Thực trạng sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong hoạt động thương mại quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

pdf 15 trang Gia Huy 18/05/2022 1700
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong hoạt động thương mại quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuc_trang_su_dung_cac_bien_phap_phi_thue_quan_trong_hoat_do.pdf

Nội dung text: Thực trạng sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong hoạt động thương mại quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

  1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM TS. Lê Thị Việt Nga Trƣờng Đai học Thƣơng mại Tóm lược: Các biện pháp phi thuế quan có thể được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, thậm chí những biện pháp đó có thể được sử dụng theo cách phân biệt đối xử, tạo ra rào cản không cần thiết đối với thương mại hoặc có tác động làm bóp méo thương mại. Vì vậy, để sử dụng các biện pháp phi thuế quan với những mục đích chính nghĩa và hợp pháp, các quốc gia đã phải phân loại các biện pháp phi thuế quan, thỏa thuận về các quy định điều chỉnh việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan. Bài viết này nghiên cứu một số vấn đề khái quát về các biện pháp phi thuế quan, thực trạng sử dụng các biện pháp phi thuế quan trên thế giới và ở Việt Nam, đề xuất một số hàm ý chính sách cho Việt Nam về việc sử dụng biện pháp phi thuế quan trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi các FTA thế hệ mới. Từ khóa: Các biện pháp phi thuế quan, FTA thế hệ mới, Việt Nam 1. Đặt vấn đề Cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào những Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, điển hình là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Các FTA thế hệ mới có những đặc trưng cơ bản như: phạm vi điều ch nh rộng (không ch bao gồm những cam kết truyền thống liên quan thương mại hàng hóa mà bao gồm cả cam kết về thương mại dịch vụ và cam kết về những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua s m chính phủ, ); Mức độ tự do hóa sâu (c t giảm hầu hết các dòng thuế về 0% ngay t khi Hiệp định có hiệu lực); Cơ chế thực thi chặt chẽ, Nhìn chung, theo cam kết trong khuôn khổ các FTA, kể cả thuế quan và các biện pháp phi thuế quan đều phải được điều ch nh theo hướng giảm dần và xóa b những rào cản được coi là trở ngại không cần thiết trong thương mại để tạo thuận lợi cho dòng lưu chuyển hàng hóa giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng của thương mại quốc tế. Vì vậy, thực thi các Hiệp định FTA thế hệ mới, Việt Nam không ch được hưởng những cơ hội t việc mở rộng thị trường, cải thiện hệ thống chính sách và luật pháp trong nước, mà còn phải đối mặt với nhiều thách thức, điển hình là thách thức đối với các doanh nghiệp trong việc cạnh tranh với hàng nhập khẩu và cạnh tranh với hàng hóa ở thị trường nước ngoài, thách thức đối với nhà nước trong việc hoàn thiện văn bản pháp luật và quản lý các hoạt động kinh tế, thương mại Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần s dụng các biện pháp phi thuế quan như nào để điều tiết hoạt động thương mại quốc tế, thúc đẩy xuất khẩu và thực hiện những mục tiêu hợp pháp như bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường, bảo vệ ngành sản xuất trong nước, bảo vệ người tiêu d ng, mà vẫn đảm bảo phù hợp những quy định và cam kết quốc tế trong bối cảnh hội 205
  2. nhập, đặc biệt khi thực hiện hàng loạt các FTA thế hệ mới. Thống kê của WTO và UNCTAD đều cho thấy xu hướng các quốc gia s dụng ngày càng nhiều các biện pháp phi thuế trong hoạt động thương mại quốc tế, điển hình là các biện pháp k thuật và vệ sinh dịch tễ, các biện pháp phòng vệ thương mại. Do vậy, nghiên cứu về thực trạng s dụng các biện pháp phi thuế quan ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam để đề xuất một số hàm ý chính sách cho Việt Nam trong việc s dụng các biện pháp phi thuế là cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ch thương mại cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, thực hiện các FTA thế hệ mới. 2. Khái quát về các biện pháp phi thuế quan trong hoạt động thƣơng mại quốc tế 2.1. Khái niệm và phân loại các biện pháp phi thuế quan Biện pháp phi thuế quan được đề cập theo nhiều cách khác nhau bởi các tổ chức quốc tế như WTO, WB, OECD, Theo WTO, biện pháp phi thuế là những biện pháp không phải thuế quan, do chính phủ hay chính quyền địa phương ban hành, dưới hình thức là các luật, nghị định, quy định cấm hoặc hạn chế thương mại, các quy định về điều kiện, nhằm kiểm soát hoạt động thương mại. Theo tổ chức này, các biện pháp phi thuế có thể có hoặc có thể không ảnh hưởng đến hoạt động thương mại bởi vì không phải biện pháp phi thuế nào c ng được s dụng theo cách phân biệt đối x hoặc với mục đ ch hạn chế thương mại hay bảo hộ. WTO phân loại biện pháp phi thuế bao gồm biện pháp phi thuế tại biên giới và biện pháp phi thuế sau biên giới. Biện pháp phi thuế tại biên giới bao gồm những biện pháp áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu như cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, giấy phép nhập khẩu, giấy phép xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, quy trình thủ tục và các chi phí hành ch nh đối với hàng xuất/ nhập khẩu, Biện pháp phi thuế sau biên giới bao gồm những biện pháp như quy chuẩn k thuật, tiêu chuẩn k thuật, trợ cấp, OECD đề cập biện pháp phi thuế quan với nghĩa như là rào cản phi thuế quan, theo đó rào cản phi thuế quan là tất cả những rào cản trong thương mại không bao gồm thuế quan12, chẳng hạn những biện pháp như thuế chống trợ cấp, thuế chống bán phá giá, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, các biện pháp trợ cấp để duy trì hoạt động của các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, rào cản k thuật, những quy định hạn chế việc cung ứng dịch vụ,v.v. Ngoài ra, UNCTAD đã b t đầu nghiên cứu và có những chương trình hành động về biện pháp phi thuế t đầu những năm 1980. Theo UNCTAD, biện pháp phi thuế nhìn chung được hiểu là tất cả những biện pháp có giá trị pháp lý mà không phải thuế quan thông thường, có thể gây ảnh hưởng về kinh tế đối với thương mại hàng hóa, làm hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng hóa hoặc cả hai (UNCTAD, 2019). Để nhận biết một cách rõ ràng hơn về các biện pháp phi thuế quan, tổ chức này đã phân loại các biện pháp phi thuế. Phiên bản phân loại mới nhất hiện nay được công bố năm 2019 bao gồm 16 chương (t chương A đến chương P). Trong đó, những biện pháp phi thuế đối với hàng nhập khẩu bao gồm biện pháp k thuật (t 12 Truy cập ngày 20/12/2012. 206
  3. chương A đến chương C) và biện pháp phi k thuật (chương D đến chương O), chương P đề cập đến những biện pháp phi thuế đối với hàng xuất khẩu (Xem Bảng 1.1). Bảng 1.1. Phân loại các biện pháp phi thuế theo UNCTAD 2012 Biện A - Biện pháp vệ sinh & dịch tễ pháp B - Rào cản k thuật trong thương mại k C - Quy định về kiểm tra trước khi giao hàng và những hình thức khác thuật D - Biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời E - Những biện pháp kiểm soát số lượng, cấm nhập, hạn ngach, giấy phép u ẩ F - Những biện pháp kiểm soát giá, bao gồm các loại thuế và phí phụ thu p kh p G - Những biện pháp tài chính ậ Biện H - Các biện pháp ảnh hưởng đến cạnh tranh pháp I - Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Hàng nh Hàng phi k J - Những biện pháp hạn chế phân phối thuật K - Những biện pháp hạn chế dịch vụ sau bán hàng L - Những biện pháp trợ cấp (không bao gồm trợ cấp xuất khẩu) M - Những biện pháp hạn chế mua s m của chính phủ N - Những quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ O - Quy t c xuất xứ hàng hóa Xuất khẩu P - Những biện pháp liên quan xuất khẩu (Nguồn: UNCTAD, 2019) Như vậy, t những cách tiếp cận trên cho thấy biện pháp phi thuế quan (đôi khi được đề cập như là rào cản phi thuế quan) là những quy định được thể hiện dưới hình thức những văn bản luật như luật, nghị định, thông tư, quyết định của chính phủ, của các cơ quan bộ, chính quyền địa phương liên quan đến các vấn đề không phải là thuế quan như quy định về vệ sinh, dịch tễ, quy trình lấy mẫu, kiểm tra và chứng nhận vệ sinh, dịch tễ; quy định về chất lượng hàng hóa, bao bì, ký mã hiệu, quy trình và phương pháp sản xuất, quy trình kiểm nghiệm đánh giá sự phù hợp; quy định về quy trình chứng nhận xuất xứ hàng hóa; quy định về chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ thương mại; quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; quy định về cấm nhập hoặc cấm xuất khẩu; quy định về hạn ngạch, giấy phép xuất/ nhập khẩu; quy định về cạnh tranh, phân phối hàng nhập khẩu; Khái niệm về biện pháp phi thuế và phân loại biện pháp phi thuế của UNCTAD thể hiện đầy đủ, dễ hiểu về các biện pháp phi thuế được s dụng trong thương mại quốc tế, bao gồm cả những biện pháp được điều ch nh bởi những Hiệp định của WTO. Khái niệm và phân loại của UNCTAD c ng được các tổ chức quốc tế, các học giả, các nhà nghiên cứu trích dẫn và s dụng phổ biến hơn cả. Vì vậy, trong giới hạn nghiên cứu của bài viết này, tác giả s dụng khái niệm và cách phân loại biện pháp phi thuế của UNCTAD, phiên bản năm 2019. 207
  4. 2.2. Mục đích của việc sử dụng những biện pháp phi thuế quan Các biện pháp phi thuế quan được các quốc gia s dụng với những mục đ ch khác nhau, tùy thuộc vào đường lối và quan điểm hội nhập quốc tế, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của quốc gia c ng như những yêu cầu t bối cảnh thực tế. Về cơ bản, việc s dụng các biện pháp phi thuế quan có thể g n liền với những mục đ ch sau: - Mục đích chính trị: Đôi khi vì mục đ ch ch nh trị, một quốc gia có thể s dụng biện pháp phi thuế như quy định cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu, hạn ngạch trong hoạt động mua bán hàng hóa với một quốc gia khác. - Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội. Chẳng hạn việc ban hành những quy định cấm nhập khẩu v kh , vật liệu nổ, đạn dược, pháo, nhằm thực hiện mục đ ch bảo vệ an ninh quốc gia c ng như đảm bảo sự an toàn và trật tự xã hội. - Điều tiết cán cân thương mại. Cán cân thương mại có thể được điều tiết thông qua các biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, giấy phép và những biện pháp phi thuế quan khác như những biện pháp k thuật, - Bảo vệ sức khỏe, sự an toàn của con người, đời sống động thực vật. Những quy định về cấm mua bán những sản phẩm đã qua s dụng như quần áo, thiết bị y tế, hay những quy định cấm mua bán động vật hoang dã, những quy định về các biện pháp k thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ đều được s dụng vì mục đ ch bảo vệ sự an toàn, sức kh e cho con người, đời sống động thực vật, ngăn chặn sự thâm nhập và lan truyền của dịch và bệnh. - Bảo vệ việc làm và người lao động: Chẳng hạn những quy định liên quan s dụng người lao động, điều kiện đảm bảo an toàn trong lao động nhằm mục đ ch bảo vệ việc làm và người lao động một cách hợp pháp. - Bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Trước sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu, một quốc gia có thể s dụng các biện pháp phi thuế như hạn ngạch, giấy phép, các biện pháp k thuật, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, tự vệ thương mại, để hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa t nước ngoài nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước. - Bảo vệ môi trường. Một quốc gia có thể ban hành những quy định đối với chất lượng của sản phẩm, quy trình và phương pháp sản xuất, phân phối hàng hóa, những quy định liên quan bao bì, nhãn mác của hàng hóa nhằm mục đ ch bảo vệ môi trường. - Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh. Để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động thương mại nói riêng, trong đó có thương mại quốc tế, các quốc gia ban hành những quy định nhằm điều ch nh hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp theo hướng đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, chẳng hạn những quy định về chống bán phá giá, chống trợ cấp 2.3. Những tác động của các biện pháp phi thuế quan trong hoạt động thương mại quốc tế Các biện pháp phi thuế quan có thể được s dụng với những mục đ ch khác nhau và mang lại những tác động tích cực như bảo vệ an ninh quốc gia; bảo vệ sức kh e và sự an toàn của con người, của đời sống động thực vật; bảo vệ môi trường; bảo vệ ngành sản xuất trong nước; điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh. Ngoài ra, 208
  5. một số nghiên cứu c ng ch ra rằng việc tăng cường s dụng các biện pháp k thuật và vệ sinh dịch tễ không ch hạn chế hàng hóa kém chất lượng được lưu thông trên thị trường mà còn thúc đẩy xuất khẩu của hàng hóa. Theo Jiang Ling (2013), về lâu dài chính những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về giới hạn thuốc tr sâu của Nhật Bản, M , EU đối với rau c ng có tác động tích cực đối với xuất khẩu, buộc nhà xuất khẩu phải tuân thủ, khi đáp ứng được các tiêu chuẩn này thì giá trị xuất khẩu rau của Trung Quốc được nâng lên, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm được nâng lên. Hay trong một nghiên cứu khác của Jacob Wood và các cộng sự (2017) cho thấy trong khi các biện pháp SPS của Trung Quốc có tác động tiêu cực, hạn chế xuất khẩu nông sản t Nhật Bản và M thì những biện pháp này lại có tác động tích cực, thúc đẩy xuất khẩu nông sản t Hàn Quốc và New Zealand. Mặc dù các biện pháp phi thuế có một số tác động tích cực như vậy, song trong một một trường hợp, các biện pháp phi thuế bộc lộ những tác động không tích cực và có thể được s dụng theo cách tạo ra rào cản trong thương mại quốc tế. Những tác động không tích cực của biện pháp phi thuế trong hoạt động thương mại quốc tế thường bao gồm: làm hạn chế điều kiện tiếp cận thị trường của hàng nhập khẩu, t đó làm hạn chế khối lượng và giá trị của hàng hóa mua bán quốc tế c ng như làm cản trở tốc độ tăng trưởng của kim ngạch thương mại quốc tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mỗi quốc gia; làm tăng chi ph của hàng nhập khẩu và làm suy giảm lợi ích của người tiêu dùng; làm mất động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, khiến các doanh nghiệp trong nước khó có thể phát triển. Erdal Yalcin và các cộng sự (2017) ch ra rằng những biện pháp phi thuế c ng được s dụng như những công cụ bảo hộ thương mại, có tác động hạn chế thương mại, bao gồm trợ cấp, các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ thương mại; các biện pháp TBT (Technical Barriers to Trade), SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures) và các biện pháp kiểm soát nhập khẩu. Thống kê của UNCTAD c ng ch ra rằng hàng nông sản là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều t các biện pháp phi thuế. Các nước OECD dường như không bị ảnh hưởng nhiều bởi những biện pháp này trong việc xuất khẩu nông sản tới thị trường các nước OECD. Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản của các nước đang và chậm phát triển tới các nước OECD đang giảm đáng kể do ảnh hưởng của các biện pháp TBT và SPS. Đặc biệt, xuất khẩu nông sản bị ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn bởi những biện pháp này khi xuất khẩu sang thị trường các nước EU. Trong khi EU thông báo họ s dụng các biện pháp TBT và SPS với số lượng t hơn so với các nước OECD (tr Hàn Quốc và Thổ Nhĩ kỳ) nhưng ch nh những biện pháp đó của EU ảnh hưởng đến thương mại hàng nông sản với mức độ lớn hơn so với các biện pháp của các nước OECD (Anne-Célia Disdie và các công sự, 2008). Thực tế, các nước phát triển có xu hướng s dụng các biện pháp k thuật kh t khe hơn, với yêu cầu cao hơn so với các nước đang phát triển, vì vậy hàng nông sản được xuất khẩu t nước đang phát triển tới nước phát triển gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong việc thâm nhập thị trường (Yinguo Dong & Yue Zhu, 2015). Tính bình quân, giá trị nhập khẩu của hàng hóa có thể giảm khoảng 12% trong đó giá trị nhập khẩu hàng nông sản có thể giảm 8,42% nếu thực hiện ít nhất một rào cản phi thuế và giá trị thương mại song phương bình quân hàng năm giảm khoảng 11% nếu thực hiện ít nhất một rào cản phi thuế. Biện pháp 209
  6. trợ cấp gây hạn chế thương mại ở mức ít nhất, trong khi các biện pháp TBT, SPS có thể làm giảm bình quân 10% giá trị thương mại (Erdal Yalcin, Gabriel Felbermayr, Luisa Kinzius, 2017). Một số nghiên cứu khác c ng s dụng mô hình trọng lực để đánh giá tác động của các biện pháp phi thuế, điển hình là biện pháp k thuật và vệ sinh dịch tễ, c ng cho thấy những tác động không tích cực của các biện pháp phi thuế đến hoạt động thương mại quốc tế. Chẳng hạn, nghiên cứu của Jiang Ling (2013) ch ra rằng những tiêu chuẩn giới hạn thuốc tr sâu đối với sản phẩm rau của Nhật, M , EU đã làm hạn chế kim ngạch xuất khẩu rau của Trung Quốc. Dư lượng thuốc tr sâu bị hạn chế thêm 10% thì làm giảm 4,16% giá trị kim ngạch xuất khẩu rau của nước này. Tuy nhiên, tác giả khẳng định đó ch là tác động tiêu cực trong trước m t và đề xuất một trong những giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu rau là Trung Quốc cần tăng cường xây dựng các tiêu chuẩn đối với rau, nâng cao tỷ lệ hài hòa hóa với tiêu chuẩn quốc tế, Nghiên cứu của Qianhui Gao và các cộng sự (2018) c ng cho thấy những biện pháp k thuật của Nhật bản (đặc biệt việc s dụng “hệ thống danh sách tích cực” (tiếng Anh là “the positive list system”, là danh mục những hóa chất nông nghiệp và sản phẩm nông nghiệp cần phải được kiểm tra nhằm đảm bảo ngăn chặn việc s dụng hóa chất độc hại trong sản phẩm nông nghiệp) đã làm giảm đáng kể xuất khẩu của Trung Quốc sang thị trường Nhật Bản. Như vậy, các biện pháp phi thuế quan chính là những quy định pháp lý không phải là thuế quan, được nhà nước ban hành nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ đời sống của con người và động, thực vật, bảo vệ môi trường, bảo vệ ngành sản xuất trong nước, Các biện pháp phi thuế quan v a có những tác động tích cực, v a có những tác động không tích cực. 3. Thực trạng sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong hoạt động thƣơng mại quốc tế Theo WTO, các nước thành viên của tổ chức này đã t s dụng đến các biện pháp phi thuế vào khoảng đầu những năm 2000. Tuy nhiên, t khi xảy ra khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế b t nguồn t M vào giữa năm 2008 đến nay, các nước lại có xu hướng s dụng nhiều đến các biện pháp phi thuế quan. Theo thống kê của tổ chức này, t nh đến 31/12/2019, số lượng biện pháp phi thuế được đưa ra và có hiệu lực được thể hiện như Bảng 3.1. dưới đây. Bảng 3.1. Số lượng các biện pháp phi thuế quan được sử dụng bởi các thành viên của WTO tính đến 31/12/2019 SPS TBT AD CV SG SSG QR TQ Số lượng biện pháp được đưa ra (initiated) (*) 15.775 24.878 227 47 47 0 0 0 Số lượng biện pháp còn hiệu lực (in force) 3.494 2.959 1.897 194 50 652 1.636 1.274 Nguồn: (*) Đối với các biện pháp SPS, TBT: số lượng các biện pháp được thông báo tới các thành viên; Đối với các biện pháp AD, CV, SG: số lượng các cuộc điều tra b t đầu khởi xướng. (SPS: các biện pháp vệ sinh dịch tễ; TBT: các biện pháp k thuật; AD: các biện pháp chống bán phá giá; CV: các biện pháp chống trợ cấp; SG: các biện pháp tự vệ; SSG: các biện pháp tự vệ đặc biệt; QR: các biện pháp hạn chế số lượng; TQ: biện pháp hạn ngạch thuế quan) 210
  7. Bảng 3.1 cho thấy t nh đến thời điểm 31/12/2019, các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS), các biện pháp k thuật (TBT), các biện pháp chống bán phá giá (AD), các biện pháp hạn chế số lượng (QR) và biện pháp hạn ngạch thuế quan (TQ) được s dụng nhiều hơn cả với số lượng trên một nghìn biện pháp. Cụ thể, có 15.775 biện pháp SPS được g i thông báo tới các thành viên của WTO và 3.494 biện pháp đang còn hiệu lực, đây c ng là những biện pháp có số lượng những quy định còn hiệu lực nhiều hơn cả. Có 24.878 biện pháp TBT được thông báo và có 2.959 biện pháp còn hiệu lực, đứng thứ hai về những biện pháp còn hiệu lực. Trong số những biện pháp phòng vệ TM, chống bán phá giá là những biện pháp có số lượng các quyết định còn lực nhiều hơn cả, 1.897 biện pháp chống bán phá giá hiện đang còn hiệu lực. Ngoài ra, hiện đang có 227 vụ chống bán phá giá đang được điều tra. Trong khi không phát sinh thêm các quy định về hạn chế số lượng và hạn ngạch thuế quan (số lượng các biện pháp đó được ban hành là 0), song vẫn có 1.636 biện pháp hạn chế số lượng và 1.274 biện pháp hạn ngạch thuế quan còn giá trị áp dụng. Số liệu thống kê của WTO về quan ngại thương mại đối với các biện pháp TBT và SPS c ng phần nào chứng t xu hướng phổ biến trong việc s dụng những biện pháp này. Bởi lẽ khi một hay một số thành viên nhận thấy rằng một biện pháp k thuật hay biện pháp vệ sinh dịch tễ đang hoặc sẽ tạo ra rào cản thương mại quá mức cần thiết, có ảnh hưởng xấu tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của họ thì thành viên đó sẽ đưa ra quan ngại thương mại tại cuộc họp định kỳ của Ủy ban TBT/SPS của WTO để thảo luận. Hình 3.1 dưới đây mô tả về số lượng các quan ngại thương mại về TBT (STCs) và số lượng các thông báo về TBT (Notifications) được đưa ra t năm 1995 đến hết năm 2019 Nguồn Hình 3.1: Số lượng các quan ngại thương mại về TBT được đưa ra từ năm 1995 đến hết năm 2019 T Hình 3.1 cho thấy số lượng những trường hợp quan ngại thương mại về TBT tăng dần trong các năm 2005-2014 t 12 trường hợp của năm 2005 lên mức 47 trường hợp của năm 2014, mức cao nhất t năm 1995 đến nay. T năm 2014 đến nay, số lượng trường hợp quan ngại mới có xu hướng giảm, song năm 2019, số trường hợp tăng lên 35, nhiều hơn 13 211
  8. trường hợp so với năm 2018. Trong khi đó, số lượng các thông báo về TBT được đưa tăng dần qua các năm, đặc biệt t năm 2015 đến nay, số lượng các thông báo về TBT tại WTO tăng t 2000 đến trên 3000 thông báo, điều đó chứng t các nước có xu hướng s dụng các biện pháp TBT ngày càng nhiều. Nếu xét về chủ thể bày t quan ngại, Hình 3.2 dưới đây cho thấy số lượng các trường hợp quan ngại thương mại được đưa ra bởi nhóm các thành viên t năm 1995 đến hết năm 2019. Nguồn Hình 3.2: Số lượng các quan ngại thương mại về TBT được đưa ra bởi nhóm các thành viên từ năm 1995 đến hết năm 2019 Qua Hình 3.2 cho thấy trong hầu hết các trường hợp bày t quan ngại, các thành viên là những nước phát triển (developed economies) có số trường hợp quan ngại nhiều hơn so với các thành viên là những nước đang và chậm phát triển (developing and least developed coun- tries). Ngoại tr 3 năm liên tiếp 2012-2014, số lượng quan ngại thương mại về TBT được các nước đang phát triển đưa ra nhiều hơn. Đối với các biện pháp SPS, các thành viên c ng có thể bày t quan ngại về các biện pháp SPS. T nh đến tháng 12 năm 2019, có 448 quan ngại thương mại về SPS đã được đưa ra tại WTO. Hình 3.3 dưới đây phản ánh số lượng trường hợp quan ngại thương mại về SPS được đưa ra t năm 1995 đến hết năm 2019. Nguồn: Hình 3.3: Số lượng trường hợp quan ngại thương mại về SPS được đưa ra từ năm 1995 đến hết năm 2019. 212
  9. Hình 3.3 cho thấy số lượng quan ngại về SPS nhiều nhất vào năm 2002 và giảm dần trong những năm tiếp theo. T năm 2008 đến nay, số trường hợp quan ngại thương mại về SPS tương đối ổn định, với số lượng bình quân 20 trường hợp mỗi năm. Hình 3.4 dưới đây thể hiện số lượng thành viên WTO s dụng biện pháp SPS, số lượng thành viên bày t quan ngại thương mại về SPS và số lượng thành viên bảy t ủng hộ quan ngại thương mại về SPS. Nguồn: Hình 3.4: Số lượng thành viên WTO sử dụng biện pháp SPS (maintaining the measure), số lượng thành viên bày tỏ quan ngại thương mại về SPS (raising the issue) và số lượng thành viên bảy tỏ ủng hộ quan ngại thương mại về SPS (supporting members) từ năm 1995 đến hết năm 2019 Theo Hình 3.4, số lượng thành viên đang phát triển duy trì s dụng các biện pháp SPS nhiều hơn so với số thành viên phát triển. Trong khi có 277thành viên đang phát triển s dụng các biện pháp SPS, có 252 thành viên phát triển s dụng. Số thành viên bày t quan ngại về SPS là những nước đang phát triển nhiều hơn so với số thành viên bày t quan ngại là các nước phát triển. Xét về mặt hàng chịu sự điều ch nh của các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, c ng theo thống kê của WTO, t nh đến 31/12/2019, các biện pháp SPS chủ yếu được áp dụng (bao gồm những biện pháp đã được thông báo và những biện pháp đang còn hiệu lực) cho những hàng hóa như động vật sống và những sản phẩm t động vật (5.954 biện pháp), rau củ quả (5.411 biện pháp), thực phẩm, đồ uống có cồn, thuốc lá (2.948 biện pháp), Các biện pháp TBT chủ yếu được áp dụng cho những nhóm hàng như: máy móc và thiết bị điện t (5.169 biện pháp), thực phẩm, đồ uống giải khát, đồ uống có cồn, thuốc lá (4.025 biện pháp), sản phẩm của ngành công nghiệp hóa chất (3.628 biện pháp), rau củ quả (2.548 biện pháp), động vật sống và những sản phẩm t động vật (1.893 biện pháp), kim loại cơ bản (1.856 biện pháp), Biện pháp chống bán phá giá được áp dụng cho nhiều mặt hàng và nhóm mặt hàng được áp dụng biện pháp chống bản phá giá nhiều hơn cả bao gồm kim loại 213
  10. cơ bản, sản phẩm của ngành công nghiệp hóa chất, Những biện pháp hạn chế số lượng, hạn ngạch thuế quan c ng chủ yếu được s dụng đối với nhóm hàng nông sản như động vật sống và sản phẩm t động vật, thực phẩm, đồ uống và thuốc lá, rau củ quả, Xét về nhóm quốc gia s dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế trong ch nh sách bảo hộ thương mại của mình, thống kê của WTO về số lượng các biện pháp phi thuế được s dụng bởi các quốc gia ở các nhóm nước và khu vực t nh đến 31/12/2019 được thể hiện tại Bảng 3.2 dưới đây. Bảng 3.2. Số lượng các biện pháp phi thuế có hiệu lực tại các nhóm quốc gia là thành viên của WTO tính đến 31/12/2019 Khu vực SPS TBT AD CV SG SSG QR TQ Tổng số Châu Phi 730 3.759 63 0 15 0 50 82 4.699 Châu Á 5.761 6000 743 33 29 364 1.052 179 14.161 EU 1.628 4.603 321 22 6 388 88 681 7.737 Trung Đông 1.231 5.016 15 0 21 0 0 12 6.295 B c M 4.801 3.129 578 176 3 496 164 84 9.431 Nam và Trung M 4.747 4.784 344 9 7 99 141 228 10.359 Nguồn: (SPS: các biện pháp vệ sinh dịch tễ; TBT: các biện pháp k thuật; AD: các biện pháp chống bán phá giá; CV: các biện pháp chống trợ cấp; SG: các biện pháp tự vệ; SSG: các biện pháp tự vệ đặc biệt; QR: các biện pháp hạn chế số lượng; TQ: biện pháp hạn ngạch thuế quan; ES: biện pháp trợ cấp xuất khẩu) Bảng 3.2 cho thấy châu Á là khu vực s dụng các biện pháp phi thuế nhiều hơn cả, với tổng số các biện pháp phi thuế bao gồm TBT, SPS, AD, CV, SG, SSG, QR, TQ là 14.161 biện pháp; đây c ng là khu vực s dụng các biện pháp SPS, TBT, AD, QR nhiều nhất so với các khu vực khác. Trong đó, Trung quốc là nước đứng đầu trong khu vực về số lượng các biện pháp phi thuế được s dụng, c ng là nước s dụng các biện pháp SPS và TBT nhiều nhất châu Á, với 1.289 biện pháp SPS và 1.386 biện pháp TBT. Nhật bản đang s dụng 712 biện pháp SPS và 874 biện pháp TBT, Hàn Quốc s dụng 670 biện pháp SPS và 964 biện pháp TBT. Các nước khu vực Nam, Trung M s dụng các biện pháp phi thuế quan nhiều thứ hai với tổng số các biện pháp là 10.359, trong đó Brazil và Peru là những nước đang duy trì s dụng nhiều biện pháp phi thuế quan hơn cả; các nước ở khu vực B c M (điển hình là M ) và EU xếp thứ tự lần lượt là thứ ba và thứ tư về số lượng các biện phi thuế s dụng. Như vậy, t nh đến 31/12/2019, theo thống kê của WTO, các biện pháp SPS, TBT, các biện pháp phòng vệ thương mại như AD, CV, SG là những biện pháp chủ yếu được s dụng trong ch nh sách thương mại của các nước thành viên WTO; trong đó SPS và TBT là những biện pháp đứng đầu về số lượng những biện pháp được thông báo và những biện pháp còn hiệu lực. Điều này chứng t các nước rất coi trọng việc s dụng các quy định k thuật và quy định về vệ sinh dịch tễ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ sức kh e con người, bảo vệ đời 214
  11. sống động thực vật, bảo vệ môi trường, Tuy nhiên, trong thực tế, đôi khi việc s dụng các biện pháp TBT và SPS không ph hợp những quy định và cam kết quốc tế, làm ảnh hưởng lơi ch hợp pháp của các nước khác, đây là nguyên nhân dẫn đến số trường hợp quan ngại thương mại về TBT và SPS vẫn cao. Trong số những biện pháp phòng vệ thương mại, chống bán phá giá là biện pháp được s dụng nhiều hơn cả. Đây c ng là những biện pháp có các tranh chấp thương mại phát sinh với tỷ lệ nhiều hơn so với các biện pháp phi thuế khác, điều này phần nào chứng t việc các nước s dụng các biện pháp này chưa ph hợp những quy định của WTO còn khá phổ biến, gây cản trở và thiệt hại lợi ch thương mại cho các nước khác. Ngoài ra, hiện vẫn còn hơn 1000 biện pháp hạn chế số lượng và hạn ngạch thuế quan vẫn còn giá trị hiệu lực. Châu Á là khu vực đứng đầu về việc s dụng biện pháp phi thuế trong ch nh sách thương mại của mình, trong đó những biện pháp được các nước khu vực này s dụng nhiều nhất là SPS, TBT, AD, QR; trong khi EU là khu vực đứng đầu về việc s dụng hạn ngạch thuế quan; B c M là khu vực đứng đầu về việc s dụng các biện pháp đối kháng. Nhóm hàng nông sản, sản phẩm hóa chất, kim loại cơ bản, máy móc và thiết bị điện t là những nhóm hàng hóa chịu sự điều ch nh bởi các biện pháp TBT với số lượng nhiều hơn cả. 4. Thực trạng sử dụng các biện pháp phi thuế quan ở Việt Nam hiện nay C ng theo số liệu thống kê của WTO, t nh đến hết 31/12/2019, Việt Nam đang duy trì s dụng 108 biện pháp SPS, 156 biện pháp TBT, 12 biện pháp chống bán phá giá, 4 biện pháp tự vệ và 2 biện pháp hạn ngạch thuế quan. So với các nước trong khu vực châu Á, số lượng các biện pháp phi thuế quan mà Việt Nam đang s dụng rất hạn chế, đứng sau các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Philipines, . Theo t nh toán của UNCTAD về mức ảnh hưởng của các biện pháp phi thuế đối với hàng nhập khẩu của Việt Nam, có khoảng 50% mặt hàng nhập khẩu và khoảng 61% giá trị hàng nhập khẩu vào Việt Nam chịu ảnh hưởng của các biện pháp phi thuế, trong đó 97% mặt hàng (96% giá trị) hàng nông sản và 46% mặt hàng (57% giá trị) hàng phi nông sản chịu ảnh hưởng của các biện pháp phi thuế. Đây là giá trị ở mức trung bình trong khu vực, thấp hơn một số đối tác như Trung Quốc, Nhật Bản, thậm ch Philippines. Bởi vì có khoảng 90% mặt hàng nhập khẩu vào Trung Quốc, hay 62% mặt hàng nhập khẩu vào Nhật Bản, 75% mặt hàng nhập khẩu vào Philippines chịu ảnh hưởng của các biện pháp phi thuế, trong khi khoảng 20% - 30% mặt hàng nhập khẩu vào Thái Lan, Singapore, Indonesia chịu ảnh hưởng. Việt Nam đã ban hành và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật ph hơp với những quy định và cam kết quốc tế về việc s dụng các biện pháp phi thuế, trong đó có những biện pháp phi thuế có tác động đến hoạt động thương mại quốc tế. Điển hình như Luật quản l ngoại thương 2017 và Nghị định 69/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật quản l ngoại thương nhằm làm rõ những nguyên t c, những biện pháp được s dụng để quản l hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, trong đó có những biện pháp phi thuế. Về các biện pháp k thuật và vệ sinh dịch tễ, ngoài những quy định được nêu trong Luật quản l ngoại thương 2017, Việt Nam đã ban hành những văn bản luật chuyên ngành để 215
  12. tạo ra công cụ quản l chất lượng của hàng hóa, sản phẩm như Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn k thuật 2006, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007, Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật 2013, Luật thú y 2015 và các Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, Việt Nam đã liên tục hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) và hệ thống quy chuẩn k thuật quốc gia (QCVN) nhằm đáp ứng yêu cầu của bối cảnh hôi nhập. T nh đến hết năm 2019, Việt Nam có khoảng 780 QCVN và khoảng 11.500 TCVN với mức độ hài hòa tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn khu vực đạt trên 54%, hệ thống các TCVN và QCVN này trở thành công cụ, phương tiện quan trọng để duy trì các chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, hỗ trợ quản l nhà nước, đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khoẻ cho con người; bảo vệ động vật, thực vật và môi trường, Theo Tổng cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, mục tiêu đến hết năm 2020 hệ thống TCVN của Việt Nam sẽ đáp ứng mức độ hài hòa với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế khoảng 60%. Thống kê về quan ngại thương mại của WTO cho thấy t nh đến hết năm 2019, Việt Nam có 15 trường hợp bị các nước thành viên bày t quan ngại về TBT. Các biện pháp TBT của Việt Nam bị các nước Thành viên WTO cho rằng không ph hợp với tiêu chuẩn quốc tế, không đáp ứng thời gian thực thi minh bạch hoá, cản trở thương mại quá mức cần thiết Chẳng han, ngày 21/3/2018, c ng tại cuộc họp định kỳ của Ủy ban TBT, các thành viên Thái Lan, Nhật Bản, Hoa kỳ và EU tiếp tục đưa ra quan ngại thương mại về dự thảo Nghị định quy định điều kiện sản xuất, l p ráp, nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô dự kiến có hiệu lực t 1/1/2018 (Biên bản G/TBT/M/74). Đại diện của Nhật Bản cho rằng dự thảo đã được ban hành thành Nghị định 116/2017/ NĐ-CP có hiệu lực t ngày ký ngày (17/7/2017) đã gây ra thiệt hại đáng kể cho nhà xuất khẩu ô tô của nước ngoài vì để được nhập khẩu ô tô vào Việt Nam, doanh nghệp phải nộp bản sao chứng nhận chất lượng của kiểu loại ô tô nhập khảu được cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài cấp. Vị đại diện này c ng cho rằng không thể tìm được chứng nhận này trên thế giới. Ngoài ra, của Nhật Bản cho biết đối với các ô tô sản xuất và l p ráp ở trong nước cần phải có chứng nhận chất lượng do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, vì vậy các loại ô tô nhập khẩu ở nước ngoài c ng phải được cấp chứng nhận bởi cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo cách tương tự như vậy, Việt Nam cần đối x bình đẳng ô tô sản xuất l p ráp trong nước và ô tô nhập khẩu theo quy định của WTO. Hay một trường hợp quan ngại khác đối với Việt Nam, đó là ngày 21/3/2018, Nhật Bản vẫn tiếp tục bày t quan ngại với Việt Nam về Dự thảo luật An ninh mạng của Việt Nam. Nhật Bản mong muốn Việt Nam làm rõ hơn về “điều kiện an ninh mạng”, đặc biệt là làm rõ yêu cầu, thủ tục đánh giá điều kiện an ninh mạng để không tạo ra rào cản cho các doanh nghiệp nước ngoài. Đại diện Hoa kỳ c ng bày t quan ngại về dự thảo này và đề xuất Việt Nam cần s dụng các thuật ngữ, tiêu chuẩn về an ninh mạng của quốc tế. Ngoài ra, EU c ng bày t quan ngại với Việt Nam trong cuộc họp này. Qua đó cho thấy, nếu những biện pháp TBT được Việt Nam s dụng không ph hợp với quy định của luật pháp quốc tế, Hiệp định TBT của WTO thì có thể bị các đối tác bày t quan ngại với mong muốn Việt Nam sẽ xem xét để giải trình, điều ch nh, s a đổi sao cho ph hơp với quy định và cam 216
  13. kết quốc tế c ng như để đảm bảo lợi ch hợp pháp của các đối tác thương mại. Về các biện pháp phòng vệ thương mại, Việt Nam đã ban hành Luật Quản l ngoại thương 2017 và Nghị định 10/2018 quy đinh chi tiết một số điều của Luật Quản l ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại thay thế cho các Pháp lệnh về chống bán phá giá, Pháp lệnh về chống trợ cấp và Pháp lệnh về tự vệ thương mại năm 2004 làm cơ sở cho việc s dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đảm bảo ph hợp những quy định quốc tế và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, trong thực tế, việc s dụng các biện phòng vệ thương mại ở Việt Nam có nhiều khác biệt giữa các biện pháp. Theo thống kê của Trung tâm WTO thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), t nh đến hết tháng 6/2019, Việt Nam s dụng biện pháp chống bán phá giá đối với 7 vụ hàng nhập khẩu, s dụng biện pháp tự vệ thương mại trong 5 vụ và chưa có vụ nào s dụng biện pháp chống trợ cấp. Trong khi đó, hàng xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường các nước phải đối mặt với số vụ điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại lớn hơn nhiều lần. C ng t nh đến hết tháng 6 năm 2019, có 86 vụ hàng xuất khẩu của Việt Nam bị điều tra áp thuế chống bán phá giá, 15 vụ điều tra áp dụng biện pháp chống trợ cấp và 30 vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại. Thông tin t Cục phòng vệ thương mại của Bộ Công thương cho thấy t nh đến hết năm 2019, Bộ Công Thương c ng đã khởi xướng điều tra 15 vụ phòng vệ thương mại đối với sản phẩm nhập khẩu, trong đó gồm 8 vụ chống bán phá giá, 6 vụ tự vệ và 1 vụ chống lẩn tránh thuế tự vệ. So với số lượng hơn 150 vụ mà các nước khác đã khởi xướng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam thì số lượng vụ điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Có nhiều nguyên nhân của việc Việt Nam còn hạn chế trong việc s dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, trong đó có nguyên nhân chủ quan thuộc về doanh nghiệp. Theo khảo sát của VCCI về mức độ hiểu biết của DN về phòng vệ thương mại ở Việt Nam đối với hàng hoá nước ngoài gần đây của VCCI cho thấy, 15,09% DN không biết, 63,21% DN có nghe nói nhưng không biết gì sâu; 19,81% đã t ng tìm hiểu sơ sơ và ch có 1,89 % DN đã tìm hiểu tương đối k /Là bên liên quan; 41% DN được khảo sát cho biết không thể đáp ứng được các yêu cầu để đi kiện phòng vệ thương mại (Nguyễn Thu Trang, 2016). Như vậy, về cơ bản, Việt Nam đã hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về các biện pháp phi thuế quan đảm bảo ph hợp luật pháp và cam kết quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống TCVN của Việt Nam đang đáp ứng khoảng 54% mức độ ph hợp với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, số vụ điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại rất hạn chế. Đôi khi những tiêu chuẩn k thuật của Việt Nam được cho là không ph hợp với tiêu chuẩn quốc tế, không đáp ứng thời gian thực thi minh bạch hoá, hay những biện pháp k thuật được coi là không ph hợp với luật pháp quốc tế và có thể gây cản trở thương mại quá mức cần thiết đều bị các nước bày t quan ngại. 5. Một số hàm ý chính sách cho Việt Nam về việc sử dụng các biện pháp phi thuế trong bối cảnh thực hiện các FTA thế hệ mới 217
  14. T nghiên cứu ở trên cho thấy các nước có chiều hướng gia tăng s dụng các biện pháp phi thuế quan vì những mục đ ch hợp pháp, đặc biệt những biện pháp k thuật, phòng vệ thương mại được s dụng ngày càng nhiều, bên cạnh đó Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với phạm vi cam kết rộng và mức độ hội nhập sâu, vì vậy Việt Nam cần xem xét việc s dụng các biện pháp phi thuế sao cho ph hợp luật pháp và cam kết quốc tế, ph hợp xu hướng ở các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm đảm bảo lợi ch của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Tác giả mạnh dạn đề xuất một số hàm ch nh sách cho Việt Nam về việc s dụng các biện pháp phi thuế quan trong thời gian tới như sau: Thứ nhất, Việt Nam cần rà soát và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan các biện pháp phi thuế nhằm đảm bảo ph hợp với các quy định quốc tế và các cam kết của Việt Nam với các nước ASEAN c ng như với các nước là đối tác trong các th a thuận thương mại quốc tế. Thực hiện nghiêm túc các quy định và cam kết quốc tế về việc s dụng các biện pháp phi thuế không ch giúp Việt Nam khẳng định được vị thế và uy t n trên trường quốc tế mà còn có thể xây dựng đươc một hệ thống các biện pháp phi thuế có nghĩa nhằm thực hiện những mục tiêu hợp pháp. Thứ hai, Việt Nam cần có giải pháp đồng bộ, cụ thể về việc xây dựng, ban hành và áp dụng các biện pháp TBT, SPS sao cho v a có thể hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa kém chất lượng, v a tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước trong việc đáp ứng các quy định đó và có thể đáp ứng tốt các tiêu chuẩn quốc tế để thúc đẩy xuất khẩu, đồng thời không vi phạm các cam kết quốc tế về TBT, SPS, hạn chế những tình huống có thể phát sinh quan ngại thương mại hoặc tranh chấp thương mại về TBT, SPS. Thứ ba, tăng cường liên kết, hợp tác với các nước để tranh thủ sự hỗ trợ t các nước trong việc xây dựng và thực thi các biện pháp phi thuế quan. Đặc biệt, cần tăng cường hợp tác với các cơ quan, tổ chức liên quan của các thành viên đã k kết các cam kết TBT song phương và đa phương với Việt Nam để tăng cường hiểu biết lẫn nhau, th a nhận lẫn nhau đối với quy chuẩn k thuật, thủ tục đánh giá sự ph hợp và các văn bản liên quan tới biện pháp TBT cho các sản phẩm, hàng hoá nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động mua bán hàng hóa giữa các nước. Thứ tư, Việt Nam cần có ch nh sách phát triển nguồn nhân lực trong các cơ quan, bộ phận thực thi các ch nh sách, quy định liên quan việc s dụng các biện pháp phi thuế quan để đảm bảo các biện pháp được s dụng một cách ph hợp, kịp thời và hiệu quả. Thứ năm, Nhà nước cần có ch nh sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin về các biện pháp phi thuế quan để doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trước sự điều ch nh của những biện pháp phi thuế quan, chủ động hơn trong việc đề xuất các cơ quan chức năng để s dụng các biện pháp phi thuế quan trong những trường hợp cần thiết, hợp l . 218
  15. TÀI LIỆU THAM KHẢO Anne-Célia Disdier, Disdiera Lionel Fontagné, Mondher Mimouni (2008), The Impact of Regulations on Agricultural Trade: Evidence from the SPS and TBT Agreements. Ameri- can Agricultural Economics Association Erdal Yalcin, Gabriel Felbermayr, Luisa Kinzius (2017), Hidden Protectionism: Non- Tariff Barriers and Implications for International Trade, Study on Behalf of the Bertelsmann Foundation. Jiang Ling (2013), Measurement of the Impacts of the Technical Barriers to Trade on Vegetable Export of China: An Empirical Study Based on the Gravity Model, International Business and management. Jacob Wood, Jie Wu, Jiling Li (2017), The Economic Impact of SPS Measures on Agricultural Exports to China: An Empirical Analysis Using the PPML Method. Nguyễn Thu Trang (2016), Thực thi pháp luật về phòng vệ thương mai – góc nhìn của doanh nghiệp, tài liệu hội thảo về “Tổng kết thực thi pháp luật về phòng vệ thương mại và đề xuất giải pháp hoàn thiện” Qianhui Gao, Shoichi Ito, Hisamitsu Saito (2018), Measuring Japan‟s technical barriers to trade based on the China‟s fruit exports to Japan, Agri&Econ. UNCTAD (2019), international classificatioin of non tariff measures WTO (2012), World Trade Report Yinguo Dong & Yue Zhu (2015), Impacts of SPS measures imposed by developed countries on china‟s tea export – a perspective of difference in standards, Economics and finance. Truy cập ngày 3/1/2020 Truy cập ngày 3/1/2020 www.chongbanphagia.vn Truy cập ngày 3/1/2020 oductsCoveredICSCodes=&Dates=2007- %7C2008- %7C2009- %7C2010 %7C201 1 - %7C2012- %7C2013- %7C2014- %7C2015- %7C2016- %7C2017- %7C2018* *%7C2019 &DoSearch=True&ExpandSearchMoreFields=False&NumberOfSpecificTrade Cocern=&NewStc=true&NewStc=false&RecurringStc=true&RecurringStc=false&MembersS ubjectToCocern=Viet+Nam&MembersRaisingConcern=&SearchTerm=&Title= &Products Covered=&DescriptionOfContent= Truy cập ngày 3/1/2020 219