Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị

pdf 10 trang Gia Huy 24/05/2022 1920
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuc_trang_rui_ro_he_thong_tai_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet.pdf

Nội dung text: Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị

  1. Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị Đỗ Thu Hằng Tạ Thanh Huyền Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 23/09/2020 Ngày nhận bản sửa: 23/03/2021 Ngày duyệt đăng: 22/04/2021 Tóm tắt: Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính tại Mỹ năm 2008 đã làm thay đổi nhận thức của các nhà nghiên cứu về nguy cơ cũng như hậu quả khốc liệt của rủi ro hệ thống đến hoạt động tổng thể nền kinh tế. Trong nghiên cứu này, các tác giả tổng quan về rủi ro hệ thống như khái niệm, phân loại và tác động của rủi ro hệ thống. Tiếp theo, dựa trên tổng hợp dữ liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các tổ chức, nhóm tác giả phân tích thực trạng rủi ro hệ thống tại ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, giai đoạn 2009- 2019, thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ xấu, cơ cấu tín dụng, đòn bẩy tài chính và khả năng thanh khoản của các NHTM. Phần cuối, các tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm quản lý rủi ro hệ thống trong khu vực ngân hàng. Từ khóa: đòn bẩy tài chính, ngân hàng thương mại, nợ xấu, thanh khoản, rủi ro hệ thống. Current situation of systemic risks in Vietnam commercial banks and some recommendations Abstract: The 2008 global financial crisis changed researchers’ perceptions of the importance and consequences of systemic risk on the overall performance of the whole financial system. The authors review theories of systematic risk such as the concept, classification and consequences of systematic risk. In section 2, authors analyzed the current situation of systemic risks in Vietnam commercial banks during the period from 2009 to 2019, focusing on the aspects of high financial leverage, credit structure, high NPL ratio, liquidity stress Lastly, the authors propose a number of recommendations to manage systemic risks in the banking sector. Keywords: commercial banks, leverage, NPL, systemic risk. Hang Thu Do Huyen Thanh Ta Email: huyentt@hvnh.edu.vn Banking Faculty, Banking Academy of Vietnam Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng © Học viện Ngân hàng Số 227- Tháng 4. 2021 24 ISSN 1859 - 011X
  2. ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN 1. Tổng quan về rủi ro hệ thống Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB, 2004) định nghĩa rủi ro hệ thống là rủi ro mà 1.1. Khái niệm rủi ro hệ thống một tổ chức không có khả năng thực hiện/ đáp ứng các nghĩa vụ của mình khi đến hạn So với những rủi ro khác, rủi ro hệ thống khiến các tổ chức khác không thể để đáp được nhận diện tương đối muộn. Về mặt ứng nghĩa vụ của họ khi đến hạn. Sự thất lý thuyết, rủi ro hệ thống xuất hiện khoảng bại này có thể gây ra vấn đề thanh khoản những năm 90 của thế kỷ 20 nhưng chỉ thật hoặc tín dụng nghiêm trọng, đe dọa sự ổn sự được chú ý sau cuộc khủng hoảng tài định hoặc niềm tin vào thị trường. Khái chính toàn cầu năm 2007- 2008. Các nghiên niệm này đã chỉ ra nguyên nhân và hậu quả cứu từ trước đến nay cho thấy, chưa có sự của rủi ro hệ thống một cách rõ ràng hơn. thống nhất về khái niệm rủi ro hệ thống. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính Một số khái niệm rủi ro hệ thống tiêu biểu 2007 - 2008 đã cho thấy các định nghĩa ở như sau: trên đã bỏ qua hoặc không mô tả rõ ràng Mishkin (1995) đã định nghĩa, rủi ro hệ về một thuộc tính quan trọng của các cuộc thống là khả năng xảy ra sự kiện bất ngờ, khủng hoảng hệ thống, đó là các tác động/ thường là không dự tính được, làm gián thiệt hại bên ngoài hệ thống tài chính của đoạn thông tin trên thị trường tài chính, cuộc khủng hoảng này do việc không thực khiến thị trường không thể luân chuyển vốn hiện hiệu quả chức năng chính của hệ thống một cách hiệu quả cho các bên có cơ hội tài chính, bao gồm cung cấp thanh khoản, đầu tư hiệu quả nhất. tín dụng và dịch vụ, hay nói cách khác bỏ Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS, 1994) qua nguy cơ lan tỏa từ lĩnh vực tài chính cho rằng, rủi ro hệ thống là rủi ro người sang nền kinh tế thực và các chi phí liên tham gia không thực hiện nghĩa vụ theo quan. Schwarcz (2008) định nghĩa về rủi hợp đồng có thể lần lượt khiến những ro hệ thống là rủi ro (i) một cú sốc kinh tế, người tham gia khác vỡ nợ với phản ứng ví dụ sự thất bại/sụp đổ một định chế hay dây chuyền dẫn đến khó khăn tài chính cả thị trường kích hoạt/gây ra (thông qua rộng lớn hơn. sự hoảng loạn hoặc bằng cách khác) (X) sự Hội đồng Thống đốc hệ thống dự trữ liên thất bại của thị trường hoặc một chuỗi tổ bang (Fed, 2001) đã đưa ra khái niệm về rủi chức hoặc (Y) một chuỗi tổn thất đáng kể ro hệ thống như sau: “Rủi ro hệ thống có thể đối với các tổ chức tài chính; (ii) dẫn đến xảy ra nếu một tổ chức/định chế trong một tăng chi phí vốn hoặc giảm tính sẵn có của mạng lưới thanh toán USD lớn riêng biệt nguồn vốn, thường được chứng minh bằng không thể hoặc không sẵn sàng thanh toán sự biến động giá đáng kể trên thị trường tài số nợ ròng của nó. Nếu xảy ra việc không chính. thanh toán, các chủ nợ của tổ chức trong Dựa vào khái niệm trên, rủi ro hệ thống có mạng thanh toán cũng không thể thanh thể được mô hình hóa bao gồm các yếu tố toán các nghĩa vụ của mình. Do đó, hậu sau (Hình 1): quả nghiêm trọng có thể lan sang những tổ • Cú sốc (loại, nguồn, thời lượng, phạm vi). chức/định chế khác trong mạng lưới riêng • Các kênh truyền nhiễm. biệt, đến các tổ chức tiền gửi khác trong hệ • Các tổ chức (bị ảnh hưởng bởi rủi ro hệ thống và đến cả những tổ chức khác không thống) và tham gia vào mạng lưới và nói chung đến • Tính dễ bị tổn thương về cấu trúc (tăng nền kinh tế ”. trạng thái rủi ro đối với rủi ro hệ thống). Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 25
  3. Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị Hình 1. Mô hình rủi ro hệ thống Nguồn: Smaga, 2014 Toàn bộ quá trình bắt đầu với một cú sốc. được coi là rủi ro đầu cơ do sự biến động Nếu các cú sốc này ảnh hưởng đầu tiên đến giá của các công cụ tài chính. Mặt khác, các các tổ chức có ý nghĩa hệ thống thì tác Systemic risk là thuật ngữ đề cập đến có động của nó đối với hệ thống tài chính càng thể được hiểu là rủi ro của một tổ chức mạnh. Những cú sốc bao gồm cú sốc nội tài chính lan truyền sang các tổ chức/định sinh (xuất phát từ sự sụp đổ/khó khăn của chế khác hoặc toàn bộ hệ thống và nguy một tổ chức) hoặc ngoại sinh (cú sốc bên cơ đổ vỡ hoặc rối loạn chức năng chính ngoài). Cú sốc sau đó được chuyển qua các của thị trường tài chính (Mishkin, 1995; kênh truyền nhiễm liên quan đến nhau, bao Schwarcz, 2008). Cần chú ý rằng, hai loại gồm: mối liên kết song phương; thị trường rủi ro này có thể cùng tồn tại trong trường (thông tin); cấu trúc: sự tương đồng về cấu hợp thị trường đi xuống, điều này góp phần trúc tài sản/nợ phải trả (rủi ro với các cú sốc làm suy giảm tình hình tài chính của các tổ đối xứng), sản phẩm, hệ thống thanh toán. chức hoạt động trong thị trường đó. Cũng cần lưu ý, khi xem xét khái niệm rủi ro hệ thống tại Việt Nam, cần phân biệt giữa 1.2. Phân loại rủi ro hệ thống hai khái niệm Systematic risk và Systemic risk. Cả hai thuật ngữ này đều được dịch Về mặt lý thuyết, rủi ro hệ thống được xem xét là rủi ro hệ thống nhưng hàm ý khác nhau. trên hai khía cạnh/ phương diện (BIS, 2010): Systematic risk - là thuật ngữ chỉ rủi ro tổng hợp (kinh tế vĩ mô) không thể giảm thiểu - Chiều thời gian hoặc chu kỳ (thay đổi bằng cách phòng ngừa hay đa dạng hóa theo thời gian - time dimension). Khía (Aghion và cộng sự, 2010). Đây là rủi ro cạnh này của rủi ro hệ thống được hiểu là liên quan đến các yếu tố rủi ro chứng khoán sự gia tăng (tích tụ) rủi ro hệ thống theo chưa được đa dạng hóa, được xác định bởi thời gian. Chiều thời gian bao gồm các rủi xu hướng thị trường. Rủi ro hệ thống này ro không bắt nguồn trực tiếp từ hoạt động 26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
  4. ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN của một tổ chức đơn lẻ mà từ tập hợp các và các trung gian tài chính khác không thể hành vi của các tổ chức trong hệ thống tài thực hiện các chức năng của họ. Các chức chính, từ đó dẫn tới sự khuếch đại bất ổn năng này có thể được phân thành ba loại trong khu vực tài chính và nền kinh tế thực, lớn: (i) cung cấp dịch vụ thanh toán, (ii) các hiệu ứng phản hồi (feedback effects) và chia sẻ và quản lý rủi ro và (iii) cung cấp tín gánh nặng nợ quá mức, đòn bẩy. Nguồn gốc dụng (Freixas và cộng sự, 2015). của chiều theo thời gian này là tính thuận chu kỳ. Tính thuận chu kỳ nghĩa là trong - Sự gián đoạn hệ thống thanh toán: Việc giai đoạn tăng trưởng kinh tế, các tổ chức gián đoạn thanh toán có thể bắt nguồn từ sự tài chính thường sẽ chấp nhận mức độ rủi sụp đổ của ngân hàng với việc đóng băng ro cao hơn, vì thế đòn bẩy, mức độ thanh tạm thời tiền gửi không kỳ hạn của ngân khoản, giá chứng khoán và giá bất động sản hàng đó hoặc do sự thất bại của một ngân tăng sẽ dẫn đến việc định giá quá mức tài hàng đại lý trong giao dịch khiến cho việc sản của các tổ chức. Ngược lại, trong giai thanh toán không thể thực hiện được. Sự đoạn nền kinh tế suy thoái, xu hướng sẽ gián đoạn thanh toán cũng có thể xảy ra khi ngược lại, gây nên sự bất ổn thị trường, sự có sự không chắc chắn về việc liệu thanh suy giảm trong giá tài sản tài chính, giảm toán sẽ đến đích do ngân hàng nhận thanh đòn bẩy, thanh khoản đóng băng sẽ dẫn đến toán hay ngân hàng thanh toán phải đối mặt khủng hoảng tài chính. với rủi ro vỡ nợ nghiêm trọng. - Chiều liên kết chéo hoặc cấu trúc (cross - Sự suy yếu của chức năng chia sẻ và sectional or structural dimension): Khía quản lý rủi ro của các ngân hàng, ví dụ cạnh này của rủi ro hệ thống được hiểu là các khoản bảo lãnh, cung ứng các hợp đồng sự phân bổ rủi ro (hay các nguồn rủi ro hệ phái sinh Trong điều kiện xảy ra sự kiện thống) trong hệ thống tài chính tại một thời hệ thống, các điều khoản của hợp đồng điểm nhất định. Chiều liên kết chéo này không thể được thực hiện vì người trả tiền bắt nguồn từ sự liên kết giữa các tổ chức không thể thực hiện thanh toán. Ngoài ra, trong hệ thống tài chính và khiến cho các một số dịch vụ có giá trị mà các ngân hàng tổ chức cũng như hệ thống tài chính trở nên và các trung gian tài chính khác cung cấp dễ bị tổn thương. Chiều liên kết chéo bao có thể không được thực hiện hoặc thực hiện gồm các rủi ro ảnh hưởng đến sự ổn định với rủi ro đối tác rất lớn. Hơn nữa, trên thị tài chính, bắt nguồn từ sự bất ổn của một trường bán buôn, việc quản lý rủi ro thanh tổ chức, sự tập trung (tính tương đồng) của khoản của các NHTM là rất quan trọng trạng thái rủi ro (ví dụ dư nợ tín dụng), hay và điều này có thể không hoạt động trong nguồn vốn, cấu trúc của các tổ chức và mức các sự kiện hệ thống. Thị trường và tài trợ độ tập trung của hệ thống tài chính và sự thanh khoản có thể gây ra vấn đề nghiêm liên kết trực tiếp hay gián tiếp giữa các tổ trọng (Brunnermeier và Pedersen, 2008). chức tài chính. - Sự suy giảm dòng tín dụng cho nền kinh 1.3. Hậu quả của rủi ro hệ thống tế trong sự kiện hệ thống, các ngân hàng chọn giảm nguồn cung tín dụng do thiếu Các tác động kinh tế thực tế bất lợi gây nên thanh khoản hoặc vốn, do đó tạo ra khủng bởi rủi ro hệ thống sẽ ảnh hưởng đến các hoảng tín dụng cho các công ty và hộ gia công ty và hộ gia đình khi các ngân hàng đình (Bernanke và cộng sự, 1992). Một số Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 27
  5. Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị lượng lớn các khoản vay bị đòi lại là kết liên quan đến hệ thống thông qua phân tích quả của các vấn đề ngân hàng. Thêm vào các chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu, cơ cấu tín dụng, đó, trong rủi ro hệ thống, các khách hàng đòn bẩy tài chính và khả năng thanh khoản bị từ chối cho vay ở ngân hàng này cũng của các NHTM. không thể đến vay tại ngân hàng khác. Không phải tất cả các rủi ro đều gây ra khủng Thứ nhất, tỷ lệ nợ xấu có sự biến động lớn hoảng tài chính. Tăng trưởng kinh tế dài hạn Biểu đồ 1 cho thấy trong giai đoạn 2009 - là không thể nếu không chấp nhận rủi ro. 2019 tỷ lệ nợ xấu tương đối biến động. Từ Tuy nhiên, chấp nhận rủi ro quá mức gây năm 2009, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng ra khủng hoảng tài chính. Ngược lại, khủng và đặc biệt, giai đoạn 2011 - 2014 đã chứng hoảng làm giảm khẩu vị rủi ro của người cho kiến sự bùng nổ của nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu vay và nhà đầu tư (làm giảm số lượng các dự tại các NHTM Việt Nam. Trong giai đoạn án được tài trợ và rủi ro liên quan đến các dự này, tỷ lệ nợ xấu tăng lên trên mức tối thiểu án này), do đó làm giảm tăng trưởng kinh tế NHNN khuyến cáo là 3%, cụ thể năm 2011 (Aghion và cộng sự, 2010). là 3,30% và đạt đỉnh năm 2012 là 4,02% . Đây thực sự là mối đe dọa đối với hoạt động 2. Thực trạng rủi ro hệ thống tại các của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, theo ngân hàng thương mại Việt Nam đánh giá của các tổ chức nước ngoài, các con số đánh giá nợ xấu này đều chưa thật Trong giai đoạn 2009 - 2019, hoạt động các đầy đủ. Theo tổ chức xếp hạng tín nhiệm NHTM Việt Nam có nhiều biến động. Cùng độc lập Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu của Việt với triển khai các hoạt động kinh doanh thì Nam có thể cao gấp 4 lần con số được báo trong giai đoạn này các NHTM Việt Nam cáo. Moody cũng cho rằng tỷ lệ nợ xấu của cũng đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm ẩn Việt Nam năm 2013 ở mức 15%, cao hơn rủi ro hệ thống. Trong phần này, dựa trên nhiều so với mức 3,11% được công bố bởi tổng quan dữ liệu từ NHNN và các tổ chức, NHNN và trái phiếu phát hành bằng nội tệ nhóm tác giả sẽ phân tích các vấn đề rủi ro và ngoại tệ của Việt Nam đã bị tổ chức này hạ bậc tín nhiệm từ B1 xuống mức B2. Đồng thời tốc độ tăng trưởng nợ xấu trong 3 năm 2010 - 2012 lần lượt là 53,24%, 55,74% và 46,41% (theo cơ sở dữ liệu IMF, 2020). Tỷ lệ nợ xấu tăng cao dẫn đến hậu quả chi phí xử lý rủi ro tín dụng (RRTD) cũng gia tăng mạnh mẽ. Từ Biểu đồ Biểu đồ 1. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2 cho thấy, chi phí dự 2009 - 2019 phòng liên tục tăng từ Đơn vị: % năm 2011 cả về số tuyệt Nguồn: NHNN & Tổng hợp của tác giả đối và tỷ trọng trên tổng 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
  6. ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN dư nợ và đạt đỉnh vào năm 2014. Chi phí này. Điều này đặt ra vấn đề là sự an toàn dự phòng tăng cao cũng phản ánh mức độ của hệ thống phụ thuộc vào sự biến động RRTD gia tăng trong giai đoạn này. Điều của các thị trường này - vốn là lĩnh vực này dẫn đến hậu quả là khả năng sinh lời, tiềm ẩn rủi ro lớn. Biểu đồ 3 cho thấy trong hiệu quả hoạt động kinh doanh của các năm 2009, tỷ trọng tín dụng vào các lĩnh NHTM giảm sút mạnh. Từ năm 2014 - vực bất động sản, ngoại tệ chiếm tỷ trọng 2015, bằng các nỗ lực mạnh mẽ của Chính lớn trong tổng dư nợ tín dụng (> 25%). Đến phủ, NHNN, nhiều biện pháp xử lý nợ xấu thời điểm 5/2011, một tháng trước thời đã được thực hiện như thành lập Công ty điểm các NHTM phải đưa tỷ trọng tín dụng Quản lý tài sản (VAMC) theo Nghị định phi sản xuất xuống còn 22% (theo Chỉ thị 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ, hạn chế 01/CT-NHNN về thực hiện giải pháp tiền tăng trưởng tín dụng, tái cơ cấu các khoản tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát nợ, thì tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam đã được cải lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm thiện đáng kể, xuống dưới ngưỡng 3% từ an sinh xã hội), vẫn còn 18 ngân hàng có cuối năm 2014 và liên tục giảm. tỷ lệ này trên 22%, và 9 ngân hàng có tỷ lệ này trên 30%. Cuối năm 2011, dư nợ Thứ hai, cơ cấu tín dụng không được đa cho vay bất động sản của hệ thống ngân dạng hóa, tập trung tín dụng tại một số hàng là gần 200.000 tỷ đồng, chiếm 7,78% lĩnh vực có mức độ rủi ro cao dư nợ của toàn hệ thống, cao hơn nhiều so Theo Bùi Quốc Dũng và Phùng Thu Hiền với một số nước trong khu vực như Thái Vân (2013), giai đoạn 2004- 2007, thị Lan (6%) và Malaysia (7%). Tín dụng đối trường bất động sản, ngoại tệ và chứng với lĩnh vực chứng khoán mặc dù chiếm tỷ khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, hậu trọng không lớn trong tổng dư nợ nhưng quả dẫn đến là dư nợ tín dụng của hệ thống tốc độ tăng trưởng luôn cao hơn nhiều so NHTM tập trung mạnh vào các lĩnh vực với tăng trưởng tín dụng chung của nền Biểu đồ 2. Chi phí dự phòng RRTD và tỷ lệ chi phí dự phòng RRTD trên tổng dư nợ của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2019 Đơn vị: Tỷ VND và % Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF, 2020 Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 29
  7. Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị Biểu đồ 3. Tỷ trọng tín dụng bất động sản và cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019 Đơn vị: % Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ sở dữ liệu IMF kinh tế (ThS. Bùi Quốc Dũng, Phùng Thu và Brunnermeier, 2016). Việc duy trì tỷ lệ Hiền Vân, 2013). nợ trên vốn chủ sở hữu cao cho thấy tính dễ Biểu đồ 3 cũng cho thấy cùng với tăng tổn thương của hệ thống tài chính Việt Nam. trưởng tín dụng bất động sản là sự gia tăng Điều này dẫn đến rủi ro hệ thống được hình nhanh chóng của tín dụng ngoại tệ. Tín thành và tích lũy mà không quan sát được. dụng ngoại tệ tăng nhanh là do chênh lệch lãi suất cho vay ngoại tệ thấp hơn so với Thứ tư, xuất hiện tình trạng căng thẳng nội tệ, đồng thời tỷ giá được kỳ vọng ổn thanh khoản trong hệ thống NHTM tại định (không có rủi ro tỷ giá). Tuy nhiên, một số giai đoạn tín dụng ngoại tệ tăng nhanh lại dẫn đến áp Cùng với chất lượng tài sản suy giảm, trong lực tới tỷ giá và gây nên biến động trên thị giai đoạn 2008 - 2011, hệ thống NHTM Việt trường ngoại hối, ảnh hưởng tới hệ thống Nam còn trải qua tình trạng căng thẳng về tài chính. Từ Biểu đồ 3, tín dụng ngoại tệ thanh khoản diễn ra thường xuyên (Bùi Quốc năm 2009 đạt gần 17% tổng dư nợ, năm Dũng và Phùng Thu Hiền Vân, 2013). Sự 2010 có giảm nhưng vẫn chiếm hơn 11% căng thẳng thể hiện rõ ở sự sụt giảm tỷ lệ tổng dư nợ tín dụng. tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản. Biểu đồ 5 cho thấy sự sụt giảm mạnh mẽ Thứ ba, mức độ đòn bẩy tài chính1 lớn của tài sản thanh khoản cao trong tổng tài sản dẫn đến hệ thống dễ bị tổn thương của các NHTM, từ gần 30% các năm 2009- Biểu đồ 4 cho thấy, đòn bẩy tài chính của 2010 giảm còn 13,30% năm 2011 và duy trì các NHTM Việt Nam, trừ năm 2013 - 2014 ở ngưỡng tương đối thấp, trung bình 12% từ suy giảm do sự suy giảm tổng tài sản, thì năm 2011 đến nay. đều ở ngưỡng cao, xung quanh 13, hàm ý Một dấu hiệu nữa cho thấy tình trạng căng là 1 đồng vốn được tài trợ bởi 13 đồng nợ thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng trong khi đó ngưỡng này tại các NHTM là lãi suất liên ngân hàng có xu hướng tăng trên thế giới thường ở mức 8- 10 (Adrian mạnh. Từ Biểu đồ 6 có thể thấy rằng ba mức lãi suất này có xu hướng biến động cùng 1 Đòn bẩy tài chính = Tổng tài sản/Vốn chủ sở hữu 30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
  8. ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN Biểu đồ 4. Tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009- 2019 Đơn vị: % Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF và tính toán của tác giả chiều với nhau và trong giai đoạn 2011- và cho vay của hệ thống ngân hàng. Sự mất 2012, cả 3 mức lãi suất liên ngân hàng đều cân đối giữa kỳ hạn huy động vốn và cho tăng mạnh. Có những thời điểm lãi suất liên vay đã và đang trở nên nghiêm trọng trong ngân hàng qua đêm đạt gần 16%. hệ thống ngân hàng khi các khoản cho vay Nguyên nhân dẫn đến tình trạng căng thẳng dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn và có quy thanh khoản này trước hết do tốc độ tăng mô lớn hơn nhiều so với các khoản tiền gửi trưởng tín dụng cao hơn so với huy động trong có cùng kỳ hạn. Bên cạnh đó, nguy cơ về một thời gian dài từ trước đó dẫn tới tình trạng rủi ro thanh khoản của NHTM giai đoạn mất cân đối nghiêm trọng giữa nguồn vốn và này tăng lên do nợ xấu tăng cao mà khả sử dụng nguồn. Biểu đồ 7 cho thấy sự biến năng phát mại tài sản thấp, ảnh hưởng tới động tỷ lệ LDR của toàn hệ thống có sự gia việc chuyển hóa các khoản nợ xấu thành tăng mạnh trong những năm 2009 - 2011, từ tiền của ngân hàng. 98% năm 2008 đến hơn 110% năm 2011, nếu cộng thêm cả khoản đầu tư trái phiếu doanh 3. Kết luận và khuyến nghị nghiệp và ủy thác đầu tư thì tỷ lệ này lên đến 119,9%. Trong khi đó, trên thế giới tỷ lệ này Qua phân tích thực trạng, có thể thấy rủi ro chỉ khoảng 30 - 70% và các nước châu Á khác trong khu vực cũng chỉ nằm dưới 80% (BIS, 2010). Tỷ lệ này tăng cao cho thấy mức độ rủi ro thanh khoản của hệ thống có xu hướng tăng lên. Đây là hậu quả của việc theo đuổi tăng trưởng tín dụng cao trong giai đoạn 2007 - 2009. Một nguyên nhân nữa của tình trạng căng thẳng thanh khoản của Biểu đồ 5. Tỷ lệ tài sản thanh khoản trong tổng tài hệ thống ngân hàng là sự mất cân sản tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019 đối về kỳ hạn giữa huy động vốn Đơn vị: % Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF, 2020 Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 31
  9. Thực trạng rủi ro hệ thống tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số khuyến nghị Biểu đồ 6. Diễn biến lãi suất liên ngân hàng giai đoạn 2009 - 2019 Đơn vị: % Nguồn: Cơ sở dữ liệu Fiin Group, 2020 hệ thống của các NHTM Việt Nam có sự lý cũng như các NHTM cần được nâng cao biến động trong giai đoạn 2009 - 2019, thể về nguy cơ rủi ro hệ thống cũng như những hiện: (i) tỷ lệ nợ xấu biến động, chi phí dự tác động tiêu cực của nó, dẫn đến bất ổn tài phòng rủi ro tăng; (ii) cơ cấu tín dụng còn chính ở phạm vi rộng. tập trung vào một số lĩnh vực có mức độ Thứ hai, các cơ quan và các nhà quản lý rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản; cần đánh giá đúng mức tầm quan trọng của (iii) mức độ đòn bẩy lớn, tỷ lệ nợ cao; và việc đo lường rủi ro hệ thống khu vực ngân (vi) tình trạng căng thẳng thanh khoản xuất hàng. Để làm được như vậy, bước đầu cần hiện tại một số giai đoạn. Từ đó, để ngăn phát triển hệ thống cơ sở thông tin đồng bộ ngừa rủi ro hệ thống đối với các NHTM, và được tập trung thống nhất tại NHNN. nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị Tiếp đó cần xây dựng bộ chỉ số cảnh báo trong thời gian tới như sau: sớm rủi ro hệ thống nhằm phát hiện sớm Thứ nhất, nhận thức của các cơ quan quản những dấu hiệu rủi ro. Đồng thời, tăng cường các công cụ đo lường rủi ro hệ thống tại khu vực NHTM Việt Nam; cân nhắc lựa chọn các phương pháp đo lường phù hợp với khu vực ngân hàng Việt Nam, sử dụng phối hợp các phương pháp để đưa ra những dự báo tốt hơn. Biểu đồ 7. Tỷ lệ dư nợ trên tiền gửi LDR của các NHTM Thứ ba, các nghiên cứu thực Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019 nghiệm của Brunnermeier Nguồn: Cơ sở dữ liệu IMF, 2020 và Pedersen (2009), Adrian 32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
  10. ĐỖ THU HẰNG - TẠ THANH HUYỀN và Brunnermeier (2016), chỉ ra sự đóng góp của các tổ chức tín dụng khác nhau đến rủi ro hệ thống là khác nhau, đồng thời có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro hệ thống khu vực ngân hàng. Do đó, cần xác định chính xác các nhân tố tác động đến rủi ro hệ thống, cũng như đánh giá tầm quan trọng hệ thống của các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTM nói riêng, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nguồn vốn lớn, mô hình hoạt động, sản phẩm dịch vụ phức tạp, mà sự đổ vỡ của nó có khả năng tác động lớn đến các tổ chức khác cũng như toàn bộ hệ thống. Đối với những tổ chức như vậy, NHNN cần có các biện pháp giám sát chặt chẽ, chuyên sâu hơn, thậm chí có những yêu cầu cao hơn liên quan đến hệ số an toàn vốn, tỷ lệ đảm bảo khả năng chi trả, giới hạn tín dụng ■ Tài liệu tham khảo Adrian, T. and Brunnermeier, M.K., 2016, CoVaR, The American Economic Review, 106(7), p.1705; Aghion, P., Angeletos, G, M., Banerjee, A, and Manova, K., 2010, Volatility and growth: Credit constraints and the composition of investment, Journal of Monetary Economics, 57(3), pp,246-265; Bank for International Settlements (BIS), 1994, 64th Annual Report, Bank for International Settlements, Basel, Switzerland, 1994; Bank for International Settlements (BIS), 2010, Macroprudential instruments and frameworks: a stocktaking of issues and experiences, Bank for International Settlements, Basel, Switzerland Bernanke, B.S., Lown, C.S and Friedman, B.M., 1991, The credit crunch, Brookings papers on economic activity, 1991(2), pp,205-247 Brunnermeier, M.K, and Pedersen, L.H., 2009, Market liquidity and funding liquidity, The review of financial studies, 22(6), pp,2201-2238 Bùi Quốc Dũng, Phùng Thu Hiền Vân, 2013, Cơ cấu tín dụng hướng đến các lĩnh vực và vùng ưu tiên, Báo cáo hoạt động Ngân hàng, Học viện Ngân hàng. ECB, 2004, ECB’s Financial Stability Review, December, 2004 Fed 2001, Policy statement on payments system risk, Docket No, R-1107, 1–13, Washington, D,C., May 2001 Freixas, X., Laeven, L, and Peydró, J,L., 2015, Systemic risk, crises, and macroprudential regulation, Mit Press; Malmendier, U. and Nagel, S., 2011, Depression babies: do macroeconomic experiences affect risk taking?, The Quarterly Journal of Economics, 126(1), pp,373-416; Mishkin, F, 1995, Comment on systemic risk, In George Kaufman, editor, Research in Financial Services: Banking, Financial Markets, and Systemic Risk, volume 7, pages 31–45, Greenwich, CT: JAI Press, 1995 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên 2009- 2019, tại Schwarcz, S.L., 2008, Systemic risk, Geo, LJ, 97, p.193; Smaga, P., 2014, The concept of systemic risk, Systemic Risk Centre Special Paper, (5); Cơ sở dữ liệu: Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 33