Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại Thành phố Huế

pdf 14 trang Gia Huy 23/05/2022 1920
Bạn đang xem tài liệu "Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại Thành phố Huế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfyeu_to_anh_huong_den_quyet_dinh_dau_tu_chung_khoan_cua_nha_d.pdf

Nội dung text: Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại Thành phố Huế

  1. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ HUẾ FACTORS INFLUENCE SECURITIES INVESTMENT DECISION OF INDIVIDUAL INVESTORS IN HUE CITY Lê Hoàng Anh, Nguyễn Hồ Phương Thảo, Phan Thị Như Hiếu Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế lhanh@hce.edu.vn TÓM TẮT Mục tiêu của nghiên cứu này là chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của những nhà đầu tư cá nhân. Nghiên cứu chỉ ra rằng, có 5 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân trên địa bàn thành phố Huế. Yếu tố có ảnh hưởng tích cực nhất là hình ảnh công ty và ý kiến từ nhà tư vấn. Từ kết quả trên, nghiên cứu đưa ra khuyến nghị các công ty phát hành chứng khoán cần phải trau chút hình ảnh của công ty hơn nữa trên nhiều phương diện. Đồng thời, việc huấn luyện và đào tạo đội ngũ nhân viên môi giới và chuyên viên phân tích thị trường là rất quan trọng góp phần gia tăng hoạt động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân tại thành phố Huế. Từ khóa: Chứng khoán, nhà đầu tư cá nhân, quyết định đầu tư. ABSTRACT The objective of this study was to identify the factors influencing securities investment decision of individual investors. The study pointed out that there were five factors that significantly affect the decision of individual investors in Hue city. The most influential factors were the company’s image and the opinion of the consultant. From the above results, the study recommended that securities issuers should refine their company’s image in many ways. In addition, training for brokerage and market analysis staffs is very important to increase the securities investment activities of individual investors in Hue City. Keywords: Securities, individual investors, investerment decision. 1. Giới thiệu Trải qua hơn 18 năm hoạt động, với những bước phát triển mạnh mẽ cũng như nhiều thăng trầm, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ngày càng khẳng định là một trong những thị trường thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư. Vào những năm 2006, khi TTCK bùng nổ, hầu hết các nhà đầu tư đều coi đây là nơi tìm kiếm lợi nhuận hấp dẫn. Tuy nhiên, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 và trong những năm trở lại đây, TTCK đã bắt đầu kém thu hút các nhà đầu tư hơn. Nhiều nhà đầu tư cá nhân dần rút dần khỏi thị trường và tham gia nhiều hơn vào các kênh đầu tư khác. Do đó, việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân là điều cần thiết nhằm thu hút họ tham gia đầu tư nhiều hơn trên thị trường này. Tại thành phố Huế hiện nay, chỉ có Công ty cổ phần Chứng khoán APEC – chi nhánh Huế là thực hiện các nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn đầu tư chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán. Còn lại là Sàn Giao dịch Chứng khoán Đông Á Bank, Đại lý nhận lệnh giao dịch vàng Quỳnh Dương, Công ty TNHH Chứng khoán ACB (ACBs) - Đại lý nhận lệnh Huế và chi nhánh Công ty cổ phần Chứng khoán An Bình tại Huế nhưng đa số các đại lý nhận lệnh này không có chức năng mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho khách hàng, các dịch vụ của chứng khoán được thực hiện từ xa, rất bất tiện. Việc chưa có nhiều công ty chứng khoán hoạt động với chưa nhiều tiện ích được cung ứng đang là một rào cản khiến các nhà đầu tư cá nhân trên địa bàn thành phố Huế còn dè dặt trong việc quyết định tham gia đầu tư vào thị trường. Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về các yếu tố tác động đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ngoài những biến động không lường về tình hình kinh tế vĩ mô, tình hình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng tài chính của bản thân các doanh 966
  2. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 nghiệp niêm yết, thì ngay cả yếu tố tâm lý của các nhà đầu tư trên TTCK cũng là một trong những yếu tố quyết định đầu tư chứng khoán hay không của các nhà đầu tư cá nhân. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nghiên cứu liên quan nào được thực hiện tại thành phố Huế. Chính vì vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định và phân tích tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân với các mục tiêu sau: (i) Nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân; (ii) Phân tích sự tác động của các yếu tố đến quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân tại thành phố Huế; (iii) Đề xuất những khuyến nghị dựa trên kết quả nghiên cứu nhằm giúp các nhà đầu tư dễ dàng ra quyết định hơn khi tham gia thị trường. 2. Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 2.1. Mô hình nghiên cứu 2.1.1. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu đề tài * Lý thuyết tài chính hành vi của Victor Ricciardi & Helen K.Simon (2000) Theo Victor Ricciardi & Helen K.Simon định nghĩa về lý thuyết tài chính hành vi được xây dựng dựa trên ba nền tảng chính là tâm lý học, xã hội học và tài chính. Những nhân tố này ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của nhà đầu tư: Cá nhân (nhà đầu tư chuyên nghiệp và nghiệp dư), nhóm (các cổ đông), tổ chức (tổ chức tài chính). Đối tượng ra quyết định được nghiên cứu trong đề tài này là nhà đầu tư chứng khoán cá nhân, vì vậy sử dụng lý thuyết tài chính hành vi là phù hợp. * Lý thuyết triển vọng của Kahneman and Tverskys (1979) Các nhà đầu tư có xu hướng xem khả năng bù đắp 1 khoản lỗ quan trọng hơn khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận. Khi khoản đầu tư có mang lại lợi nhuận, nhà đầu tư thường nắm chắc ngay cơ hội có lợi nhuận hiện tại hơn là cố gắng tiếp tục đầu tư để có lợi nhuận nhiều hơn trong tương lai. Nhưng ngược lại, khi khoản đầu tư có nguy cơ bị thua lỗ, nhà đầu tư lại cố gắng duy trì với hy vọng sẽ nhận được khoản lời trong tương lai, mặc dù lúc này rủi ro rất cao. Điều này lý giải được xu hướng mua bán cổ phiếu của các nhà đầu tư cá nhân hiện nay: bán quá nhanh khi có lời và nắm giữ cổ phiếu lỗ quá lâu. * Mô hình nghiên cứu của Robert A.Nagy & Robert W.Obenberger về “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân”(1994) Trong nghiên cứu này có 137 bảng hỏi được đưa vào sử dụng, những người tham gia khảo sát được yêu cầu đánh giá tầm quan trọng của 34 yếu tố. Kết quả cho thấy việc tối đa hóa lợi ích rất quan trọng đối với nhà đầu tư cá nhân và có 7 nhóm yếu tố tác động đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân là: (1) Thông tin trung lập; (2) Thông tin kế toán; (3) Thông tin về hình ảnh công ty; (4) Nhóm yếu tố cơ bản (lợi nhuận kỳ vọng, cổ tức kỳ vọng, rủi ro cá nhân); (5) Yếu tố xã hội; (6) Những khuyến nghị đầu tư của tổ chức, cá nhân, bạn bè; (7) Nhu cầu tài chính cá nhân. Ưu điểm của nghiên cứu là đã đưa ra nhiều yếu tố khá đầy đủ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân, tuy nhiên, nhược điểm là Giá trị R2 hiệu chỉnh của mô hình còn thấp, nó cho biết mô hình chỉ giải thích được 51,2% biến thiên của dữ liệu bởi các biến độc lập. * Mô hình nghiên cứu của Hussen A. Hassan Al-Tamimi về “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân” (2005) Nghiên cứu được tác giả thực hiện tại hai thị trường tài chính lớn của UAE. Nghiên cứu này dựa trên nghiên cứu của Robert A.Nagy & Robert W.Obenberger (1994) từ 34 yếu tố tác động đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân được tác giả lựa chọn và điều chỉnh lại cho phù hợp với nhà đầu tư cá nhân tại UAE (tại các tiểu vương quốc Ả Rập). Trong nghiên cứu này có 343 bảng hỏi hợp lệ được thu thập từ các nhà đầu tư cá nhân tại Dubai (203 bảng) và Abu Dhabi (140 bảng). Đây là 2 trong số 7 tiểu vương quốc lập nên Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE). Với 5 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân: (1) Hình ảnh của công ty, (2) Thông tin kế toán của doanh nghiệp, (3) Thông tin trung lập, (4) Ý kiến từ các nhà tư vấn, (5) Nhu cầu tài chính cá nhân. 967
  3. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Kết quả của Hussen A. Hassan Al-Tamimi: Nhóm Thông tin kế toán có ảnh hưởng lớn đến quyết định của nhà đầu tư UEA, gồm các yếu tố: cổ tức mong đợi, tính thanh khoản của cổ phiếu, tình trạng của báo cáo tài chính, việc chi trả cổ tức, cổ tức mong đợi. Nhóm Nhu cầu tài chính cá nhân là nhóm ít ảnh hưởng nhất đến quyết định của nhà đầu tư UAE gồm các yếu tố: Sự giảm giá mong đợi ở các thị trường tài chính quốc tế, nhu cầu đa dạng hóa, sự hấp dẫn của các kênh đầu tư không phải là chứng khoán. Hai yếu tố không mong đợi mà có ảnh hưởng ít đến quyết định của các nhà đầu tư UAE là yếu tố các lý do về tôn giáo và yếu tố ý kiến của các thành viên trong gia đình. Ưu điểm của nghiên cứu là đã xây dựng một danh sách các câu hỏi để điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của nhà đầu tư cá nhân rất chi tiết, đầy đủ và ngôn từ dễ hiểu. Dựa vào nghiên cứu của Robert A.Nagy & Robert W.Obenberger để đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân nên khá đầy đủ. * Mô hình nghiên cứu của TS. Phạm Ngọc Toàn và ThS. Nguyễn Thành Long về “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. HCM” Nghiên cứu đã tiến hành quy mô mẫu với 192 nhà đầu tư cá nhân. Kết quả nghiên cứu chỉ ra được 5 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân với mức độ tác động theo thứ tự từ cao tới thấp như sau: (1) Ý kiến của các nhà tư vấn; (2) Hình ảnh công ty; (3) Tâm lý đám đông; (4) Chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính; (5) Sự tự tin thái quá. Để nâng cao hiệu quả các quyết định đầu tư cá nhân trên TTCK thì các nhà đầu tư cần cải thiện các hành vi đầu tư thông qua các nhân tố như tâm lý đám đông, sự tự tin thái quá, tham khảo ý kiến tư vấn của các công ty niêm yết trên TTCK TP. HCM, cần nâng cáo chất lượng báo cáo tài chính và hình ảnh công ty. Ưu điểm có ưu điểm là đã kết hợp các yếu tố tâm lý (Tâm lý đám đông, Sự tự tin thái quá) và yếu tố tài chính (Hình ảnh công ty, Ý kiến từ nhà tư vấn, Chất lượng thông tin trên báo các tài chính) vào mô hình để đưa ra mô hình nghiên cứu. Tuy nhiên, nhược điểm là số nhà đầu tư tham gia đầu tư chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh rất nhiều, tuy nhiên ở đây nghiên cứu tiến hành với quy mô mẫu quá ít (192 nhà đầu tư cá nhân). * Mô hình nghiên cứu của TS. Nguyễn Đức Hiển về “Hành vi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam” Nghiên cứu đã tìm ra các bằng chứng định lượng chứng tỏ nhà đầu tư cá nhân trên TTCK Việt Nam là nhà đầu tư không hợp lý (irrational) và có nhiều lệch lạc về hành vi. Vì vậy các lý thuyết tài chính chuẩn (standard finance) không thể giải thích được các lệch lạc trong hành vi của nhà đầu tư. Nghiên cứu xây dựng mô hình đo lường hành vi nhà đầu tư cá nhân gồm 5 nhóm yếu tố gồm 19 thuộc tính: (1) Nhóm yếu tố tâm lý quá lạc quan; (2) Nhóm yếu tố tâm lý bầy đàn; (3) Nhóm yếu tố tâm lý quá tự tin; (4) Nhóm yếu tố thái độ với rủi ro; (5) Nhóm yếu tố tâm lý bi quan. 2.1.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất * Lựa chọn mô hình nghiên cứu Mô hình nghiên cứu của Hussen A. Hassan Al-Tamimi về “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân (2005)” đã nghiên cứu ở thị trường các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) với 5 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân: Hình ảnh của công ty (Firm- image), Thông tin kế toán (Accounting information), Thông tin trung lập (Newtral information), Ý kiến từ các nhà tư vấn (Advocale information), Nhu cầu tài chính cá nhân (Personal financial needs) được tác giả lựa chọn với lý do: Thứ nhất, mô hình nghiên cứu của Hussen A. Hassan Al-Tamimi (2005) được thực hiện dựa trên mô hình nghiên cứu của Robert A.Nagy & Robert W.Obenbergervề “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân (1994)”, mà mô hình này đã được nhiều nước ứng dụng để thực hiện và đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư khá chặt chẽ và đầy đủ. 968
  4. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Thứ hai, tác giả tiến hành lựa chọn và phân tích sự tương đồng của thị trường chứng khoán Vệt Nam, thị trường chứng khoán Mỹ và UAE dựa trên nghiên cứu của Robert A.Nagy & Robert W.Obenberger và Hussen A. Hassan Al-Tamimi. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy TTCK Việt Nam có 1 số nét tương đồng với TTCK tại UAE như sau: - Cùng thành lập và đi vào hoạt động trong năm 2000. - Cùng là những nước có diện tích hẹp, áp dụng chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển thị trường tài chính bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật, thuế quan ưu đãi Thứ ba, mô hình nghiên cứu của Hussen A. Hassan Al-Tamimi (2005) đã được Lê Hoàng Thu Dung (2014) thực hiện vào việc khảo sát các nhà đầu tư cá nhân trên sàn chứng khoán TP. HCM – một thành phố năng động nhất cả nước và quy tụ số lượng lớn nhà đầu tư tham gia đầu tư chứng khoán. Thứ tư, từ những ưu và nhược điểm rút ra từ mô hình của nghiên cứu của Hussen A. Hassan Al-Tamimi (2005), mô hình nghiên cứu của Robert A.Nagy & Robert W.Obenberger và mô hình nghiên cứu của TS. Phạm Ngọc Toàn và ThS. Nguyễn Thành Long cho thấy mô hình nghiên cứu của Hussen A. Hassan Al-Tamimi (2005) phù hợp hơn và phù hợp với nhà đầu tư cá nhân ở thành phố Huế. Do đó, tác giả áp dụng mô hình này trên địa bàn thành phố Huế với mong muốn xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến quyết định đầu tư chứng khoán đối với nhà đầu tư cá nhân tại thành phố Huế. * Mô hình nghiên cứu đề xuất như sau: Nguồn: Mô hình nghiên cứu của Hussen A. Hassan Al-Tamimi và tổng hợp của tác giả Bảng 1: Thang đo chính thức Nhân tố Ký hiệu Biến quan sát Nguồn gốc thang đo HA1 Tôi quan tâm đến sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp HA2 Tôi quan tâm đến uy tín của doanh nghiệp HA3 Tôi quan tâm đến thương hiệu của doanh nghiệp Tôi luôn quan tâm đến những doanh nghiệp có tốc độ phát Hình ảnh HA4 của công ty triển nhanh Al Anood Bin Kalli (2009) (HA) HA5 Tôi quan tâm đến vị thế của doanh nghiệp trong ngành (thị phần) HA6 Tôi quan tâm đến danh tiếng người lãnh đạo doanh nghiệp HA7 Tôi quan tâm đến chuẩn mực đạo đức của doanh nghiệp HA8 Tôi quan tâm đến lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp KT1 Tôi quan tâm đến tính minh bạch của các báo cáo tài chính KT2 Tôi quan tâm đến kỳ hạn chia cổ tức Thông tin KT3 Tôi xem xét đến tỷ lệ chia cổ tức kế toán Hussen A. Hassan Al-Tamimi (2005) (KT) KT4 Tôi xem xét các kết quả phân tích kỹ thuật KT5 Tôi xem xét tính thanh khoản của cổ phiếu KT6 Tôi cân nhắc giá hợp lý của cổ phiếu 969
  5. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 TL1 Tôi quan tâm đến sự biến động (tăng, giảm) của chỉ số chứng khoán Tôi quan tâm đến thông tin phân tích cổ phiếu trên các diện TL2 đàn chứng khoán Al Anood Bin Kalli Thông tin (2009), Robert trung lập TL3 Tôi quan tâm đến thông tin từ báo chí A.Nagy & Robert (TL) TL4 Tôi quan tâm đến chỉ số kinh tế (GDP, lạm phát ) W.Obenberger (1994) TL5 Tối quan tâm đến chính sách của Chính phủ (thuế, lãi suất, vay ) TL6 Tôi xem xét đến giá gần đây của cổ phiếu Tôi bị tác động từ chuyên viên phân tích thị trường có kinh YK1 nghiệm (quen biết) Ý kiến từ YK2 Tôi bị tác động từ ý kiến của nhân viên môi giới Al Anood Bin Kalli nhà tư vấn YK3 Tôi bị tác động từ ý kiến của người thân (2009) (YK) YK4 Tôi bị tác động từ ý kiến bạn bè YK5 Tôi bị tác động từ nhận định của các công ty chứng khoán NC1 Tôi đầu tư do sự hấp dẫn của thị trường chứng khoán Nhu cầu tài chính cá NC2 Tôi muốn sở hữu cổ phiếu nhiều công ty khác nhau Hussen A. Hassan nhân NC3 Tôi muốn kiếm lợi nhuận từ việc mua bán cổ phiếu Al-Tamimi (2005) (NC) NC4 Tôi muốn kiếm lợi nhuận từ cổ tức công ty Sự ủng hộ từ các nhà tư vấn ảnh hưởng đến quyết định đầu tư QD1 chứng khoán của tôi Nhu cầu tài chính cá nhân ảnh hưởng đến quyết định đầu tư QD2 chứng khoán của tôi Quyết định Quyết định đầu tư chứng khoán của tôi bị ảnh hưởng từ những Hussen A. Hassan đầu tư QD3 hình ảnh của công ty Al-Tamimi (2005) (QD) Quyết định đầu tư chứng khoán của tôi dựa trên thông tin kế QD4 toán tốt của doanh nghiệp Quyết định đầu tư chứng khoán của tôi dựa trên thông tin trung QD5 lập có uy tín Nguồn: Tác giả tự tổng hợp 2.2. Phương pháp nghiên cứu Phần lớn kết quả nghiên cứu được dựa trên số liệu sơ cấp mà nhóm tác giả thu thập được thông qua bảng hỏi sử dụng kỹ thuật thiết kế thang đo Likert 5 mức độ. Trên cơ sở tham khảo các mô hình lý thuyết, xem xét các biến cần thiết để đưa vào mô hình. Nhóm tác giả đã xây dựng bảng hỏi, điều tra thử để phát hiện những lỗi sai sót, chưa cần thiết và điều chỉnh bảng hỏi phù hợp với nội dung điều tra. Việc điều tra khảo sát được thực hiện từ tháng 2-3/2019. Đối tượng điều tra là các nhà đầu tư cá nhân có đầu tư chứng khoán trên địa bàn thành phố Huế. Kích thước mẫu: Theo nghiên cứu của Hair, Anderson, Tatham và Black (1998), cỡ mẫu dùng trong phân tích nhân tố tối thiểu gấp 5 lần số biến quan sát để kết quả điều tra là có ý nghĩa. Như vậy với số lượng 34 biến quan sát trong thiết kế điều tra, để đảm bảo số lượng và chất lượng bảng hỏi cũng như loại trừ các bảng hỏi thiếu thông tin, nghiên cứu đã chọn điều tra là 250 quan sát. Kết quả thu về được 200 bảng, có 50 bảng không hợp lệ nguyên nhân chính là do thiếu thông tin. 970
  6. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Cách thức chọn mẫu: Dữ liệu phân tích được thu thập theo chọn mẫu phi xác suất theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện có nghĩa là lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi hay dựa trên tính dễ tiếp cận của đối tượng, ở những nơi mà người điều tra có khả năng gặp được nhiều đối tượng. Mô hình nghiên cứu được biểu diễn dưới dạng phương trình hồi quy tuyến tính đa biến với 5 biến độc lập có dạng như sau: F_QD =β0 + β1F_HA+ β2 F_KT + β3 F_NC + β4 F_TL + β5 F_YK Trong đó: βk: là hệ số hồi quy riêng phần tương ứng với các biến độc lập. F_QD: Giá trị của biến phụ thuộc “Quyết định”. F_HA: Giá trị của biến độc lập “Hình ảnh của công ty”. F_KT: Giá trị của biến độc lập “Thông tin kế toán”. F_NC: Giá trị của biến độc lập “Nhu cầu tài chính cá nhân”. F_TL: Giá trị của biến độc lập “Thông tin trung lập”. F_YK: Giá trị của biến độc lập “Ý kiến từ nhà tư vấn”. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Đặc điểm mẫu điều tra Bảng 1: Đặc điểm mẫu điều tra Tiêu chí Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%) Tiêu chí Phân loại Số lượng Tỷ lệ Nam 119 59,5 Cao đẳng 21 10,5 Giới tính Nữ 81 40,5 Trình độ Đại học 124 62,0 18-25 tuổi 28 14,0 học vấn Sau Đại học 35 17,5 26-35tuổi 106 53,0 Khác 20 10,0 Độ tuổi 36-55 tuổi 48 24,0 Chưa có 0 0 >55 tuổi 18 9,0 Thu 10 triệu 41 20,5 Nghề nghiệp Kinh doanh 67 33,5 Khác 32 16,0 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu Việc lấy mẫu có sự chênh lệnh về giới tính tuy nhiên có thể chấp nhận được vì trên thực tế nam có xu hướng đầu tư chứng khoán nhiều hơn nữ. Đa phần đối tượng khảo sát là các nhà đầu tư cá nhân còn trẻ, vượt trội so với bộ phận người lớn tuổi tham gia vào TTCK. Những người trẻ tuổi thì họ ưa thích lĩnh vực kinh doanh mới nhiều lợi nhuận và chấp nhận rủi ro, còn những người lớn tuổi họ có tâm lý ngại rủi ro, họ ưa thích sự chắc chắn và ổn định, điều này cho thấy xu hướng trẻ hóa trong các nhà đầu tư. Thống kê cho thấy, số nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường có trình độ từ đại học trở lên chiếm số lượng lớn trong mẫu (62%) cho thấy những người có trình độ, họ khá quan tâm đến TTCK qua đó thể hiện tính chuyên nghiệp trong đầu tư chứng khoán. Kết quả thống kê cũng cho thấy thu nhập của các nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường phần lớn là từ 5-10 triệu (chiếm 63%). Đây cũng là mức thu nhập phù hợp với tình hình kinh tế ở thành phố Huế nói chung, đa phần nhà đầu tư vẫn có mức thu nhập khá để có thể vừa chi phối cho cuộc sống vừa có thể tham gia đầu tư chứng khoán kiếm lợi nhuận. 971
  7. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Số lượng nhà đầu tư cá nhân có thời gian tham gia thị trường dưới 5 năm chiếm số lượng lớn và số nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường trên 5 năm chiếm số lượng nhỏ trong mẫu thu thập. Điều này cho thấy TTCK ở Huế chưa có bề dày lịch sử (Biểu đồ 1). Biểu đồ 1: Thời gian tham gia thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân Nguồn: Kết quả xử lý số liệu Có thể thấy hơn một nửa số lượng các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào TTCK với mức vốn đầu tư là dưới 100 triệu đồng chiếm 61%. Số liệu thống kê cũng chỉ ra rằng có đến 92% nhà đầu tư cá nhân được khảo sát có mức vốn đầu tư dưới 500 triệu đồng. Biểu đồ 2: Vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư Nguồn: Kết quả xử lý số liệu Về chiến lược đầu tư thì các nhà đầu tư cá nhân được khảo sát rất yêu thích chiến lược đánh ngắn hạn (lướt sóng) chiếm tỷ lệ 67%. Chiến lượt đầu tư lướt sóng và trung hạn chiếm tỷ lệ 95% và chỉ có 5% số lượng người khảo sát chọn chiến lược đầu tư dài hạn. Điều này phù hợp với xu hướng chung của TTCK Việt Nam hiện nay, bởi thị trường dường như đang trong thời gian chựng lại. Do vậy, số nhà đầu tư cá nhân đánh giá đầu tư dài hạn không nhiều. Biểu đồ 3: Biểu đồ thống kê chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân Nguồn: Kết quả xử lý số liệu 972
  8. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 3.2. Kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s anpha Bảng 2: Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha của các biến độc lập Biến quan sát Tương quan biến tổng Cronbach’s Alpha nếu loại biến Hình ảnh của công ty (Cronbach’s Alpha = 0,914) HA1 0,722 0,903 HA2 0,813 0,895 HA3 0,655 0,908 HA4 0,802 0,896 HA5 0,821 0,894 HA6 0,768 0,899 HA7 0,656 0,909 HA8 0,524 0,910 Thông tin kế toán (Cronbach’s Alpha = 0,892) KT1 0,720 0,872 KT2 0,786 0,861 KT3 0,691 0,877 KT4 0,710 0,874 KT5 0,718 0,872 KT6 0,647 0,883 Thông tin trung lập (Cronbach’s Alpha = 0,793) TL1 0,472 0,777 TL2 0,558 0,758 TL3 0,552 0,759 TL4 0,525 0,766 TL5 0,574 0,754 TL6 0,584 0,751 Ý kiến từ nhà đầu tư (Cronbach’s Alpha = 0,812) YK1 0,660 0,757 YK2 0,612 0,773 YK3 0,591 0,779 YK4 0,593 0,778 YK5 0,551 0,792 Nhu cầu tài chính cá nhân (Cronbach’s Alpha = 0,854) NC1 0,711 0,808 NC2 0,671 0,826 NC3 0,728 0,800 NC4 0,676 0,822 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu 973
  9. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Bảng 3: Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha của biến phụ thuộc Biến quan sát Tương quan biến tổng Cronbach’s Alpha nếu loại biến Quyết định đầu tư (Cronbach’s Alpha = 0,843) QD1 0,641 0,813 QD2 0,598 0,826 QD3 0,702 0,797 QD4 0,616 0,819 QD5 0,693 0,799 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu Từ bảng 2 và bảng 3, phân tích Cronbach’s Alpha ta thấy các yếu tố đều có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,3 và hệ số Cronbach’s Alpha của các biến đều lớn hơn 0.6, do đó tất cả các biến đều được giữ lại vì chúng đảm bảo độ tin cậy của thang đo. Như vậy, sau khi kiểm định độ tin cậy của thang đo cho thấy tất cả các thang đo đều đạt độ tin cậy cho phép, do đó được sử dụng để phân tích nhân tố khám phá EFA và hồi quy tiếp theo. 3.3. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA - Phân tích nhân tố biến độc lập Bảng 4: Kiểm định KMO và Bartlett’s Test KMO và Bartlett's Test Hệ số KMO 0,863 Kiểm định Bartlett Chi bình phương 2,956E3 H0 (Các biến không tương quan với nhau) Bậc tự do (df) 406 Mức ý nghĩa (Sig.) 0,000 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu Kết quả kiểm định cho trị số KMO = 0,863 (0,5 50%. Điều này chứng tỏ 61,617% biến thiên của dữ liệu được giải thích bởi 5 nhân tố, do đó phân tích nhân tố là phù hợp. Kết quả ma trận xoay nhân tố cho ra kết quả các nhân tố nhóm thành 5 yếu tố như mô hình đề xuất ban đầu gồm: “Hình ảnh của công ty”; “Thông tin kế toán”; “Thông tin trung lập”; “Ý kiến từ nhà tư vấn” và “Nhu cầu tài chính cá nhân”. - Phân tích nhân tố EFA cho biến phụ thuộc Bảng 5: Kiểm định KMO và Bartlett’s Test về nhân tố biến phụ thuộc Yếu tố cần đánh giá Giá trị chạy bảng So sánh Hệ số KMO 0,770 0,5 50% Giá trị của Eigenvalues 2,509 2,509 > 1 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu 974
  10. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Tiến hành phân tích yếu tố quyết định đầu tư chứng khoán tại thành phố Huế của nhà đầu tư cá nhân qua biến quan sát. Từ các biến quan sát đó, tiến hành phân tích nhân tố khám phá. Nhằm kiểm tra xem độ phù hợp của dữ liệu để tiến hành phân tích nhân tố, sử dụng chỉ số KMO và Bartlett’s Test để đánh giá. Kết quả cho thấy chỉ số KMO là 0,770 và kiểm định Bartlett’s Test cho giá trị Sig. = 0,000 nên dữ liệu thu thập được đáp ứng điều kiện để tiến hành phân tích nhân tố. Kết quả phân tích nhân tố hội tụ được 1 biến được tạo ra từ các biến quan sát ban đầu nhóm tác giả đề xuất. Biến này được gọi là “Quyết định”. Tổng phương sai trích của biến mới là 62,734 % > 50% cho biết biến này giải thích được 62,734% biến thiên của dữ liệu. Như vậy, quá trình phân tích đánh giá độ tin cậy của thang đo và phân tích nhân tố khám phá ở trên cho kết quả mô hình nghiên cứu không có gì thay đổi so với ban đầu, các giả thuyết nghiên cứu được giữ nguyên như mô hình đã đề xuất. 3.4. Phân tích tương quan Bảng 6: Mối tương quan giữa biến độc lập và biến phụ thuộc Hệ số tương quan Sig. (2-tailedd) F_QD: Quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu 1 tư cá nhân F_HA: Hình ảnh của công ty 0,689 0,000 F_KT: Thông tin kế toán 0,473 0,000 F_NC: Nhu cầu tài chính cá nhân 0,371 0,000 F_TL: Thông tin trung lập 0,359 0,000 F_YK: Ý kiến từ nhà tư vấn 0,306 0,000 Ghi chú: Có ý nghĩa thống kê ở mức 5% Nguồn: Kết quả xử lý số liệu Kết quả bảng 6 cho thấy, biến phụ thuộc F_QD có sự tương quan tuyến tính với các biến F_HA, F_KT, F_NC, F_TL, F_YK (Sig. <0,05) do đó các biến này sẽ được sử dụng để phân tích hồi quy ở các bước tiếp theo. Trong đó, hệ số tương quan Peason của biến phụ thuộc với biến độc lập “Hình ảnh của công ty” là lớn nhất (0,690) và biến phụ thuộc với biến độc lập “Ý kiến từ nhà tư vấn” là thấp nhất (0,306). 3.5. Phân tích hồi quy Bảng 7: Kết quả phân tích hồi quy Hệ số hồi quy Thống kê đa cộng Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa Mô hình chuẩn hóa t Sig. tuyến B Sai số chuẩn Beta Độ chấp nhận VIF 1 Hằng số -0,318 0,269 -1,181 0,239 F_HA 0,527 0,054 0,525 9,712 0,000 0,718 1,392 F_KT 0,142 0,045 0,164 3,128 0,002 0,760 1,315 F_TL 0,201 0,060 0,165 3,349 0,001 0,878 1,139 F_YK 0,181 0,051 0,169 3,543 0,000 0,919 1,088 F_NC 0,121 0,053 0,114 2,279 0,024 0,832 1,202 R2 hiệu chỉnh 0,582 Sig. của kiểm định F 0,000 Durbin-Watson 1,851 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu 975
  11. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Kiểm định F: Nhằm mục đích kiểm định độ phù hợp của mô hình tổng thể để xem biến phụ thuộc có liên hệ tuyến tính với các biến độc lập hay không. 2 Với giả thuyết H0: β1 = β2 = β3 = β4 = β5 = 0 hay R = 0 2 Giả thuyết H1: Tồn tại ít nhất một βi ≠ 0 hay R ≠ 0 Kết quả kiểm định cho giá trị Sig. nhỏ hơn 0,05 ứng với mức ý nghĩa 5% nên bác bỏ giả thuyết H0. Vậy các biến Hình ảnh của công ty, Thông tin kế toán, Thông tin trung lập, Ý kiến từ nhà tư vấn, Nhu cầu tài chính cá nhân giải thích được sự biến động của biến phụ thuộc Quyết định. Giá trị R2 hiệu chỉnh của mô hình bằng 0,582 cho biết mô hình giải thích được 58,2 % biến thiên của dữ liệu bởi các biến độc lập hay các yếu tố Hình ảnh của công ty, Thông tin kế toán, Thông tin trung lập, Ý kiến từ nhà tư vấn, Nhu cầu tài chính cá nhân giải thích được 58,2% sự biến thiên của biến quyết định, còn lại 41,8% là do sự ảnh hưởng của các biến ngoài mô hình và ảnh hưởng của sai số ngẫu nhiên. Thống kê Durbin-Watson với số mẫu quan sát bằng 200 và số biến độc lập là 5 ta có du = 1,725. Như vậy, đại lượng d nằm trong khoảng (du, 4 - du) hay trong khoảng (1,725; 2,275) thì có thể kết luận các phần dư là độc lập với nhau. Kết quả kiểm định Durbin-Watson cho giá trị d = 1,851 nằm trong khoảng cho phép. Ta có thể kết luận không có hiện tượng tự tương quan trong mô hình. Hệ số hồi quy riêng phần đo lường sự thay đổi giá trị của biến phụ thuộc khi một biến độc lập thay đổi trong điều kiện các biến độc lập khác giữ nguyên. Ta kiểm tra các tham số của biến độc lập có ý nghĩa hay không thông qua kiểm định giả thuyết H0: βk = 0. Kết quả kiểm định ở bảng 6 cho thấy Sig. của 5 biến độc lập đều bé hơn 0,05, nên bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5 hay các tham số của các biến độc lập đưa vào hồi quy đều có ý nghĩa. Hệ số phóng đại phương sai VIF đều nhỏ hơn 2 chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến. Với kết quả trên, mô hình hồi quy được viết lại như sau: F_QD = - 0,318 + 0,527*F_HA + 0,142* F_KT + 0,201* F_TL + 0,181*F_YK + 0,121* F_NC Hay mô hình hồi quy được trích theo hệ số Beta chuẩn hóa, có dạng như sau: F_QD = 0,525*F_HA + 0,164* F_KT + 0,165* F_TL + 0,169*F_YK + 0,114* F_NC Hệ số Beta đã chuẩn hóa phản ánh lượng biến thiên của độ lệch chuẩn của biến phụ thuộc khi một đơn vị độ lệch chuẩn của biến độc lập thay đổi. Các hệ số Beta đều mang dấu dương chứng tỏ các biến độc lập có quan hệ cùng chiều với biến phụ thuộc “Quyết định đầu tư”, nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu một biến độc lập tăng thì biến phụ thuộc tăng và ngược lại. Trong đó, Hình ảnh của công ty có tác động mạnh nhất đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại thành phố Huế (0,525). Nhà đầu tư cảm nhận tích cực về hình ảnh của công ty sẽ tạo ra động lực thúc đẩy họ quyết định đầu tư. Sự tác động lớn nhất của biến Hình ảnh của công ty trong tất cả các biến lên Quyết định đầu tư cho thấy rằng vấn đề mà mỗi nhà đầu tư quan tâm nhất khi đầu tư chứng khoán tại thành phố Huế là cảm nhận về sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, danh tiếng của người lãnh đạo, vị thế công ty trong ngành, các hoạt động cộng đồng của doanh nghiệp, doanh nghiệp có tốc độ phát triển, ngoài ra thì hình ảnh tốt về đạo đức công ty, uy tín và thương hiệu, có tác động rất lớn đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư, nhà đầu tư sẽ cảm thấy có niềm tin vào chứng khoán mình lựa chọn. Nhà đầu tư cần biết chính xác doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nào, một doanh nghiệp có thể đăng ký trên nhiều lĩnh vực nhưng thực sự doanh nghiệp chỉ hoạt động trên một số lĩnh vực. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm gì, sản phẩm đó đem đi so sánh với các sản phẩm cùng loại, từ đó đưa ra phân tích cụ thể có điểm mạnh, điểm yếu nào. Yếu tố Ý kiến từ nhà tư vấn cũng làm tăng quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân (0,169). Điều này được giải thích do nhà đầu tư họ luôn có xu hướng đầu tư vào thị trường khiến họ tin tưởng, tự tin khi có tác động từ các nhà tư vấn. 976
  12. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Thông tin trung lập (0,165) cũng là điều làm cho các nhà đầu tư phải cân nhắc trước khi ra quyết định đầu tư. Các chính sách của Chính phủ (thuế, lãi suất vay ) đều tác động đến TTCK ví dụ như khi chính phủ ban hành các quy định về giá cả, dịch vụ sẽ gây tác động đến ngành dịch vụ công cộng, có thể tác động tiêu cực hoặc tích cực đến công ty, cổ phiếu của công ty đó có thể tăng hoặc giảm do vậy ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Nhà đầu tư quan tâm đến sự biến động (tăng, giảm) của chỉ số chứng khoán (VN – Index) nhận ra cổ phiếu có biến động thất thường như tăng kịch trần nhiều phiên liên tục hoặc giảm kịch sàn nhiều phiên liên tiếp, nhận ra xu hướng này có phù hợp với xu hướng chung của thị trường hay không để nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư phù hợp hơn. Thông tin kế toán có tác động tích cực đến Quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại thành phố Huế (0,164). Điều này được giải thích do nhà đầu tư cần quan tâm đến mệnh giá cổ phiếu có hợp lý hay không, tỷ lệ chia cổ tức của công ty, nhà đầu tư cần xem kỹ tỷ lệ chia cổ tức của công ty qua các năm có sự thay đổi trong phương thức chia cổ tức hay không, nếu công ty làm ăn có lãi thì việc chia cổ tức bằng tiền mặt là điều tất yếu. Nhà đầu tư cũng cần phải xem xét kỹ bản báo các tài chính của công ty, nhất là các chỉ số P/E, EPS, ROA, ROE chỉ số tài chính phản ánh rất rõ tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, ngoài ra nhà đầu tư phải chú ý đến tính minh bạch các báo cáo tài chính của công ty. Nhà đầu tư quan tâm đến tỷ lệ chia cổ tức cũng là điều hiển nhiên, bởi vì nếu tỷ số này cao thì đồng nghĩa với việc công ty kinh doanh có lời, thể hiện hoạt động của doanh nghiệp càng có được lãi nhiều. Do đó, một lượng lợi nhuận lớn được sinh ra sẽ hình thành nên một cơ sở vững chắc cho doanh nghiệp trả cổ tức đầy đủ, vì vậy đây cũng là cơ sở để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư chứng khoán. Nhu cầu tài chính cá nhân cũng có tác động đến quyết định của nhà đầu tư trên sàn chứng khoán, tuy nhiên vai trò của yếu tố này không cao. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì mỗi nhà đầu tư khi tham gia đầu tư chứng khoán thì đều xác định được mục tiêu đầu tư của bản thân, có người đầu tư vì thấy sự hấp dẫn của TTCK, có người muốn sở hữu nhiều cổ phiếu của công ty khác nhau, có người muốn kiếm lợi nhuận từ việc mua bán cổ phiếu hay kiếm lợi nhuận từ cổ tức của công ty. Từ những nhu cầu họ mong muốn mà sẽ đưa ra quyết định đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, nhà đầu tư tham gia chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận chủ yếu từ việc mua bán cổ phiếu và từ cổ tức của công ty. Lợi nhuận từ cổ tức thường phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của công ty hay quyết định của Hội đồng quản trị. Do đó, nếu nhà đầu tư có nhu cầu kiếm lợi nhuận từ cổ tức của công ty thì cần chú ý đến các yếu tố cổ tức như kỳ hạn, chính sách tỷ lệ chia cổ tức. Các kết quả phân tích trên đây sẽ là cơ sở để tác giả đưa ra những khuyến nghị cho các công ty chứng khoán và công ty niêm yết nhằm giúp nhà đầu tư cá nhân dễ dàng ra quyết định hơn khi tham gia đầu tư chứng khoán tại thành phố Huế. 4. Khuyến nghị Thứ nhất, dựa vào các thông tin thị trường như tình hình về tốc độ phát triển của doanh nghiệp, các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, thông tin cổ phiếu về các doanh nghiệp uy tín, có thương hiệu, vị thế của doanh nghiệp trong ngành, công ty chứng khoán có thể đưa ra các cổ phiếu có tiềm năng để khách hàng dựa vào đó có thể xây dựng cho mình danh sách các cổ phiếu của các doanh nghiệp nào đó. Các cổ phiếu này có thể chia theo tiêu chí như: Chia cổ tức, chia tách cổ phiếu, cổ phiếu của những công ty uy tín, cổ phiếu của những ngành hot của thị trường, dựa theo phân tích kỹ thuật, dựa theo chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh trong thời gian tới. Với danh sách này, nhà đầu tư có thể chọn cho mình những cổ phiếu thích hợp vì có nhà đầu tư quan tâm đến uy tín, lĩnh vực hoạt động, chuẩn mực đạo đức, danh tiếng của người lãnh đạo hay một số khác lại quan tâm đến sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, thương hiệu, đây đều là các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân, do đó khi cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin này sẽ giúp cho nhà đầu tư dễ dàng quyết định hơn. Bên cạnh đó, các công ty hay doanh nghiệp nên xây dựng hình ảnh tốt về đạo đức công ty, quan hệ nhân viên và sự tham gia của cộng đồng về uy tín chất lượng sản phẩm và trách nhiệm xã hội. Tạo nên danh tiếng và niềm tin của doanh nghiệp nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư cá nhân. 977
  13. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Thứ hai, các công ty chứng khoán cần huấn luyện nhân viên môi giới và chuyên viên phân tích thị trường có chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm. Nhờ đó, họ sẽ dễ dàng tư vấn cho nhà đầu tư nên đầu tư cổ phiếu nào, lúc nào nên bán ra, lúc nào nên mua vào. Chỉ cần vài lần tư vấn chính xác thì nhà đầu tư sẽ đặt niềm tin vào công ty chứng khoán và sẽ mạnh dạn đầu tư hơn vào thị trường, lúc đó nhà đầu tư sẽ giao dịch với mức độ nhiều hơn.Tuyển dụng các nhân viên môi giới và chuyên viên phân tích có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn cao, xây dựng quy trình tuyển dụng gồm nhiều vòng để kiểm tra năng lực và chọn ra các ứng viên phù hợp cũng là giải pháp hiệu quả cho các công ty chứng khoán muốn thu hút nhà đầu tư. Tổ chức các cuộc họp để rút kinh nghiệm khi mà nhân viên tư vấn nhà đầu tư không hợp lý khiến cho nhà đầu tư mất niềm tin vào nhân viên, vào công ty là việc làm cần thiết. Việc mời các chuyên gia có uy tín về đầu quân vào công ty chứng khoán, để đưa ra các phân tích để nhìn rõ xu hướng thị trường, giúp các nhà đầu tư đầu tư chứng khoán khôn ngoan cũng là hướng mà các công ty chứng khoán nên nhắm đến trong thời gian đến. Thứ ba, công ty chứng khoán có thể đưa ra các thông tin vĩ mô có khả năng ảnh hưởng xấu đến ngành của cổ phiếu, làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của ngành hoặc ảnh hưởng đến chính sách đầu tư mở rộng của doanh nghiệp phát hành cổ phiếu vì ảnh hưởng của doanh nghiệp cũng là một trong yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư. Với những thông tin được dự báo trước, nhà đầu tư có thể lường trước được rủi ro khi quyết định đầu tư vào cổ phiếu đó, từ đó nhà đầu tư sẽ có kế hoạch hợp lý hơn trong việc quản lý danh mục đầu tư của mình. Thứ tư, khi nhà nước ban hành các quy định, chính sách hay điều luật gì mới, công ty chứng khoán nên tổ chức các buổi hội thảo mời các nhà đầu tư tham gia để đảm bảo rằng các khách hàng của công ty đều được phổ biến nắm rõ. Các công ty chứng khoán nên phân tích rõ các cổ phiếu của doanh nghiệp nào bị ảnh hưởng bởi chính sách hay hay quy định nhà nước ban hành, để nhà đầu tư có quyết định đúng đắn khi tham gia đầu tư tư chứng khoán. Thứ năm, việc lập danh sách “black list” của công ty chứng khoán cho những nhà đầu tư tham khảo, đối với những cổ phiếu có thông tin xấu hay những cổ phiếu có tiền sử không trung thực trong việc báo cáo kết quả kinh doanh, công ty chứng khoán có thể tổng hợp danh sách và thông báo cho nhà đầu tư biết để giúp họ tránh được rủi ro khi đầu tư. Ngoài ra, nhà đầu tư còn có thể tránh được sự sai lầm khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu đưa ra báo cáo tài chính ảo để che mắt nhà đầu tư. Cung cấp và hướng dẫn nhà đầu tư sử dụng các phần mềm phân tích kỹ thuật là việc làm thiết thực giúp nhà đầu tư tránh khỏi việc mua – bán chứng khoán dựa vàonhững người không có kinh nghiệm. Cộng với sự hướng dẫn nhiệt tình từ nhân viên phân tích thị trường và nhân viên môi giới, họ có thể dự đoán được giá cổ phiếu và tự tin hơn trong quyết định đầu tư của mình. Để làm điều này thì các công ty chứng khoán có thể tổ chức các buổi hướng dẫn sử dụng phần mềm cho nhà đầu tư khi họ mở tài khoản giao dịch ở công ty, làm như vậy sẽ làm nhà đầu tư đỡ bở ngỡ hơn khi tham gia đầu tư chứng khoán.Đối với nhà đầu tư quan tâm đến tính thanh khoản của cổ phiếu thì công ty chứng khoán nên tư vấn cho họ đầu tư vào những cổ phiếu có tính thanh khoản cao, để họ có thể dễ dàng thoát vốn khi có nhu cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tham khảo trong nước [1] Lê Hoàng Thu Dung (2014), Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên sàn chứng khoán TP. HCM, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP. HCM. [2] Nguyễn Đức Hiển (2012), “Hành vi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. [3] Nguyễn Hải Sản (2005), Quản trị tài chính, NXB Tài chính. [4] Phạm Ngọc Toàn, Nguyễn Thành Long (2018), “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP. HCM”, Tạp chí công thương. 978
  14. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Tài liệu tham khảo nước ngoài [5]. Al Anood Bin Kalli (2009), “Financial literacy and investment decisions of UAE investment”, 500-513. [6]. Bodie, Z., Kane, A., and Marcus, A., (2003), Essentials of Investment, McGraw-Hill: 382-400, 709-713. [7]. Daniel Kahneman and Amos Tversky (1979), “Prospect Theory: An Analysics of Decision under Risk”. [8]. Epstein, M.J. (1996) “Social disclosure and the individual investor”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol.4. Malmendier và Shanthikumar, (2003). [9] Hair J.F, Anderson, R.E., Tatham, R.L., & Black, W.C (1998) “Multivariate data analysis with readings”. 5th ed. Prentice-Hall, New Jersey. [10]. Hussein A. Hassan, Al – Tamimi (2006), “Factors Influencing Individual Investor Behavior: An Empirical Study of the UAE Financial Markets”, The Business Review Vol.5 (No.2): 225 – 233. [11]. Krishnan, R. and Booker, D. M. (2002) “Investors use of Analysts recommendations”, Behavioral Research in Accounting, Vol. 14. [12]. Ricciardi, Victor and Simon, Helen K. (2000) “What is Behavioral Finance?”. Business, Education & Technology, Vol.2 (No.2): 1-9. [13]. Robert A.Nagy & Robert W.Obenberger, R. W. (1994), “Factors Influencing Individual Investor Behavior”, Financial Analysts Journal, Vol.50 (No.4): 63 – 68. 979