Thực trạng phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và giải pháp hỗ trợ từ nhà nước

pdf 9 trang Gia Huy 18/05/2022 2020
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và giải pháp hỗ trợ từ nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuc_trang_phat_trien_doanh_nghiep_khu_vuc_kinh_te_tu_nhan_v.pdf

Nội dung text: Thực trạng phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và giải pháp hỗ trợ từ nhà nước

  1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ TỪ NHÀ NƯỚC ThS. Bùi Thanh Tuấn Viện Chiến lược và Khoa học Công an Tóm tắt Thời gian qua, doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định được vai trò là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển; tuy nhiên, cùng với những điều kiện thuận lợi, khu vực kinh tế tư nhân đang gặp không ít khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển. Bài viết bước đầu xác định một số hạn chế, khó khăn và nguyên nhân; từ đó đưa ra một số giải pháp từ phía Nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân đáp, ứng mục tiêu hội nhập quốc tế thành công và sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ khóa: Doanh nghiệp; khu vực kinh tế tư nhân; Nhà nước 1. Thực trạng phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta thời gian qua Ở nước ta, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đặc biệt kể từ khi Luật Doanh nghiệp (năm 1999) ra đời cho đến thời điểm hiện tại (sau 2 năm ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2014), số lượng doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng. Nếu như ở thời điểm năm 2000, cả nước có 35.044 doanh nghiệp tư nhân hoạt động thì đến cuối năm 2014 đã có 388.232 doanh nghiệp tư nhân, tăng gấp 11,07 lần sau khoảng 15 năm. Hiện nay, nước ta có khoảng trên 600.000 doanh nghiệp tư nhân, chiếm 90% số doanh nghiệp cả nước; tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, với 51% lực lượng lao động cả nước, đóng góp trên 40% tổng sản phẩm quốc nội. Kinh tế tư nhân có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, chiếm tỷ trọng khá lớn trong GDP; đóng góp đáng kể và góp phần bảo đảm cân bằng ngân sách nhà nước; góp phần giải quyết những vấn đề xã hội, thực hiện mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội; hàng năm tạo việc làm cho hơn một triệu lao động, tăng thu nhập cho xã hội và cho người lao động Kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng trong phát triển nền kinh tế quốc dân: sự phát triển mạnh kinh tế tư nhân tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, đó chính là động lực để phát triển, kinh tế tư nhân còn có 211
  2. vai trò huy động những tiềm năng về nhân lực, tài lực, vật lực để phát triển kinh tế; kinh tế tư nhân phát triển sẽ tạo ra đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi nhưng đồng thời, cũng phải có sự thay đổi về luật pháp, đặc biệt là luật pháp kinh tế cho phù hợp và đòi hỏi bộ máy quản lý của nhà nước phải được cải cách tổ chức lại cho thích hợp. Để trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, ngoài sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, kinh tế tư nhân cũng rất cần được mở ra nhiều cơ hội, được cạnh tranh công bằng, bình đ ng và nhận được nhiều sự hỗ trợ của Nhà nước ngang bằng với các thành phần kinh tế khác. Việc Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ cho doanh nghiệp tư nhân phát triển lớn mạnh, làm xuất hiện những doanh nghiệp lớn, thương hiệu mạnh - những tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và thế giới sẽ là một trong những nhân tố quyết định đến mục tiêu hội nhập quốc tế thành công và sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được của kinh tế tư nhân vào sự phát triển kinh tế đất nước, thành phần kinh tế này vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Cụ thể là: Một là, quy mô của các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu vẫn là nhỏ. Dù doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng nhưng các doanh nghiệp hiện đa phần vẫn là doanh nghiệp quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khoảng 96% doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động là doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Riêng doanh nghiệp siêu nhỏ (nếu xét theo tiêu chí là dưới 10 lao động) đã chiếm khoảng 66%. Nhiều doanh nghiệp có đặc điểm không khác nhiều so với hộ kinh doanh cá thể về quy mô lao động, doanh thu, cách tổ chức quản lý. Điều này cho thấy, năng lực cạnh tranh của loại hình kinh tế này trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đang là vấn đề đáng quan ngại. Hai là, kết quả kinh doanh còn hạn chế, tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ cao, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và giải thể vẫn tăng hàng năm. Căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế thì theo “Báo cáo Thường niên Doanh nghiệp Việt Nam năm 2015” do VCCI công bố thì tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ trong giai đoạn 2007-2014 dao động trong khoảng từ 21,7% đến 45,4%. Tỷ lệ doanh nghiệp bị thua lỗ cao đặc biệt là trong các năm 2011, 2013 và 2014. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh đã tăng liên tục 212
  3. trong những năm gần đây, năm 2015 cả nước có 71.391 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2014, cụ thể: 15.649 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký, và 55.742 doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký; năm 2017 số doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động là hơn 53.500 (tương đương 51% số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động). Ba là, trình độ và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chưa được đào tạo bài bản; phương pháp quản lý, trình độ quản lý và trình độ chuyên môn thấp. Hiện tại, phần lớn nhân sự cao cấp tại các doanh nghiệp Việt Nam chưa được đào tạo về quản trị kinh doanh một cách bài bản, chưa gắn với thực tế sản xuất kinh doanh, điều này dẫn đến thiếu chiến lược kinh doanh, sản phẩm không đa dạng, khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ chưa cao, chưa đáp ứng tốt thị hiếu người tiêu dùng, giá cả chưa hợp lý. Các yếu tố khác như quảng cáo, tiếp thị, xây dựng thương hiệu, tổ chức quản lý mạng lưới phân phối chưa được quan tâm. Hiện chỉ có ít doanh nghiệp tư nhân đang đứng vững trên thị trường và phát triển, còn phần nhiều doanh nghiệp đang hoạt động cầm cự sau khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam. Ngoài ra, trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật, hiểu biết về chính sách thương mại, nhất là thương mại quốc tế còn hạn chế. Không ít các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về thuế, môi trường, sản xuất hàng hóa kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái, vi phạm về chính sách lao động, tiền lương và bảo hiểm xã hội Bốn là, năng lực công nghệ của các doanh nghiệp tư nhân thấp. Nhiều doanh nghiệp với hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu so với trình độ khu vực khoảng 2 đến 3 thập kỷ; công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất thấp, tiêu tốn nguyên nhiên liệu, ảnh hưởng xấu tới môi trường trong khi chất lượng và mẫu mã sản phẩm hàng hoá dịch vụ bị hạn chế. Mặt khác, các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân thường gặp khó khăn về tiếp cận vốn, khó khăn về tài sản bảo đảm, về phương án đầu tư kinh doanh, mặt bằng lãi suất Nguyên nhân của những hạn chế kể trên bắt nguồn từ những khía cạnh cơ bản sau: - Nhận thức về vị trí, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân chưa nhất quán, doanh nghiệp tư nhân chưa thực sự được coi là một thành phần kinh tế quan trọng ở Việt Nam. Những “ưu ái” vẫn dành cho khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 213
  4. - Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân chưa đi vào thực tế. Doanh nghiệp tư nhân chịu không ít áp lực từ phía các cơ quan nhà nước, từ thủ tục hành chính đến những quy định gây trở ngại cho doanh nghiệp; ít được tiếp cận với những chính sách hỗ trợ và các chương trình ưu đãi của Chính phủ; ít được hỗ trợ về thông tin thị trường trong và ngoài nước, họ thường phải tự vươn lên, làm ăn theo kinh nghiệm. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp tư nhân luôn phải thường xuyên đối mặt với những rủi ro. - Môi trường kinh doanh chưa thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Tiến trình cải cách thể chế kinh tế diễn ra chậm chạp, môi trường cạnh tranh chưa bình đ ng. Các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, cơ chế xin - cho còn diễn ra ở nhiều nơi. Cơ chế tiếp cận vốn vay và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân bao gồm các hỗ trợ tư pháp, chế độ thông tin, hỗ trợ đào tạo chưa được quan tâm. - Chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Vấn đề lớn hiện nay là mức độ kỹ năng của người lao động không đáp ứng được yêu cầu đặt ra của các doanh nghiệp. Theo một số liệu điều tra, có khoảng 9% tổng số các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng các lao động có kỹ năng phù hợp và 67% trong số các doanh nghiệp này cho rằng, nguyên nhân chính là do thiếu lao động có đủ kỹ năng như yêu cầu. Hơn 70% các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa; các doanh nghiệp ở khu vực nông thôn cho rằng, nguyên nhân chính của khó khăn trong tuyển dụng là do thiếu lao động có kỹ năng. - Trình độ, năng lực tổ chức quản lý và trình độ chuyên môn của doanh nghiệp tư nhân nhìn chung thấp; thiết bị, công nghệ thấp. Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động thấp. 2. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tƣ nhân từ phía Nhà nƣớc Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, sự phát triển tất yếu của khu vực kinh tế tư nhân, thì việc hỗ trợ các doanh nghiệp ở khu vực này là hết sức cần thiết và cấp bách. Quan điểm này cũng đã được xác định rất rõ tại Hội nghị Trung ương 5 (Khóa IX): “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ 214
  5. trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 tại Đại hội XI cũng làm rõ quan điểm này. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã xác định: “Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đ ng mọi cơ hội, các nguồn lực, nhất là về vốn, đất đai, tài nguyên Tăng cường trợ giúp để phát triển mạnh doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ gia đình, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành doanh nghiệp lớn, thương hiệu mạnh”. Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân có điều kiện nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và phát triển bền vững, với vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, ngoài việc tiếp tục đổi mới tư duy nhận thức về vai trò của doanh nghiệp tư nhân, cần thiết phải tập trung vào một số giải pháp sau đây: Một là, cần tạo sự đồng thuận xã hội trong quan điểm nhìn nhận và đánh giá vai trò của doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trên cơ sở đó, định hướng xây dựng nhà nước kiến tạo và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đ ng, minh bạch và lành mạnh để mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đ ng, cạnh tranh theo pháp luật. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả các loại thị trường; bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu, quyền tài sản. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do, tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân; xây dựng, sửa đổi, ban hành luật pháp theo hướng phát triển kinh tế thị trường, bảo đảm quyền sở hữu, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Trong thời gian tới, cần sửa đổi Luật Cạnh tranh cho phù hợp. Hiện nay, kinh tế tư nhân chủ yếu tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, Nhà nước cần thúc đẩy sự phát triển thành phần kinh tế này bằng cách sớm ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, minh bạch hóa hoạt động của bộ máy công quyền; cần sửa đổi Luật phòng, chống tham nhũng, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo để khắc phục những hạn chế, bất cập trong những hoạt động này; nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường là yêu cầu cấp thiết trong việc phát triển kinh tế tư nhân. 215
  6. Hai là, tiếp tục thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, trong đó trước mắt cần tập trung vào một số nội dung, như: cải thiện việc tiếp cận các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh (đất đai, vốn, lao động, công nghệ và điện năng); giảm thời gian, chi phí tuân thủ các thủ tục về thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, xây dựng; rút ngắn thời gian đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản, bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của doanh nghiệp; chính quyền các tỉnh, thành phố cần chủ động thực hiện các chương trình đối thoại định kỳ với doanh nghiệp, đồng thời nghiên cứu áp dụng các mô hình thực tiễn tốt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Để kiến tạo cơ hội phát triển cho kinh tế tư nhân, Nhà nước cần xóa bỏ những quy định bất hợp lý về điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa và loại bỏ những quy định không còn phù hợp với xu thế phát triển kinh tế trong lĩnh vực đất đai, tài chính và xuất nhập khẩu. Phát triển thị trường đất đai một cách minh bạch, giảm bớt và đi đến ngăn chặn các cơ hội trục lợi trong việc định giá, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; đồng thời cần tính đến việc đa dạng hóa hình thức sở hữu bất động sản. Ba là, tạo cơ chế thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận với các nguồn vốn bằng cách xây dựng các khung pháp lý, điều kiện tài chính và năng lực chuyên môn mà doanh nghiệp cần bảo đảm để đủ tiêu chuẩn tiếp cận với những người vốn vay lãi suất thấp. Đồng thời khuyến khích phát triển hình thức hợp tác công - tư, thành lập các mô hình hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp tư nhân. Mở rộng quy mô, đa dạng và ổn định hơn cho thị trường tài chính, tập trung xử lý nợ xấu ngân hàng; phát triển thị trường vốn, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn. Để giải quyến vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước nên tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm tăng cường quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng được tiếp cận với nguồn vốn theo đúng quy định của pháp luật; tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm túc các quy định về lãi suất, áp dụng lãi suất cho vay hợp lý trên cơ sở lãi suất huy động và mức độ rủi ro của khoản vay; cắt giảm, tiết kiệm tối đa các khoản chi phí để có điều kiện giảm lãi suất cho vay nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ. Đẩy mạnh hình thức đầu tư đối tác công - tư; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Đầu tư đối tác giữa nhà nước và tư nhân là một biện pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Với hình thức này, tư nhân sẽ có cơ hội tham gia đầu tư vào những dự án thuộc lĩnh vực công. Cùng với đó, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có tác động tích cực, tạo thêm cơ hội cho kinh tế tư nhân trong đầu tư 216
  7. kinh doanh. Đồng thời, đây là biện pháp thúc đẩy quá trình minh bạch hóa hoạt động nhằm hạn chế thất thoát, nâng cao hiệu quả kinh doanh của khu vực kinh tế nhà nước. Bốn là, đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị, tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ. Có các giải pháp để xây dựng và nuôi dưỡng tinh thần doanh nhân trong cộng đồng, đặc biệt là đối với giới trẻ bởi họ là những đối tượng khởi sự kinh doanh tiềm năng nhất. Hiện nay, đa số doanh nghiệp tư nhân do hạn chế về nguồn lực nên ít đầu tư vào quản trị nội bộ, phát triển nguồn nhân lực. Hơn nữa, doanh nghiệp tư nhân thường chỉ dùng lao động phổ thông; việc đào tạo lao động tại các doanh nghiệp chưa có hệ thống, chưa bảo đảm được nhu cầu phát triển. Hoạt động quản lý kinh doanh, quản trị của các doanh nghiệp thường theo kinh nghiệm, chưa có một quy trình đào tạo bài bản. Do vậy, cần tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân chủ động nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người lao động. Đây là một trong những nút thắt khó tháo gỡ mà các doanh nghiêp tư nhân không thể tự thân khắc phục. Trong khi đó, nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ khoa học, công nghệ hiện đại là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân chỉ có thể phát triển khi có được một lực lượng lao động chất lượng cao và công nghệ hiện đại. Vì vậy, Nhà nước cần có những chính sách đổi mới, mang tính đột phá, trong giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ để tạo ra nguồn lực đạt chất lượng về lao động, công nghệ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và kinh tế tư nhân. Có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trong đào tạo nghề, nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho doanh nghiệp tư nhân. Các chương trình này có thể trực tiếp từ Nhà nước hoặc Nhà nước sẽ là đầu mối tìm kiếm các dự án, chương trình đào tạo từ các nguồn kinh phí hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước như WB, JICA Ngoài ra, Nhà nước nên thường xuyên tổ chức các khóa học ngắn nâng cao trình độ về quản trị doanh nghiệp, kiến thức kinh tế, thị trường, pháp luật cho các chủ doanh nghiệp, cũng như cập nhật những thông tin liên quan mới nhất để doanh nghiệp biết và làm ăn hiệu quả. Năm là, tăng cường xúc tiến thương mại và hỗ trợ tiếp cận thông tin thị trường. Có cơ chế để đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa dịch vụ và đầu tư vào các nước đã ký các hiệp định thương mại và đầu tư, loại bỏ những rào cản gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự tham gia hiệu quả các chuỗi giá trị toàn cầu. Cần có chính sách cải thiện kết nối giữa các trung tâm cung ứng lao động Việt Nam với 217
  8. các đối tác thương mại bên ngoài. Bên cạnh đó, việc hạn chế trong khả năng tiếp cận thông tin đã gây khó khăn cho khu vực kinh tế tư nhân. Để có những thông tin có giá trị về thị trường, tiếp cận được với thị trường cần phải có sự hỗ trợ, hợp tác và giúp đỡ từ phía Nhà nước. Cần có sự phối hợp giữa khu vực Nhà nước với doanh nghiệp để làm sao giải quyết khâu khó khăn, trở ngại liên quan đến hàng rào phi thuế quan và đặc biệt giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường bền vững, tránh được những tranh chấp thương mại. Xây dựng những hướng dẫn, cung cấp thông tin đầy đủ cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận cơ hội của thị trường mới mà trong đó có những thông tin mang tính đặc thù liên quan đến tập quán, văn hóa, những yếu tố thị trường và cả những thông tin về chính sách vĩ mô của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia và Trung tâm thông tin quốc gia về thị trường. Thiết lập đường dây nóng, giải đáp các thông tin về thị trường. 218
  9. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hoa Cương (2016), “Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kỳ vọng cho bước đột phá mới”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4/2016. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.57-58. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.292. 4. Đặng Huy Đông (2016), “Cải cách tạo đòn bẩy để doanh nghiệp phát triển và hội nhập”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3/2016. 5. Phan Minh Huyền, Nguyễn Vũ Phong Vân, Lê Huy Hoàng (2016), “Nhận diện và tháo gỡ những rào cản đối với phát triển doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 13/2016. 219