Bảo hiểm xã hội tự nguyện với thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện

pdf 6 trang Gia Huy 24/05/2022 3630
Bạn đang xem tài liệu "Bảo hiểm xã hội tự nguyện với thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_hiem_xa_hoi_tu_nguyen_voi_thuc_day_phat_trien_tai_chinh.pdf

Nội dung text: Bảo hiểm xã hội tự nguyện với thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện

  1. BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VỚI THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN TS. Phạm Thị Hoàng Phương Học viện Tài chính Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, việc thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện được đặt ra trên nhiều góc độ với các phạm vi nghiên cứu khác nhau, quan điểm khoa học khác nhau. Tuy nhiên, hội tụ lại các quan điểm đều đồng tình về vai trò quan trọng của tài chính toàn diện đối với nền kinh tế như: đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua thúc đẩy tăng trưởng việc làm và các hoạt động kinh tế, phát triển ổn định hệ thống tài chính và góp phần giảm chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Để phát triển tài chính toàn diện theo mục tiêu “tất cả người dân và doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng các sản phẩm dịch vụ tài chính cơ bản một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu và chi phí hợp lý” cần sự tổng hoà của nhiều yếu tố. Các dịch vụ tài chính trong tài chính toàn diện gồm có: thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm. Trong bài viết này tác giả đề cập đến phát triển tài chính toàn diện đối với Bảo hiểm xã hội (BHXH) và tập trung vào nội dung Bảo hiểm xã hội tự nguyện, tiếp cận đánh giá ở các góc độ: sự thuận tiện, phù hợp trong tiếp cận BHXH tự nguyện của người lao động. Kết cấu bài viết gồm các nội dung: (i) các quan niệm và các tiêu chí đánh giá sự thuận tiện và phù hợp trong tiếp cận dịch vụ tài chính; (ii) Khái quát về Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm xã hội tự nguyện; (iii) Đánh giá về sự thuận tiện, phù hợp trong tiếp cận Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay. Từ khoá: tài chính toàn diện, tiếp cận dịch vụ, bảo hiểm xã hội tự nguyện, người lao động, khu vực phi chính thức. 1. Các quan niệm về tài chính toàn diện và các tiêu chí đánh giá tiếp cận dịch vụ tài chính Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới (WB) một trong các quan điểm hiện nay được nhiều quốc gia trên thế giới tham khảo thì tài chính toàn diện được hiểu là “việc các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả phải chăng đáp ứng được các nhu cầu của họ bao gồm: chuyển tiền, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm - được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững” [5]. Quan điểm của Viện chiến lược ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp, thuận tiện cho mọi cá nhân và tổ chức đặc biệt đối với người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế” [6]. Như vậy, theo khái niệm tài chính toàn diện của World Bank hay theo khái niệm của Việt Nam, tài chính toàn diện đều được hiểu là việc “tất cả người dân và doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu và với chi phí hợp lí”. Trong đó, đối tượng được quan tâm nhiều hơn là các đối tượng người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương. Vì vậy, khi xem xét đánh giá khả năng tiếp cập dịch vụ tài chính nào trong 5 dịch vụ: thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm đều nên xuất phát từ đánh giả khả năng tiếp cận dịch vụ một cách thuận tiện, phù hợp của các nhóm đối tượng thu nhập thấp, dễ bị tổn thương trước. Các chỉ tiêu đánh giá tài chính toàn diện được tiếp cận từ nhiều tiêu chí: (1) Đối với người sử dụng dịch vụ sử dụng tiêu chí khả năng tiếp cận dịch vụ; (2) Đối với người cung ứng dịch vụ sử dụng tiêu chí: sản phẩm đa dạng và phù hợp, khả năng thương mại và tính bền vững của dịch vụ; (3) Đối với thị trường sử dụng tiêu chí: sự phát triển của thị trường tài chính, các công cụ tài chính phòng tránh rủi ro; (4) Phương tiện hỗ trợ và ứng dụng công nghệ thông tin. 229
  2. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào tiêu chí đánh giá mức độ thuận tiện, phù hợp để người sử dụng dịch vụ có thể tiếp cận dịch vụ. Các yếu tố có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến việc người sử dụng dịch vụ tài chính có thể thuận tiện, phù hợp tiếp cận dịch vụ gồm: - Môi trường pháp lý cho sự tồn tại của dịch vụ tài chính đó. Một dịch vụ muốn được đưa ra trên thị trường phải có đầy đủ các yếu tố là dịch vụ hợp pháp, được quy định rõ về giá, về quyền và nghĩa vụ trong sử dụng dịch vụ để người sử dụng tiếp cận một cách chính thức về quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình khi sử dụng dịch vụ đó. - Dịch vụ có được biết đến hay không, một dịch vụ tốt nhưng nếu thiếu tuyên truyền, phổ biến về lợi ích của dịch vụ mang lại sẽ không thể tác động đến người mua và gia tăng số lượng người mua dịch vụ. - Giá của dịch vụ cao hay thấp, trong nhiều trường hợp đây là yếu tố quyết định đến khả năng tiếp cận dịch vụ của người sử dụng dịch vụ. Trong khả năng thu nhập dù mong muốn sử dụng dịch vụ nhưng không có khả năng thanh toán người sử dụng dịch vụ sẽ không thể tiếp cận dịch vụ. - Các giá trị mang lại của dịch vụ, nếu dịch vụ chưa có đủ các giá trị thuyết phục người sử dụng thì người mua cũng sẽ từ chối tiếp cận dịch vụ. - Nhận thức của người sử dụng dịch vụ, nếu dịch vụ có giá hợp lý, mang lại giá trị sử dụng cao nhưng người sử dụng không nhận thức được thì cũng không thể tiếp cận được dịch vụ. 2. Khái quát về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm xã hội tự nguyện Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO “Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội với các thành viên của mình khi họ gặp khó khăn khi bị mất hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết” [2]. Theo Luật BHXH số 58 năm 2014: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [Điều 3, 3]. BHXH hình thành và phát triển do nhu cầu của đời sống xã hội, nhất là khi hình thành nền sản xuất hàng hoá. Trong lao động sản xuất, song song với những thuận lợi, con người thường gặp phải những sự kiện không thuận lợi, những “rủi ro xã hội” làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập của họ. Những sự kiện, những “rủi ro xã hội” liên quan đến thu nhập bao gồm: mất hoặc giảm thu nhập do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng, ví dụ như tai nạn lao động, ốm đau, bị bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động, chết Những sự kiện, những “rủi ro xã hội” nêu trên, từ khía cạnh này hay khía cạnh khác đều dẫn đến đe doạ “an toàn kinh tế” cho người lao động và gia đình họ (bị giảm hoặc mất thu nhập). Vì vậy, phải có những biện pháp và hình thức để chống lại sự đe dọa này, mà một trong những biện pháp đó là BHXH. Nói cách khác, BHXH được hình thành là để góp phần đảm bảo thu nhập cho người lao động và gia đình họ trước những sự kiện không thuận lợi, những “rủi ro xã hội”. Mục đích của BHXH là thông qua hệ thống các trợ cấp BHXH, bù đắp hoặc thay thế thu nhập cho người lao động và gia đình họ trước những sự kiện, những “rủi ro xã hội” làm cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp, do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Theo quy định của ILO thì BHXH có 9 chế độ trợ cấp: chăm sóc y tế; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp hưu trí; trợ cấp tử tuất; trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp tàn tật (mất sức lao động) [2]. Theo Luật BHXH số 58 năm 2014 BHXH ở Việt Nam có 5 chế độ trợ cấp: ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất [Điều 4, 3]. Như vậy có thể hiểu khái quát BHXH dưới các góc độ khác nhau: 230
  3. - Dưới giác độ pháp lý, BHXH là một loại chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật, hoặc chết. - Từ giác độ tài chính: BHXH là thuật (kỹ thuật) chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. - Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội Về bản chất tham gia BHXH là quyền của toàn bộ người lao động trong xã hội, tuy nhiên có những đối tượng lao động như: lao động tự do, lao động nông , lâm, diêm nghiệp ở khu vực không chính thức làm việc không theo hợp đồng lao động, không thuộc biên chế của các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nào. Nhóm đối tượng này không thuộc nhóm đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, bắt đầu từ 01/01/2008 có quyền được tham gia BHXH tự nguyện theo đúng quy định của Luật BHXH. BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất [Điều 3, 3]. Theo quy định trên, người lao động là công dân Việt Nam trên 15 tuổi dù đang lao động ở lĩnh vực nào đều có quyền tham gia BHXH tự nguyện. Mức đóng BHXH tự nguyện hằng tháng bằng 22% mức thu nhập tháng do người lao động lựa chọn để đóng. Mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở. Người lao động có thể chọn các phương thức đóng: hằng tháng, 03 tháng một lần; 06 tháng một lần; 12 tháng một lần; một lần cho nhiều năm về sau với mức thấp hơn mức đóng hằng tháng hoặc một lần cho những năm còn thiếu với mức cao hơn mức đóng hằng tháng [Điều 87, 3]. Người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng 2 chế độ trợ cấp: chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Với chế độ hưu trí người lao động được hưởng lương hưu khi đủ các điều kiện: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và đã đủ 20 năm đóng BHXH trở lên. Trong trường hợp người lao động đã đủ tuổi nhưng chưa đủ năm đóng BHX thì được đóng cho đến khi đủ 20 năm để hưởng chế độ hưu trí [Điều 73, 3]. Chế độ tử tuất người lao động được trợ cấp mai táng khi có thời gian đóng BHXH đủ 60 tháng trở lên hoặc người đang hưởng lương hưu. Trợ cấp tuất được chi trả một lần cho thân nhân của người lao động đang đóng BHXH [Điều 80, 81, 3]. 3. Đánh giá về sự thuận tiện, phù hợp trong tiếp cận Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay Để đánh giá sự thuận tiện, phù hợp trong tiếp cận BHXH tự nguyện ở Việt Nam bài viết bám sát vào các yếu tố đã nêu tại phần 1. Thứ nhất, môi trường pháp lý về BHXH tự nguyện, các quy định về mức đóng bảo hiểm, chế độ trợ cấp bảo hiểm mà người lao động được hưởng đã được quy định rõ ràng, minh bạch bằng một văn bản luật là Luật BHXH số 58 năm 2014. Vì vậy, người lao động có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện có căn cứ pháp luật để biết rõ về quyền, trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH tự nguyện. Thứ hai, mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện tối thiểu bằng mức thu nhập theo chuẩn hộ nghèo khu vực nông thôn (khoảng 400.00 đồng), có thể coi đây là “chi phí hợp lý” với 231
  4. những người lao động có thu nhập thấp, tạo điều kiện cho những đối tượng này thuận tiện hơn, đủ khả năng để tiếp cận và tham gia BHXH tự nguyện. Người tham gia BHXH tự nguyện được linh hoạt trong việc lựa chọn phương thức đóng bảo hiểm, có thể đóng hàng tháng, 3 tháng một lần, 6 tháng một lần, 12 tháng một lần hoặc đóng một lần cho nhiều năm sau với các mức đóng có lợi cho người đóng bảo hiểm. Đây cũng là quy định khác với phương thức đóng BHXH bắt buộc phải đóng theo kỳ hạn nhất định và người lao động không được quyền lựa chọn phương thức đóng. Với BHXH tự nguyện việc cho phép người lao động tham gia bảo hiểm được lựa chọn phương thức nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng lao động tự do, công việc và thu nhập không ổn định có thể cân đối tài chính cá nhân để thực hiện đóng bảo hiểm theo nhu cầu của mình. Ngoài ra, Nhà nước dùng ngân sách nhà nước để hỗ trợ tiền đóng BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện ở các mức: - Hỗ trợ bằng 30% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ nghèo; - Hỗ trợ bằng 25% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ cận nghèo; - Hỗ trợ bằng 10% với các đối tượng khác [Điều 14, 1]. Các mức hỗ trợ như nêu trên, đối tượng thụ hưởng chính sách chủ yếu là người lao động nghèo, cận nghèo, và mở rộng ra cả các đối tượng khác đều được nhà nước hỗ trợ. Với mức hỗ trợ này nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho các đối tượng lao động tự do, lao động nông, lâm, diêm nghiệp thu nhập thấp ở khu vực phi chính thức đều có khả năng tiếp cận và tham gia BHXH tự nguyện thuận tiện và phù hợp. Thứ ba, người lao động tham gia BHXH tự nguyện được hưởng 02 chế độ trong 05 chế độ BHXH hiện hành là hưu trí và tử tuất. Lý do để BHXH tự nguyện chọn 02 chế độ hưu trí và tử tuất với mục đích chính đảm bảo an toàn, cân đối quỹ hưu trí, tử tuất. Về nguyên tắc khi triển khai một chính sách bảo hiểm cần tính toán để cân đối được giữa tiền đóng và tiền chi trả bảo hiểm, đảm bảo cân đối quỹ không thâm hụt dẫn đến mất khả năng chi trả của quỹ. Đó cũng là lý do, với thời gian đóng bảo hiểm dài (thời gian các lao động tham gia đóng bảo hiểm phải đủ 20 năm) mới được hưởng chế độ sẽ tạo điều kiện để BHXH cân đối được quỹ, đáp ứng và có khả năng thanh toán tiền lương hưu, hỗ trợ tiền mai táng, chi trả tiền tuất cho người lao động. Các chính sách bảo hiểm cho ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có tính chất cân đối quỹ theo năm, rất dễ gây thâm hụt quỹ do số tiền chi trả có thể lớn hơn nhiều lần số tiền đối tượng đóng bảo hiểm. Sau 10 năm thực hiện chế độ BHXH tự nguyện tính từ 01/01/2008 đến nay, BHXH Việt Nam vẫn chưa triển khai được thêm các chế độ trợ cấp nào khác ngoài chế độ hưu trí và tử tuất cho đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Trong khi, đa số các lao động thuộc diện đóng BHXH tự nguyện đều là các đối tượng có thu nhập thấp và yếu thế trong khu vực phi chính thức, các đối tượng này lại rất cần phải được hưởng đầy đủ các chế độ trợ cấp từ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đến hưu trí và tử tuất chứ không chỉ riêng 2 chế độ hưu trí và tử tuất như hiện nay. Bên cạnh đó, các thiết kế chính sách BHXH tự nguyện chưa “hấp dẫn” người tham gia. Cụ thể: thời gian đóng BHXH tự nguyện theo quy định tối thiểu để được hưởng BHXH là 20 năm, đây là thời gian khá dài, đòi hỏi người đóng BHXH phải kiên trì theo đuổi và dành một phần thu nhập nhất định của mình cho việc đóng BHXH. Trong trường hợp nếu tham gia chưa đủ 20 năm sẽ được trả lợi ích trọn gói một lần cho tuổi già, tuy nhiên số chi trả tương đối nhỏ không đủ hấp dẫn để thu hút các đối tượng lao động từ 40 tuổi trở lên. Thứ tư, công tác tuyên truyền đến người lao động về BHXH tự nguyện còn nhiều hạn chế, chưa đa dạng các kênh truyền thông, chưa phổ biến về chính sách đến những người lao động ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, biên giới và dân tộc thiểu số. Ở các khu vực này thường có nhiều lao động tự do, lao động nông, lâm nghiệp có thu nhập thấp là đối tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện. Do đó trên thực tế số lượng người tham gia BHXH tự nguyện tính đến tháng 11/2018 của Việt Nam còn rất hạn chế khoảng 1,7% trên tổng số 14,56 triệu người tham gia BHXH. Mặc dù bối cảnh chung số người tham gia BHXH nêu trên cũng chỉ chiếm 30% 232
  5. tổng số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam. Trong đó lao động tại khu vực phi chính thức (các đối tượng có thể tham gia BHXH tự nguyện) chiếm 70% tổng số lao động trong độ tuổi lao động. Như vậy, theo con số của BHXH Việt Nam tính đến tháng 11/2018 dưới đây thì tiềm năng để gia tăng số lao động tham gia BHXH tự nguyện còn rất lớn. Bảng 1: Số lượng người tham gia BHXH tính đến tháng 11/2018 Số người tham gia Cơ cấu Nội dung (triệu người) (%) BHXH 14,560 100 BHXH bắt buộc 14,310 98,3 BHXH tự nguyện 0,254 1,7 (Báo cáo năm 2018 BHXH Việt Nam) Thứ năm, về nhận thức của người lao động trong diện tham gia BHXH tự nguyện, về cơ bản các đối tượng lao động đều chưa quan tâm đúng mức đến quyền lợi bảo hiểm của mình, họ chưa biết, chưa hiểu được tầm quan trọng của việc nên tham gia BHXH tự nguyện để được đảm bảo các quyền lợi trợ cấp nếu có rủi ro xảy ra. Vì thế, việc tiếp cận BHXH tự nguyện còn nhiều hạn chế do đối tượng không quan tâm. Bên cạnh đó, cuộc sống mưu sinh của các lao động này còn gặp nhiều khó khăn, các đối tượng lao động tự do hầu hết có xu hướng dịch chuyển chỗ làm, thu nhập thấp và không ổn định, do đó việc bỏ một phần thu nhập để tham gia BHXH chưa phải mối quan tâm hàng đầu của họ. Hoặc có những đối tượng muốn nộp BH nhưng do đặc thù công việc nay đây, mai đó nên việc đóng phí tại một cơ quan BHXH cũng gây khó khăn làm họ không muốn tiếp cận và tham gia BHXH. Xuất phát từ các đánh giá nêu trên có thể khẳng định, về góc độ chính sách phần nào đó đã tạo thuận lợi cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, vẫn còn một số các điểm nghẽn cần khắc phục để mở rộng hơn diện tham gia BHXH tự nguyện. Có thể đưa ra một số khuyến nghị như sau: Thứ nhất, cơ quan BHXH nên nghiên cứu để đưa ra quy định giảm thời gian đóng BHXH tối thiểu để được hưởng chế độ cho các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Hiện nay điều kiện để được hưởng lương hưu hàng tháng đó là người lao động phải đóng bảo hiểm đủ 20 năm, thời gian 20 năm là tương đối dài, đặc biệt đối với những người lao động khi đã lớn tuổi mới tham gia đóng BHXH tự nguyện. Nên có lộ trình để giảm thời gian phải đóng đủ bảo hiểm xuống còn 15 năm và tiến đến còn 10 năm. Chính sách có thể thiết kế để người lao động nếu đóng bảo hiểm thời gian thấp sẽ có các mức lương tương ứng khác nhau. Như vậy sẽ khuyến khích nhiều đối tượng lao động tham gia đóng bảo hiểm, đặc biệt các lao động thuộc lứa tuổi trên 40 tuổi. Bên cạnh đó, có thể thực hiện đa dạng hơn các gói chi trả lương hưu gắn với từng thời gian đóng BHXH. Cơ quan BHXH cần cân nhắc tính toán để tiến đến mở rộng chế độ hưởng BHXH cho các lao động tham gia BHXH tự nguyện, không chỉ là 02 chế độ: hưu trí và tử tuất, có thể mở rộng thêm các chế độ khác như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để đáp ứng được nhu cầu về chế độ cho người lao động, từ đó sẽ thu hút thêm các lao động tham gia BHXH tự nguyện. Thứ hai, cơ quan BHXH cần phối hợp với chính quyền địa phương trong công tác tuyên truyền về chế độ BHXH tự nguyện bằng nhiều hình thức khác nhau: phát thanh, hội họp, phát tờ rơi, tổ chức hội thảo làm sao để người lao động biết đến BHXH tự nguyện, hiểu và tham gia BHXH tự nguyện. Thứ ba, cần linh hoạt về địa điểm nộp tiền đóng bảo hiểm, đẩy mạnh sự phối hợp với hệ thống ngân hàng thương mại đặc biệt các ngân hàng có hệ thống phòng giao dịch đến tận các xã như Agribank hoặc ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện nhờ thu, chi BHXH tự nguyện qua ngân hàng, đảm bảo dù ở đâu người lao động cũng có thể nộp được BHXH. 233
  6. Thứ tư, cần đồng bộ các dữ liệu về thông tin nộp BHXH, hưởng BHXH tự nguyện, sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin để số hoá các dữ liệu sổ BHXH, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động dễ dàng kiểm tra được các thông tin đóng và hưởng chế độ BHXH tự nguyện của mình. Kết luận Theo Nghị quyết 28 NQ/TW ngày 19/05/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá 12 về Cải cách chính sách BHXH đã đạt ra các mục tiêu phấn đấu về mở rộng diện tham gia BHXH trong đó có BHXH tự nguyện như sau: đến năm 2021 đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân là lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện 1% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH tự nguyện; đến năm 2025 là 45% trong đó nông dân là lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH tự nguyện và đến năm 2030 là 60% trong đó nông dân là lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH tự nguyện. Tinh thần Nghị quyết vừa là cơ hội và cũng là thách thức đối với BHXH Việt Nam làm thế nào để mở rộng diện tham gia BHXH nói cung và BHXH tự nguyện nói riêng. Để đạt được các chỉ tiêu của Nghị quyết cần phải giải quyết tổng hoà nhiều vấn đề trong đó có cả các vấn đề về chính sách và các vấn đề trong tổ chức thực hiện. Khi giải quyết được các điểm “nghẽn” nêu trên, khả năng tiếp cận BHXH tự nguyện của người lao động sẽ thuận tiện hơn, hiệu quả hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chấp hành Trung ương Đảng, 2018, Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/05/2018 về cải cách chính sách BHXH. 2. Chính phủ, 2015, Nghị định 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 qui định chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện. 3. ILO, 1992, Introduction Social Security. 4. Quốc hội, 2014, Luật BHXH số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014. 5. The World bank, 2012, Việt Nam: Phát triển một hệ thống BHXH hiện đại - những thách thức hiện tại và các Phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai. 6. The Worldbank, 2017, Financial inclusion overview. 7. hhtp://khoahocnganhang.org.vn/news/wp-content/uploads/2017/09/So-luoc-tai-chinh- toan-dien.pdf. 234