Tăng cường vai trò của bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia
Bạn đang xem tài liệu "Tăng cường vai trò của bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tang_cuong_vai_tro_cua_bao_hiem_tien_gui_nham_bao_ve_nguoi_g.pdf
Nội dung text: Tăng cường vai trò của bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia
- TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI NHẰM BẢO VỆ NGƯỜI GỬI TIỀN VÀ ĐẢM BẢO AN TOÀN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH QUỐC GIA TS. Trương Thị Hoài Linh1 Viện Ngân hàng Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Được coi là một định chế tài chính rất quan trọng trong mạng lưới tài chính quốc gia, song, tại Việt Nam, tổ chức và hoạt động của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) lại ít được để ý đến và tổ chức này cũng chưa tham gia vào qu trình t i cơ cấu hệ thống ngân hàng trong thời gian vừa qua. Bài viết phân tích các hạn chế của DIV về năng lực tài chính, hạn mức chi trả và chức năng gi m s t hệ thống ngân hàng, qua đó đưa ra một số đề xuất khắc phục các hạn chế này nhằm tăng cường vai trò của DIV trong bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia. Từ khóa: Bảo hiểm tiền gửi, an toàn hệ thống tài chính. 1. Một số vấn đề về bảo hiểm tiền gửi và tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Theo FDIC, bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là một thành phần trong mạng lưới an toàn hệ thống tài chính quốc gia, bao gồm các quy định và giám sát thận trọng, đóng vai trò là người cho vay cuối cùng (FDIC, 2013). Mạng lưới này bao gồm Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, các thực thể chịu trách nhiệm ban hành và giám sát các quy định thận trọng và cơ quan bảo hiểm tiền gửi. Theo Khan (2009), Niinimäki (2000), bảo hiểm tiền gửi là sự đảm bảo cho các khoản tiền gửi ngân hàng huy động từ khách hàng, theo đó, một phần hoặc toàn bộ gốc và/hoặc lãi tiền gửi sẽ được thanh toán cho khách hàng bởi tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp ngân hàng phá sản. Sự đảm bảo này được thể hiện bằng thỏa thuận giữa ngân hàng và tổ chức bảo hiểm tiền gửi, theo đó, ngân hàng sẽ mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi mà nó huy động và tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trả các khoản bồi thường cho người gửi 1 Email của tác giả: trhoailinh3005@gmail.com 143
- tiền nếu ngân hàng bị phá sản. Thêm nữa, là một thành phần trong mạng lưới đảm bảo an toàn của hệ thống tài chính quốc gia, tùy quy định của mỗi quốc gia, các tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ có tác động ở mức độ khác nhau để hạn chế sự phá sản của các ngân hàng thông qua cơ chế quản lý nhằm tăng cường sự ổn định và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 đã ảnh hưởng đáng kể đối với hệ thống tài chính của Việt Nam, dẫn đến sự cần thiết phải xây dựng niềm tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng. Thêm nữa, sự thất bại của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam vào đầu năm 1990 ở nông thôn cũng như ở các vùng sâu vùng xa cũng góp phần thúc đẩy thành lập một tổ chức tài chính nhằm bảo vệ và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính. Trên cơ sở hoàn cảnh như vậy, Công ty bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) đã chính thức thành lập vào ngày 7 tháng 7 năm 2000 để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền; cung cấp hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tài chính trong thời gian khó khăn; giám sát nhằm ngăn ngừa rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng. Theo báo cáo của DIV (được dẫn bởi Chu Thanh Vân, 2016), tính đến cuối năm 2016, định chế tài chính này theo dõi hơn 3 triệu tỷ đồng tiền gửi của người gửi tiền tại 1.252 tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, gồm 92 ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, 1.156 quỹ tín dụng nhân dân và ba tổ chức tài chính vi mô. DIV thực hiện kịp thời, đầy đủ hoạt động cấp và thu hồi Chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho các tổ chức tham gia. Tổng nguồn vốn của DIV đến cuối năm 2016 đạt 30.680 tỷ đồng (trong đó, vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng). Hơn 99% vốn tạm thời nhàn rỗi được đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Phí bảo hiểm tiền gửi là nguồn thu chủ yếu của DIV, phục vụ Quỹ dự phòng nghiệp vụ chi trả cho người gửi tiền khi phát sinh nghĩa vụ chi trả. Đến cuối năm 2016, Quỹ dự phòng nghiệp vụ đạt mức trên 23.900 tỷ đồng. Đến nay, DIV đã chi trả cho 1.793 người gửi tiền tại 39 quỹ tín dụng nhân dân bị giải thể bắt buộc. Sau khi chi trả, DIV tham gia Hội đồng thanh lý tài sản của các tổ chức bị phá sản để tiếp tục theo dõi thu hồi tài sản. Hệ thống tài chính của Việt Nam mà cụ thể là hệ thống ngân hàng trong những năm gần đây đang đối mặt với nhiều bất ổn: mức độ đủ vốn chưa đạt được mức bình quân của khu vực, đang có xu hướng đi xuống nếu tính toán theo chuẩn mực quốc tế; khả năng sinh lời không ổn định, tình hình thanh khoản kém bền vững, danh mục tài sản tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, Hệ quả 144
- là nhiều ngân hàng đã đủ điều kiện để bị chấm dứt hoạt động hoặc buộc phải sáp nhập vào các ngân hàng khác. Song, trong toàn bộ thời gian căng thẳng của hệ thống tài chính, sự tham gia của DIV với chức năng bảo vệ người gửi tiền và giám sát, ngăn ngừa rủi ro hầu như không có. Việc chưa ngân hàng nào được phép phá sản không có nghĩa là BHTG chưa phải bảo vệ người gửi tiền. Trái lại, việc vẫn duy trì hoạt động của các ngân hàng có năng lực kém kết hợp với không minh bạch thông tin sẽ làm cho người gửi tiền vẫn tiếp tục gửi tiền vào những ngân hàng này, hậu quả là rủi ro đạo đức càng trở nên căng thẳng. Phần tiếp theo của bài viết sẽ phân tích cụ thể những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của DIV. 2. Các hạn chế trong tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam DIV không đủ nguồn lực tài chính để hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm và hoàn trả cho người gửi tiền khi tổ chức được bảo hiểm bị phá sản. Lấy ví dụ đơn giản về trường hợp Oceanbank – ngân hàng 0 (không) đồng thứ 2 của Việt Nam trong năm 2015. Trong thời kì 2013-2014, khi các lãnh đạo cấp cao nhất của ngân hàng này bị bắt vì đã chỉ đạo cho vay doanh nghiệp không đúng quy định và nhiều khoản vay không có khả năng thu hồi dẫn đến vốn chủ sở hữu âm, tổng quy mô tiền gửi của ngân hàng này là 51.924 tỷ đồng (theo Việt Dũng, 2015). Trong đó, tính đến cuối năm 2014, quy mô tổng tài sản của BHTG là 21.062 tỷ đồng và quỹ nghiệp vụ chi trả tiền bảo hiểm 15.331 tỷ đồng (theo Yến Lam, 2016) thì có thể thấy rõ là con số này không thể đáp ứng được nhu cầu chi trả tiền gửi của một ngân hàng. Do sự hạn chế về nguồn lực nên mặc dù trước sức ép rất lớn từ các nhà thực tiễn, nghiên cứu và các tổ chức tài chính quốc tế về việc để các ngân hàng hoạt động kém phá sản thì NHNN đã mua bắt buộc ba ngân hàng có vốn chủ sở hữu âm với giá 0 đồng. Đây là biện pháp mà NHNN coi là hợp lý nhất trong thời điểm hiện nay khi mà năng lực của DIV còn quá hạn chế và cả ba ngân hàng đều đã lâm vào tình trạng vốn chủ sở hữu âm nên giải pháp tự tái cấu trúc hoặc sáp nhập, hợp nhất tự nguyện không khả thi (theo Yến Lam, 2016). Thêm nữa, theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ giữa vốn dự trữ và quy mô tiền gửi bảo hiểm thường được duy trì trong khoảng từ 3% đến 20% (theo DIV, 2016). Tính đến cuối năm 2016, DIV đang quản lý hơn 3 triệu tỷ đồng tiền gửi tại các 145
- TCTD (theo Chu Thanh Vân, 2016) thì tỷ lệ vốn dự trữ so với quy mô tiền gửi của tổ chức này chỉ đạt lần lượt 1,7% và 0,7% nếu coi lần lượt tổng vốn (bao gồm cả quỹ dự phòng nghiệp vụ với nguồn thu chính từ thu phí BHTG do các TCTD nộp) và quỹ dự phòng nghiệp vụ của DIV là vốn dự trữ. Nguyên nhân của tình trạng trên là do nguồn thu của DIV chủ yếu đến từ phí thu bảo hiểm hàng năm và một phần từ các khoản lãi ít ỏi do đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi (mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN). Quy mô vốn của DIV hạn chế chủ yếu là do cách tính phí BHTG theo tỷ lệ phí bảo hiểm cố định/đồng hạng (0,15%/năm trên số dư bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm). Cách tính phí đồng hạng chỉ phù hợp trong thời gian đầu tổ chức BHTG mới được thành lập. Cách tính phí này tương đối dễ dàng nhưng không đảm bảo sự công bằng do là các tổ chức huy động tiền gửi có mức độ rủi ro thấp lại phải chịu mức tỷ lệ tính phí như các tổ chức có mức độ rủi ro cao. Điều này dẫn đến các tổ chức có mức rủi ro cao thì được hưởng lợi hơn trong khi các tổ chức có mức rủi ro thấp phải trợ cấp cho các tổ chức có rủi ro cao và không phản ánh được mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG. Ngoài vấn đề mức phí thu được thấp, phí BHTG đồng hạng còn nhược điểm là không khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) phấn đấu giảm thiểu rủi ro. Đây là một quy định thiếu tính thị trường, giảm sự cạnh tranh công bằng trong hệ thống TCTD cũng như cản trở sự phát triển của hệ thống tài chính quốc gia. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng DIV chưa thể nghiên cứu áp dụng tính phí theo mức độ rủi ro là theo quy định hiện tại thì NHNN là cơ quan duy nhất đánh giá mức độ rủi ro của các TCTD và xếp loại các tổ chức này. Còn DIV là cơ quan chịu trách nhiệm tính phí bảo hiểm và chịu trách nhiệm xử lý hậu quả của các TCTD có vấn đề. Thực tế này cho thấy DIV không có đủ thông tin và tài nguyên khác để có thể hoàn thành công việc của mình. C c quy định hiện tại phản ánh chức năng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền của BHTG khi TCTD bị phá sản đã bị lạc hậu rất nhiều so với tình hình hiện tại của Việt Nam và khuyến nghị từ các tổ chức quốc tế. Quy mô chi trả hiện nay của Bảo hiểm tiền gửi mới chỉ đáp ứng chi trả cho các quỹ tín dụng nhân dân hoặc chỉ đủ sức chi trả cho các tổ chức tín dụng nhỏ bị phá sản (theo Nguyễn Chí Đức (2015), Chu Thanh Vân, (2016)). Quy định về hạn mức chi trả bồi thường không còn phù hợp với thực trạng phát triển kinh tế và thu nhập hiện nay. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 3, Điều 1, 146
- Nghị định 109/2005/NĐ-CP và sau này Nghị định 68/2013/NĐ-CP đã kế thừa thì “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện hợp pháp luật) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thuộc đối tượng quy định tại Điều 3 của nghị định này, tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng”. Hạn mức này hiển nhiên không đem lại sự an tâm cho người gửi tiền và nó vi phạm tất cả các nguyên tắc được khuyến nghị bởi IADI (Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế). Cụ thể, theo IADI (2014), việc tính toán hạn mức trả tiền bảo hiểm phải tuân thủ hai mục tiêu cơ bản là bảo vệ những người gửi tiền nhỏ, thiếu thông tin về hoạt động ngân hàng và góp phần đảm bảo ổn định tài chính. Hạn mức chi trả phù hợp là hạn mức chi trả không quá thấp để khuyến khích người gửi tiền yên tâm gửi tiền vào ngân hàng và không quá cao để kiểm soát rủi ro đạo đức (người gửi tiền dễ dàng gửi tiền vào những TCTD dùng tiền gửi để đầu tư vào những khách hàng, lĩnh vực có rủi ro cao và chi trả lãi suất cao cho người gửi tiền). Các căn cứ để tính toán hạn mức bao gồm: (1) GDP bình quân đầu người và các yếu tố liên quan như lạm phát, tỷ giá, lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính; (2) tỷ lệ phần trăm người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ tính trên tổng số người gửi tiền; (3) tỷ lệ phần trăm giá trị tiền gửi được bảo vệ toàn bộ trên tổng giá trị tiền gửi được bảo hiểm; (4) mức độ rủi ro của hệ thống ngân hàng và tổng thể nền kinh tế. Chẳng hạn, nếu căn cứ vào GDP bình quân đầu người thì IADI khuyến nghị tỷ lệ “Hạn mức/GDP bình quân đầu người” nên tối thiểu bằng 2 và tương đương với mức trung bình của các quốc gia có cùng trình độ phát triển dịch vụ ngân hàng. Hạn mức chi trả trên thế giới vào khoảng 3-12 lần GDP bình quân đầu người (theo Lê Việt Nga, 2012; DIV, 2016). GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng liên tục qua nhiều năm. Tính từ năm 2006 đến nay, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 4 lần từ 11,69 triệu đồng/người lên 45,72 triệu đồng/người vào cuối năm 2015 (theo Duy Cường, 2016) và ước đạt khoảng 50 triệu đồng trong năm 2016, nghĩa là tỷ lệ “Hạn mức/GDP bình quân đầu người” chỉ đạt 1 lần. Khi so sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á, hạn mức chi trả BHTG của Việt Nam đang thấp nhất về số tiền tuyệt đối và tỷ lệ tính trên GDP bình quân đầu người. 147
- Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi của một số nƣớc trong khu vực Đông Nam Á Hạn mức chi Hạn mức/GDP bình Hạn mức chi trả Tên nƣớc trả BHTG quân đầu ngƣời BHTG (nguyên tệ) (USD) năm 2016 Thái Lan 25.000.000 (THB) 709.220 125,3 Indonesia 2.000.000.000 (IDR) 153.257 42,2 Malaysia 250.000 (MYR) 59.666 6,3 Singapore 50.000 (SGD) 35.971 10,7 Philippines 500.000 (PHP) 10.346 3,5 Việt Nam 50.000.000 (VND) 2.242 1 Nguồn: Phong Hiếu (2016) Chính vì vậy, nếu TCTD phá sản, thiệt hại cho người gửi tiền sẽ rất lớn vì chỉ có một tỷ trọng rất nhỏ tiền gửi được bồi thường, kéo theo niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống tài chính, đối với Nhà nước bị sụt giảm. Chức năng gi m s t của DIV là chưa được thực hiện nên về bản chất mô hình tổ chức của BHTG Việt Nam chưa thực sự theo mô hình giảm thiểu rủi ro, vẫn chỉ là mô hình chi trả. Tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro có thể can thiệp vào mọi thời điểm, mọi giai đoạn trong cả vòng đời của tổ chức tham gia BHTG kể từ lúc được hình thành, cấp phép và đi vào hoạt động đến từng giai đoạn phát triển của tổ chức này đều có vai trò đo lường, kiểm soát và ngăn chặn rủi ro của tổ chức BHTG. Thậm chí, nếu tổ chức tham gia BHTG suy yếu đến mức buộc phải giải thể hoặc phá sản thì vai trò của BHTG lúc này không chỉ là thay mặt Chính phủ đứng ra chi trả mà còn bằng các biện pháp xử lý khác giúp tổ chức tín dụng rút khỏi thị trường một cách có trật tự, tránh lây lan, ảnh hưởng xấu tới sự an toàn của thị trường tài chính và nền kinh tế. Mô hình giảm thiểu rủi ro cho phép tổ chức BHTG quản lý rủi ro một cách toàn diện nhất, đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh của tổ chức tham gia BHTG. Nghiên cứu kinh nghiệm và số liệu của 1.700 ngân hàng tại 57 quốc gia cho thấy, ở những nước mà tổ chức BHTG có quyền can thiệp và chấm dứt BHTG thì các ngân hàng hoạt động ổn định hơn và nguy cơ mất khả năng thanh toán thấp hơn (theo Mai Minh Đệ, 2008). 148
- Căn cứ theo mô hình này, chức năng giám sát của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được quy định tại Khoản 10, Điều 13, Luật Bảo hiểm tiền gửi là việc tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, nguyên tắc 13 trong Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển các hệ thống BHTG hiệu quả của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) khuyến nghị: “Tổ chức BHTG cần phải là một bộ phận của hệ thống an toàn tài chính để phát hiện sớm, can thiệp kịp thời các ngân hàng có vấn đề. Khuôn khổ này cần cho phép can thiệp trước thời điểm một ngân hàng phá sản. Việc đảm bảo nguyên tắc này nhằm bảo vệ người gửi tiền và đóng góp vào sự ổn định tài chính”. Như vậy, DIV không có đủ quyền như được khuyến nghị của IADI, mọi hoạt động giám sát đều phải tham chiếu và báo cáo với NHNN. Vậy nên, nhìn vào thực trạng hoạt động của DIV từ khi thành lập đến nay cho thấy chức năng mà tổ chức này làm tốt nhất chỉ là cấp và thu hồi các chứng nhận tham gia BHTG của các TCTD, theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG của các TCTD. Trong khi đó chức năng giám sát các TCTD thông qua việc phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm về an toàn hoạt động ngân hàng chưa được thực hiện. Minh chứng rõ ràng nhất là vai trò mờ nhạt (thực chất là không có vai trò gì) của DIV trong quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM theo Đề án cơ cấu lại các TCTD2. Khi chức năng giám sát chỉ được đảm nhiệm duy nhất bởi NHNN thì một mặt không phát huy được vai trò của các cơ quan giám sát khác nói chung trong mạng an toàn tài chính quốc gia và BHTG nói riêng, mặt khác sự gánh vác quá nhiều trọng trách của NHNN sẽ làm quá tải và giảm hiệu quả quản lý – điều hành chính sách tiền tệ. 3. Các đề xuất cải thiện tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm ở Việt Nam nhằm bảo vệ ngƣời gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia Theo IADI (2014) trong bản “Các nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm hiệu quả” đã khẳng định điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự hiệu quả của BHTG ở một quốc gia gồm: chính sách pháp lý đầy đủ, hoạt động độc lập, quản trị minh bạch, chức năng nhiệm vụ đầy đủ và có cơ chế phối hợp chặt 2 Ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD. 149
- chẽ giữa các thành viên tham gia vào mạng an toàn tài chính quốc gia. Trên cơ sở phân tích các hạn chế trong tổ chức và hoạt động của DIV, phần cuối của bài viết đưa một số đề xuất nhằm cụ thể hóa một phần của các điều kiện trên. Cần nghiên cứu để tiến tới tính phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro. Thực tế hoạt động và quản trị rủi ro của hệ thống TCTD ở Việt Nam cho thấy đã đến lúc cần đẩy nhanh tốc độ tích lũy quỹ BHTG nhằm đảm bảo nguồn lực ứng phó với sự gia tăng nguy cơ tổn thất của hệ thống ngân hàng; đồng thời hạn chế tình trạng TCTD có rủi ro thấp phải tài trợ phần phí cho các TCTD có rủi ro cao. Về bản chất thì BHTG là vòng thứ hai để bảo vệ người gửi tiền sau khi vòng bảo vệ thứ nhất là năng lực quản trị rủi ro của các TCTD trở nên không hiệu quả. Do vậy, các TCTD quản trị rủi ro tốt nhất trong hệ thống tài chính có thể được xem xét để giảm tới mức tối đa, thậm chí là bằng 0 tỷ lệ phí BHTG. Điều kiện tiên quyết để đạt được mục tiêu này là cho phép DIV tiếp cận được tới các thông tin về rủi ro của hệ thống TCTD như đã đề cập ở trên. Sau đó DIV cần tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng cách tính phí BHTG theo mức độ rủi ro của từng TCTD là cần thiết. Theo cách này, các tổ chức BHTG sẽ tiến hành xếp hạng các tổ chức tham gia BHTG, tổ chức nào có mức độ rủi ro cao sẽ phải đóng phí BHTG cao hơn các tổ chức có mức độ rủi ro thấp hơn. Chẳng hạn tại Malaysia (theo DIV, 2012), tỷ lệ phí BHTG theo mức độ rủi ro từ thấp đến cao lần lượt là 0,03% - 0,06% - 0,12% - 0,24%. Cách thức này khắc phục được hạn chế của cách tính theo tỷ lệ phí cố định, nó công bằng hơn đối với các tổ chức tham gia BHTG và có tác dụng khuyến khích các tổ chức này tiến hành quản trị rủi ro chặt chẽ. Việc xác định mức độ rủi ro của từng tổ chức tham gia BHTG thường dựa vào các tiêu chuẩn như mức độ đủ vốn (thông qua chỉ tiêu CAR), tình hình thanh khoản (thông qua tỷ lệ Cho vay/tiền gửi, Tỷ lệ thanh khoản, Tỷ trọng vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn, ), chất lượng tài sản (thông qua tỷ lệ Nợ xấu, tỷ trọng Dự phòng rủi ro mất vốn, ), khả năng sinh lời (NIM, ROA, ROE), năng lực của bộ máy quản trị rủi ro, Nhìn chung là các nước thường dựa vào hệ thống chỉ tiêu lành mạnh tài chính FSI của IMF hoặc CAMEL, gắn cho mỗi chỉ tiêu một điểm số/trọng số nhất định nhờ sự hỗ trợ của các phần mềm, tính tổng các điểm số/trọng số để xác định mức độ rủi ro của các TCTD. Thêm nữa, các tỷ lệ phí BHTG phân loại theo rủi ro cũng được xem xét thường xuyên để có những điều chỉnh khi cần thiết, chẳng hạn khi xảy ra khủng hoảng 150
- tài chính, khi quỹ dự trữ của tổ chức BHTG bị thâm hụt nặng nề, Về lý thuyết tính toán là như vậy, song để có thể áp dụng được ở Việt Nam là điều không đơn giản do hạn chế về năng lực thu thập dữ liệu, phân tích và đánh giá. Thực tế cho thấy vào năm 2011, CIC (Trung tâm Thông tin tín dụng) trực thuộc NHNN đã tiến hành đánh giá để xếp loại các ngân hàng. Tuy nhiên, sau khi các ngân hàng nhận được kết quả thì đã có sự phản đối kịch liệt vì không đồng tình với kết quả này nên cuối cùng thì chính bản thân NHNN cũng đã phủ định kết quả. Việc xếp hạng của NHNN là như vậy thì DIV với những hạn chế hơn nhiều về năng lực phân tích đánh giá thì kết quả đánh giá sẽ không đáng tin cậy và khó nhận được sự đồng tình của các ngân hàng. Biện pháp duy nhất để khắc phục tình trạng này là DIV nên thuê các tổ chức đánh giá chuyên nghiệp ở nước ngoài hướng dẫn thực hiện. Cần bổ sung cơ sở pháp lý quy định cụ thể chức năng gi m s t của DIV đối với c c TCTD để đảm bảo hoạt động của DIV theo đúng mô hình giảm thiểu rủi ro và tuân thủ theo nguyên tắc quốc tế về hoạt động của BHTG. Về bản chất hoạt động của BHTG thì sau khi TCTD gặp vấn đề thì BHTG phải tiến hành viện trợ hoặc bồi thường cho người gửi tiền, vì vậy BHTG phải có quyền giám sát các TCTD. Theo khuyến nghị của Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng và IADI (IADI, 2014), tổ chức BHTG và tổ chức giám sát an toàn tài chính khác muốn hoạt động hiệu quả thì nên được tạo điều kiện độc lập trong hoạt động. Theo đó, trước tiên DIV cần được nâng cao tính chủ động trong hoạt động giám sát thông qua quy định cụ thể về quyền của tổ chức này như phê chuẩn/từ chối đơn xin tham gia BHTG, định kì yêu cầu các TCTD cung cấp báo cáo tài chính và các báo cáo thống kê khác, có quyền kiểm tra định kì thường xuyên/không thường xuyên các TCTD, Sau đó, DIV có thể chủ động chuẩn bị các kịch bản đối phó, bao gồm cả về khả năng tài chính và nguồn nhân lực khi phát hiện sớm các rủi ro; đồng thời, các cơ quan giám sát an toàn tài chính sẽ triển khai hiệu quả các biện pháp giảm thiểu tối đa chi phí xử lý đổ vỡ như: hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ sáp nhập, mua lại hay tái cấp vốn cho một ngân hàng từ nguồn vốn của tổ chức BHTG, hoặc các cơ quan Chính phủ có thẩm quyền khác. Để làm được điều này, một mặt DIV cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn cao trong phân tích và đánh giá tình hình các TCD, đầu tư công nghệ để thu thập và phân tích được hệ thống dữ liệu lớn, sau đó phân tích rủi ro và tham gia đánh giá tính ổn định của các 151
- ngân hàng để phát hiện sớm được các rủi ro tiềm ẩn của mỗi ngân hàng và sự tác động của nguy cơ này tới toàn hệ thống tài chính. Mặt khác, để tăng cường vai trò của DIV trong phát hiện sớm các ngân hàng có vấn đề, cần có quy định cụ thể về việc DIV được tiếp cận với thông tin về tổ chức tham gia BHTG chính xác và kịp thời. Nói cách khác, các văn bản dưới luật cần quy định cụ thể về cách thức, biện pháp tiếp cận thông tin của DIV để đảm bảo hỗ trợ hiệu quả cho việc phát hiện sớm các ngân hàng có vấn đề, hiệu quả nhất là cho phép DIV thu thập thông tin trực tiếp từ tổ chức tham gia BHTG. Thêm nữa, nếu hệ thống dữ liệu người gửi tiền được các ngân hàng cung cấp cho DIV phải phản ánh cụ thể theo tên từng người gửi tiền, phân biệt rõ khoản tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm, và quản lý được dữ liệu biến động tiền gửi thì trong trường hợp xảy ra đổ vỡ ngân hàng, DIV sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Thực tế tiếp cận thông tin từ các nguồn khác hiện nay vô cùng hạn chế về cả số lượng và chất lượng thông tin thu thập được theo yêu cầu do tính minh bạch trong hệ thống tài chính của Việt Nam còn rất thấp. Đề xuất cuối cùng và không kém phần quan trọng, đảm bảo thực hiện được hai đề xuất trên là cần có quy định về cơ chế phối hợp giữa DIV và các cơ quan kh c trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Theo khuyến nghị tại Điều 6 trong IADI (2014), “Cần phải xây dựng một khung phối hợp chặt chẽ và chia sẻ thông tin định kỳ hoặc thông tin liên quan đến các ngân hàng cụ thể giữa tổ chức bảo hiểm tiền gửi và các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính. Các thông tin này phải chính xác và kịp thời (cần bảo mật khi cần thiết). Cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin phải được chính thức hóa”. Việt Nam hiện có đầy đủ các thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia như khuyến nghị, gồm 5 cơ quan chính là NHNN, Bộ Tài chính (với chức năng chủ yếu của Ủy ban chứng khoán và Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm), Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia và DIV. Theo phân tích của Tô Ngọc Hưng (2011), Nguyễn Chí Đức (2015), sự phối hợp tổ chức hoạt động giám sát của các tổ chức trong mạng an toàn tài chính hiện nay còn quá nhiều hạn chế và được đánh giá là gần như không có. Nguyên nhân là do khung pháp lý về vấn đề này chưa đầy đủ và rõ ràng nên các cơ quan trong mạng an toàn tài chính cũng không chủ động trong việc ký kết các văn bản phối hợp và trao đổi thông tin song phương với các cơ quan giám sát khác. Các thông tin kiểm tra giám sát thông thường luôn được giữ bí mật và sử dụng cho mục đích riêng của từng 152
- cơ quan. Điều này làm hạn chế khả năng giám sát của toàn hệ thống. Do vậy, để đạt được mục tiêu là các thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và sự ổn định của hệ thống TCTD trong thời kì thông thường cũng như thời kì khủng hoảng thì việc quy định và duy trì cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này là cần thiết. Cần xác định rõ ràng trong các văn bản pháp luật trách nhiệm, quyền hạn, cách thức phối hợp của từng cơ quan trong mạng an toàn trong thời kì bình thường cũng như trong giai đoạn khủng hoảng. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia với chức năng tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài chính quốc gia có thể đứng ra làm đầu mối phối kết hợp giữa các thành viên trong mạng lưới cũng như xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin chung giữa các thành viên hoặc thành lập các ủy ban chuyên biệt có sự tham gia của các thành viên trong mạng lưới để giải quyết các vấn đề liên quan hoạt động và lợi ích của hai thành viên trở lên trong mạng lưới. Tóm lại, mô hình giảm thiểu rủi ro mà DIV lựa chọn trong quá trình tái cấu trúc hoàn toàn phù hợp và theo xu thế chung hiện nay trên thế giới. Tuy nhiên, để tổ chức có thể thực hiện chức năng và mục tiêu của mình thì rất cần khung pháp lý cho hoạt động của tổ chức BHTG, trong đó, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, thẩm quyền trong hoạt động của tổ chức như phí BHTG, hạn mức bồi thường cho người gửi tiền, giám sát và xử lý các tổ chức tham gia BHTG có vấn đề cũng như cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong mạng lưới an toàn quốc gia. Tài liệu tham khảo 1. DIV (2012), Kinh nghiệm một số nước về xây dựng hệ thống thu phí BHTG, truy cập ngày 5/1/2017 tại 2. DIV (2016), X c định tỷ lệ quỹ BHTG mục tiêu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam, truy cập ngày 5/1/2017 tại cleId=6275&CatID=3&PageIndex=1. 3. Duy Cường và Thái Hà (2016), Kinh tế Việt Nam 10 năm dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, truy cập ngày 5/1/2017 tại tuong-nguyen-tan-dung-20160329012359222.htm. 153
- 4. IADI (2014), Core Principles for Effective Deposit Insurance Systems, truy cập ngày 5/1/2017 tại 5. Chu Thanh Vân (2016), Bảo hiểm tiền gửi phải tham gia vào quá trình tái cơ cấu ngân hàng, truy cập ngày 5/1/2017 tại tien-gui-phai-tham-gia-vao-qua-trinh-tai-co-cau-ngan-hang. 6. Federal Deposit Insurance Corporation (2013), Interrelationships among safety-net participants, truy cập ngày 5/1/2017 tại rrelationships.pdf>. 7. Khan (2009), Essays on banking crises, Research Reports of the Institution of Economics studies, Finland 2009:116. 8. Lê Việt Nga (2012), Bàn về loại tiền gửi được bảo hiểm và hạn mức chi trả tiền bảo hiểm, truy cập ngày 5/1/2017 tại 9. Nguyễn Chí Đức (2015), Ảnh hưởng của rủi ro đạo đức trong bảo hiểm tiền gửi đến kỉ luật thị trường: Kinh nghiệm từ Mĩ và gợi ý cho Việt Nam, truy cập ngày 5/1/2017 tại uef/2015-09-10-24/11.pdf. 10. Niinimäki (2000), Bank Panics, Deposit Insurance and Liquydity, Research Reports, Finland 2000:25, 2, 69. 11. Mai Minh Đệ (2008), Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tiến đến mô hình giảm thiểu rủi ro, truy cập ngày 5/1/2017 tại 12. Phong Hiếu (2016), Nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi là cần thiết, truy cập ngày 5/1/2017 tại han-muc-chi-tra-bao-hiem-tien-gui-la-can-thiet.html. 13. Tô Ngọc Hưng (2011), Mối quan hệ phối hợp giữa các thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia: Thực trạng và giải pháp, truy cập ngày 5/1/2017 tại aBIDV=200. 14. Việt Dũng và Nguyệt Nguyễn (2015), Câu chuyện những ngân hàng 0 đồng, truy cập ngày 5/1/2017 tại ngan-hang/cau-chuyen-nhung-ngan-hang-0-dong-3293664/. 15. Yến Lam (2016), Bất cập khung pháp lý bảo hiểm tiền gửi: Nhà băng khó phá sản, truy cập ngày 5/1/2017 tại khung-phap-ly-bao-hiem-tien-gui-nha-bang-kho-pha-san-1901467.html. 154