan trọng liên quan đến việc giảm các hàng rào phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và EU. Các điều khoản về rào cản kỹ thuật đối với thương mại (technical barriers to trade - TBT) trong EVFTA bao gồm đồng thời vượt ra ngoài các điều khoản trong Hiệp định TBT của WTO để đảm bảo rằng các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá là phù hợp, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại cho thương mại. Liên quan đến các quy định kỹ thuật, Việt Nam đã đồng ý đánh giá các quy định có sẵn và các yêu cầu không theo quy định đối với quy định kỹ thuật được đề xuất và nỗ lực đánh giá tác động của nó dưới hình thức đánh giá tác động theo quy định được khuyến nghị bởi Ủy ban TBT. Việt Nam cũng đồng ý xem xét các quy định kỹ thuật của mình nhằm phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan và sử dụng các tiêu chuẩn có liên quan được xây dựng bởi một số cơ quan thiết lập tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở cho các quy định kỹ thuật của Việt Nam. Trong thỏa thuận, Việt Nam cũng cam kết rà soát đều đặn các tiêu chuẩn quốc gia và địa phương không dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, nhằm tăng sự phù hợp với các tiêu chuẩn trên thế giới. Một điểm quan trọng ở đây là Việt Nam đồng ý coi xác nhận về sự phù hợp của nhà cung cấp như là một đảm bảo cho sự phù hợp với các quy định kỹ thuật của Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam cũng cam kết trong thỏa thuận đảm bảo rằng các nhà điều hành kinh tế có thể chọn trong số các cơ sở đánh giá sự phù hợp để tránh xung đột lợi ích có thể có giữa các cơ quan công nhận và cơ quan đánh giá sự phù hợp bằng cách đảm bảo sự độc lập của họ. Liên quan đến tính minh bạch, thỏa thuận sẽ đảm bảo rằng tất cả các quy định kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp bắt buộc được công khai trên các trang web chính thức và miễn phí và cho phép các nhà điều hành kinh tế của các bên tham gia vào bất kỳ quy trình tham vấn chính thức nào liên quan đến việc phát triển các quy định kỹ thuật . Cuối cùng, Việt Nam cam kết ngăn chặn xung đột lợi ích giữa các chức năng giám sát thị trường và đánh giá sự phù hợp, cũng như giữa các cơ quan giám sát thị trường và các nhà điều hành kinh tế trong nước. 3.2.2. Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật Sanitary and phytosanitary (SPS) là một trong những biện pháp phi thuế quan có thể ảnh hưởng đến hàng hóa xuất khẩu (XK) của Việt Nam vào thị trường các nước phát triển như EU, Mỹ, các quốc gia thuộc CPTPP, Việt Nam và EU đã nhất trí về nguyên tắc sử dụng Hiệp định SPS của WTO làm hướng dẫn chính cho việc xác định các khung biện pháp trong tương lai có tính chất này. Các bên cũng đồng ý áp dụng các tiêu chuẩn được phát triển bởi các cơ quan tiêu chuẩn quốc tế. Mục đích là làm cho các yêu cầu SPS hoạt động hiệu quả và minh bạch hơn để tạo thuận lợi cho thương mại song phương. Điều này sẽ đưa ra giải pháp cho các vấn đề cụ thể đã ảnh hưởng đến mối quan hệ song phương trong một thời gian dài, ví dụ như việc thiếu thỏa thuận về việc thiết lập tình trạng sức khỏe đối với một số bệnh động vật (đặc biệt là bệnh bò điên - BSE). Về vấn đề này, các bên cũng đã đồng ý áp dụng tình trạng sức khỏe quốc tế do Tổ chức Thú y Thế giới (the World Organisation for Animal Health - OIE) xây dựng. 115
  10. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 3.2.3. Quyền sở hữu trí tuệ (IPR) Việt Nam đồng ý thực hiện những thay đổi sâu rộng đối với khung pháp lý trong nước nhằm tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, điều đặc biệt quan trọng đối với lợi ích kinh doanh của EU. Hơn nữa, Việt Nam sẽ thông qua Hiệp ước Internet WIPO để giải quyết các vấn đề như bảo vệ bản quyền của tài liệu được phổ biến trên các mạng kỹ thuật số như Internet. Bằng cách đó, Việt Nam cũng sẽ cung cấp sự bảo vệ pháp lý đầy đủ và các biện pháp khắc phục hiệu quả chống lại sự lách luật của các biện pháp công nghệ (như mã hóa) được sử dụng bởi các chủ sở hữu để bảo vệ quyền của họ. Ngoài ra, việc cố tình thay đổi hoặc xóa "thông tin quản lý quyền" điện tử bị nghiêm cấm thực hiện, VD: thông tin đi kèm với bất kỳ tài liệu được bảo vệ nào và xác định tác phẩm, người tạo, người thực hiện hoặc chủ sở hữu của nó và các điều khoản và điều kiện sử dụng. Thỏa thuận cũng sẽ cung cấp cho các tác giả, đài truyền hình, người biểu diễn và nhà sản xuất quyền bổ sung tại Việt Nam ví dụ như quyền tái sản xuất, phân phối và cung cấp, quyền truyền thông tới công chúng và quyền hưởng thù lao công bằng duy nhất (để phát sóng và truyền thông tới công chúng). Trong thực tế, điều này có nghĩa là, các nghệ sĩ châu Âu có thể nhận tiền bản quyền từ các cơ sở thực phẩm, đồ uống và bán lẻ phát nhạc của họ để thu hút người tiêu dùng. Việt Nam cũng sẽ áp dụng khuyến nghị của WIPO về bảo vệ các nhãn hiệu nổi tiếng, trong đó xem xét các tham số bổ sung không chỉ giới hạn ở mức độ nổi bật của người tiêu dùng có liên quan ở một quốc gia. Đồng thời cũng đồng ý về việc cung cấp làm rõ thêm cho các căn cứ để thu hồi, bao gồm cả nghĩa vụ phải có yêu cầu sử dụng và bảo vệ chống lại việc sử dụng sai tên. Cuối cùng, Việt Nam cam kết gia nhập Thỏa thuận Hague và gia hạn bảo hộ cho các thiết kế đến 15 năm. Chủ sở hữu bằng sáng chế cũng sẽ được hưởng lợi từ việc gia hạn bảo hộ sáng chế trong trường hợp chậm trễ trong thủ tục ủy quyền tiếp thị. Một điểm quan trọng khác của thỏa thuận liên quan đến việc tăng cường bảo vệ thông tin và dữ liệu không được tiết lộ. Đối với các sản phẩm dược phẩm (bao gồm cả sinh học) và các sản phẩm hóa học, bảo vệ dữ liệu hiện đã được thiết lập đến năm năm. Ngoài ra, các Bên đồng ý bảo vệ quyền giống cây trồng, tuân theo Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (UPOV) và phiên bản mới nhất của công ước là "1991 UPOV ACT". Điều này có nghĩa là các giống cây trồng sáng tạo có thể dẫn đến năng suất tốt hơn sẽ được bảo vệ. Do đó, các giống cây trồng mới từ EU có thể sẽ được giới thiệu nhanh hơn vào thị trường Việt Nam vì lợi ích của nông dân và người tiêu dùng. Việt Nam đồng ý áp dụng và thực thi các công cụ pháp lý phù hợp cần thiết để cho phép các công ty dược phẩm nước ngoài nhập khẩu dược phẩm (có được ủy quyền tiếp thị tại thị trường địa phương) để bán cho các nhà phân phối hoặc bán buôn trong nước. Các công ty nước ngoài trong lĩnh vực này cũng sẽ được phép xây dựng kho riêng của họ, để cung cấp thông tin cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và thực hiện các nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng. Việt Nam cũng sẽ cung cấp một phần mở rộng bảo hộ bằng sáng chế, tối đa là hai năm, cho sự chậm trễ trong việc phê duyệt tiếp cận thị trường của các sản phẩm dược phẩm nếu quá trình phê duyệt mất hơn 24 tháng. Nói cách khác, Việt Nam sẽ bồi thường cho sự chậm trễ vô lý trong việc cấp phép tiếp cận thị trường cho các sản phẩm dược phẩm bằng cách gia hạn bảo hộ sáng chế lên đến 2 năm. Cuối cùng, Việt Nam cũng đồng ý công nhận danh sách 169 chỉ dẫn địa lý của EU (GIs) và trao một mức độ bảo vệ ngang bằng với quy định của pháp luật EU. Các GI được liệt kê sẽ có thể cùng tồn tại với các nhãn hiệu đã đăng ký trước đó tại Việt Nam. Điều này sẽ được hỗ trợ bởi các biện pháp xử phạt hành chính phù hợp trên thị trường Việt Nam, bao gồm cả khi có yêu cầu của một bên quan tâm. Liên quan đến việc thực thi, EVFTA cải thiện khung pháp lý về thực thi quyền IPRs bằng cách bao gồm các điều khoản xác định chính xác hơn nghĩa vụ của chính quyền cũng như gia tăng trách nhiệm của nhân viên hải quan Việt Nam để giải quyết các hành vi xâm phạm. Việt Nam cũng đồng ý công nhận một số thực thể là những người được quyền áp dụng các biện pháp thực thi và đưa ra các biện pháp tạm thời và lệnh cấm đối với các trung gian. Thõa thuận cũng biến quyền thông tin thành nghĩa vụ mở rộng cho các thực thể khác ngoài người vi phạm, đồng thời đưa ra các nghĩa vụ bổ sung liên quan đến các biện pháp tạm thời như khả năng thanh toán hình phạt định kỳ, chặn tài khoản ngân hàng và các tài sản khác và cho phép khả năng 116
  11. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng thay thế lệnh cấm hoặc biện pháp khắc phục bằng cách bồi thường bằng tiền trong một số trường hợp vi phạm không chủ ý. FTA cũng cấp cho các nhân viên hải quan quyền áp dụng biện pháp tức thời 'ex-officio', ví dụ như can thiệp mà không phải chờ khiếu nại trong khi áp dụng nghĩa vụ mở rộng các biện pháp thực thi biên giới đối với việc xuất khẩu hàng hóa vi phạm và hợp tác với chủ sở hữu IPR và sử dụng phân tích rủi ro. 3.2.4. Quy tắc xuất xứ (Rules of Origin – RoO) Các quy tắc xuất xứ được đàm phán trong thỏa thuận tuân theo cách tiếp cận của EU và chia sẻ các tính năng chính của Hệ thống ưu đãi chung (GSP) của EU cũng như của FTA EU với Singapore. Tuy nhiên, cũng có một số yêu cầu và tính linh hoạt có tính đến tình hình cụ thể của Việt Nam và EU. Để hàng may mặc đủ điều kiện xuất xứ Việt Nam và do đó được nhập khẩu vào EU với mức thuế suất giảm hoặc bằng 0, nhà sản xuất sẽ cần thiết lập toàn bộ chuỗi giá trị dệt may tại Việt Nam. Việc sử dụng hàng dệt có nguồn gốc từ các quốc gia khác mà EU có FTA tại chỗ có thể được cho phép, do đó thúc đẩy mức độ hội nhập cao hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. 3.3. Tự do hóa thương mại dịch vụ Thỏa thuận bao gồm một số điều khoản nhằm cải thiện điều kiện tiếp cận thị trường song phương cho các công ty trong các lĩnh vực dịch vụ. Chúng bao gồm những thay đổi về quy định ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ xuyên biên giới (theo phương thức 1 trong tiếp cận thị trường trong dịch vụ được quy định trong GATS) và hiện diện thương mại xuyên biên giới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (phương thức 3). EU đồng ý cung cấp cho Việt Nam sự đảm bảo rằng mức độ mở cửa hiện tại sẽ không thay đổi. Điều này có nghĩa là EU đã đồng ý các ràng buộc trong tiếp cận thị trường Việt Nam và các cam kết đối xử quốc gia vượt ra ngoài GATS. Tuy nhiên, do các ngành dịch vụ của EU nói chung tương đối rộng mở nên đã không đồng ý thực hiện bất kỳ sự giảm bớt nào đối với các "rào cản" còn lại. Mặt khác, đối với Việt Nam, hiệp định đã tạo cơ hội tốt cho việc điều chỉnh toàn diện khung pháp lý và quy định của nhiều lĩnh vực dịch vụ, trong một số trường hợp bao gồm việc tiếp cận thị trường mới và các cam kết đối xử quốc gia vượt ra ngoài GATS. Trong văn bản của FTA, chúng tôi đã xác định được khoảng 320 yếu tố cụ thể theo từng lĩnh vực, bao gồm: • Trong lĩnh vực ngân hàng thương mại, Việt Nam thực hiện các cam kết ràng buộc về chế độ mở hiện nay về chuyển giao thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính. Ngoài ra, Việt Nam đã đồng ý tự do hóa các yêu cầu phê duyệt của cơ quan quản lý đối với các sản phẩm hoặc dịch vụ ngân hàng mới và loại bỏ các hạn chế khác để cạnh tranh trong lĩnh vực này. Ví dụ, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài do một tổ chức tài chính EU kiểm soát, theo thỏa thuận, được phép nộp báo cáo tài chính kết hợp bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và báo cáo lưu chuyển tiền tệ, có nghĩa là báo cáo cá nhân không còn cần thiết.Về bảo hiểm, Việt Nam đồng ý ràng buộc chế độ mở của mình liên quan đến việc chuyển dữ liệu và quyền riêng tư dữ liệu và phê duyệt theo quy định đối với các sản phẩm mới. Việt Nam cũng đồng ý đảm bảo tự do hóa và không áp đặt các yêu cầu phân biệt đối xử đối với tài sản thế chấp và nội địa hóa tài sản. • Về chứng khoán, Việt Nam cam kết cho phép tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với việc cung cấp xử lý dữ liệu tài chính xuyên biên giới và cung cấp tư vấn, trung gian và các chứng khoán phụ trợ khác liên quan đến giao dịch cho tài khoản của khách hàng hoặc cho tài khoản của khách hàng miễn là họ được phép cung cấp dịch vụ tài chính của riêng Việt Nam, tham gia vào các vấn đề của tất cả các loại chứng khoán, thanh toán quản lý tài sản và dịch vụ thanh toán bù trừ cho chứng khoán, v.v. • Việt Nam cũng đưa ra các cam kết áp dụng cho tất cả các dịch vụ tài chính nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế về quy định và giám sát trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và đấu tranh chống trốn thuế được thực hiện và áp dụng trên lãnh thổ của mình; Việt Nam cũng đồng ý với một bộ nguyên tắc về tính minh bạch và sẽ đưa ra các yêu cầu để hoàn thành các ứng dụng liên quan đến việc cung cấp dịch vụ tài chính và thông báo cho người nộp đơn về tình trạng ứng dụng của mình, trong số những người khác. • Về dịch vụ chuyển phát nhanh, Việt Nam cam kết thực hiện việc tách kế toán các chức năng thương mại và theo luật định và cải thiện các ràng buộc để tiếp cận thị trường không phân biệt đối xử đối với các 117
  12. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng công ty dịch vụ chuyển phát nhanh tư nhân. Việt Nam đồng ý tự do hóa các dịch vụ bưu chính, ngoại trừ các nghĩa vụ dịch vụ phổ cập và dịch vụ bảo lưu, điều đó có nghĩa là trong khi nhiều dịch vụ bưu chính vẫn được cung cấp dưới sự độc quyền, theo FTA, Việt Nam sẽ cho phép EU hưởng lợi từ tự do hóa hơn nữa trong lĩnh vực này khi điều này sẽ được quyết định. Ví dụ, có khả năng việc cung cấp dịch vụ phổ cập sẽ bị thay đổi và một số dịch vụ bưu chính sẽ không được bảo lưu chỉ được cung cấp bởi nhà cung cấp dịch vụ phổ cập như trường hợp ngày nay. Nếu điều này xảy ra, thì EU sẽ được hưởng lợi thông qua các cam kết rộng rãi của Việt Nam trong FTA và do đó các nhà cung cấp của EU sẽ có thể cung cấp các dịch vụ tự do hóa như vậy. Việt Nam cũng sẽ vượt xa các cam kết GATS về các vấn đề đảm bảo cạnh tranh công bằng hơn bằng cách ngăn chặn các hành vi chống cạnh tranh trong lĩnh vực bưu chính, cam kết áp dụng các tiêu chuẩn nhất định về cấp phép và các điều khoản đảm bảo sự độc lập của cơ quan bưu chính và sự công bằng của các bên tham gia thị trường. • Về dịch vụ vận chuyển – kho vận, Việt Nam đồng ý ràng buộc các cam kết trong môi giới hải quan, xử lý hàng hóa và xử lý mặt đất liên quan đến việc cho các doanh nghiệp tiếp cận với tình trạng của nhà điều hành kinh tế được ủy quyền (AEO). Việt Nam cũng cam kết đầy đủ các trạm container xuyên biên giới, kho và dịch vụ xử lý; dịch vụ lưu trữ và kho bãi; dịch vụ nạo vét. Ngoài ra, có tiếp cận thị trường mới cho hành khách xuyên biên giới và vận tải hàng hóa và hành khách và vận tải hàng hóa hàng hải. Đồng ý tăng sự hiện diện thương mại cổ phần vốn nước ngoài từ 49% lên đến 70%. Cuối cùng, Việt Nam cũng sẽ cho phép, ủy quyền chủ thể, các nhà cung cấp dịch vụ vận tải hàng hải quốc tế của EU và / hoặc các quốc gia thành viên của mình để định vị lại các container rỗng thuộc sở hữu / thuê của họ và cung cấp dịch vụ trung chuyển, giữa các cảng nhất định của Việt Nam. • Về dịch vụ kinh doanh, lần đầu tiên Việt Nam cam kết toàn bộ lĩnh vực dịch vụ máy tính thay vì chỉ cam kết một số phân ngành nhất định nắm bắt được tất cả các công nghệ tương lai trong lĩnh vực này. • Về dịch vụ môi trường, Việt Nam lần đầu tiên cam kết cung cấp dịch vụ vệ sinh (và các dịch vụ tương tự) cũng như các dịch vụ bảo vệ thiên nhiên và cảnh quan cho tất cả các phương thức cung cấp mà không có bất kỳ hạn chế nào đối với cả tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. • Về giáo dục, lần đầu tiên Việt Nam cam kết cung cấp dịch vụ giáo dục đại học xuyên biên giới để tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. • Trong dịch vụ phân phối, Việt Nam cam kết loại bỏ hoàn toàn yêu cầu thử nghiệm nhu cầu kinh tế đối với các cửa hàng dịch vụ bán lẻ trong vòng 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Do Việt Nam thực hiện các cam kết GATS về phân phối rượu vang và rượu mạnh theo cách khá hạn chế, 2 bên đã ký kết thêm một Hiểu biết về các dịch vụ phân phối rượu vang và rượu mạnh để đảm bảo rằng các cam kết trong GATS không được thực thi theo cách bất lợi cho nhà cung cấp rượu vang và rượu mạnh của EU. • Về viễn thông, các cam kết của Việt Nam liên quan đến sự hiện diện thương mại bao gồm tăng giới hạn vốn cổ phần nước ngoài cho tất cả các dịch vụ viễn thông cơ bản phi cơ sở (bao gồm điện thoại thoại, dữ liệu chuyển mạch gói, chuyển mạch, dịch vụ mạch thuê riêng, vv từ 65% Vốn pháp định của các công ty liên doanh lên 75% trong thời gian chuyển tiếp là 5 năm. Việt Nam cũng tăng mức vốn chủ sở hữu nước ngoài của các công ty cung cấp dịch vụ mạng không cần lập trụ sở tại Việt Nam từ 70 lên 75%. Ngoài ra, Việt Nam cam kết thực hiện một bộ quy tắc pháp lý nhằm đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà khai thác, trong và ngoài nước như phí cấp phép, truy cập và kết nối, tính di động số cho các dịch vụ di động, địa điểm, mạch thuê và các yếu tố mạng không được bảo vệ. Đồng thời, Việt Nam đưa ra các nguyên tắc rất quan trọng về hoạt động của các cơ quan quản lý đảm bảo sự độc lập của họ trong khi điều tiết ngành. • Việt Nam cũng đồng ý với một bộ nguyên tắc nhằm điều chỉnh các thủ tục cấp phép và tiêu chuẩn được đưa vào một Chương dành riêng cho quy định trong nước. Những nguyên tắc này sẽ đảm bảo rằng các yêu cầu và thủ tục cấp phép không được sử dụng như một phương tiện để cản trở sự gia nhập thị trường và ngăn cản sự phát triển của cạnh tranh công bằng. Người xin cấp giấy phép sẽ được bảo vệ hơn nữa trước mọi sự đối xử tùy tiện đối với các ứng dụng của họ trong khi một bộ quyền được đảm bảo như quyền kháng cáo, để có được phản hồi về đơn đăng ký của họ trong khung thời gian hợp lý, v.v. 118
  13. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng • Về các dịch vụ liên quan đến sức khỏe, Việt Nam lần đầu tiên cam kết cho phép sự hiện diện thương mại của các dịch vụ xã hội (có chỗ ở và không có chỗ ở) hoàn toàn qua biên giới mà không bị giới hạn. Hơn nữa, Việt Nam bãi bỏ giới hạn GATS cho các bệnh viện rằng "Vốn đầu tư tối thiểu cho sự hiện diện thương mại trong dịch vụ bệnh viện phải có ít nhất 20 triệu đô la Mỹ cho một bệnh viện, 2 triệu đô la Mỹ cho một đơn vị chính trị và 200.000 đô la Mỹ cho một đơn vị chuyên khoa." Sau khi bãi bỏ các quy định này, bao gồm trong GATS, Việt Nam cam kết hoàn toàn tuân theo các điều khoản trong FTA đối với các dịch vụ y tế và nha khoa. 3.4. Đầu tư Việt Nam có thể thu được nhiều lợi ích từ việc tham gia một hiệp định thương mại tự do với EU, xét cả từ góc độ thương mại cũng như góc độ tăng thu hút đầu tư. Phân tích định tính cho thấy Việt Nam sẽ thu được lợi ích đáng kể nhất từ việc tự do hóa khu vực dịch vụ (xét cả về giá trị và chất lượng của FDI, cũng như cả về lợi ích kinh tế chung). Có thể thấy cơ sở của nhận định này thể hiện qua tỷ trọng tiềm năng về xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam, qua sự mong muốn của EU về mở cửa hơn nữa lĩnh vực dịch vụ trong các FTA, cũng như qua nhu cầu cấp bách với Việt Nam phải tăng cường sức cạnh tranh của khu vực dịch vụ. Không nghi ngờ gì về việc khu vực sản xuất hàng công nghiệp chế tạo ở Việt Nam có khả năng cạnh tranh nhất định. Sự kết hợp lao động giá rẻ với quyền tiếp cận thị trường ASEAN+ một cách tự do đang tạo điều kiện cho Việt Nam trở thành trung tâm chung chuyển xuất khẩu sang toàn khu vực. Có FTA với EU sẽ không chỉ giúp tăng cường thu hút đầu tư của EU vào Việt Nam mà còn đem lại thêm các lợi ích khác đối với nền kinh tế Việt Nam. Lợi ích này được thể hiện rõ qua việc Việt Nam có thể tận dụng để tăng cường hơn nữa vị thế là cơ sở sản xuất và xuất khẩu (hàng hóa chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn từ EU; thị trường lớn hơn với 3,5 tỷ người; tăng chuyển giao công nghệ sang Việt Nam), từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn, có chất lượng đầu tư tốt hơn từ cả bên trong và bên ngoài khu vực FTA. Mặc dù FDI có thể tăng cao đối với khu vực công nghiệp, nhưng lợi ích lớn nhất với Việt Nam có khả năng đến từ việc tự do hóa đối với các lĩnh vực dịch vụ. Lợi ích này không chỉ thể hiện thông qua các tác động kinh tế lớn từ việc tự do hóa dịch vụ mà còn thông qua thu hút đầu tư từ EU. Tỷ trọng xuất khẩu lớn của các ngành dịch vụ của EU hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu đang gia tăng của Việt Nam, đang đòi hỏi phải tăng cường năng lực sản xuất và xây dựng một khu vực dịch vụ năng động. Mặc dù có những lợi ích lớn như vậy, nhưng khi xét đến yếu tố quyết tâm chính trị thì cũng có thể thấy rằng tự do hóa dịch vụ là quyết định khó khăn trong các khung khổ FTA. Khó khăn này đi liền với tính chất đặc thù của nhiều ngành dịch vụ được coi là dịch vụ công ích (đặc biệt như viễn thông, năng lượng, vận tải), đòi hỏi quá trình tự do hóa các lĩnh vực này phải được chuẩn bị trước thông qua cải cách trong nước và giải quyết vấn đề lợi ích của các bên có lợi ích liên quan ở trong nước. Theo như kinh nghiệm đã có trong các FTA giữa một bên là nước phát triển và một bên là nước đang phát triển, thì một giải pháp chính để xử lý vấn đề này đó là sử dụng FTA để ràng buộc các chương trình cải cách về quản lý nhà nước cũng như cải cách kinh tế trong nước. Cho tới gần đây vẫn chưa có thảo luận mang tính kinh nghiệm và học thuật về tác động của một hiệp định thương mại ưu đãi đối với luồng đầu tư đổ vào các nước thành viên hiệp định, nhất là trên quan điểm đánh giá trước. Trong vòng 10 năm qua, các hiệp định về đầu tư, dưới hình thức Hiệp định Đầu tư song phương (BIT) hay các chương độc lập trong một hiệp định thương mại tự do, trở thành một trong những công cụ quan trọng nhất để thu hút đầu tư nước ngoài vào nước tham gia hiệp định. Trên khía cạnh này, xu hướng gần đây của các FTA giữa EU với ASEAN dường như đi theo hướng này, với việc tất cả các FTA đều có một chương về đầu tư độc lập hoặc chí ít quy định trong hiệp định khung về khả năng thêm một chương như vậy vào bản hiệp định FTA. Theo đó, cần phân tích tác động của các FTA đối với luồng đầu tư trong và ngoài phạm vi FTA của các nước thành viên. Rất tiếc là mọi nghiên cứu định lượng thực hiện tới nay đều áp dụng một mô hình kinh tế chỉ phân tích hiệu ứng trước-sau của các FTA đối với luồng đầu tư đổ vào. Tuy nhiên, một vài nghiên cứu hiện có đều khẳng định mối quan hệ tích cực giữa FTA với đầu tư. Theo đó, nhằm đành giá tác động tiềm tàng đối với luồng đầu tư đổ vào khi hình thành một khu vực mậu dịch tự do, phân tích sẽ chỉ giới hạn ở những ảnh hưởng mang tính lý thuyết và định tính. Trên khía 119
  14. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng cạnh này, về mặt khái niệm, cần phân biệt rõ giữa luồng đầu tư vào nhờ việc tự do hóa thương mại hàng hóa với luồng đầu tư vào nhờ các bước tự do hóa sâu hơn như tự do hóa thương mại dịch vụ. Trong phân tích này sẽ không tính tới các cải cách quy định nói chung hay việc hình thành các quy định liên quan đến đầu tư đặc biệt, cũng như những nội dung được đưa vào trong các Hiệp định Đầu tư song phương (như cơ chế giải quyết tranh chấp, đối xử công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử ). Các nghiên cứu đã chứng minh rằng, trừ khi cải cách quy định tạo hiệu ứng tự do hóa hoàn toàn thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài (như trường hợp tự do hóa dịch vụ) hoặc tạo ra những động cơ khuyến khích từ góc độ tài chính hay quy định quản lý đối với nhà đầu tư nước ngoài, thì việc xây dựng các quy định tạo thuận lợi chung cho hoạt động kinh doanh hoặc hình thành nên cơ chế giải quyết tranh chấp chỉ có tác động rất nhỏ để thu hút thêm đầu tư. 3.4.1. Tự do hóa Thương mại hàng hóa và luồng đầu tư vào Mặc dù ngày càng hình thành nhiều hiệp định thương mại tự do để tự do hóa thương mại dịch vụ hay để thể chế hóa các nghĩa vụ cải cách quy định như trong trường hợp quyền sở hữu trí tuệ, các điều khoản về cạnh tranh hay quy định về đầu tư, nhưng nội dung cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế đối với thương mại hàng hóa vẫn là những nội dung chính nằm đằng sau mỗi khu vực mậu thương mại tự do. Tài liệu kinh tế cho thấy trải qua nhiều năm, kết quả chính của một FTA là cái được gọi là hiệu ứng “hình thành thương mại” hay “chuyển hướng thương mại”, nghĩa là FTA hình thành thương mại mới giữa các thành viên, đồng thời chuyển hướng thương mại từ các nước thứ ba sang các nước thành viên FTA. Đồng thời, việc hình thành khu vực thương mại tự do có tác động quan trọng tới tổng mức đầu tư nước ngoài trong và ngoài phạm vi FTA của các nước thành viên hiệp định. Liên quan đến thương mại hàng hóa, các hiệp định thương mại tự do áp dụng phân biệt đối xử rõ ràng giữa các nước trong và ngoài FTA, đối với các nước thành viên FTA, cắt giảm tất cả thuế và hàng rào phi thuế gây cản trợ luồng luân chuyển hàng hóa tự do giữa các nước này, trong khi vẫn duy trì mọi rào cản thương mại đối với các nước không phải là thành viên FTA. Điều này áp dụng như thế nào đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài? Một trong các nhân tố quyết định quan trọng nhất tại nước tiếp nhận đối với FDI là quy mô thị trường, cho phép các tập đoàn đa quốc gia (MNEs) được hưởng lợi thế kinh tế nhờ quy mô, tăng hiệu quả và giảm giá thành sản xuất. Việc hình thành một FTA cơ bản sẽ tác động hình thành một thị trường rộng lớn hơn giữa các thành viên cho phép thương mại tự do giữa các công ty ở những nước này, nhưng lại có thể phân biệt đối xử chống lại các nước phi thành viên và công ty của những nước này. Nhằm đánh giá tác động mà sự phân biệt đối xử này đối với quyết định của công ty đa quốc gia (MNE) khi đầu tư vào nước tiếp nhận là thành viên của FTA, cần phân biệt giữa luồng đầu tư vào thuộc phạm vi trong và ngoài FTA. 3.4.2. Luồng đầu tư trong FTA Việc hình thành một thị trường rộng lớn hơn tác động phức tạp tới mọi công ty trong khu vực khiến các công ty trong dài hạn phải điều chỉnh trước sự năng động mới trong kinh doanh. Bên cạnh đó, những tác động nêu trên kết hợp với việc hình thành một khu vực mậu dịch tự do (có lợi thế kinh tế về quy mô, hiệu quả lớn hơn, giá thành sản xuất giảm), thị trường mở rộng sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh lên các công ty, buộc họ phải tổ chức lại mạng lưới của mình thành những đơn vị sản xuất chuyên môn hóa phục vụ cho toàn bộ thị trường khu vực và có thể chỉ tập trung vào sản phẩm cuối cùng đáp ứng nhu cầu của khu vực mậu dịch tự do hoặc tập trung sản xuất từng cấu phần đơn lẻ để chuyển sang lắp ráp bởi các công ty nhánh khác. Mặc dù khó đoán được tác động của việc tổ chức lại mạng lưới sản xuất đối với luồng FDI vào, trong trường hợp các FTA bắc-nam với các nước chuyên sản xuất các sản phẩm cần nhiều nhân công, việc tổ chức lại này có thể khiến chuyển hướng đầu tư từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, dẫn tới tình trạng đóng cửa các công ty nhánh hoạt động không hiệu quả ở một số nước và mở rộng hoặc thành lập các công ty nhánh mới ở các nước khác. 120
  15. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Những nghiên cứu thực tiễn đã khẳng định giả thuyết này là đúng. Trong lĩnh vực này, Te Velde and Bezemer (2006) nhận thấy quốc gia càng lớn so với các nước thành viên khác, thì càng thu hút được nhiều FDI hơn nhờ hội nhập khu vực vì các nhà đầu tư sẽ tìm cách tiếp cận với các thị trường có nhu cầu lớn nhất. Hệ quả tức thì sẽ là các nước có vị trí địa lý xa nước thành viên lớn nhất của FTA sẽ thu hút ít FDI hơn. Trong bối cảnh FTA EU-Việt Nam trong tương lai, việc ký kết ngay hiệp định có khả năng sẽ làm tăng đầu tư cho phía EU. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là, theo kênh thương mại hàng hóa, Việt Nam còn có tư cách thành viên của ASEAN (thị trường với 600 triệu người tiêu dùng) cùng với tổng cộng 5 FTA khác mà ASEAN và Việt Nam đã ký kết với các nước đối tác. Số FTA của Việt Nam mang lại cho các nhà đầu tư EU tại Việt Nam một thị trường lên tới 3 tỷ người kéo từ Ấn Độ sang Nhật Bản và xuống phía nam tới tận New Zealand và Úc. Hệ quả tức thì là các nước ở xa thành viên lớn nhất của FTA sẽ thu hút lượng FDI ít hơn. 3.4.3. Tác động đối với Việt Nam Các công ty châu Âu đã hiện diện tại Việt Nam trong nhiều ngành khác nhau (như ô tô, xe máy, dệt, may mặc, giầy dép, điện tử ). Việc giảm các rào cản thương mại giữa EU và Việt Nam sẽ không thay đổi đáng kể mô hình sản xuất của các công ty đa quốc gia (MNE) châu Âu vì vẫn còn những động lực chính thu hút FDI ở Việt Nam (lực lượng lao động rẻ, quy mô thị trường lớn và giá thành sản xuất nói chung thấp). Ngoài ra, Việt Nam sẽ không còn thu hút được những ngành cần cơ sở hạ tầng đầy đủ và công nghệ cao với lực lượng lao động tay nghề cao (như công nghệ sinh học hay dược phẩm) khi ký FTA, thay vào đó, các ngành này sẽ lựa chọn sản xuất ở những môi trường thuận lợi hơn, chí ít trong tương lai trước mắt. Trên thực tế, việc giảm rào cản thương mại sẽ có 3 tác động chính: (i) Tạo thêm một thị trường xuất khẩu cho Việt Nam với 600 triệu dân. Thị trường này sẽ dành “khu vực thuế suất bằng 0” cho Việt Nam với 3,5 tỷ người tiêu dùng. Trở ngại ở đây là khoảng cách địa lý xa xôi ngăn cách châu Âu với Việt Nam. Trên khía cạnh này, việc cải thiện thuận lợi hóa thương mại và giảm chi phí vận tải chắc chắn sẽ là một lợi thế. (ii) Giúp giảm giá thành các đầu vào có giá trị được sản xuất ở châu Âu (như linh kiện công nghệ cao hoặc máy móc) sau đó xuất sang Việt Nam. Đây có thể có hai tác động tiềm tàng: một là, công nghệ rẻ hơn của châu Âu có thể thúc đẩy năng lực sản xuất của các công ty và nhìn chung cải thiện trình độ công nghệ ở Việt Nam với mọi tín hiệu tích cực gắn liền theo đó. Điều này quay trở lại có thể thu hút thêm FDI để nâng cấp công nghệ hoặc dẫn tới việc hình thành các ngành mới (như đã diễn ra với ngành công nghệ sinh học ở Malaysia). Hai là, Việt Nam có thể nhập khẩu từ châu Âu với giá rẻ hơn các linh kiện không sẵn có ở khu vực ASEAN + (như công nghệ cao hoặc sản phẩm cao cấp), sau đó có thể được lắp ráp ở các chi nhánh sản xuất ở Việt Nam. Điều này đổi lại có thể làm tăng sức hấp dẫn của sản phẩm Việt Nam, tạo sự khác biệt cho các sản phẩm này so với các sản phẩm do Trung Quốc sản xuất. (iii) Thu hút FDI của nước thứ ba mong muốn được hưởng lợi từ sức hấp dẫn gia tăng của Việt Nam với tư cách là một xưởng sản xuất (hiệu ứng “nhảy qua hàng rào thuế”). Mọi tác động này có thể dẫn tới việc tái cơ cấu dây chuyền cung ứng của các công ty đa quốc gia (MNE), mặc dù khó có thể đoán trước được những việc này. Đồng thời, cũng không thể lượng hóa trước được số lượng FDI mà Việt Nam sẽ thu hút và các ngành, lĩnh vực tiếp nhận các khoản đầu tư này. Việt Nam sẽ được lợi nhiều từ một hiệp định thương mại tự do với EU, cả trên khía cạnh thương mại lần đầu tư tăng cao. Theo một phân tích định tính, có vẻ như Việt Nam sẽ thu được lợi ích lớn nhất (không chỉ liên quan đến khối lượng và chất lượng FDI, mà còn cả những lợi ích kinh tế chung) từ tự do hoá dịch vụ. Tính cạnh tranh của ngành chế tạo của Việt Nam là quá rõ ràng. Sự kết hợp của lao động giá rẻ với tiếp cận thị trường tự do của khu vực ASEAN + cho phép Việt Nam trở thành một trung tâm xuất khẩu tiềm năng của toàn khu vực. Một hiệp định thương mại tự do với EU không chỉ tăng tỷ trọng của công ty châu Âu đầu tư vào Việt Nam, mà còn mang lại thêm lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam. Những lợi ích này là việc tăng sức hút của Việt Nam với tư cách là cơ sở sản xuất và xuất khẩu (hàng rẻ và tốt hơn từ châu Âu; thị trường 121
  16. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng mở rộng hơn với 3,5 tỷ dân; tăng chuyển giao công nghệ cho Việt Nam), những điều này quay trở lại sẽ thu hút nhiều đầu tư có chất lượng tốt hơn nữa từ trong và ngoài khu vực FTA. Mặc dù FDI vào khu vực chế tạo có khả năng tăng lên, dường như Việt Nam sẽ còn thu được lợi ích lớn hơn từ tự do hoá mang tính ưu đãi một số ngành dịch vụ của nước này. Những lợi ích này không chỉ tới từ tác động kinh tế to lớn do tự do hoá dịch vụ gây ra, mà còn tới dưới hình thức FDI của EU. Trên thực tế, tỷ trọng xuất khẩu cao của ngành dịch vụ EU dường như rất phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng về cải thiện năng lực sản xuất của Việt Nam, và rộng hơn nữa, là phát triển theo hướng các tiêu chuẩn phù hợp với các nước có thu nhập trung bình, vốn thường tăng trưởng dựa trên một ngành dịch vụ năng động. Mặc dù có những tính toán này, kinh nghiệm dường như cho thấy kinh tế chính trị của tự do hoá dịch vụ đang khiến cho việc tự do hoá thương mại dịch vụ trên cơ sở ưu đãi trở nên khó khăn. Một giải pháp có thể là sử dụng FTA để thúc đẩy cải cách quy định và kinh tế trong nước như đã diễn ra trong nhiều FTA khác trên thê giới. 4. Phân tích định lượng 4.1. Phương pháp phân tích Trong nghiên cứu của European Commisssion (2017), việc phân tích định lượng, sử dụng mô hình cân bằng tổng thể động (CGE), đánh giá tác động kinh tế của EVFTA được thực hiện dựa trên các cam kết về giảm thuế và thuế xuất khẩu cũng như các hàng rào phi thuế quan ảnh hưởng đến trao đổi hàng hóa và dịch vụ xuyên biên giới giữa EU và Việt Nam (bao gồm cả giá trị cam kết ràng buộc của các cam kết tiếp cận thị trường vượt ra ngoài WTO. Các mô hình CGE là các công cụ được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá tác động của các chính sách thương mại bằng cách mô phỏng các giá trị đáp ứng của các biến số kinh tế vĩ mô như thu nhập, giá cả, sản xuất và thương mại và so sánh chúng với các giá trị của các biến kinh tế vĩ mô cơ sở. Trong trường hợp các mô hình CGE động, đường cơ sở sẽ mở rộng trong toàn bộ thời gian thực hiện. Các xu hướng kinh tế vĩ mô, công nghệ và việc làm dài hạn cơ bản là giống nhau trong đường cơ sở và trong kịch bản chính sách sao cho bất kỳ sự khác biệt nào giữa hai về giá trị của các biến kinh tế vĩ mô mô phỏng chỉ được điều khiển bởi sự thay đổi chính sách thương mại. Mô hình động GTAP sử dụng dữ liệu GTAP thế hệ thứ 9 được áp dụng để tính toán tác động của EVFTA cho đến năm 2035. Thời điểm cuối cùng của việc cắt giảm thuế NK là 10 năm sau khi FTA bắt đầu có hiệu lực, con số tương ứng cho thuế XK là 16 năm. Nghiên cứu giả định là EVFTA sẽ bắt đầu có hiệu lực từ năm 2019, nên thời điểm kết thúc vào năm 2035 sẽ đảm bảo thời gian để tác động của việc cắt giảm thuế quan có thể tạo ra đầy đủ các tác động. 4.2. Tác động của FTA đến EU và Việt Nam Kết quả phân tích theo mô hình CGE cơ bản cho thấy tác động của EVFTA đến kinh tế của 2 bên là có sự khác biệt. Trong khi mô hình CGE cho thấy rằng, đến năm 2035, Việt Nam sẽ đạt được khoản phúc lợi kinh tế tăng thêm khoảng 6 tỷ Euro với việc tham gia vào EVFTA. Trong trường hợp của EU, mức phúc lợi gia tăng sẽ chỉ là 1,9 tỷ Euro, chủ yếu phản ánh những cải thiện về mặt thương mại (terms of trade). Đối với cả VN và EU, đây là khoản phúc lợi ròng sau khi đã trừ đi phần thiệt hại do giảm thuế. Sự khác biệt về quy mô tác động của FTA đối với EU và Việt Nam phản ánh các điều kiện ban đầu. EU là đối tác thương mại lớn hơn nhiều đối với Việt Nam so với Việt Nam đối với EU. Điều này có nghĩa là lợi nhuận kinh tế từ tự do hóa song phương và cải thiện kết quả tiếp cận thị trường sẽ nhất thiết chuyển thành lợi ích kinh tế vĩ mô lớn hơn cho Việt Nam. Hơn nữa, hiệp định đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện nỗ lực tự do hóa lớn hơn nhiều so với EU. Điều này có nghĩa là ở Việt Nam sẽ có nhiều phạm vi hơn để gặt hái lợi nhuận kinh tế từ hiệu quả đạt được. Cụ thể ở đây, mô hình CGE cho thấy, đến năm 2035, xk của EU sang Việt Nam sẽ tăng khoảng 29%, trong khi xk của Việt Nam sang EU dự kiến tăng khoảng 18%. Về mặt số liệu tuyệt đối, xk hàng hóa và dịch vụ từ VN sang EU sẽ tăng thêm khoảng 15 tỷ Euro, phía ngược lại xk từ EU sang VN sẽ tăng khoảng 8,3 tỷ Euro. Kết quả phân tích cho thấy rõ rằng các tác động của FTA lên các ngành là khác nhau đáng kể, đặc biệt là về tỷ lệ phần trăm. Các ngành xuất khẩu của Việt Nam sang EU chịu tác động đáng chú ý nhất là "may 122
  17. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng mặc" (tăng khoảng 5 tỷ Euro) và "sản phẩm da" (tăng khoảng 7 tỷ Euro). Ngược lại, một số lĩnh vực thiết bị Việt Nam xuất khẩu sang EU như "điện tử" và "máy móc thiết bị khác" cho thấy có sự suy giảm (mặc dù vừa phải). Điều này chỉ ra rằng FTA có thể thúc đẩy chuyên môn hóa hơn nữa trong các lĩnh vực mà Việt Nam có truyền thống nắm giữ lợi thế so sánh. Về xuất khẩu của EU sang Việt Nam, các tác động được phân bổ đều hơn giữa các ngành: mức tăng chính được dự kiến là "phương tiện vận tải" (tăng 1,5 tỷ Euro), "hóa chất, cao su và nhựa" (tăng 655 triệu Euro), "truyền thông" (tăng 632 triệu Euro), "thực phẩm khác" (tăng 578 triệu Euro), "máy móc và thiết bị khác" (tăng 575 triệu Euro), "thiết bị vận chuyển" (tăng 572 triệu Euro), "dịch vụ kinh doanh" (tăng 535 triệu Euro) và "sản phẩm da" (tăng 450 triệu Euro). Đối với các lĩnh vực khác, sự gia tăng dự kiến về giá trị thương mại là rất khiêm tốn. Tác động của sự gia tăng đáng kể nhập khẩu các sản phẩm da và hàng may mặc từ Việt Nam đối với các nhà sản xuất EU là do sự kết hợp giữa lợi nhuận xuất khẩu và chuyển hướng thương mại. Các nhà xuất khẩu sản phẩm da của EU kiếm được lợi nhuận đáng kể (700 triệu Euro) tại thị trường Việt Nam và các nơi khác. Hơn nữa, phần lớn thị phần mà Việt Nam chiếm được tại thị trường EU là do sự giảm sút nk từ bên thứ ba: tổng nhập khẩu các sản phẩm da và giày dép của EU chỉ tăng 1,9 tỷ Euro. Tình hình tương tự trong lĩnh vực may mặc với tổng nhập khẩu do chỉ tăng 1,2 tỷ Euro. 4.3. Chi tiêu công Mặc dù rất khó để đưa ra một định lượng chính xác về tác động kinh tế của các điều khoản pháp lý có trong thỏa thuận FTA liên quan đến hoạt động của thị trường mua sắm công, đây là một lĩnh vực mà lợi nhuận quan trọng được mong đợi vì Việt Nam hiện đang nỗ lực đầu tư công quan trọng để cải thiện cơ sở hạ tầng kém phát triển. Cơ sở hạ tầng giao thông nghèo nàn thường được chỉ ra là một nút cổ chai quan trọng cho việc tiếp tục hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước. Sự cởi mở và minh bạch hơn trong thị trường mua sắm công của VN sẽ mang lại lợi ích cho các công ty EU bằng cách cho họ khả năng đấu thầu các hợp đồng công liên quan đến đầu tư cơ sở hạ tầng. Điều này cũng sẽ tạo ra lợi ích cho Việt Nam bằng cách cho các tổ chức công của mình tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ với tỷ lệ chất lượng/giá tốt hơn. Cho đến nay, tổng giá trị của đấu thầu mua sắm công ở Việt Nam vẫn còn nhỏ; năm 2014 con số này là 16,8 tỷ Euro, chiếm khoảng 12% GDP của Việt Nam. Hiện nay đấu thầu công khai là hình thức chiếm ưu thế trong đầu tư công (58% tổng giá trị của đấu thầu), lên tới khoảng 9,7 tỷ Euro. Đấu thầu chỉ định chỉ chiếm 24% tổng giá trị mua sắm (4,1 tỷ Euro) nhưng chiếm tỷ trọng lớn dựa trên số lượng các cuộc đấu thầu. Điều này là do bởi chỉ định thầu thường xảy ra với các hợp đồng nhỏ hơn (giá trị trung bình là 41 ngàn Euro). Ngược lại, giá trị trung bình cho đấu thầu công khai là khoảng € 586,767. Hiện nay, mua sắm công được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật Đấu thầu năm 2013, trong đó đưa ra các quy tắc cho việc lựa chọn nhà thầu. Vì luật này được ban hành sau khi Việt Nam trở thành thành viên quan sát Hiệp định mua sắm của Chính phủ WTO (GPA), các quy định của nó đã phù hợp với thông lệ quốc tế đáng chú ý về định nghĩa, thủ tục đấu thầu và thông báo. Các thỏa thuận về mua sắm, đấu thầu chi tiêu công trong EVFTA được xây dựng dựa trên khung pháp lý hiện hành của Việt Nam để cải thiện tính minh bạch và sự chắc chắn về pháp lý liên quan đến đối xử quốc gia và tiếp cận thị trường. Theo như các quy tắc liên quan, Việt Nam đã chấp nhận các điều khoản về mua sắm của chính phủ kết hợp hơn 90% các quy tắc GPA sửa đổi, thậm chí có một số yếu tố GPA cộng cho cả hai bên.Các quy định và khung pháp lý cụ thể của đấu thầu mua sắm công có thể tiếp xúc trực tuyến tại các địa chỉ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư như: main/index_en.html. Tuy nhiên, với điều kiện của Việt Nam là nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp, việc tự do hóa về đấu thầu mua sắm công sẽ diễn ra từng bước. Thỏa thuận dự kiến các biện pháp xử lý và chuyển tiếp khác biệt liên quan đến các giá trị ngưỡng của từng thực thể cũng như các khoản bù đắp. Cụ thể hơn, thỏa thuận quy định một giai đoạn chuyển tiếp trong mười lăm năm cùng với việc giảm dần các ngưỡng lên tới mức tương đương với các mức được cung cấp bởi các thành viên GPA. Cụ thể hơn đối với các tổ chức chính phủ trực thuộc trung ương, ngưỡng khởi đầu cho hàng hóa và dịch vụ đã được cố định ở mức 1,5 triệu SDR, cuối 123
  18. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng cùng sẽ hội tụ đến ngưỡng 130.000 SDR mà hầu hết các thành viên GPA áp dụng. Đối với các địa phương, ngưỡng ban đầu cho hàng hóa và dịch vụ là 3 triệu SDR (ngưỡng này trong GPA là 450 ngàn SDR). Điều này có nghĩa là chỉ những hợp đồng rất lớn đối với các tiêu chuẩn của Việt Nam mới thực sự tuân theo các quy tắc không phân biệt đối xử mà Việt Nam đồng ý. Tuy nhiên, với tốc độ đầu tư của VN vào cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực như năng lượng, giao thông, xử lý nước thải và cung cấp nước, mà giá trị của các hợp đồng thường có xu hướng lớn, các thỏa thuận này vẫn có thể mang lại cơ hội kinh doanh quan trọng cho các công ty EU tại Việt Nam. 4.4. Hội nhập chuỗi giá trị toàn cầu Các quốc gia thuộc khối ASEAN đã đi qua giai đoạn đầu của hình thành phân mảnh sản xuất xuyên biên giới. Điều này dẫn đến việc tạo ra các chuỗi sản xuất hiệu quả về chi phí theo khu vực dựa trên những lợi thế so sánh của mỗi nền kinh tế tham gia, góp phần củng cố vị thế cạnh tranh cao của các quốc gia ASEAN trong thương mại toàn cầu. Việt Nam, tham gia tương đối trễ trong quá trình này và cho đến tận những năm gần đây xuất khẩu vẫn chủ yếu được giới hạn trong các sản phẩm cơ bản. Tuy nhiên, kể từ năm 2005, sự thay đổi trong danh mục sp xuất khẩu của nước ta đã phát triển cùng với sự tham gia ngày càng tăng trong chuỗi sản xuất của khu vực. Một động lực quan trọng là sự gia tăng của tiền lương thực tế ở Trung Quốc đã làm thay đổi giá tương đối trong khu vực. Việt Nam, với vị trí địa lý trung tâm và sự cải thiện nhanh chóng về cơ sở hạ tầng, đã dần dần trở thành một điểm đến hấp dẫn cho ngành công nghiệp nhẹ thâm dụng lao động ở châu Á. Ví dụ như, từ năm 2010, Việt Nam đã nổi lên từ như là một trung tâm lắp ráp các sản phẩm điện thoại di động, dựa trên các nguồn cung ứng từ Trung Quốc và các nền kinh tế Đông Á khác để chuyển đổi thành các sản phẩm cuối cùng dành cho xuất khẩu. FTA EU-Việt Nam thể hiện cơ hội thúc đẩy hội nhập chuỗi giá trị EU-Việt Nam thông qua gia tăng hoạt động FDI và mở rộng thương mại song phương về hàng hóa và dịch vụ trung gian giữa EU và Việt Nam. Đối với EU, điều này sẽ cải thiện khả năng tiếp cận vào một trung tâm lắp ráp đang phát triển trong khu vực ASEAN và châu Á. Đối với Việt Nam, nó sẽ thúc đẩy mối quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với một trung tâm công nghiệp lớn và nhà đầu tư lớn ở châu Á, cuối cùng là lợi ích của vị thế của nó trong chuỗi giá trị nội khối ASEAN. Các công ty EU dự kiến sẽ dẫn đầu quá trình này vì việc thiết lập các hoạt động tại Việt Nam là điều kiện để tích hợp vào chuỗi cung ứng của họ. Điều này có thể đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược của các doanh nghiệp EU để phục vụ thị trường châu Á rộng lớn hơn. Ngoài ra, các công ty từ các quốc gia khác sẽ được nhắc sử dụng các hoạt động sản xuất tại Việt Nam như một phương tiện để tạo ra một nền tảng để có quyền tiến vào vào thị trường EU với các ưu đãi do FTA đưa ra. Từ đó, các công ty Việt Nam có khả năng tận dụng cơ hội để gắn vào các chuỗi giá trị do EU hoặc các công ty nước thứ ba tổ chức. Nhìn chung, thỏa thuận này tạo cơ hội cho các doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam tham gia nhiều hơn vào việc chia sẻ sản xuất trong khu vực, đặc biệt là các lĩnh vực thâm dụng lao động. Việc tiếp cận ưu đãi vào thị trường EU sẽ giúp các doanh nghiệp này có lợi thế hơn so với các quốc gia khác trong khu vực. Cuối cùng, những phát triển liên quan đến chuỗi giá trị chính mà hiệp định EVFTA có thể mang lại sẽ được quyết định bởi các quyết định chiến lược của các công ty tại Việt Nam và tại EU dựa trên những thay đổi của môi trường kinh doanh. Điều này rất khó để đoán chính xác dựa trên việc phân tích dữ liệu hiện có. Đối với các công ty Việt Nam, với giai đoạn phát triển công nghệ mạnh mẽ hiện nay, các lợi ích lợi ích lơn nhất đó là có thể tham gia vào chuỗi giá trị do các công ty EU tổ chức. Do đó, lợi ích của các doanh nghiệp nội địa sẽ phù hợp với lợi ích của các công ty EU. Trong các lĩnh vực như "sản phẩm da" và "dệt may", những người hưởng lợi chính có thể là doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang cung cấp cho các chuỗi giá trị của doanh nghiệp EU. Tuy nhiên, với các quy định về xuất xứ khi gia nhập thị trường EU sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình chuỗi giá trị sản xuất tại Việt Nam. Ví dụ như trong lĩnh vực dệt may, yêu cầu chuyển đổi kép được dự đoán là sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển sản xuất vải. Một số công ty Việt Nam, trong các lĩnh vực khác (ít truyền thống hơn), cũng có thể sử dụng quyền gia nhập được cải thiện vào thị trường EU để hưởng lợi từ việc tái cấu trúc liên tục các chuỗi giá trị châu Á. Ví dụ, việc Việt Nam áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế mà hiệp định yêu cầu sẽ cho phép các doanh nghiệp 124
  19. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Việt Nam tham gia sản xuất dược phẩm, cải thiện cơ hội vượt qua một số nhà sản xuất tại Trung Quốc, vốn đang ngày càng chịu áp lực do chi phí lao động tăng. Điều này có thể dẫn đến việc thay thế Trung Quốc cho các đầu vào dược phẩm Việt Nam làm tiêu thụ trung gian trong chuỗi giá trị của EU. Hơn nữa, sự tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị của EU thông qua sản xuất nguyên liệu thô sẽ giúp Việt Nam khuyến khích tăng tốc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế để giành được các nhiệm vụ này trong cạnh tranh với các nền kinh tế Đông Nam Á khác. Việc chuyển đổi ở mức độ nào và nhanh như thế nào đối với các doanh nghiệp Việt Nam để có được vai trò trong chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ phụ thuộc vào các quyết định chiến lược của các công ty. Những điều này có thể dẫn đến việc mở rộng quy mô thương mại như trong trường hợp điện thoại di động khi chúng được dịch chuyển từ Trung Quốc. Nhưng những thay đổi không liên tục như vậy trong các mức độ giao dịch là không thể dự đoán được dựa trên các xu hướng hiện có trong dữ liệu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] European Commission. (2017). THE ECONOMIC IMPACT OF THE EU - VIETNAM FREE TRADE AGREEMENT. Retrieved from Luxembourg: Publications Office of the European Union: [2] Panagiotis Delimatsis. (2017). The evolution of the EU external trade policy in services–CETA, TTIP, and TiSA after brexit. Journal of International Economic Law, 20(3), 583-625. [3] Thu Hiền Doãn. (2015). Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: Cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam. Báo Diễn đàn Doanh nghiệp, Cơ quan của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Retrieved from cua-nen-kinh-te-viet-nam-90312.html [4] Mai Thu Hiền, & Bích, Nguyễn Ngọc. (2016). TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI THẾ HỆ MỚI ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM. Tạp chí Kinh tế Đối Ngoại, 82(số 82), 41-51. [5] Lâm Nguyễn. (2019). Tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với kinh tế Việt Nam. Tạp chí Tài Chính. [6] Sơn Ninh. (2019). Khởi động FTA thế hệ mới. Thời Nay - Ấn phẩm của báo Nhân Dân. Retrieved from tieudiem/item/38807402-khoi-dong-fta-the-he-moi.html [7] Jean Marc Philip, Laurenza, Eugenia, Pasini, Federico Lupo, Ân, Đinh Văn, Sơn, Nguyễn Hoài, Minh, Nguyễn Lê, & Tuấn, Phạm Anh. (2011). BÁO CÁO HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO GIỮA VIỆT NAM VÀ LIÊN MINH CHÂU ÂU: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ĐỊNH LƯỢNG VÀ ĐỊNH TÍNH. Retrieved from [8] Dirk Willem Te Velde, & Bezemer, Dirk. (2006). Regional integration and foreign direct investment in developing countries. Transnational Corporations, 15(2), 41-70. 125