Cạnh tranh quốc tế: Cơ hội và thách thức của hệ thống ngân hàng
Bạn đang xem tài liệu "Cạnh tranh quốc tế: Cơ hội và thách thức của hệ thống ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- canh_tranh_quoc_te_co_hoi_va_thach_thuc_cua_he_thong_ngan_ha.pdf
Nội dung text: Cạnh tranh quốc tế: Cơ hội và thách thức của hệ thống ngân hàng
- CẠNH TRANH QUỐC TẾ: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TS. Nguyễn Thị Kim Thanh1 Tóm tắt Bài viết nay tập trung làm rõ những vấn đề năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, xác định những cơ hội và thách thức mà hệ thống ngân hàng phải đối mặt để nâng cao năng lực cạnh tranh khi Việt Nam đã chính thức tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương2 cùng FTA với EU hay nói cách khác Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng. Trước cơ hội và thách thức đòi hệ thống ngân hàng cần tập trung giải quyết vấn đề tạo lập một môi trường kinh doanh tốt, nâng cao nội lực của từng định chế tài chính mới có thể đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Từ khóa: năng lực cạnh tranh, hệ thống ngân hàng, 1. Tiếp cận vấn đề về năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trong phạm vi toàn cầu nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao giữa các học giả, chuyên gia về khái niệm, cách đo lường, phân tích năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh đối với hệ thống ngân hàng có thể xét từ ba góc độ riêng biệt: Thứ nhất, xét hệ thống ngân hàng như một tổng thể, các ngân hàng phải cạnh tranh với các trung gian tài chính khác để huy động tiết kiệm, cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ tài chính khác. Ở đây, năng lực cạnh tranh của ngân hàng được thể hiện qua năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tức là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường. Thị trường Việt Nam trước đây, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ đạo trong việc thu hút vốn và cấp tín dụng. Tuy nhiên gần đây, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, vàng, bất động sản thì sự cạnh tranh giữa ngân hàng và các trung gian tài chính đã gay gắt và phức tạp hơn. 1 Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng. Email: nguyenthikimthanh61@yahoo.com 2 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được Việt Nam ký kết ngày 04/2/2016, với sự tham gia ký kết giữa 12 nước có quy mô kinh tế tương đối lớn với GDP chiếm 40% và 30% thương mại toàn cầu, gồm các nước: Úc, Chile, Mỹ, Brunei, Cannada, Malaysia, Nhật Bản, New Zealand, Mexico, Pezu, Sigapore và Việt Nam. 269
- Thứ hai, năng lực cạnh tranh thể hiện ở việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng (giá cả và chất lượng) cho khách hàng. Qua đó, năng lực cạnh tranh của ngân hàng là khả năng ngân hàng tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra hiệu quả và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra được thu nhập cao và phát triển bền vững. Thứ ba, năng lực cạnh tranh của ngân hàng thể hiện ở khả năng có thể điều chỉnh trước những thay đổi của thị trường để có thể duy trì được thị phần và/hoặc tăng quy mô hoạt động kinh doanh theo sự phát triển thị trường. Đặc điểm chính của các ngân hàng có năng lực cạnh tranh đó là khả năng tận dụng những thay đổi của điều kiện thị trường để tăng doanh thu, mở rộng thị phần và phát triển bền vững. Hội nhập quốc tế là động lực chính cho sự thay đổi trên thị trường, vì thế năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước không chỉ là khả năng tiếp cận thị trường nhiều hơn của các ngân hàng nước ngoài mà còn phải tận dụng được sự thay đổi về cầu đối với các dịch vụ ngân hàng. Như vậy, tựu trung lại với bản chất hoạt động ngân hàng là trung gian tài chính, nên hệ thống ngân hàng hoạt động có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và tương tác với nhau cùng phát triển, do vậy năng lực cạnh tranh của hệ thống gắn liền với năng lực cạnh tranh của từng ngân hàng, nhưng không phải là phép cộng đơn thuần mà nó là cấu trúc hệ thống hợp lý vận hành an toàn, có hiệu quả trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh với hệ thống các cơ chế, chính sách tạo ra lợi thế vượt trội cho các ngân hàng trong nước giữ vững thị phần trong nước và mở rộng thị phần ra nước ngoài, mang lại những lợi ích thiết thực cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng chính là những lợi thế vượt trội, khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận, có khả năng chống chịu những cú sốc từ bên ngoài mà một ngân hàng có được tương ứng với các đối thủ cùng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng. Từ đó có thể thấy, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng bao gồm 3 nhân tố: Các nhân tố môi trường vĩ mô như chính trị, pháp luật; các xu hướng phát triển trên thế giới có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh ngân hàng; nhân tố văn hoá xã hội. Các nhân tố môi trường vi mô như đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tiềm năng và đối thủ cạnh tranh ngẫu nhiên. Các nhân tố thuộc bản thân mỗi ngân hàng: năng lực tài chính, nguồn nhân lực, marketing, chiến lược cạnh tranh và phát triển. Những tác động tích cực đến các yếu tố ảnh hưởng nêu trên sẽ làm gia tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng. 270
- 2. Năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam: cơ hội và thách thức Sau những trải nghiệm rút ra từ thực tiễn hội nhập của Việt Nam kể từ khi thực thi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, các hiệp định thương mại tư do giữa ASEAN với các nước đối tác và tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam tham gia TPP khẳng định nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bởi đây là một Hiệp định có mức độ cam kết mở cửa thị trường cao hơn cam kết trong WTO, các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã tham ra thực thi và ký kết trước đây. TPP cùng với FTA - EU được gọi là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang tính toàn diện và cân bằng lợi ích: Với những nội dung cam kết mở cửa thị trường sâu rộng, không chỉ về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ cao, mà còn những cam kết về thể chế kinh tế thị trường, những vấn đề liên quan đến thương mại như môi trường và lao động, nhằm tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh trạnh công bằng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ ra, những cơ hội và thách thức khi Việt Nam tham gia TPP cùng FTA với EU: “Các hiệp định này sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu với các nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong đó EU gồm 28 thành viên với trên 18 nghìn tỷ USD và TPP hiện có 12 thành viên với GDP trên 20 nghìn tỷ USD. Đây là những khu vực có công nghệ nguồn, thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư lớn nhất của Việt Nam liên tục trong nhiều năm qua. Nếu tính đến tác động cộng hưởng của các hiệp định này với các FTA đã ký hoặc đang đàm phán, cơ hội còn lớn hơn nhiều vì nước ta sẽ có quan hệ thương mại tự do với 55 quốc gia, trong đó có 15 nước thuộc nhóm G20. Xuất khẩu và đầu tư có vai trò quyết định cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống dân cư, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người và tiêu dùng nội địa của nước ta còn thấp. Tăng tỷ trọng xuất nhập khẩu với các thị trường này cũng làm cho quan hệ thương mại với các nước cân bằng hơn. Những cam kết trong các hiệp định là những khung khổ, chuẩn mực để góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại và thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tham gia các hiệp định này còn là một bước tiến mới trong thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhất là tại một khu vực đang diễn ra cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt. Cùng với những cơ hội thuận lợi, các hiệp định này cũng đặt ra những khó khăn thách thức không nhỏ. Đó là, cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường 271
- các nước tham gia hiệp định mà ngay tại thị trường trong nước trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia - đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh. Trước sức ép cạnh tranh, một số doanh nghiệp sau thời gian chuyển đổi, tái cơ cấu nếu không vươn lên được có thể phải giải thể hoặc phá sản, một bộ phận người lao động sẽ mất việc làm; khu vực nông nghiệp và nông dân dễ bị tổn thương; khoảng cách giàu nghèo sẽ bị doãng ra nếu chúng ta không thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng thành quả của tăng trưởng. Thách thức về thực thi cũng rất lớn, từ hoàn thiện hệ thống pháp luật đến đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cán bộ, công chức, chuyên gia kỹ thuật và pháp lý. Nội dung về lao động - công đoàn cũng đặt ra những thách thức và yêu cầu mới trong hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và cả hệ thống chính trị của nước ta”. Từ những nhận định tổng quan như vậy, có thể thấy cơ hội lớn nhất của Việt Nam khi tham gia TPP cùng FTA với EU là tạo động lực mới cho cải cách, đổi mới, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, tăng xuất khẩu và tổng sản phẩm trong nước. Tuy nhiên, những cơ hội này nếu không biết tận dụng sẽ biến thành những thách thức lớn cho chúng ta, nó làm cho sức ép cạnh tranh trên cả ba cấp độ ngày càng gia tăng, bởi hiện tại sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt sức cạnh tranh về môi trường và thể chế của Việt Nam đang ở mức thấp. Chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2015 - 2016 do WB công bố Việt Nam xếp thứ 56 và đứng thứ 7 trong 10 nước ASEAN. Trong đó cạnh tranh về thể chế còn thấp hơn, xếp thứ 92 trong số 140 nước được xếp hạng và đứng thứ 8 trong 10 nước ASEAN (thấp hơn các nước ASEAN-6 và thấp hơn cả Lào, và môi trường kinh doanh xếp thứ 78, tụt 6 bậc so với năm 2014. Hệ thống ngân hàng là cấu thành quan trọng của nền kinh tế, do vậy tất cả các yếu tố kể trên tác động tới hoạt động, năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Việc ‘mở cửa’, tiếp cận thị trường quốc tế, cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới, các biện pháp minh bạch và quản lý sẽ làm tăng tính cạnh tranh3 trong khu vực ngân hàng. Trong giai đoạn 2011 - 2015 hệ thống ngân hàng đã tiến hành tái cơ cấu mạnh 3 Ở đây cần phải hiểu cạnh tranh thể hiện tình trạng của thị trường chứ không phải các công ty hoạt động trong thị trường đó. Cạnh tranh đạt được khi các công ty cạnh tranh nhau về nguồn lực và khách hàng, khi mà không có những hạn chế hay ưu đãi, mang lại cho một số nhà cung cấp lợi thế cạnh hơn so với các nhà cung cấp khác. Một thị trường có mức độ cạnh tranh cao là một thị trường các thành viên tham gia thị trường có năng lực cạnh tranh trong một môi trường pháp lý bình đẳng. Trong khu vực ngân hàng, điều này hàm ý là các ngân hàng hoạt động trên thị trường đó là các ngân hàng có năng lực cạnh tranh với cơ sở pháp lý cho hoạt động ngân hàng, không có sự phân biệt đối xử giữa các ngân hàng. 272
- mẽ và đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên bước vào giai đoạn phát triển mới khi mà nền kinh tế đứng trước những cơ hội và đối mặt với những thách thức của việc tham gia TPP cùng FTA với EU, hay nói cách khác khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng, thì đòi hỏi hệ thống ngân hàng tiếp tục phải có những bước phát triển mang tính đột phá, mới có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong giai đoạn tiếp theo. Về cơ hội, hệ thống ngân hàng sẽ nhận được khi hội nhập sâu rộng, đó là: (i) khả năng mở rộng thị trường là rất lớn; (ii) có cơ hội sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao do những cam kết về tự do di chuyển lao động; (iii) khả năng khai thác nguồn vốn, hợp tác, học hỏi từ các định chế trong khu vực và; (iv) quan trọng hơn là các cơ hội trên tạo động lực cho sự phát triển hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, những áp lực, thách thức đối với hệ thống ngân hàng trong những năm tiếp theo cũng rất lớn nếu không tận dụng triệt để những cơ hội mang lại. Thách thức lớn nhất mà ngành ngân hàng, với tư cách là một ngành dịch vụ của nền kinh tế phải đối mặt cũng chính là năng lực cạnh tranh của hệ thống trên các phương diện về quy mô (vốn và thị trường), năng lực quản trị, chất lượng và các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng, khả năng sinh lời (hệ số ROA, ROE), ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại. Các tiêu chí này của ngân hàng Việt Nam hiện nay còn ở mức độ thấp, có khoảng cách tương đối với hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực. Trong báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu của WB, qua 8 tiêu chí đánh giá về sự phát triển thị trường tài chính Việt Nam, nhất là các tiêu chí đánh giá hệ thống ngân hàng cho thấy những thách thức tiếp theo của ngành ngân hàng là rất lớn, cụ thể: tiêu chí tính sẵn có của dịch vụ tài chính đứng thứ 103/140; mức độ lành mạnh của hệ thống ngân hàng đứng thứ 124/140; mức phí hợp lý của dịch vụ tài chính đứng thứ 115/140, dễ dàng tiếp cận các khoản vay đứng thức 88/140 Như vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao tính lành mạnh, an toàn và hiệu quả trong hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ là vấn đề trọng tâm cần hướng tới trong những năm tiếp theo. Lành mạnh, an toàn và hiệu quả là điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng chưa đủ mà đòi hỏi trong hệ thống phải hình thành được những định chế tài chính có tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa trên thị trường tài chính khu vực và thế giới về quy mô, tính đa dạng và chất lượng sản phẩm dịch vụ. Với thực tế hoạt động ngân hàng hiện nay, để nâng cao tính lành mạnh và an toàn hệ thống, tạo sức lan tỏa cần thiết phải có môi trường kinh doanh tốt cho các TCTD và bản thân các tổ chức tín dụng phải có nội lực tốt. 273
- 3. Yêu cầu đối với một môi trường kinh doanh tốt - Thiết lập, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng tài chính cần thiết, bao gồm: (i) khung khổ pháp lý đảm bảo cho các TCTD hoạt động thông suốt và an toàn, theo đó các vướng mắc về pháp lý trong hoạt động ngân hàng hiện nay cần được tháo gỡ kịp thời, nhất là các văn bản liên quan đến các loại hình hoạt động tín dụng, vần đề giải chấp tài sản đảm bảo, nhất là bất động sản, cần có quy định đảm bảo thực thi về quyền tài sản cho các TCTD, bảo vệ lợi ích chính đáng của người cho vay và đi vay; các chính sách an toàn cho hoạt động ngân hàng cần được xây dựng phù hợp với các loại hình hoạt động ngân hàng; (ii) hệ thống thông tin thị trường đầy đủ, kịp thời, đảm bảo tính minh bạch để hạn chế tối đa sự bất đối xứng về thông tin; (iii) hạ tầng công nghệ thanh toán, đảm bảo các giao dịch thanh toán được thông suốt và kịp thời; và (iv) thúc đẩy sự phát triển thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán), một khi thị trường tài chính kém phát triển có thể dẫn tới mất cân đối và bất hợp lý giữa các dòng vốn luân chuyển trên thị trường, gây nên những bất lợi cho hoạt động của các TCTD. - Các chính sách đảm bảo an toàn vĩ mô, đây là vấn đề rất quan trọng, bởi một khi kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao, nợ công cao, tỷ giá lãi suất biến động mạnh sẽ gây rủi ro rất lớn cho hoạt động ngân hàng. Thực tế cho thấy để các TCTD không đổ vỡ do tác động của môi trường vĩ mô, khủng hoảng xảy ra đòi hỏi phải có chính sách hỗ trợ kịp thời cho các TCTD từ phía các cơ quan quản lý để giảm thiểu tính bất ổn của hệ thống ngân hàng; và cuối cùng là phải tạo dựng được môi trường kinh doanh tốt cho doanh nghiệp - là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của các TCTD. Theo ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, cố vấn cao cấp của Chính phủ cho rằng do có môi trường kinh doanh tốt thì cần xây dựng thể chế tốt, vì thể chế là gốc, thể chế tạo nên khuôn khổ để xác lập môi trường kinh doanh. - Bộ máy thanh tra giám sát phải được nâng tầm, phải thiết lập cơ sở hạ tầng đủ mạnh để đảm bảo giám sát hiệu quả hệ thống. Hiện tại năng lực thanh tra, giám sát hệ thống tài chính của các cơ quan quản lý còn những hạn chế, bất cập, các chuẩn mực an toàn và phương pháp quản trị rủi ro còn có những khoảng cách nhất định so với các nước trên thế giới, như chưa áp dụng được chuẩn an toàn và quản trị rủi ro theo quy định của Basel II, trong khi nhiều nước đã áp dụng theo chuẩn Basel III. Để có một nội lực tốt cần phải: - Xét giác độ hệ thống, cần xây dựng hệ thống các TCTD với những cấu trúc hợp lý. Một cấu trúc hợp lý là một cấu trúc trong đó các TCTD có thể thâm nhập vào các 274
- phân khúc thị trường trong nước và quốc tế, đảm bảo nâng cao được năng lực cạnh tranh của hệ thống nhưng hạn chế cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD trong hệ thống, theo đó cần xây dựng cấu trúc tổng thể về mạng lưới, loại hình sở hữu và quy mô vốn, tài sản sao cho đáp ứng được yêu cầu trên. Việc phân bổ mạng lưới vào những địa bàn khó khăn cần thực hiện bằng các chính sách khuyến khích lợi ích kinh tế và điều kiện hoạt động thuận lợi. Trong cấu trúc qui mô cần thiết phải hình thành một số NHTM hoạt động theo mô hình tập đoàn tài chính có quy mô vốn lớn, đi liền với quy mô lớn là năng lực quản trị, quản trị rủi ro phải đạt chuẩn quốc tế. Tính đến 31/3/2106, vốn điều lệ toàn hệ thống đạt 462,299 tỷ đồng, ngân hàng thương mại Việt Nam có quy mô vốn điều lệ lớn nhất chỉ khoảng 37000 tỷ đồng tương đương 1,6 tỷ USD, đây là mức vốn điều lệ thấp so với các NHTM trong khu vực. Vì vậy cần có chính sách để nâng cao năng lực tài chính cho những ngân hàng có năng lực quản trị tốt, đạt mức vốn điều lệ cao hơn như là trụ cột lan tỏa năng lực cạnh tranh của hệ thống, ít nhất trong hệ thống đến năm 2020 phải có 2 đến 4 ngân hàng đứng trong top 100 ngân hàng lớn trong khu vực châu Á. Bảng 1. Số lượng ngân hàng các nước trong top 500 ngân hàng lớn nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương Số ngân Số ngân Số ngân hàng Vị trí cao Vị trí hàng hàng Nước trong top 500 nhất thấp nhất trong top trong top 100 200 Indonesia 10 99 339 1 4 Malaysia 10 39 263 3 7 Myanmar 2 343 479 0 0 Philipines 10 173 405 0 3 Singapore 4 26 188 3 4 Thailand 10 73 368 4 6 Vietnam 10 196 401 0 1 Nguồn: theasianbanker.com; 2015/asia-pacific-largest-banks 275
- - Bản thân các định chế tài chính phải tự củng cố, nâng cao năng lực quản trị, năng lực tài chính để đạt chuẩn QAB. Khi mà tự do hóa việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ qua biên giới, để đứng vững trong cạnh tranh buộc các NHTM phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, nâng cao thương hiệu, tăng năng suất lao động, củng cố văn hóa doanh nghiệp để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, giữ vững và mở rộng thị phần trong nước và nước ngoài Chính vì vậy, để đạt được các điều đó thiết nghĩ: 1. Đối với NHNN vấn đề đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện, đổi mới quản trị ngân hàng TW: (i) Điều chỉnh hệ thống tổ chức quản lý, hướng tới bộ máy của NHNN tinh gọn và hiệu lực, vận hành thông suốt, theo đó cần tiếp tục rà soát lại chức năng nhiêm vụ của các vụ, cục các chi nhánh ngân hàng nhà nước, kiên quyết loại bỏ những bộ phận không cần thiết cho công tác quản lý; (ii) Đổi mới phương thức điều hành, phát huy tính sáng tạo, tính tự chịu trách nhiệm của từng bộ phận trong bộ máy quản lý của NHNN; (iii) Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý, đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời trong việc sử dụng các công cụ quản lý, nhất là các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, các công cụ thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Trong giai đoạn tới, hoạt động tài chính tiền tệ ngày càng phức tạp hơn, đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ hơn để hạn chế rủi ro đạo đức, đầu cơ, rửa tiền gây những bất ổn thị trường, theo đó cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, nhất là chính sách an toàn hoạt động ngân hàng, khẩn trương áp dụng chuẩn mực quốc tế trong thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, trong quản trị rủi ro, nâng cao năng lực giám sát của cơ quan quản lý ; (iv) Nâng cao năng lực cán bộ hoạch định chính sách, cải cách thủ tục hành chính. Xây dựng chính sách hướng tới lợi ích của các TCTD, và đảm bảo an toàn hoạt động như đã đề cập trên. 2. Các TCTD cần tiếp tục nỗ lực tạo sức sống nội tại mạnh mẽ hơn, nợ xấu phải nhanh chóng xử lý dứt điểm. Mặc dù trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã quyết liệt xử lý nợ xấu, song về thực chất khối nợ xấu đó chưa được xử lý dứt điểm. VAMC đã đạt được những kết quả bước đầu trong việc mua nợ xấu từ các TCTD. Song việc mua - bán nợ xấu theo cơ 276
- chế thị trường vẫn chưa có điều kiện thực hiện, chúng ta chưa hình thành được thị trường mua - bán nợ xấu, việc xử lý tài sản bảo đảm, nhất là bất động sản còn nhiều ách tắc. Do vậy, cần thiết phải có những biện pháp hữu hiệu hơn, nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đủ mạnh trao, quyền nhiều hơn cho VAMC, tăng nguồn lực tài chính phù hợp, để VAMC nhanh chóng giải quyết các khoản nợ xấu đã mua, nếu không VAMC chẳng khác gì một kho lưu trữ nợ xấu. Đồng thời, cần tạo dựng một khung pháp lý để thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua - bán nợ ở Việt Nam. Có xử lý dứt điểm nợ xấu mới tạo được nền tảng bền vững để các TCTD nâng cao năng lực tài chính. Bên cạnh đó, các TCTD cần phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức, mô hình quản trị điều hành cho phù hợp với một tập đoàn tài chính cấp khu vực; không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, quản trị điều hành, rủi ro và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đem lại tiện ích, dịch vụ hài lòng nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế; 3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một yêu cầu tối quan trọng, không thể buông lơi trong quá trình thực hiện mục tiêu chiến lược, bởi vì có đội ngũ cán bộ đủ tài, đủ đức mới có thể nắm bắt và sẵn sàng tiếp cận được công nghệ ngân hàng tiên tiến, hiện đại, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong việc đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả. 4. Để tạo dựng một môi trường kinh doanh tốt như trên đã đề cập, các cơ quan quản lý khác cùng với NHNN cần ban hành các chính sách quản lý đồng bộ, xây dựng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, các TCTD hoạt động kinh doanh thuận lợi phù hợp giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập kinh tế sâu rộng. Trên thực tế nhiều NHTM sau tái cơ cấu, sát nhập, hợp nhất năng lực tài chính đã được cải thiện, quy mô tài sản được nâng lên, kỹ năng quản trị đã được củng cố và chuyên nghiệp hơn. Với sức mạnh và tiềm năng hiện tại, được biết một số ngân hàng tuy chưa chính thức xây dựng kế hoạch phát triển đến năm 2020 và tầm nhìn chiến lược đến năm 2030, nhưng đã đưa ra những giải pháp chiến lược nhằm thực hiện định hướng phát triển đến năm 2030 là một định chế tài chính có quy mô hoạt động như tập đoàn tài chính lớn với hoạt động ngân hàng là trụ cột, hoạt động không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà mở rộng phạm vi hoạt động khu vực và quốc tế để trở 277
- thành những ngân hàng có quy mô, tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực và quốc tế. Một trong những yếu tố quan trọng để các NHTM đạt được định hướng chiến lược này là rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước, các cơ quan quản lý, không chỉ hỗ trợ về mặt tài chính (đối với các NHTM nhà nước giữ cổ phần chi phối), mà quan trọng hơn là phải tạo được môi trường pháp lý thuận lợi, không có bất cứ rào cản và các biện pháp quản lý hướng tới cơ chế thị trường, quản lý gián tiếp bằng các biện pháp kinh tế, hơn là biện pháp hành chính. Ví dụ, từ kinh nghiệm của các nước cho thấy, khi các NHTM muốn vươn ra nước ngoài hoạt động có hiệu quả, thì rất cần có sự đồng hành của các dự án đầu tư ra nước ngoài của Chính phủ và các doanh nghiệp, theo đó rất cần có các chính sách, chiến lược ngoại giao thích hợp của nhà nước để hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể mở rộng đầu tư ra nước ngoài và triển khai có hiệu quả dự án đầu tư ra nước ngoài. Thêm nữa, các cơ quản quản lý cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian phê duyệt đối với các dự án đổi mới công nghệ ngân hàng, vì đây là một trong những nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Tài liệu Tham khảo 1. Sách Hệ thống tài chính Việt Nam hội nhập và phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015. 2. Bài viết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội và thách thức - Hành động của chúng ta, của thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, đăng trên trang thông tinđiện tử Chính phủ. 3. Bài viết Cải cách thể chế là quyết định, của ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, cố vấn cao cấp của Chính phủ trong đàm phán TPP, đăng trên trang thông tin điện tử Chính phủ. 4. Website của NHNN, Website của Tổng cục Thống kê. 278