Xử lý hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

pdf 6 trang Gia Huy 24/05/2022 2890
Bạn đang xem tài liệu "Xử lý hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfxu_ly_hanh_vi_cho_vay_lai_nang_trong_giao_dich_dan_su.pdf

Nội dung text: Xử lý hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

  1. XỬ LÝ HÀNH VI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ Trần Thị Thanh, Đinh Minh Uy, Trần Mỹ Phiến* Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh GVHD: TS. Nguyễn Thành Đức TÓM TẮT Trong xã hội hiện nay, nhu cầu vay vốn của các cá nhân và tổ chức pháp nhân là rất lớn. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng uy tín. Vì vậy, đây là cơ hội để các hành vi cho vay lãi nặng phát triển và đang lan rộng ở khắp nơi, nhiều đối tượng cho vay nặng lãi hoạt động núp dưới bóng Công ty tư vấn tài chính, tiệm cầm đồ, với chiêu thức tiếp thị hấp dẫn, như: ‚cho vay không cần thế gọn chấp, thủ tục nhanh, đơn giản, chỉ cần Giấy phép lái xe, sổ hộ khẩu, ‛ đã làm cho nhiều người rơi vào cái bẫy với mức lãi suất cao cùng nhiều ràng buộc bất lợi khác, như: Phí giao dịch, các khoản phạt cao khi nộp lãi chậm, hình thức cộng lãi vào gốc. Thực tế đã đưa nhiều người lâm vào cảnh tán gia, bại sản hoặc là nạn nhân trong các vụ án gây mất trật tự xã hội. Vì vậy, việc ngăn chặn, xử lý nghiêm minh các hành vi cho vay lãi nặng nêu trên là hết sức cần thiết. Qua bài viết nhóm tác giả đưa ra một giải pháp nhằm giảm thiếu, kiến nghị nhằm xử lý hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự ngày càng hoàn thiện. Từ khóa: Cho vay lãi nặng,giao dịch, vay vốn, tín dụng đen. 1 KHÁI QUÁT CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ 1.1 Khái niệm cho vay lãi nặng Cho vay lãi nặng hay còn gọi là tín dụng đen hiện nay, là một hiện tượng phổ biến và diễn biến phức tạp, các tổ chức cho vay lãi nặng hoạt động có tổ chức với tính chất nguy hiểm gây ra nhiều mối đe dọa cho xã hội. Hình thức cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự được hiểu là hành vi cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định từ năm lần trở lên và có tính chất chuyên bóc lột. Theo Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về lãi suất theo thỏa thuận của các bên không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay nhưng mặt khác trong cho vay nặng lãi con số này vượt lên gấp nhiều lần so với quy định Ngân hàng Nhà nước. Tín dụng đen được thực hiện chủ yếu bởi một cá nhân hoặc nhóm cá nhân hoặc có thể là tổ chức ngoài vòng kiểm soát của pháp luật. Cho vay nặng lãi là một trong những tội hình sự được pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tín dụng đen có 2 dạng phổ biến là: Một là, cho vay lãi nặng: người có tiền cho vay lãi suất cao, sau đó siết nợ. Hai là, cho vay tiền để lấy lãi suất cao: chơi hụi, vay của người khác rồi cho vay lại để lấy lãi. 1630
  2. Hình thức cho vay này cũng dễ nhận biết nhưng nhiều người vẫn bị nhầm lẫn và cuốn vào, để nhận biết loại hình này thường có đặc điểm: Thứ nhất, hoạt động cho vay nặng lãi nằm ngoài sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước và không được pháp luật thừa nhận, quản lý. Thứ hai, lãi suất huy động cao, thường trên 50%/năm, thậm chí đến 70%/năm. Lãi suất cho vay rất cao, thường trên 100%/năm, thậm chí lên đến 300%/năm. Thứ ba, điều kiện cho vay đơn giản, không dự án đầu tư, không tài sản thế chấp, không hợp đồng vay vốn, thậm chí chỉ hợp đồng bằng miệng. Thứ tư, thời gian giải ngân vốn nhanh, thậm chí chỉ 30 phút sau khi yêu cầu là người vay vốn nhận được tiền. Thời hạn huy động và cho vay ngắn, phổ biến là hàng tháng, hàng năm. Việc thanh toán nợ thường theo phương thức trả góp nhiều lần, mỗi lần trả gồm cả gốc và lãi. Hạn mức huy động vốn không giới hạn, hạn mức cho cá nhân vay phổ biến là nhỏ lẻ, từ 5 đến 10 triệu đồng/một lần vay, thậm chí chỉ vài ba triệu đồng/một lần vay. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có mức vay hàng trăm triệu đến hàng tỷ đồng. Thứ năm, việc thu hồi nợ khi người vay tiền chậm trả, hoặc mất khả năng thanh toán có thể bị trấn áp, uy hiếp, chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp. Ta có thể nhận thấy rõ rằng việc vay vốn này không tốn nhiều thời gian và chẳng tốn nhiều công sức mà lại có vốn ngay trong tay chẳng cần thông qua một khâu thủ tục rườm rà nào cả, nhưng không ai biết đó lại là cái hố đen chết người. 1.2 Các chủ thể tham gia cho vay lãi nặng Các cá nhân, tổ chức tham gia cho vay lãi nặng gồm: – Bên cung cấp vốn là những cá nhân có khối tiền lớn nhưng lại nhàn rỗi, lòng lại đầy ham muốn kiếm tiền nhiều bằng cách cho người khác vay với lãi suất rất cao. – Bên môi giới là những cá nhân bất hảo thu hút người muốn vay tiền vì động cơ siêu lợi nhuận. – Bên đi vay là những cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp lương thiện, nhẹ dạ, cả tin. Hoặc tổ chức làm ăn phi pháp. Các tổ chức, cá nhân này hoạt động tránh sự kiểm soát của các cơ quan chức năng, hoạt động cho vay nặng lãi thường trá hình bằng các hình thức kinh doanh như: công ty tài chính, tiệm cầm đồ, công ty dịch vụ đòi nợ thuê, Tài sản đảm bảo cho vay cũng rất đa dạng có thể như tivi, tủ lạnh, sổ đỏ, điện thoại, chứng minh nhân dân hoặc có thể là thẻ sinh viên, Ngoài ra, còn biến tướng dưới các hình thức đại lý hoa hồng, huy động vốn đầu tư, chơi hụi hay cho vay trực tuyến qua mạng xã hội, di động, với lãi suất cao ngất ngưởng. 1631
  3. 1.3 Thực trạng cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự hiện nay Dù Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 12/CT-TTg ngày 25 tháng 04 năm 2019 về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động ‚tín dụng đen‛ nhưng việc cho vay nặng lãi vẫn diễn ra và ngày càng tinh vi trên toàn xã hội. hảo sát thực tiễn cho thấy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vay vốn của người dân và doanh nghiệp ngày càng gia tăng, trong khi tín dụng chính thức lại chưa thể đáp được nhu cầu vay vốn của các đối tượng, do vậy, hoạt động tín dụng đen vẫn tồn tại và diễn biến ngày càng phức tạp[2]. Ngân hàng BIDV năm 2018 ghi nhận: Quy mô tín dụng phi chính thức tại Việt Nam hiện nay tương đương khoảng 15-20% tổng tín dụng của nền kinh tế; trong đó, quy mô tín dụng đen chiếm khoảng 30-35% tổng tín dụng phi chính thức, tương đương 6-8% tổng dư nợ nền kinh tế, khoảng 450-550 nghìn tỷ đồng. Tại Việt Nam có khoảng 70% dân số Việt Nam chưa tiếp cận vốn ngân hàng, số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức mới chiếm 1/3 tổng số doanh nghiệp, đây là khoảng trống để tín dụng đen tồn tại và phát triển. Đến nay, tín dụng đen đã bùng phát và hoạt động ngầm hoặc công khai trên khắp 63 tỉnh thành trong cả nước. Sở dĩ hoạt động tín dụng đen vẫn tồn tại và bùng phát mạnh mẽ trong thời gian gần đây là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất, đối với người cho vay: Thông thường vì lãi suất cho các trung gian tín dụng đen vay rất cao (từ 100%/năm đến 300% năm), gấp nhiều lần so với gửi ngân hàng, khoảng 50% đến 70%/năm. Vì ‚hám lợi‛, người cho vay s n sàng cung ứng vốn cho các trung gian vay, ít quan tâm đến tư cách pháp nhân của tổ chức, nhân thân của cá nhân vay vốn. Thứ hai, đối với người vay vốn: Do không đủ điều kiện để vay các loại hình tín dụng khác, trong khi điều kiện, thủ tục cho vay của loại hình tín dụng đen lại rất đơn giản, thuận tiện, nhiều hạn mức vay; hình thức vay đa dạng; có thể nhận tiền ngay, phương thức trả nợ linh hoạt, Người vay vốn chấp nhận tìm đến tín dụng đen, dù phải chịu mức lãi suất cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thứ ba, các biện pháp kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước nhằm đẩy lùi tín dụng đen chưa phát huy hiệu quả. Thậm chí, tín dụng đen ngày càng nở rộ và biến tướng sang hình thức cho vay online với mức lãi suất lên tới vài trăm % mỗi năm. Đặc biệt, dưới sự hỗ trợ của công nghệ, người vay và người cho vay chỉ cần đăng nhập vào ứng dụng công nghệ là có thể tiến hành giao dịch vay mượn [3]. Hoạt động tín dụng này đang tạo nên nhiều hệ lụy, gây bất ổn trong xã hội như: – Lãi suất vay tín dụng đen rất cao: Nếu vay để tiêu dùng, thì người vay phải còng lưng trả lãi, dễ dẫn đến mất khả năng chi trả; còn nếu vay để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thì thực tế không có ngành nào có tỷ suất lợi nhuận bằng mức lãi suất tín dụng đen, do đó dễ dẫn đến lỗ vốn, phá sản là điều khó tránh khỏi. – Tín dụng đen tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là không có tài sản thế chấp nên khi người vay không trả nợ đúng hạn, hoặc mất khả năng chi trả, thì bị đòi nợ bằng các hình thức chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp; bị "khủng bố" về tinh thần, sức khỏe, thậm chí đe dọa cả tính mạng, gây bất ổn an ninh trật tự và an toàn xã hội. Ngoài ra, tín dụng đen là loại hình tín 1632
  4. dụng hoạt động không theo một quy định cụ thể nào, không chịu sự quản lý và kiểm soát và quản lý của cơ quan nhà nước, cho nên, khi xảy ra rủi ro mất khả năng chi trả, thì các chủ thể của tín dụng đen tự xử lý một cách tùy tiện, trái pháp luật. Thực tế cho thấy tín dụng đen luôn hấp dẫn đối với những đối tượng tội phạm kinh tế. Những người tham gia hoạt động tín dụng đen luôn có xu hướng móc nối với cán bộ ngân hàng để thực hiện các hành vi trục lợi. Thực tế này đã, đang làm nảy sinh vấn đề về rủi ro đạo đức, gây nên những hệ lụy trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nếu không được giám sát, kiểm soát chặt chẽ. Từ 2015 đến 2018, toàn quốc đã xảy ra 7.624 vụ phạm tội liên quan đến tín dụng đen, trong đó có 56 vụ giết người, 389 vụ cố ý gây thương tích, 629 vụ cướp tài sản, 836 vụ cưỡng đoạt tài sản, 1809 vụ lừa đảo, 3581 vụ lạm dụng tín nhiệm, 165 vụ hủy hoại tài sản. 5 tháng đầu năm 2019, lực lượng công an đã triệt phá 933 băng, nhóm tội phạm. Riêng đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm từ 16/12/2018 đến 15/2/2019, đã triệt phá 436 cơ sở, khởi tố 12 vụ, 358 bị can liên quan tín dụng đen [1]. 2 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHO VAY LÃI NẶNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1 Quy định của pháp luật về cho vay lãi nặng-tín dụng đen Căn cứ theo Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 người cho vay lãi nặng xem là phạm tội khi thực hiện các hành vi ‚Cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng‛. Theo Khoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về mức lãi suất các bên thỏa thuận như sau: ‚Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực‛. Như vậy, đối với lãi suất cho vay trong giao dịch dân sự phải đáp ứng không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Giả sử, A đến vay 20.000.000 đồng của B. Hai bên có thỏa thuận với nhau về lãi suất là 1,5%/tháng thì tính ra lãi suất của 1 năm sẽ bằng 1,5%.12=18% (12 tháng) tương ứng với 3.600.000 đồng/năm, trong trường hợp này lãi suất thỏa thuận của hai bên là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với hành vi cho vay nặng lãi, tùy theo tính chất và mức độ của hành vi cho vay mà người có hành vi vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thì không phải trong mọi trường hợp việc cho vay nặng lãi đều bị xử lý về hình sự. Hành vi này chỉ trở thành tội phạm khi thỏa mãn: – Lãi suất vay gấp 5 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự (20%/năm). 1633
  5. – Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này. Chưa xóa án tích mà còn vi phạm. – Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 cũng quy định mức hình phạt cụ thể như sau tùy vào mức độ và tính chất của hành vi cho vay nặng lãi: + Khung 1 (Khoản 1) phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. + Khung 2 (Khoản 2) đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. + Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 2.2 Giải pháp ngăn chặn tình trạng cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự Xét về mặt tích cực, cho vay lãi nặng-tín dụng đen hoặc nguồn vốn không chính thức như một ‚liều thuốc cấp cứu‛, giúp một số cá nhân và doanh nghiệp vượt qua ‚cơn nguy kịch‛. Tuy nhiên, thực tế tín dụng đen không chỉ tồn tại ngoài xã hội mà còn luôn tìm cách len lỏi vào hệ thống ngân hàng, biến tướng dưới nhiều hình thức tinh vi. Điều này không chỉ khó khăn cho công tác đấu tranh giải quyết với vấn nạn tín dụng đen mà còn gây rủi ro cho chính cho các ngân hàng. Để hạn chế và đẩy lùi tín dụng đen, Nhà nước và các cơ quan quản lý cần đẩy mạnh phát triển các loại hình tín dụng chính thống, tăng nguồn cung tín dụng, nới lỏng các điều kiện cho vay. Cùng với đó, nghiên cứu điều chỉnh khung pháp lý, ban hành các điều khoản, chế tài đủ mạnh để răn đe các đối tượng huy động và cho vay tín dụng đen. Trước mắt, cần triển khai một số giải pháp trọng tâm sau: Thứ nhất, phát triển tín dụng chính thức cả chiều rộng và chiều sâu, thu hẹp thị phần của tín dụng đen. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức tín dụng triển khai mạnh mẽ chính sách tín dụng phục vụ sản xuất và đời sống như: – Các tổ chức tín dụng khi được giao nhiệm vụ thực hiện cho vay để đẩy lùi tín dụng đen, cần tách bạch nhiệm vụ này với các nhiệm vụ khác; đồng thời, cần áp dụng những quy định riêng cho loại tín dụng đặc biệt này, còn gọi là ‚tín dụng cấp thiết‛. – Mức độ độ rủi ro của ‚tín dụng cấp thiết‛ cao hơn tín dụng thông thường, nên các ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần áp dụng các chế độ ưu đãi đặc biệt để có nguồn bù đắp rủi ro. Theo đó, các tổ chức tín dụng cần được trích lập một nguồn vốn, quỹ cho vay riêng đủ để đảm bảo quy mô nhiệm vụ cho vay trong từng thời kỳ. Nguồn vốn này có thể do ngân sách nhà nước tạm ứng, Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn với lãi suất thấp, hoặc tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước. 1634
  6. – Các ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần được tự ấn định lãi suất cho vay cùng với việc nới lỏng tối đa các điều kiện, thủ tục cho vay trên tinh thần thỏa thuận với các đối tượng vay vốn, đảm bảo bù đắp rủi ro và mức lợi nhuận của ngân hàng mà không vi phạm luật pháp. Các ngân hàng, các tổ chức tín dụng cũng cần chú trọng công tác tiếp thị, quảng cáo để các đối tượng vay vốn dễ dàng tiếp cận các sản phẩm, gói vay, nhằm đẩy lùi tình trạng cho vay nặng lãi của tín dụng đen. Thứ hai, tiếp tục siết chặt công tác kiểm tra phòng ngừa, đấu tranh xử lý tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng đen; tăng cường giám sát các tổ chức tài chính tín dụng, tiệm cầm đồ, các hình thức hụi, họ, có biểu hiện cho vay tín dụng đen. Thứ ba, tăng cường công tác truyền thông, phổ biến pháp luật, phổ biến kiến thức tài chính tín dụng cho người dân. Thứ tư, phát huy vai trò bảo lãnh tín chấp của các cơ quan đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp cấp cơ sở trong việc cho vay và thu hồi vốn ‚tín dụng cấp thiết‛. Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để hạn chế tín dụng đen: Giữ nguyên khung lãi suất cho vay theo Bộ luật Dân sự (tức không quá 20%/năm) nhưng thu hẹp khung lãi suất cho vay tối đa theo Bộ luật Hình sự. Cụ thể là giảm mức lãi suất từ gấp 5 lần xuống gấp 3 lần so với lãi suất tối đa theo Bộ luật Dân sự (tức không quá 60%/năm), như vậy mới đủ mạnh để răn đe các tổ chức, cá nhân cho vay tín dụng đen. Tăng mức xử phạt các đối tượng lừa đảo trong việc huy động vốn và cho vay tín dụng đen, để răn đe và xử lý thích đáng đối với các đối tượng này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] An Nhi, 31/10/2018, Cả nước xảy ra 7.624 vụ phạm tội liên quan đến tín dụng đen trong giai đoạn 2015-2018,xem tại: vu-pham-toi-lien-quan-den-tin-dung-den-trong-giai-doan-20152018-145604.html [2] Chỉ thị 12/CT-TTg năm 2019 về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động ‚Tín dụng đen‛. [3] Tạp chí tài chính, 13/07/2019, Cần giải pháp mạnh tay ‚Siết‛ tín dụng đen‛, xem tại: 1635