Biến đổi trong đời sống văn hóa – xã hội của người cơ tu ở tỉnh Quảng Nam hiện nay

pdf 10 trang Hùng Dũng 05/01/2024 90
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi trong đời sống văn hóa – xã hội của người cơ tu ở tỉnh Quảng Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbien_doi_trong_doi_song_van_hoa_xa_hoi_cua_nguoi_co_tu_o_tin.pdf

Nội dung text: Biến đổi trong đời sống văn hóa – xã hội của người cơ tu ở tỉnh Quảng Nam hiện nay

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 DOI: 10.35382/18594816.1.36.2019.313 BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA NGƯỜI CƠ TU Ở TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY Nguyễn V ă n Dũng1 TRANSFORMATIONS IN SOCIAL – CULTURAL LIFE OF THE CO TU ETHNIC GROUP IN QUANG NAM PROVINCE NOWADAYS Nguyen V a n Dung1 T ó m tắt – Biến đổi v ă n hóa – xã hội là sự th e transformations in th e social – cultural th a y đổi các th à n h tố , cấu trúc v à giá trị của life of Co T u e t h n i c g r o u p in Quang N a m v ă n hóa, tổ c h ứ c xã hội bởi nhân tố c h í n h Province th ro u g h costumes, r e s i d e n c e and trị, kinh t ế . Đây là qu y luật phát triển c h u n g housing, f o l k art and social organization. của mọi tộ c người. Hiện nay, do tác động K e y w o r d s : Co T u ethnic group, Quang của nhiều y ế u tố nên đời sống v ă n hóa – xã N a m Province, social – cultural transfor- hội truyền th ố n g của tộ c người Cơ T u ở tỉnh mation. Quảng N a m đã v à đang dần biến đổi. T r o n g nghiên cứu này, c h ú n g tô i v ậ n dụng phương I. ĐẶT VẤN ĐỀ pháp điền dã, phương pháp liên ngành nhằm miêu tả những biến đổi trong đời sống v ă n T ộ c danh Cơ T u đã được biết đến khá lâu hóa – xã hội của tộ c người Cơ T u ở tỉnh trong lịch sử v ớ i nhiều cách gọi v à viết khác Quảng N a m ở các phương diện: trang phục, nhau như Katu, K’tu, Cà tu, Cơtu, Cơ T u [1]. nơi cư trú, nhà ở, nghệ th u ậ t dân gian v à tổ V ề mặt v ă n hóa, họ đại diện c h o một trong c h ứ c xã hội. những tộc người thiểu số có q u á trình sinh T ừ khóa: biến đổi v ă n hóa – xã hội, sống lâu đời ở miền T r u n g V i ệ t N a m còn bảo người Cơ T u , tỉnh Quảng N a m . lưu nhiều bản sắc v ă n hóa cộng đồng. T r ả i q u a q u á trình lịch sử lâu dài, diện mạo A b s t r a c t – Social – cultural transforma- v ă n hóa – xã hội của người Cơ T u hiện nay tions are th e c h a n g e s of element, s t r u c t u re đã có những thay đổi so v ớ i trước đây. T r o n g and social and cultural v a l u e by political đó, nguyên nhân c h ủ y ế u là do sự tác động and economic f a c t o r s . This is common devel- mạnh mẽ của các c h í n h sách phát triển kinh opment rule of any e t h n i c g r o u p . Currently, tế – xã hội của Đảng v à Nhà nước, sự phát th e traditional social – cultural life of Co triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sự T u e t h n i c g r o u p in Quang N a m Province bùng nổ của khoa học v à công nghệ [2]. Đây has been g r a d u a l l y c h a n g e d due to differ- là điều kiện thuận lợi giúp cải thiện đáng k ể ent f a c t o r s . This s t u d y applied, ethnographic đời sống v ậ t c h ấ t , tinh thần của người Cơ T u ; fieldwork,interdisciplinary method to clarify đồng thời, nó cũng gián tiếp làm thay đổi các giá trị v ă n hóa của người Cơ T u . Thực tiễn 1Phân hiệu T r ư ờ n g Đại học N ộ i vụ Hà N ộ i tại tỉnh Quảng c h o thấy sự biến đổi v ă n hóa – xã hội ở mỗi N a m Ngày nhận bài: 19/9/2019; Ngày nhận k ế t quả bình duyệt: tộc người sẽ khác nhau. V ớ i những điều kiện 22/11/2019; Ngày ch ấ p nhận đăng: 25/3/2020 kinh tế – xã hội khác nhau, mỗi dân tộc sẽ có Email: nguyenvandungpct@gmail.com mức độ biến đổi v ă n hóa – xã hội khác nhau, 1 Campus of Ha N o i U n i v e r s i t y of Home Affairs in Quang đôi khi c h ư a phù hợp v ớ i q u y luật c h u n g [3]. N a m Province R e c e i v e d date: 19th September 2019; R e v i s e d date: 22nd Theo đó, nhiều giá trị v ă n hóa truyền thống bị N o v e m b e r 2019; A c c e p t e d date: 25th March 2020 mai một, trong khi đó, những giá trị v ă n hóa 21
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT mới lại chưa phù hợp với quy luật kế thừa, tộc người, tiêu biểu là các công trình "Luật tiếp nối và phát triển trên nền văn hóa truyền tục, phong tục truyền thống và sự biến đổi", thống. Điều này đặt người Cơ Tu đứng trước trong Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỉ những lựa chọn trong quá trình phát triển. XX của Ngô Đức Thịnh [4], Xu hướng biến Việc sinh sống cạnh một trung tâm kinh tế đổi trong văn hóa và lối sống ở Việt Nam – văn hóa lớn của miền Trung (Thành phố của Mai Văn Hai, Phạm Việt Dũng [5], Con Đà Nẵng) tạo cơ hội cho người Cơ Tu ở tỉnh người và văn hóa Việt Nam trong thời kì đổi Quảng Nam tiếp cận với nhiều thông tin bổ mới và hội nhập của Nguyễn Văn Dân [6], ích, nâng cao điều kiện sống, nhưng chính Giao lưu tiếp biến văn hóa và sự biến đổi văn sự phát triển này có nguy cơ làm mai một hóa Việt Nam của Lý Tùng Hiếu [7], Biến đổi hoặc làm mất đi những giá trị truyền thống quan hệ dân tộc ở Việt Nam thời kì đổi mới độc đáo trong đời sống văn hóa – xã hội của và định hướng hoàn thiện chính sách dân tộc cộng đồng Cơ Tu. hiện nay của Trương Minh Dục [8], Sự biến Với đặc trưng văn hóa giàu bản sắc cộng đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh xây đồng, người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam đã dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan nay của Nguyễn Duy Bắc [9], Văn hóa các tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. dân tộc thiểu số trong tiến trình công nghiệp Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu về người hóa, hiện đại hóa của Nông Quốc Chấn [10], Cơ Tu chủ yếu tập trung vào các đặc trưng Văn hóa làng miền núi Trung bộ Việt Nam: văn hóa truyền thống của dân tộc này. Các giá trị truyền thống và những bước chuyển nghiên cứu ít đề cập tới sự biến đổi về văn lịch sử của Nguyễn Hữu Thông [11], Các hóa – xã hội của người Cơ Tu. Nếu có, các dân tộc Việt Nam trong môi trường chuyển công trình chỉ dừng lại ở một khía cạnh, lĩnh đổi của Khổng Diễn [12]. vực cụ thể nào đó chứ chưa bao quát một Từ năm 1975 đến nay, nhiều nghiên cứu cách có hệ thống. về tộc người thiểu số trên phạm vi cả nước Trên cơ sở vận dụng lí thuyết dân tộc học, được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu phương pháp liên ngành, chúng tôi tìm hiểu biết lẫn nhau, gìn giữ, bảo tồn và phát huy thực trạng biến đổi đời sống văn hóa – xã sức mạnh văn hoá dân tộc. Do vậy, các công hội của người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam qua trình nghiên cứu về người Cơ Tu cũng xuất các phương diện: trang phục, nghệ thuật dân hiện ngày càng nhiều, bao quát khắp các lĩnh gian, nơi cư trú, nhà ở và tổ chức xã hội. Qua vực trong đời sống của tộc người này. Các đó, chúng tôi đặt các mặt biểu hiện này trong công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn hóa bối cảnh hiện tại để thấy được những mặt – xã hội truyền thống của người Cơ Tu như tích cực và hạn chế trong quá trình phát triển; Góp phần tìm hiểu văn hóa Cơ Tu của Lưu đồng thời bước đầu xác định các nguyên nhân Hùng [13], Tìm hiểu văn hóa Cơ tu của Tạ dẫn tới sự biến đổi đó. Đức [14], Văn hóa làng các dân tộc thiểu số ở Quảng Nam của Nguyễn Hữu Thông [15], Nghiên cứu luật tục, phong tục các dân tộc II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU thiểu số Quảng Nam của Bùi Quang Thanh Biến đổi văn hóa là sự thay đổi các giá trị [16], Người Cơ Tu ở Việt Nam của Trần Tấn văn hóa truyền thống để phù hợp với những Vịnh [17]. biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở những Trong những năm gần đây, một số nghiên thời kì nhất định trong sự phát triển của các cứu đã đề cập đến biến đổi trong đời sống văn quốc gia và nhân loại. Đây là chủ đề được hóa, kinh tế, xã hội của người Cơ Tu. Trong nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm công trình Nhà mồ Katu - Truyền thống và nghiên cứu. hiện đại (qua khảo sát thôn Cha Ke, Thượng Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, Long, Nam Đông, Thừa Thiên Huế) [18], nhiều tác giả đã nghiên cứu về giao lưu, tiếp Trần Đức Sáng nghiên cứu đặc điểm nhà mồ biến và xu hướng biến đổi văn hóa của các truyền thống và những biến đổi của người Cơ 22
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT Tu ở thôn Cha Ke, xã Thượng Long, huyện phương diện: làng bản, hình thức cư trú, dân Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lê Anh số, dân cư, nhà ở; biến đổi làng, nhà cửa, ẩm Tuấn, trong bài viết Du lịch sinh thái – văn thực, trang phục, phương tiện đi lại, công cụ hóa tộc người: hướng phát triển kinh tế và lao động sản xuất của người Cơ Tu ở xã Hòa bảo tồn văn hóa cộng đồng Katu ở huyện Bắc, huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng. Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng [19], đã phân Trong các bài viết Vài nét biến đổi nghi lễ tích vai trò của du lịch sinh thái – văn hóa tộc vòng đời người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam hiện người trong bối cảnh phát triển kinh tế vùng nay, Giá trị văn hóa của người Cơ Tu tỉnh miền núi hiện nay. Theo tác giả, khách du Quảng Nam qua nghi lễ vòng đời người của lịch có xu hướng lựa chọn loại hình du lịch Nguyễn Văn Dũng [25] - [26], Biến đổi nghi về với tự nhiên, tìm hiểu nét văn hóa khác lạ, lễ vòng đời người của các dân tộc thiểu số huyền bí và hoang sơ, giá trị văn hóa truyền Tà Ôi, Cơ tu, Bru – Vân Kiều ở Bắc Trung thống trong cộng đồng người Cơ Tu ở huyện Bộ hiện nay của Nguyễn Văn Mạnh [27] đã Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng. Trong bài trình bày những giá trị văn hóa và biến đổi viết Sự chuyển đổi của kinh tế truyền thống trong nghi lễ vòng đời người của dân tộc Cơ trong bối cảnh đô thị hóa ở Đà Nẵng [20], Tu. Lê Anh Tuấn, Trần Đức Sáng và Trần Đức Nhìn chung, những công trình, bài viết nêu Anh Sơn phân tích thực trạng biến đổi của trên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu biến đổi người Cơ Tu ở huyện Hòa Vang – Thành phố văn hóa – xã hội nói chung. Đối với dân tộc Đà Nẵng qua các mặt biểu hiện: ngôn ngữ Cơ Tu, các tác giả chủ yếu khai thác các lĩnh giao tiếp, sinh hoạt văn hóa và văn nghệ dân vực về biểu tượng nghệ thuật, nhà cửa, trang gian, tập quán cư trú, kiến trúc cộng đồng phục, tôn giáo, tín ngưỡng, hôn nhân, tổ chức truyền thống, trang phục, nhà cửa và hoạt xã hội và một số biến đổi về một khía cạnh động canh tác. Bài viết Vấn đề duy trì lễ hội cụ thể nào đó của người Cơ Tu. Trên cơ sở kế truyền thống trong bối cảnh hiện nay: lễ hội thừa những công trình, bài viết của các tác đâm trâu của người Katu [21], Lê Anh Tuấn giả đi trước, cùng với nguồn tư liệu trong quá giới thiệu và đề xuất một số hình thức tổ trình điền dã, phỏng vấn sâu tại các xã, huyện chức dàn dựng, sân khấu hóa, phối hợp với có người Cơ Tu sinh sống ở tỉnh Quảng Nam, các công ti lữ hành tổ chức, đưa khách du lịch bài viết trình bày các mặt biến đổi trong đời tham dự lễ, khôi phục lễ hội đâm trâu truyền sống văn hóa – xã hội của người Cơ Tu hiện thống, giúp cho người xem thấy được những nay. nét đẹp truyền thống, ý nghĩa nhân sinh qua lễ hội đâm trâu. Các công trình Biến đổi cơ III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU cấu tổ chức xã hội truyền thống của người Cơ-Tu ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên A. Biến đổi trong trang phục của người Cơ Huế của Trần Thị Mai An [22], Một số biến Tu ở tỉnh Quảng Nam đổi về văn hóa – xã hội của người Cơ tu ở Trang phục truyền thống kết tinh cả giá trị thôn Agrồng dưới tác động của sự hình thành nghệ thuật lẫn giá trị lịch sử của từng tộc và phát triển khu trung tâm hành chính huyện người. Thông qua trang phục truyền thống, Tây Giang, tỉnh Quảng Nam của Phạm Văn chúng ta có thể nhận biết đó là tộc người nào. Lợi [23], Văn hóa vật chất của người Cơ Tu ở Trang phục giúp phân biệt tộc người này với xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, Thành phố Đà tộc người khác. Khi xã hội thay đổi, trang Nẵng của Nguyễn Thị Ngọc Trinh [24] khai phục cũng là lĩnh vực chịu nhiều thay đổi. thác những biến đổi trong tổ chức gia đình, Tộc người Cơ Tu là một trong số ít tộc người dòng họ, tổ chức làng; biến đổi tổ chức làng: thiểu số ở khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên về quy mô, tên làng và không gian cư trú, biết trồng bông, xe sợi, nhuộm màu và dệt cách tổ chức và quản lí cộng đồng, sở hữu, vải. Điều này giúp người Cơ Tu sáng tạo nên phân tầng xã hội và quan hệ xã hội; thực những bộ trang phục với lối dệt tinh xảo, hoa trạng biến đổi của dân tộc Cơ Tu qua các văn sinh động. 23
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT Theo tập quán truyền thống của người Cơ đời sống vật chất và tinh thần. Khi thu nhập Tu ở tỉnh Quảng Nam, nam giới đóng khố, được cải thiện, trình độ dân trí được nâng cởi trần, nữ giới mặc áo váy. Trang phục của cao, người Cơ Tu có điều kiện chăm lo đến người Cơ Tu được phối bởi năm sắc màu cơ đời sống tinh thần nhiều hơn. Chính điều này bản là đen, xanh thẫm, trắng, đỏ và vàng. cũng đã phần nào làm thay đổi quan niệm Tất cả các màu đều được chế biến từ các loài thẩm mĩ trong cách ăn mặc của họ. Nhiều thảo mộc tự nhiên. Trong đó, màu đỏ và màu chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho các tộc người đen là hai màu được ưa chuộng nhất. Người thiểu số ở Việt Nam nói chung, tộc người Cơ Tu cho rằng: đỏ là màu của máu, của linh Cơ Tu nói riêng đã giúp người Cơ Tu được hồn nên được thần linh và tổ tiên ưa thích. đi học ở nhiều trường trung học phổ thông, Vì thế, ngoài việc mặc trang phục có màu đỏ trung cấp, cao đẳng, đại học trong cả nước. và màu đen là chủ sắc, họ còn có tục dùng Nhiều thanh niên Cơ Tu không có điều kiện các tấm vải thiêng màu đỏ để làm mái các đi học đã xin vào làm việc tại các công ti, xí “ngôi nhà thần”, nơi già làng dùng máu của nghiệp may mặc trong các khu công nghiệp. gà và trâu hiến sinh để mời gọi thần linh và Đây là môi trường tốt để thanh niên người Cơ tổ tiên về thụ lễ. Tu tiếp xúc với học sinh, sinh viên, thanh niên Nét độc đáo trong trang phục của người dân tộc Kinh. Hơn nữa, khi được học tập, làm Cơ Tu thể hiện ở chỗ, trang phục nam giới việc cùng với người Việt, nhiều chàng trai, cô hay nữ giới, từ màu sắc đến các họa tiết luôn gái Cơ Tu và người Việt đã bén duyên, thành phản ánh được nhân sinh quan, thế giới quan vợ thành chồng. Trang phục trong ngày cưới của họ về vũ trụ, trời đất, vạn vật cũng như của cô dâu và chú rể đã có nhiều thay đổi. phong tục – tập quán, sinh hoạt của cộng Biểu hiện rõ nét nhất về trang phục trong đồng. Đặc biệt, trang phục được dùng trong cưới hỏi là trường hợp nam giới người Việt lễ hội có hoa văn cầu kì, được tạo bởi những lấy nữ giới là người Cơ Tu. Trang phục của hạt chì hay cườm trắng. Hoa văn có nhiều cô dâu và chú rể trong đám cưới có xu hướng motif khác nhau, hết sức phong phú. Chính vì mặc theo trang phục cưới của người Việt. vậy, ngoài những điểm chung với trang phục Khi trung tâm hành chính ở các huyện có của các tộc người cư trú trên dãy Trường Sơn người Cơ Tu sinh sống được Nhà nước đầu tư, – Tây Nguyên (nam giới đóng khố, nữ giới các cửa hàng, tiệm may mặc, bán quần áo của mặc váy quấn và nam nữ giới mặc áo chui người Việt xuất hiện ngày càng nhiều. Đây đầu), trang phục truyền thống của người Cơ là điều kiện, môi trường thuận lợi để người Tu còn mang nét riêng độc đáo của tộc người Cơ Tu có thể mua sắm, may mặc theo sở mình, nhất là cách trang trí hoa văn trên trang thích của mình. Mặt khác, trong các phòng phục. Tung tung và ya yá là hai kiểu họa tiết ban ở xã, huyện, ngoài người Việt, người Cơ đặc thù được người Cơ Tu thêu dệt trên trang Tu cũng được tuyển dụng, bố trí, sắp xếp và phục. Hoa văn ya yá là hình những phụ nữ bổ nhiệm ở nhiều vị trí khác nhau. Khi được đang nhảy múa, tiếng Cơ Tu là padil ya yá, sống gần và làm việc chung với người Việt, còn hoa văn tung tung là hình những người người Cơ Tu đã tiếp thu nhiều nét văn hóa đàn ông đang nhảy hội trong lễ đâm trâu hoặc tiên tiến từ người Việt. Điều này được thể trong nghi lễ “săn đầu người” – một tập tục hiện rõ nét nhất là trang phục văn phòng, cổ xưa của người Cơ Tu. công sở của người Cơ Tu khi đến các cơ quan Ngày nay, trang phục của người Cơ Tu đã hành chính làm việc. có nhiều thay đổi. Khác với trước đây, trang Như vậy, trang phục truyền thống của dân phục của tộc người Cơ Tu, nhất là giới trẻ, đã tộc Cơ Tu đã phản ánh nét văn hóa truyền có sự ảnh hưởng không nhỏ từ văn hóa mặc thống, nhân sinh quan, thế giới quan của họ của người Việt. Từ khi Đảng và Nhà nước về vũ trụ, trời đất, vạn vật cũng như phong ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển tục, tập quán của cộng đồng. Tuy nhiên, trước kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi, tác động của quá trình công nghiệp hóa – người Cơ Tu đã có những thay đổi đáng kể về hiện đại hóa, người Cơ Tu đã có những thay 24
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT đổi trong trang phục của mình. Từ lớp trẻ đã ở ven biển. Sau đó, do xảy ra những xung tới thế hệ cao tuổi gần như đã thay đổi trang đột về quyền lợi đất đai giữa các nhóm cư phục hằng ngày của mình. Trang phục truyền dân Môn – Khmer; những cuộc chiến tranh thống chỉ còn xuất hiện trong các dịp lễ hội, với người Chăm (từ thế kỉ XII – XVI), người ngày tế lễ truyền thống của người Cơ Tu. Xiêm (thế kỉ XVII – XIX), người Lào (thế kỉ XVI – XVII) và người Việt (từ thế kỉ XVI trở đi), họ đã quy tụ trở lại trên địa bàn đang sinh B. Biến đổi trong cư trú và nhà ở của người sống hiện nay [30]. Giải thích về nơi cư trú Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam của người Cơ Tu, Nguyễn Hữu Thông cũng Người Cơ Tu xuất hiện và cư trú ổn định đã đưa ra cách lí giải sau: từ “tu” trong ngôn ở dãy Trường Sơn – Tây Nguyên từ rất sớm. ngữ Cơ Tu nhằm để chỉ vị trí ở đầu ngọn, Đồng bào Cơ Tu cư trú phân tán và biệt chẳng hạn như tu long (ngọn cây), tơm tu (nói lập, làng mạc phân bố rải rác thành những có đuôi, có đầu), tu dak (đầu nguồn nước). điểm tụ cư nhỏ cách xa nhau, qua nhiều con Hay từ Coh là từ nhằm để chỉ phương hướng, suối, ngọn đồi. Trong lịch sử, người Cơ Tu phương vị; chẳng hạn coh ping (ở trên), coh cư trú phần lớn ở các vùng núi cao thuộc tỉnh jub (ở dưới). Sự kết hợp chữ coh + tu là cách Quảng Nam – Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và lí giải nhằm xác định nơi cư trú về phía trên ở các tỉnh Xekong, Saravan thuộc miền Nam (coh còn là từ dùng để chỉ cái đầu) và nguồn của Lào. nước (tu) [31]. Ngày nay, người Cơ Tu sống Khi nghiên cứu về nguồn gốc cư trú của xen cư cùng với người Việt. Đại bộ phận đã người Cơ Tu, các tác giả nước ngoài đưa ra di cư chuyển đến sống gần trung tâm huyện nhiều cách lí giải khác nhau. Robert L.Mole hoặc ven các con đường bê tông, đường nhựa nhận định: người Cơ Tu từng di cư xuống để thuận tiện cho việc đi lại, kinh doanh buôn thung lũng của sông Mekong và sau đó họ bán. Một số xã thuộc các huyện miền núi lại dời lên núi hoặc có thể đi xuống tận bờ Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang – tỉnh biển Trung Hoa và bị buộc trở lại núi [28]. Quảng Nam và huyện Nam Đông, A Lưới J.Hoffet cho rằng: cộng đồng người Cơ Tu – tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn còn một số hộ chia làm hai nhóm, Cơ Tu cao và Cơ Tu sống rải rác ở những con đường đất, dọc các thấp và có ít nhất là bốn phân nhóm. Ngung sườn núi cao. Lối sống của họ khác xa với Bo và Thap là hai nhóm nằm ở phía Đông. những hộ dân sống gần người Việt. Họ vẫn Họ vốn sống dọc theo các phụ lưu ở thượng sống theo tập tục truyền thống, nhất là những nguồn sông Sekong, sau đó di chuyển dần người lớn tuổi. về phía Đông của nhóm Cao ở vùng cao Về kiến trúc, vật liệu ngôi nhà của người phía Tây, thuộc thượng nguồn của hai con Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam: Trong truyền sông Sekong và sông Boung [29]. Trong Vài thống, nhà ở của người Cơ Tu là kiểu nhà nét về sự hình thành các dân tộc ít người sàn, nóc hình mai rùa, kiểu mái tròn, tùy tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, khi lí giải về thuộc số lượng người trong nhà và nguyên nguồn gốc và nơi cư trú của người Cơ Tu, liệu sẵn có ở địa phương mà độ dài ngắn, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng các dân tộc miền cao thấp của các nhà không hoàn toàn giống núi Quảng Nam hiện nay là cư dân bản địa nhau. Nhà của người Cơ Tu thường nhỏ và miền Trung Đông Dương, có nguồn gốc với phần lớn là một gia đình cư trú. Ngày nay, nhóm Việt – Mường. Tổ tiên của họ vốn cư đối với những hộ sống trên các sườn núi cao, trú trên một địa bàn rộng lớn nhưng tổ tiên dọc những con đường mòn, cấu trúc nhà ít có người Chăm đã tách họ ra khỏi tổ tiên Việt sự thay đổi. Họ vẫn ở trong ngôi nhà truyền – Mường. Cùng với quá trình phân tách này, thống. Vật liệu làm nhà chủ yếu là vách được sự thu hẹp dần lãnh thổ của họ về phía núi. ghép bằng ván, mái lợp bằng lá cây mây, gỗ, Điều này được phản ánh trong truyền thuyết, tre nứa, lồ ô, lá nón, lá mây. Kiến trúc nhà những câu chuyện kể, trong kí ức của người thường có một hoặc hai cửa nhỏ, vách bằng già, của các tộc người ở đây về một thời kì họ tấm phên lồ ô. Nhà thường thiết kế một gian 25
  6. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT là chủ yếu. Chỗ nấu nướng, ăn uống, nghỉ sống ở tỉnh Quảng Nam, nhiều ngôi nhà gươl ngơi được bố trí trong cùng một không gian chỉ được xây dựng trên cơ sở mô phỏng lại chung của ngôi nhà. Đối với các hộ sống gần nhà gươl truyền thống. Khác với trước đây, các tuyến đường nhựa, đường bê tông, gần nhà gươl của người Cơ Tu đã có nhiều thay trung tâm hành chính huyện, kiến trúc nhà đổi về chất liệu, họa tiết trang trí. Mái nhà có sự thay đổi rõ rệt. Qua khảo sát, chúng tôi gươl được lợp bằng tôn, cột nhà gươl được thấy tại một số thôn ở các huyện Đông Giang, đúc bằng bê tông, hình ảnh quanh nhà gươl Nam Giang, Tây Giang – tỉnh Quảng Nam, được tô vẽ thay vì được đục đẽo như trước hai huyện A Lưới, Nam Đông – tỉnh Thừa đây. Ngay cả trong đời sống sinh hoạt hằng Thiên Huế, nhà được thiết kế hai mái dốc, ngày, người Cơ Tu cũng đã dần thay đổi thói lợp tôn. Kiến trúc nhà được làm theo kiến quen mua sắm đồ dùng trong gia đình. Họ trúc sàn bằng gỗ, vách gỗ, mái lợp tôn. Nhiều sẵn sàng mua sắm tivi, tủ lạnh, bàn ghế, xe gia đình đã thuê thợ xây nhà kiểu cấp bốn máy nhưng lại lưỡng lự mua một bộ chiêng, như người Việt. Mái nhà được lợp bằng ngói trang phục truyền thống (xem Bảng 1). hoặc tôn. Gia đình nào có điều kiện thì xây Như vậy, khi tổ chức xã hội đã dần thay nhà bê tông, đổ mê (lầu). Như vậy, kết cấu đổi, đời sống kinh tế được nâng cao, người khung, sườn, mái và sàn nhà xuất hiện nhiều Cơ Tu có nhu cầu về sự thay đổi cuộc sống motif, họa tiết mới, không đại diện cho quan trong sự lựa chọn và tiếp nhận những giá trị niệm thẩm mĩ và nhân sinh quan, thế giới mới (nhà cửa, phương tiện đi lại, tiện nghi quan của người Cơ Tu như trước đây. Nhiều sinh hoạt, hoạt động văn hóa). Điều này cho hình vẽ, điêu khắc trang trí bên trong mất thấy, người Cơ Tu đã có suy nghĩ về sự đổi đi tính thiêng, không thể hiện rõ tín ngưỡng thay trong cuộc sống, sự thắng thế của chiều tâm linh của người Cơ Tu. hướng tiếp nhận những yếu tố mới so với bảo Ngôi nhà truyền thống của người Cơ Tu ở lưu giá trị truyền thống. Quảng Nam là nhà gươl. Đây là ngôi nhà thể hiện rõ nét văn hóa tiêu biểu của người Cơ Tu về kiến trúc và giá trị tâm linh. Nhà gươl hầu C. Biến đổi trong nghệ thuật dân gian của như chỉ dành cho những việc lớn, quan trọng người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam của làng. Phụ nữ chỉ được vào nhà gươl trong Nét văn hóa tiêu biểu về nghệ thuật dân các dịp lễ hội. Trước đây, nhà gươl là nơi gian của người Cơ Tu được thể hiện rõ nét các chàng trai chưa vợ đến đây ngủ, để nghe qua kiến trúc điêu khắc nhà gươl, nhà mồ, già làng kể chuyện cổ xưa, nghe các bậc cao cột xơnur. Ngoài ra, nhiều bhồ lô (truyện cổ niên có kinh nghiệm trao truyền kĩ năng săn dân gian), bơbooch (hát tâm tình), bhnóoch bắt, gieo trồng, thổi khèn, đánh chiêng và cả (hát lí), tung tung (điệu múa của nam giới), nghệ thuật chinh phục các cô gái. Ngày nay, ya yá (điệu múa cầu mưa của người phụ nữ) ngôi nhà gươl của người Cơ Tu đã có nhiều giúp ta nhận ra tâm hồn, thế giới quan, nhân thay đổi so với trước đây, từ kiến trúc đến sinh quan rất riêng của người Cơ Tu. chất liệu, trang trí đã có sự biến đổi. Nhiều Trong truyền thống, nghệ thuật điêu khắc motif trang trí cổ truyền bị biến mất, thay nhà mồ, tượng mồ là nét văn hóa tiêu biểu thế bằng những hình vẽ trang trí chưa từng của người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam. Nhà mồ, tồn tại trong tâm thức đồng bào. Điều này tượng mồ và quan tài là những công trình tạo cảm giác lạc lõng, xa lạ trước ngôi nhà kiến trúc mang tín ngưỡng dân gian truyền truyền thống của mình. Nếu trước đây, đồng thống hướng về ông bà, tổ tiên của người Cơ bào đến nhà gươl hằng ngày, hằng đêm thì Tu. Ngày nay, tập tục này vẫn còn nhưng rất ngày nay họ chỉ đến khi cần thiết, khoảng hiếm thấy xuất hiện ở địa bàn có người Cơ Tu một lần/tuần. Ở trung tâm hành chính các cư trú. Vì theo tín ngưỡng của người Cơ Tu, huyện có người Cơ Tu sinh sống, nhà gươl muốn làm nhà mồ, gia đình đó phải cúng chỉ còn tồn tại ở khu bảo tàng, làng truyền cho làng một con trâu hay con bò thì mới thống. Tại các xã, huyện có người Cơ Tu sinh được phép làm. Tập tục tốn kém này cũng 26
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT Bảng 1: 50 người được khảo sát tại xã Lăng – huyện Tây Giang, xã A Ting – huyện Đông Giang, xã Chơ Chun – huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam (năm 2019) khiến người dân không còn mặn mà với việc nhau. làm nhà mồ kiểu truyền thống. Việc làm nhà Trong nghệ thuật diễn xướng dân gian, mồ tốn rất nhiều gỗ quý, mà gỗ rừng ngày điệu múa tung tung ya yá (vũ điệu dâng trời) càng cạn kiệt. Hơn nữa, người biết đẽo tượng là “tiết mục” đặc sắc, chứa đựng những tinh làm nhà mồ ngày càng ít, thế hệ con cháu túy của đời sống tộc người. Từ điệu múa lại không mấy mặn mà với văn hóa truyền thiêng, điệu múa cầu mùa trong lễ hội, đồng thống. Do đó, nhà mồ của người Cơ Tu ngày bào đã chuyển hóa một cách sống động vào nay thường lợp tôn, đúc bê tông. Màu vẽ làm nghệ thuật trang trí, hội họa, điêu khắc. Khác bằng nhựa cây bứa, lá cây tà râm đã được với trước đây, sinh hoạt văn hóa dân gian của thay bằng kĩ thuật đắp nổi sơn và xi măng. người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam ít diễn ra. Nhiều nơi còn thêm motif rồng, phụng, cúc, Nó chỉ gắn với số ít người già, chủ yếu là mai du nhập từ người Việt. Những nghĩa địa chế tạo và chơi một số nhạc cụ, hát lí. Nhất của người Cơ Tu đặt tận rừng sâu ngày nào là đối với lớp trẻ, hầu như họ không nhớ, bây giờ đã dễ dàng bắt gặp ven đường, bởi không thuộc các bài hát truyền thống của những mảnh rừng sâu đã có đường nhựa băng dân tộc mình. Qua đó cho thấy, họ ít mặn qua. mà với sinh hoạt văn nghệ cổ truyền. Những Người Cơ Tu có cả một kho tàng truyện cổ làn điệu hát lí, giao duyên, những điệu múa dân gian phong phú và đặc sắc. Truyện cổ Cơ tung tung ya yá, chuyện kể dần bị lãng quên. Tu thường kể về cuộc đời của các acoon tưi Điều này cho thấy sinh hoạt văn nghệ truyền (chàng trai mồ côi) như acoon đharêt (chàng thống đang dần được thay thế bởi các loại trai nghèo khổ), những manưih grơơ (dũng hình nghệ thuật, giải trí hiện đại như các bài sĩ), Đhâm Bhrư (chàng trâu rừng). Hầu hết hát nhạc trẻ, phim ảnh, karaoke. Các sinh những truyện này đều kết thúc có hậu. Ngoài hoạt văn nghệ truyền thống chỉ được tái hiện ra, người Cơ Tu còn có những truyện giải trong các dịp lễ hội truyền thống của người thích nguồn gốc dòng họ, dân tộc hay vật tổ Cơ Tu hoặc do người Việt phục dựng lại để như Alui (Quả bầu). Mảng truyện này có ý phục vụ hoạt động văn hóa, du lịch (xem nghĩa giáo dục đồng bào rằng dẫu cho mỗi Bảng 2). người thuộc các dân tộc khác nhau nhưng Có thể nói, quá trình công nghiệp hóa – đều có chung nguồn cội, hãy đoàn kết lại với hiện đại hóa và hội nhập đã tác động không 27
  8. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT Bảng 2: 50 người được khảo sát tại xã Lăng – huyện Tây Giang, xã A Ting – huyện Đông Giang, xã Chơ Chun – huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam (năm 2019) nhỏ tới đại bộ phận người Cơ Tu trong hoạt cũng như các gia đình nơi khác có thể chuyển động văn hóa dân gian. Hơn thế nữa, con em đến sống trong các làng thuộc xã, huyện với người Cơ Tu lớn lên đều được tới trường theo nhau. Tuy nhiên, họ phải là người thân của học. Do đó, tiếng Việt là ngôn ngữ chính một gia đình trong làng, được gia đình ấy được người Cơ Tu sử dụng trong các mối bảo lãnh. Lúc đầu, mỗi bhươl (thôn) chỉ có quan hệ giao tiếp hằng ngày, nhất là khi giao một tô (dòng họ). Sau đó, mỗi bhươl lại có tiếp với người Việt. Tiếng Cơ Tu chủ yếu nhiều dòng họ. Điều này là do các cô gái đi được sử dụng giữa các thành viên trong gia làm dâu thường mang em trai hoặc có những đình hoặc giữa người Cơ Tu với nhau. Điều tô khác bhrớ zaziêng (kết nghĩa) đến sống này làm cho diện mạo nghệ thuật dân gian chung. Mỗi bhươl thường quần tụ năm đến của người Cơ Tu biến đổi. tám tô; trong đó, các bhươl có một đến hai tô chiếm đa số. Họ được điều hành và quản lí bởi một bộ máy tự quản – hội đồng già làng D. Biến đổi trong tổ chức xã hội của người do người dân bầu lên, thông qua hệ thống Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam công cụ bằng luật tục, phong tục tập quán Trong truyền thống, làng của người Cơ Tu tồn tại dưới dạng thực hành xã hội, vận hành ở tỉnh Quảng Nam được xây dựng theo hình theo kinh nghiệm. tròn hay hình vành khuyên, nhà gươl được bố Ngày nay, ngôi làng cổ truyền của người trí ở giữa. nhà gươl không chỉ là trung tâm Cơ Tu ở Quảng Nam đang có những đổi thay văn hoá (nơi diễn ra lễ hội, thờ các vị thần cơ bản. Đời sống của người Cơ Tu đang tồn dân gian, trưng bày sản phẩm điêu khắc), mà tại song song hai bộ máy quản lí: bộ máy nhà gươl còn là trung tâm hành chính (nơi quản lí hành chính do Nhà nước quy định giải quyết các vụ việc tranh chấp, những vấn và bộ máy tự quản truyền thống (dựa trên đề lớn của làng, nơi tiếp khách lạ hay khách kinh nghiệm, luật tục) bởi hai đại diện là được trọng vọng của làng). trưởng thôn và già làng. Bộ máy quản lí xã Làng của người Cơ Tu là một đơn vị tổ hội cổ truyền vẫn còn tồn tại với vai trò là lực chức xã hội, có ranh giới riêng (mặc dù chỉ lượng góp phần bổ sung và tăng cường hiệu mang tính ước lệ). Trước đây, họ thường gọi lực cho bộ máy quản lí hiện nay. Nếu trước tên làng là vêêl, crnoon, bươih. Các thành đây, người Cơ Tu rất coi trọng vai trò của già viên trong làng có thể chuyển đến làng khác làng với kinh nghiệm và hiểu biết thực tiễn 28
  9. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT thì ngày nay, trình độ nhận thức chính trị, học trạng cấm phụ nữ tham gia các hoạt động xã vấn, kiến thức quản lí được đề cao. Vì vậy, hội, cộng đồng đã giảm bớt. tiêu chí đối với chức danh trưởng thôn không Như vậy, chính sách của Đảng và Nhà nước quá chú trọng yếu tố tuổi tác, bởi bên cạnh và quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa trưởng thôn còn có các già làng, người đóng đã làm cho ngôi làng cổ truyền của người Cơ vai trò cố vấn không chính thức. Khi làng Tu ở tỉnh Quảng Nam có những đổi thay cơ bản truyền thống đã bị phá vỡ cả về cấu trúc bản. Tính chất khép kín của ngôi làng truyền lẫn thiết chế quản lí, vai trò của già làng cũng thống đã thay đổi. Vai trò của già làng và từ đó mà không còn được như trước đây nữa. phụ nữ Cơ Tu không còn như trước nữa. Mọi Sự phân chia vai trò giữa già làng và trưởng hoạt động của người Cơ Tu đều tuân thủ các thôn ở đây diễn ra rõ ràng hơn. Pháp luật quy định pháp luật của Nhà nước. của Nhà nước là công cụ chủ yếu để quán xuyến mọi hoạt động của người Cơ Tu. Các IV. KẾT LUẬN hoạt động hành chính gần như trưởng thôn có vai trò quyết định. Già làng chỉ có vai Trước bối cảnh toàn cầu hóa, giao lưu và trò trong các hoạt động như tang ma, lễ nghi hội nhập văn hóa như hiện nay, văn hóa – tổ cúng bái, hoạt động cộng đồng. Trong bộ chức xã hội của các dân tộc thiểu số ở Việt máy tổ chức thôn bản hiện nay, trưởng thôn Nam có sự biến đổi mạnh mẽ. Giống như các thực sự đóng vai trò lớn và thiết thực. Tuy tộc người thiểu số khác, văn hóa – tổ chức nhiên, già làng vẫn luôn được tôn trọng và tín xã hội của dân tộc Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam nhiệm. Do vậy, trưởng thôn và già làng luôn nói riêng, người Cơ Tu trên phạm vi cả nước giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng người nói chung cũng không nằm ngoài quy luật Cơ Tu. Trước đây, người Cơ Tu cư trú trong này. cộng đồng đều bình đẳng về các quyền lợi do Hiện nay, các nghiên cứu về văn hóa – xã làng quản lí. Quyền lợi của cộng đồng được hội của dân tộc Cơ Tu rất đa dạng và phong luật tục bảo vệ tối đa qua những quy định về phú, liên quan đến nhiều cấp độ, nhiều lĩnh quyền sở hữu, sự đề cao vai trò của kinh tế vực, với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong nương rẫy, bảo vệ tài nguyên rừng, đất đai, nghiên cứu này, chúng tôi đã trình bày những sông suối. Ngày nay, quyền lợi của các cá biểu hiện trong biến đổi đời sống văn hóa – nhân, gia đình, dòng họ được thực hiện bởi xã hội qua các lĩnh vực: trang phục, nơi cư điều kiện kinh tế gia đình, năng lực cá nhân, trú, nghệ thuật dân gian và tổ chức xã hội. Ở sự tuân thủ các quy định của pháp luật trên mỗi lĩnh vực, người viết xác định giá trị văn các lĩnh vực kinh tế, đất đai, khai thác nguồn hóa truyền thống của dân tộc Cơ Tu, đồng lợi từ rừng. Trước đây, sự giàu có của một thời nhận diện những nét biến đổi qua từng gia đình, dòng họ được xác định qua việc sở lĩnh vực liên quan đến đời sống của người Cơ hữu nhiều nương rẫy, chiêng, ché, bạc, trâu. Tu ở tỉnh Quảng Nam trong xu hướng chung Ngày nay, sự giàu có của người Cơ Tu được của thời kì đổi mới ở Việt Nam. thể hiện bằng việc nhà nào có tivi, tủ lạnh, Như vậy, thực trạng văn hóa – xã hội của bàn ghế, nhà lợp ngói hoặc nhà bê tông, đặc người Cơ Tu ở Quảng Nam cho thấy diện mạo biệt là gia đình nào có quan hệ mua bán, kinh đời sống của cộng đồng dân tộc này đã và doanh với người Việt và có công ăn việc làm đang có sự đổi thay đáng kể. Đây là hệ quả tạo nên nguồn thu ổn định. Mối quan hệ nam tất yếu của quá trình tiếp nhận và ảnh hưởng giới – nữ giới được thể hiện trên nền tảng xã bởi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội phụ quyền, người đàn ông là người quyết và hội nhập của đất nước. Vấn đề đặt ra đối định mọi công việc đối nội, đối ngoại, tiếp với công tác bảo tồn văn hóa truyền thống xúc với thần linh và tham gia làm việc tại các và phát triển xã hội người Cơ Tu (cấu trúc, xã, huyện. Người phụ nữ đóng vai trò là một không gian buôn làng) là cần có sự kết hợp thành viên lao động, bảo tồn nòi giống, duy đồng bộ, hợp lí và bền vững trong bối cảnh trì sinh hoạt trong gia đình, làng bản. Tình hiện nay. 29
  10. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT TÀI LIỆU THAM KHẢO [18] T r ầ n Đức Sáng. Nhà mồ Katu - T r u y ề n thống v à hiện đại (qua khảo sát thôn Cha K e , Thượng Long, N a m Đông, Thừa Thiên Huế). V i ệ n Khoa học Xã hội V i ệ t [1] Bcoong Mọc. Mùa xuân v ề v ớ i hát lí Cơ T u . T ạ p c h í N a m - V i ệ n Dân tộc học - Thông báo Dân tộc học V ă n hóa Quảng N a m . 2002;37:56. năm 2006. Hà N ộ i : Nhà X u ấ t bản Khoa học Xã hội; [2] Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 432/QĐ–TTg 2007. . ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ [19] Lê Anh T u ấ n . Du lịch sinh thái – v ă n hóa tộc người: v ề việc phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Vi ệt hướng phát triển kinh tế v à bảo tồn v ă n hóa cộng đồng N a m giai đoạn 2011 – 2020; 2012. Katu ở huyện Hòa V a n g , Thành phố Đà Nẵng. T ạ p c h í [3] Nguyễn Hữu Thông. Văn nghệ dân gian miền núi trước Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. 2010;9:53–58. thách thức của xã hội hiện đại. Trong: Nghiên cứu phát [20] Lê Anh T u ấ n , T r ầ n Đức Sáng, T r ầ n Đức Anh Sơn. Sự triển bền vững miền núi khu vực miền Trung. Trung ch u yể n đổi của kinh tế truyền thống trong bối cảnh đô tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Trường thị hóa ở Đà Nẵng (Trường hợp người Katu ở huyện Đại học Nông Lâm Huế. Hà Nội: Nhà Xuất bản Nông Hòa V a n g ) . T ạ p c h í Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà nghiệp; 2000. p. 57–64. Nẵng. 2011;01:28–38. [4] Ngô Đức Thịnh. Luật tục, phong tục truyền thống v à [21] Lê Anh T u ấ n . V ấ n đề duy trì lễ hội truyền thống sự biến đổi. Hà N ộ i : Nhà X u ấ t bản Chính trị Quốc trong bối cảnh hiện nay: Lễ hội đâm trâu của người gia; 2001. Katu (Tham luận tại tọa đàm v ề đề án Nghiên cứu [5] Mai V ă n Hai, Phạm V i ệ t Dũng. X u hướng biến đổi tác động của sự phát triển đô thị đối v ớ i đời sống trong v ă n hóa v à lối sống ở V i ệ t N a m . Thông tin v ă n hóa, xã hội của cộng đồng người Katu ở huyện Khoa học Xã hội. 2010;02:27–32. Hòa V a n g , thành phố Đà Nẵng). V i ệ n Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng; 4/2011. [6] Nguyễn V ă n Dân. Con người v à v ă n hóa Vi ệt N a m trong thời kì đổi mới v à hội nhập. Hà N ộ i : Nhà X u ấ t [22] T r ầ n Thị Mai An. Biến đổi cơ cấu tổ ch ứ c xã bản Khoa học Xã hội; 2011. hội truyền thống của người Cơ – T u ở huyện N a m Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. T ạ p c h í Dân tộc học. [7] L ý T ù n g Hiếu. Giao lưu tiếp biến v ă n hóa v à sự biến 2012;4:21–27. đổi v ă n hóa Vi ệt N a m . Hà N ộ i : Nhà X u ấ t bản Khoa học Xã hội; 2019. [23] Phạm V ă n Lợi. Một số biến đổi v ề v ă n hóa – xã hội của người Cơ tu ở thôn A g r ồ n g dưới tác động của sự [8] T r ư ơ n g Minh Dục. Biến đổi quan hệ dân tộc ở V i ệ t hình thành v à phát triển khu trung tâm hành ch í n h N a m thời kì đổi mới v à định hướng hoàn thiện ch í n h huyện T â y Giang, tỉnh Quảng N a m . T ạ p c h í Dân tộc sách dân tộc hiện nay. T ạ o c h í Nghiên cứu Dân tộc. học. 2014;1&2:65–71. 2017;19:3–12. [24] Nguyễn Thị Ngọc T r i n h . V ă n hóa v ậ t c h ấ t của người [9] Nguyễn Duy Bắc. Sự biến đổi các giá trị v ă n hoá Cơ T u ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa V a n g , Thành phố trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Vi ệt Đà Nẵng [Luận v ă n Thạc sĩ]. Học viện Khoa học Xã N a m hiện nay. Hà N ộ i : Nhà X u ấ t bản T ừ điển Bách hội; 2018. khoa – V i ệ n V ă n hóa; 2008. [25] Nguyễn V ă n Dũng. V à i nét biến đổi nghi lễ v ò n g đời [10] Nông Quốc Chấn. Văn hóa các dân tộc thiểu số trong người Cơ T u ở tỉnh Quảng N a m hiện nay. T ạ p c h í tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam Nghiên cứu T ô n giáo. 2019;3:120–129. học. Trong: Kỉ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần [26] Nguyễn V ă n Dũng. Giá trị v ă n hóa của người Cơ T u thứ nhất. Tập II. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội: tỉnh Quảng N a m qua nghi lễ v ò n g đời người. T ạ p c h í Nhà Xuất bản Thế giới; 2000. p. 335. Khoa học T r ư ờ n g Đại học T r à Vi n h . 2018;30:20–29. [11] Nguyễn Hữu Thông. V ă n hóa làng miền núi T r u n g bộ [27] Nguyễn V ă n Mạnh. Biến đổi nghi lễ v ò n g đời người Vi ệt N a m : giá trị truyền thống v à những bước c h u y ể n của các dân tộc thiểu số T à Ôi, Cơ tu, Bru – V â n lịch sử. Thừa Thiên Huế: Nhà X u ấ t bản Thuận Hóa; Kiều ở Bắc T r u n g bộ hiện nay. T ạ p c h í Khoa học 2005. Đại học Huế. 2012;72A(3):185–193. [12] Khổng Diễn. Các dân tộc Việt Nam trong môi trường [28] R o b e r t L Mole. The Montagnards of South Vi et n a m : chuyển đổi. Việt Nam học. Trong: Kỉ yếu hội thảo A Study of Nine T r i b e s . T u t t l e : T o k y o , Japan, R u t l a n d , quốc tế lần thứ nhất. Tập II. Đại học Quốc gia Hà Nội. VT; 1970. Hà Nội: Nhà Xuất bản Thế giới; 2000. p. 132–139. [29] Hopffer J. Les Mois de la Chaine Annamitique: [13] Lưu Hùng. Góp phần tìm hiểu v ă n hóa Cơ tu. Hà Entre T o u r a n e et les Boloven: T e r r e , Air, Mer. La N ộ i : Nhà X u ấ t bản Khoa học Xã hội; 2006. Géographie. 1933;1:43. [14] T ạ Đức. Tì m hiểu v ă n hóa Cơ tu. Thừa Thiên Huế: [30] Đặng Nghiêm V ạ n . V à i nét v ề sự hình thành các Nhà X u ấ t bản Thuận Hóa; 2001. dân tộc ít người tỉnh Quảng N a m - Đà Nẵng. Thông [15] Nguyễn Hữu Thông. Văn hóa làng các dân tộc thiểu tin Khoa học Kĩ thuật, Quảng N a m - Đà Nẵng. số ở Quảng Nam. Thừa Thiên Huế: Nhà Xuất bản 1985;3:31–38. Thuận Hóa; 2003. [31] Nguyễn Hữu Thông. Ka T u – kẻ sống đầu ngọn nước. [16] Bùi Quang Thanh. Nghiên cứu luật tục, phong tục các Thừa Thiên Huế: Nhà X u ấ t bản Thuận Hóa; 2005. dân tộc thiểu số Quảng Nam. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội; 2009. [17] T r ầ n T ấ n V ị n h . Người Cơ T u ở Vi ệt N a m . Hà N ộ i : Nhà X u ấ t bản Thông tấn; 2009. 30