Tài chính toàn diện - Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Tài chính toàn diện - Liên hệ thực tiễn Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_chinh_toan_dien_lien_he_thuc_tien_viet_nam.pdf
Nội dung text: Tài chính toàn diện - Liên hệ thực tiễn Việt Nam
- TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN - LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM TS. Ngô Đức Tiến ThS. Phùng Thu Hà TS. Nguyễn Thị Lan Học viện Tài chính Tóm tắt Tài chính toàn diện được coi là trụ cột quan trọng của tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững, góp phần huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội. Trong những năm gần đây, tài chính toàn diện đã trở thành một vấn đề được quan tâm trên phạm vi toàn cầu với mục tiêu phát triển hệ thống tài chính phục vụ cho tất cả các thành viên trong xã hội, cung cấp các dịch vụ phù hợp và thuận tiện với chi phí hợp lý cho mọi cá nhân và doanh nghiệp, qua đó góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia. Sự quan tâm đến vấn đề tiếp cận tài chính ngày càng nhiều cho thấy tầm quan trọng của tài chính toàn diện đối với phát triển kinh tế và xã hội. Việc tiếp cận các dịch vụ tài chính đóng một vai trò rất lớn trong việc giảm nghèo, nâng cao năng lực sản xuất xã hội cũng như thúc đẩy phát triển bền vững. Ở cấp quốc gia, khoảng hai phần ba các cơ quan quản lý và giám sát hiện nay chịu trách nhiệm về việc tăng cường tiếp cận tài chính toàn diện. Thành lập vào năm 2015 vẫn còn nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế trong vấn đề tiếp cận với tài chính toàn diện. Để hiểu hơn về tài chính toàn diện, bài viết này tập trung nghiên cứu và phân tích các chỉ số đo lường mức độ tài chính toàn diện của các nền kinh tế; từ đó liên hệ với thực tiễn Việt Nam. Từ khóa: Tài chính toàn diện, đo lường tài chính toàn diện Tài chính toàn diện (Financial Inclusion) là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi cá nhân và tổ chức, đặc biệt đối vơi người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luận chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Nhóm các nước G20 đều rất chú trọng đến việc hỗ trợ và thúc đẩy các quốc gia thực thi các giải pháp để đạt được mục tiêu về tài chính toàn diện. Đã có 55 nước đưa ra cam kết về thực thi tài chính toàn diện, hơn 30 nước ban hành hoặc đang xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tài chính toàn diện có nghĩa là các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính - các giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm - đáp ứng nhu cầu của họ và có mức chi phí hợp lý, được cung cấp theo một cách thức có trách nhiệm và bền vững. Liên minh Tài chính Toàn diện (AFI) định nghĩa về tài chính toàn diện rộng hơn và đa chiều hơn, nhấn mạnh đến cả khía cạnh chất lượng sử dụng dịch vụ. Theo đó, tài chính toàn diện là việc cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ tài chính sẵn có với mức chi phí hợp lý; làm cho khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính một cách thường xuyên; đưa ra những dịch vụ tài chính được thiết kế phù hợp với nhu cầu của người sử dụng. Tài chính toàn diện được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với tiếp cận tài chính. Một số người có khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính nhưng lại không muốn sử dụng trong khi nhiều người có nhu cầu lại không thể tiếp cận do những rào cản như chi phí quá cao, quy định pháp luật phức tạp, hoặc thiếu sản phẩm dịch vụ phù hợp. Tổng quát lại, tài chính toàn diện là tất cả việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức (thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm) một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu 328
- và với chi phí hợp lý tới tất cả người dân. Tài chính toàn diện không chỉ giới hạn trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người tiêu dùng. Lợi ích của tài chính toàn diện Tài chính toàn diện được coi là có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Khía cạnh quan trọng nhất của tài chính toàn diện là tiếp cận tài chính. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, tiếp cận tài chính có ý nghĩa vô cùng lớn trong xóa đói giảm nghèo, phân phối thịnh vượng công bằng, hỗ trợ phát triển toàn diện và bền vững. Thiếu tiếp cận tài chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến bất bình đẳng thu nhập, bẫy nghèo đói và hạ thấp tăng trưởng. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB, 2014) cho thấy một nửa số người trưởng thành trên thế giới, ước tính là 2,5 tỷ người, không có tài khoản tại một tổ chức tài chính chính thức. Trong số những người có tài khoản, chỉ có 9% đi vay được ở ngân hàng và 22% có tiền tiết kiệm gửi ở ngân hàng. Những trở ngại chủ yếu dẫn đến tình trạng này là chi phí giao dịch, khoảng cách địa lý và những thủ tục giấy tờ phức tạp. Bên cạnh đó còn có những lý do khác bao gồm cả nhận thức của người dân trong việc sử dụng các tiện ích của các dịch vụ tài chính hoặc nhiều người không muốn tiết lộ thông tin cá nhân. Nhóm người không tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng là những người nghèo, người trẻ tuổi, thất nghiệp, những người bị loại khỏi thị trường lao động, những người thiếu giáo dục hoặc những người sống ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Tài chính toàn diện mang lại những lợi ích không nhỏ cho xã hội và nền kinh tế. Tài chính toàn diện có thể tạo ra những tác động tích cực như: gia tăng tiết kiệm và đầu tư, qua đó, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế. Tiếp cận dịch vụ ngân hàng giúp các cá nhân và doanh nghiệp tìm được nguồn lực để đáp ứng những nhu cầu như vay vốn cho các cơ hội kinh doanh, đầu tư cho con cái học hành, hoặc dành tiền tiết kiệm khi về hưu Vay vốn ngân hàng còn giúp người nông dân, người nghèo bảo vệ mình trước những cú sốc hay rủi ro trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, mất mùa, thiên tai. Người nghèo sẽ tránh được vòng luẩn quẩn khi phải đi vay ở khu vực không chính thức với lãi suất cao, khiến cho gánh nặng trả nợ càng cao để rồi nghèo sẽ càng nghèo hơn, thậm chí bị bần cùng hóa. Những người không có tài khoản ngân hàng cũng dễ bị loại trừ khỏi các dịch vụ khác như y tế, bảo hiểm. Tài chính toàn diện còn giúp Chính phủ giảm bớt chi phí cho các chương trình trợ cấp an sinh xã hội thông qua việc chi trả qua tài khoản ngân hàng, làm tăng sự minh bạch, phòng chống tham nhũng tích cực hơn, nhờ đó quản lý xã hội tốt hơn. Một xã hội với cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính mở rộng cho tất cả mọi người sẽ tăng cường sự tham gia của họ vào cuộc sống cộng đồng nói chung, cải thiện công bằng và bình đẳng, năng lực của toàn xã hội theo đó cũng được nâng lên. Đối với các tổ chức tài chính, tài chính toàn diện đồng nghĩa với việc mở rộng đối tượng phục vụ tới tất cả nhóm người trong xã hội, tạo cơ hội cho họ phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng cơ sở khách hàng và theo đó là lợi nhuận tăng lên. Các thước đo tài chính toàn diện Tài chính toàn diện được đo lường dựa trên 03 khía cạnh: (i) mức độ bao phủ của các tổ chức tín dụng, (ii) mức độ sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính, và (iii) chất lượng sản phẩm dịch vụ tài chính (Gortsos, 2016). Những chỉ số thể hiện mức độ bao phủ của các tổ chức tín dụng (xét về phương diện nhân khẩu học và địa lý) bao gồm số lượng chi nhánh/phòng giao dịch trên một kilomet vuông (1.000m2) hay trên 1.000 dân, số lượng máy ATM trên một kilomet vuông (1.000 m2hay trên 1.000 dân. Trong khi đó, mức độ sử dụng là các chỉ số liên quan tới tần suất sử dụng sản phẩm và dịch vụ tài chính như: phần trăm số lượng tài khoản tiền gửi và ghi nợ trên tổng dân số, số lượng 329
- giao dịch trên mỗi tài khoản tiền gửi, số lượng giao dịch điện tử. Và cuối cùng là những chỉ tiêu thể hiện chất lượng của sản phẩm/dịch vụ, và mức độ hiểu biết về tài chính của người sử dụng. Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các chỉ tiêu này để đo lường mức độ tiếp cận tài chính có thể dẫn đến những đánh giá thiếu chính xác và không toàn diện bởi vì một cá nhân hay doanh nghiệp có thể có nhiều tài khoản, hoặc có những cá nhân không có tài khoản nhưng có thể sử dụng các dịch vụ tài chính dựa trên tài khoản của một người khác. Tương tự như vậy, việc sử dụng các chỉ tiêu về chi nhánh ngân hàng và máy ATM cũng chỉ mang tính tương đối trong việc đánh giá khả năng tiếp cận tài chính của người dân. Hiện tại, các tổ chức quốc tế, các quốc gia triển khai chương trình tài chính toàn diện đã thống nhất sử dụng 24 tiêu chí đánh giá tài chính toàn diện do G20 đưa ra tại Hội nghị Thượng đỉnh Saint Peterburg năm 2012 dựa trên 3 khía cạnh nói trên. Bên cạnh đó, bắt đầu từ năm 2011, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng xây dựng một cơ sở dữ liệu đồ sộ về tài chính toàn diện của các quốc gia trên thế giới (Global Findex Database) và được điều tra, đánh giá định kỳ 3 năm một lần nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và nghiên cứu tham khảo sử dụng. Những khó khăn khi sử dụng tài chính toàn diện Việc sử dụng dịch vụ tài chính phụ thuộc chủ yếu vào mức độ giàu có hay chính xác là mức thu nhập của mỗi cá nhân. Ngay cả ở những nước nghèo nhất thì người giàu thành thị là những người sử dụng dịch vụ ngân hàng nhiều nhất. Do đó, khu vực ngân hàng chính thức thông thường chỉ phục vụ cho nhóm khách hàng ở trên ngưỡng nghèo, chủ yếu là những người làm công ăn lương, có thu nhập ổn định. Trong khi đó những người nghèo lại sử dụng dịch vụ ngân hàng ở khu vực không chính thức. Nhưng điều này muốn nói rằng tất cả mọi người, kể cả người nghèo cũng có nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính. Bức tranh đối lập với tài chính toàn diện là sự loại trừ tài chính (financial exclusion), nhằm nói tới những đối tượng gặp khó khăn khi tiếp cận các dịch vụ tài chính và hệ thống tài chính. Tình trạng loại trừ tài chính có thể là “tự nguyện” hoặc “không tự nguyện”, bởi loại trừ tài chính có thể là do những trở ngại khách quan khi tiếp cận hệ thống tài chính hoặc là do chính sự lựa chọn của cá nhân bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Thước đo đầu tiên và quan trọng nhất của tài chính toàn diện là tỷ lệ người có tài khoản tại tổ chức tài chính chính thức. Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản là khác nhau giữa các nước trên thế giới. Ở những nước phát triển tỷ lệ này có thể lên đến 95-98% trong khi ở những nước đang phát triển, và đặc biệt là những nước nghèo tỷ lệ này là rất thấp. Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ở Việt Nam năm 2014, theo Ngân hàng Thế giới, là 31%. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB,2014) cũng cho biết mức thu nhập và những đặc điểm cá nhân là những nhân tố quyết định sự khác nhau này. Lý do được nói đến nhiều nhất khi một cá nhân không có một tài khoản chính thức là không có đủ tiền. Tiếp đó là những nguyên nhân như việc mở tài khoản là tốn kém, khoảng cách đến ngân hàng quá xa, thiếu những giấy tờ cần thiết đáp ứng yêu cầu của ngân hàng, thiếu tin tưởng vào ngân hàng hay vì lý do tín ngưỡng. Ở những nước đang phát triển, lý do phổ biến là khoảng cách xa xôi, thiếu thu nhập, chi phí tốn kém và thiếu giấy tờ cần thiết. Các chi phí đi kèm với việc sở hữu tài khoản đã trở thành rào cản chủ yếu. Đối với nhiều người, chi phí duy trì tài khoản và mức phí cho mỗi lần giao dịch khiến cho việc sử dụng tài khoản trở thành tốn kém. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những chi phí này càng cao, càng có nhiều người không có tài khoản (Demirgüç-Kunt và Klapper, 2012). Một số người, đặc biệt là những người có thu nhập thấp sẽ không sử dụng các dịch vụ tài chính bởi vì đối với họ các dịch vụ đó có mức giá đắt đỏ và họ không thể đáp ứng được. Vì thế, cho dù các dịch vụ này là có sẵn song họ vẫn khó tiếp cận dịch vụ. Tại Siera Leone, chi phí hàng năm để duy trì một tài khoản 330
- thanh toán cao hơn 25% mức thu nhập GDP bình quân đầu người. Tại Cộng hòa Dominica, chi phí để chuyển 250 đô la quốc tế là 50 đô la trong khi chi phí cho một dịch vụ tương tự tại Bỉ lại chỉ là 30 cent. Tương tự như vậy, các chi phí về thời gian cũng có thể tạo ra các rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ tài chính. Ví dụ như tại Bangladesh, Pakistan, Philippines, để có thể vay một khoản kinh doanh nhỏ thì cần phải mất hơn một tháng. Một điều quan trọng là, chi phí cao được áp dụng cho việc mở và duy trì tài khoản có quan hệ thuận chiều với tình trạng thiếu cạnh tranh và thiếu cơ sở hạ tầng thể chế và vật chất ở một quốc gia. Điều này có ý nghĩa quan trọng, chi phí cao liên quan đến tài khoản không đơn thuần phản ánh chi phí cố định của việc cung cấp mà còn cho thấy có nhiều chi phí gián tiếp nữa. Cơ sở hạ tầng thanh toán yếu cũng là rào cản khiến cho các khách hàng từ chối sử dụng dịch vụ. Khoảng cách đến với một điểm tiếp cận dịch vụ, cụ thể là các chi nhánh ngân hàng hay điểm giao dịch, là trở ngại lớn đặc biệt ở những nước đang phát triển. Ở Tanzania, chỉ có 0,5 chi nhánh ngân hàng trên 1000 km vuông. Khoảng cách địa lý cũng có thể là khó khăn khiến cho một số khách hàng ban đầu đã đăng ký các dịch vụ nhưng sau đó họ không sử dụng nhiều các dịch vụ này như những người khác. Bên cạnh đó, những yêu cầu về hồ sơ giấy tờ cần có để mở tài khoản trên thực tế đã loại trừ nhiều người ở khu vực nông thôn hay những người lao động tự do (khu vực không chính thức), là những người khó chứng minh thu nhập hay nơi cư trú chính thức. Ví dụ như việc tiếp cận dịch vụ tài chính đòi hỏi khách hàng phải có các giấy tờ chứng minh liên quan tới xác nhận nhân thân, thu nhập, hay là hồ sơ kinh doanh đối với doanh nghiệp trong khi một số cá nhân và doanh nghiệp không có khả năng để hoàn thiện các hồ sơ này, và do vậy họ không thể tiếp cận các dịch vụ. Văn hóa, tâm lý hay tín ngưỡng cũng là một trở ngại đối với tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức. Nhiều người không thấy thoải mái khi sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức. Nguyên nhân là do khó hiểu về ngôn ngữ, có quá nhiều loại giấy tờ và điều kiện đi kèm với dịch vụ tài chính và có thể đơn giản chỉ là thiếu sự tin tưởng vào các tổ chức cung cấp dịch vụ. Một đặc điểm phổ biến của những người không có tài khoản ngân hàng (unbanked) là thiếu giáo dục và thông thường là thiếu kiến thức về tài chính. Tuy nhiên đôi khi giáo dục cũng có quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Thực tiễn Việt Nam Những kết quả đạt được Thúc đẩy tài chính toàn diện được xem là một trong những trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới. Dù còn khiêm tốn, nhưng thời gian qua đã và đang ghi nhận những nỗ lực từ phía Chính phủ, NHNN - cơ quan đầu mối về tài chính toàn diện, phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành để nâng cao nhận thức về tài chính toàn diện; cũng như các NHTM trong cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính. Những phương thức thanh toán không dùng tiền mặt và hỗ trợ của công nghệ, dịch vụ ngân hàng tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới. NHNN cũng đã ban hành Kế hoạch của ngành triển khai Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020. Đáng chú ý là sự thừa nhận xu hướng phát triển các công ty Fintech tại thị trường Việt Nam. NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo Fintech nhằm hoàn thiện hệ sinh thái, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho các DN Fintech ở Việt Nam ra đời và phát triển. Đi cùng với đó là sự lớn mạnh và lan truyền của công nghệ mới như Big Data, trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain Công nghệ đã giúp rút ngắn khoảng cách khi đưa dịch vụ tài chính tới khách hàng nhanh hơn, thuận tiện và hiệu quả hơn. Đối với các NHTM tại Việt Nam, ghi nhận trên thực tế cho thấy cũng đang có sự chuyển biến tương đối rõ rệt. Theo chia sẻ của một chuyên gia, các ngân hàng đã quan tâm nhiều hơn tới 331
- cung cấp dịch vụ, sản phẩm cho những thành phần kinh tế trước nay vốn không phải là đối tượng chú trọng của các ngân hàng. Các nhà băng cũng ngày càng chú trọng hơn trong việc cung cấp các giải pháp thúc đẩy phổ cập tài chính thông qua việc xây dựng các gói sản phẩm và dịch vụ cho DN, đặc biệt là gói giải pháp tài chính toàn diện. Phần lớn các NHTM đã cung ứng dịch vụ thanh toán dịch vụ công qua kênh internet banking và mobile banking. Các dịch vụ như: thanh toán tiền điện, nước, cước phí điện thoại, viễn thông, phí bảo hiểm, thu học phí qua ngân hàng ngày càng trở nên phổ cập. NHTM cũng đã phối hợp với Tổng cục Hải quan cho việc nộp thuế, tỷ lệ nộp thuế điện tử chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách nhà nước của ngành Hải quan Các ngân hàng cũng tích cực hợp tác với các DN lớn để tận dụng lợi thế của mỗi bên trong việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tới số đông khách hàng. Công tác truyền thông về hoạt động thanh toán và dịch vụ ngân hàng được đẩy mạnh, cung cấp kiến thức, qua đó giúp thay đổi thói quen của người tiêu dùng trong sử dụng dịch vụ tài chính trên nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ tài chính. Thông qua đó cũng đẩy mạnh thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản Dù đã có những biến chuyển, song rào cản chính trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam vẫn nằm ở việc nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế dựa nhiều vào tiền mặt. Thực tế cho thấy, với các phương tiện thanh toán điện tử đang dần thay thế tiền mặt, thì ít nhất phải tiến tới khoảng 60% những thanh toán của người dân qua hệ thống ngân hàng mới có thể có sự cải thiện rõ rệt. Còn như hiện tại, khoảng 90% giao dịch người dân vẫn là giao dịch tiền mặt thì vẫn còn rất gian nan trong thúc đẩy tài chính toàn diện. Bên cạnh đó, việc chưa có được một khung khổ pháp luật đảm bảo sự cam kết theo đuổi và thực hiện chiến lược tài chính toàn diện ở Việt Nam, đảm bảo sự tham gia của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là khu vực tư nhân cũng là thách thức đang phải đối diện. “Khuôn khổ pháp lý thông thoáng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ phổ cập tài chính trong thời gian ngắn. Sự cởi mở của NHTW đối với việc tham gia của các tổ chức phi ngân hàng như nhà mạng viễn thông trong việc cung ứng dịch vụ tài chính số đến số đông người dân ở vùng sâu, vùng xa mà vẫn đảm bảo quản lý, giám sát hiệu quả các tổ chức này cũng cần được thúc đẩy cho phù hợp”, một chuyên gia nêu ý kiến. Ở đây, số liệu bên cung được hiểu là những số liệu được thu thập từ các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính về mạng lưới giao dịch, hệ thống thanh toán, dịch vụ tín dụng, huy động vốn Số liệu bên cầu gồm những số liệu thu thập trực tiếp từ đối tượng dịch vụ tài chính hướng tới phục vụ cá nhân, DN, hộ gia đình được sử dụng để hiểu, đánh giá về nhận thức, nhu cầu, rào cản tiếp cận tài chính của người sử dụng dịch vụ. Theo thống kê đã có sự gia tăng đáng kể trong số lượng người trưởng thành có tài khoản tại các tổ chức tài chính chính thức, từ 21,3% năm 2012 lên 30,9% năm 2014, tuy nhiên, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản tại các tổ chức tài chính chính thức tại Việt Nam vẫn thấp so với các quốc gia trong khu vực như Trung Quốc là 78% và Thái Lan là 79%. Việc tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn, đô thị còn ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng còn rất hạn chế. Với hơn 70% dân số tập trung tại khu vực nông thôn, chiếm khoảng 72% lực lượng lao động nhưng tỷ lệ tiếp cận dịch vụ ngân hàng hiện đại là rất hạn chế. Thể hiện, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng tương đối cao so với tổng dư nợ cho vay nền kinh tế (chiếm khoảng 28%) nhưng chủ yếu do hệ thống Agribank, Quỹ tín dụng nhân dân, một số ngân hàng thương mại nhà nước còn các ngân hàng thương mại cổ phần khác vẫn còn e ngại. Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa đạt đến 25%, con đường để đạt được 332
- mục tiêu tài chính toàn diện còn rất xa, nhưng thực tế triển khai tài chính ở Ấn Độ có thể thấy, tài chính số là xu hướng phát triển tất yếu để đạt được mục tiêu tài chính toàn diện. Một thực tế đáng quan tâm hiện nay là nhận thức về tài chính toàn diện tại Việt Nam chưa được đầy đủ và chưa phổ biến rộng rãi đến mọi người dân. Sự hiểu biết về kiến thức tài chính của người dân nói chung còn thấp, nhất là người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Chưa có khung pháp lý đảm bảo cho việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển TCTD tại Việt Nam và khung pháp lý tạo thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện. Cơ sở dữ liệu về tiếp cận tài chính nói chung và tài chính toàn riêng nói riêng còn thiếu. Cơ sở hạ tầng tài chính và cơ sở hạ tầng thông tin cũng thiếu và chưa được kết nối đồng bộ. Chưa có cơ quan bảo vệ người tiêu dùng hay sử dụng dịch vụ tài chính. Các ngân hàng phải đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm ẩn đến từ việc gian lận tài chính, tấn công có chủ đích, thất thoát dữ liệu nhạy cảm hoặc lây nhiễm mã độc. Một khó khăn nữa cũng được đề cập nằm ở việc cơ sở dữ liệu về tiếp cận tài chính nói riêng và tài chính toàn diện nói chung còn thiếu. Việt Nam cần phải làm gì? Trong bối cảnh công nghệ số đang tạo nên những thay đổi nhanh chóng trong các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động tài chính nói riêng, từ đó mang lại nhiều cơ hội để thực thi tài chính toàn diện nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn, với chi phí lớn hơn. Để phát huy tốt vai trò cũng như tính ưu việt của TCTD tại Việt Nam, trong thời gian tới, cần quan tâm đến một số vấn đề sau: Thứ nhất, cần đưa ra các chiến lược bao gồm sáu trụ cột: nâng cao kiến thức và nhận thức của người dân về các sản phẩm và dịch vụ tài chính trên thị trường tài chính chính thức; nâng cao vai trò của Chính phủ trong việc cung cấp tài chính công trực tiếp hoặc có điều kiện để khuyến khích sự trao quyền kinh tế; cung cấp bản đồ thông tin tài chính - tăng cường năng lực của cộng đồng, đặc biệt là những khách hàng được các TCTC đánh giá là không có khả năng chi trả hoặc không thể vay được, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa; đưa ra các chính sách hoặc cơ sở pháp lý để tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính; mở rộng phạm vi của các dịch vụ tài chính bằng cách sử dụng các kênh trung gian và phân phối nhằm tăng cường hợp tác giữa các TCTC và các chủ thể kinh doanh; bảo vệ người tiêu dùng, cho phép chủ thể tin tưởng hơn vào sự tương tác của họ với các TCTC trong việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp bởi các TCTC. Thứ hai, tiếp tục mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ ngân hàng của các TCTD. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô đến năm 2020 để phục vụ người nghèo, người có thu nhập thấp, những đối tượng yếu thế trong xã hội chưa có điều kiện tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện thiết thực, hiệu quả, điều kiện tiên quyết là phải có một bộ cơ sở dữ liệu đầy đủ, chi tiết theo chuỗi thời gian từ bên cung và bên cầu giúp đo lường, đánh giá chính xác thực trạng tài chính toàn diện, nguyên nhân của thực trạng này và khả năng hấp thụ giải pháp. Một trong những giải pháp được đặt ra để xây dựng cơ sở dữ liệu bên cung theo vị này cần yêu cầu các TCTD báo cáo một số chỉ tiêu chọn lọc, đảm bảo khả năng thống kê từ core banking của TCTD như số lượng máy ATM, chi nhánh, điểm giao dịch, đầu POS Việc lập mẫu biểu yêu cầu các TCTD báo cáo ngoài hệ thống báo cáo thống kê hiện tại cần phải cân nhắc kỹ đảm bảo tính khoa học, chi tiết; chỉ chọn lọc những chỉ tiêu trọng yếu; thiết kế bao gồm cả cách thức các TCTD truyền dữ liệu về NHNN, cách thức loại trừ lặp và phần mềm tổng hợp dữ liệu. Cơ sở hạ tầng tài chính còn thiếu, chưa được kết nối đồng bộ, đặc biệt là cơ sở hạ tầng thông tin (thông tin tín dụng, hệ thống định danh ) cũng được xem là vướng mắc cần tích cực tháo gỡ thời gian tới. 333
- Thứ ba, tạo điều kiện tăng mức độ tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho cá nhân và DNNVV. Các chính sách cần khuyến khích các TCTD phi ngân hàng cung cấp sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu khác nhau của DNNVV; khuyến khích các khuyến khích các tổ chức tài chính vi mô, Qũy tín dụng nhân dân nhằm nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ cho nhóm DN có quy mô nhỏ và siêu nhỏ Theo đó, Chính phủ cần có chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng điện tử và xác định vai trò, trách nhiệm của các bên tham gia đối với phát triển thị trường. Ban hành quy định các chính sách an ninh bắt buộc đối với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính số để giảm thiểu rủi ro thất thoát tài sản và dữ liệu. Về phía các ngân hàng thương mại, tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như minh bạch thông tin đối với các tổ chức tín dụng. Chủ động phát triển các dịch vụ tài chính trên nền tảng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số để đẩy nhanh tiến trình tài chính toàn diện trong nước và bắt kịp xu hướng các nước trên thế giới. Phát triển các kênh phân phối mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại như ngân hàng điện tử, ngân hàng di động, ngân hàng đại lý để cung ứng dịch vụ/sản phẩm ngân hàng thông qua Internet (mạng trực tuyến), điện thoại di động, thông qua việc cộng tác với các đại lý bán lẻ phi ngân hàng, theo đó, đại lý bán lẻ phi ngân hàng sẽ đại diện ngân hàng, cung cấp các dịch vụ tài chính tại những nơi ngân hàng không có chi nhánh. Sự phát triển của tài chính số sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh, do vậy, các ngân hàng thương mại cũng cần nhanh chóng tiếp cận và áp dụng các công nghệ tài chính số như các ứng dụng di động, dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Đầu tư vốn, nâng cấp hạ tầng công nghệ của ngân hàng tương thích với nền tảng tài chính số, đồng thời có chính sách đào tạo nâng cao chất lượng nhân sự có khả năng vận hành và làm chủ hệ điều hành, cơ sở dữ liệu ngày càng phức tạp. Nghiên cứu hợp tác với các tổ chức tài chính/phi tài chính xây dựng hệ thống ngân hàng đại lý nhằm mở rộng mạng lưới khách hàng tại các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Anh 1. Gayani Godellawatta (2007), “Implementation of Pillar 2 of Basel II - The next challengence to the Banks and Supervisors” 2. Loriana Pelizzon (2007), “Pillar 1 versus Pillar 2 under Risk Management” 3. Sebastian Poledna (2013), “Leverage-induced systemic risk under Basel IIBasel Committee on Banking Supervision (2005), The history of the Basel Committee and its Memberships, Basel 4. The Global Implementation of Basel II: Prospects and Outstanding Problems, www.bis.org. 5. Ou Sokpanha. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade: A Perspective from Cambodia’s Banking sector. The SEACEN centre, 278, 35-60. Kuala Lumpur, Malaysia. 6. Clive Wykes (2004), Lecture on Risk Management to Incombank’s senior leaders, Paris 7. Delloitte & Touch Tomatsu (Financial Services, 2005), Understanding the Framework, Adopting the Basel II Accord in Asia Pacific Tiếng Việt 8. Hoàng Xuân Bình (2013), “Mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam” 9. Nguyễn Thùy Dương (2013), “Hệ thống giám sát tài chính Việt Nam theo Basel II” 10. Tạp chí Tài chính 1/2019 334
- 11. Tô Thị Ánh Dương (2007), “Những giải pháp để hệ thống NHTM Việt Nam tiếp cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực đánh giá ngân hàng an toàn theo Hiệp ước Basel” 12. Heinz W. Marpmann (2006), “Basel II và quản lý rủi ro”, Kỷ yếu hội thảo khoa học do NHNN Việt Nam và NHTW Hàn Quốc tổ chức Website 13. www.bis.org (Bank for International Settlement) 14. www.mof.gov.vn (Bộ Tài chính Việt Nam) 15. www.fitchratings.com (Fitch ICBA) 16. www.bai.org (Viện quản trị ngân hàng, Mỹ) 17. www.banktech.com 18. www.worldbank.org/vietnam 335