Chính sách tỷ giá tại Việt Nam: Diễn biến điều chỉnh chính sách và một số giải pháp trong thời gian tới

pdf 22 trang Gia Huy 24/05/2022 1810
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chính sách tỷ giá tại Việt Nam: Diễn biến điều chỉnh chính sách và một số giải pháp trong thời gian tới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfchinh_sach_ty_gia_tai_viet_nam_dien_bien_dieu_chinh_chinh_sa.pdf

Nội dung text: Chính sách tỷ giá tại Việt Nam: Diễn biến điều chỉnh chính sách và một số giải pháp trong thời gian tới

  1. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM: DIỄN BIẾN ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI TS. Hoàng Văn Cương1 Phạm Phú Minh2 Văn Thiên Hào3 Tóm tắt Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được hình thành và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã chính thức được ký kết có thể coi là hai cột mốc đánh dấu quan trọng cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới đây. Với làn sóng hội nhập lần thứ hai này, Việt Nam kỳ vọng sẽ tiếp cận thị trường nước ngoài và các nguồn lực quan trọng cần thiết để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt khi tham gia “sân chơi kinh tế toàn cầu này” cũng tăng lên. Một trong những thách thức có thể kể tới là sự gia tăng áp lực lên biến động tỷ giá do các luồng thương mại và đầu tư vào Việt Nam. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất, nhập khẩu và sự cân bằng trong cán cân thanh toán của Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế, yêu cầu đặt ra hiện nay đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam là cần thay đổi cách thức điều hành tỷ giá hướng tới sự linh hoạt để tỷ giá có vai trò lớn hơn trong việc xác lập cân bằng thị trường ngoại hối và cán cân thanh toán, tạo ra sự chủ động trong việc ứng phó kịp thời với những biến động bất lợi của thị trường có thể ảnh hưởng tới tỷ giá. Bài viết này tập trung làm rõ tình hình thực hiện chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015, áp lực từ bối cảnh mới tác động đến việc thực hiện điều chỉnh chính sách tỷ giá hiện nay và một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của chính sách điều chỉnh tỷ giá trong thời gian tới. Từ khóa: Chính sách tỷ giá, biên độ dao động, cố định, linh hoạt. 1. Chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 Giai đoạn 2011 - 2015 là một giai đoạn có nhiều biến động và khó khăn cho Chính phủ và NHNN Việt Nam trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Ảnh hưởng 1 Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Email: CuongHgV@yahoo.com 2 Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3 Nghiên cứu sinh Khoa Kinh tế, Đại học Tổng hợp Hữu nghị các Dân tộc Nga, Liên bang Nga. 124
  2. cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 và hệ lụy của nó kéo dài trong những năm sau đó đã gây tác động tiêu cực đến tình hình phát triển kinh tế trong nước với biểu hiện rõ nét nhất là sự phá sản của nhiều doanh nghiệp trong nước, nhiều thị trường tài chính đóng băng như thị trường chứng khoán, bất động sản và dòng vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Điều này đã gây áp lực rất lớn lên mức độ gia tăng của lạm phát và tỷ giá, làm cho lạm phát trong giai đoạn từ 2007 đến 2011 luôn duy trì ở mức 2 con số. Trước tình hình bất ổn của kinh tế vĩ mô trong nước, Chính phủ và NHNN xác định rằng mục tiêu quan trọng trong điều hành tỷ giá là phải “Tạo lập và lấy lại niềm tin của thị trường bằng một tỷ giá hối đoái phải ổn định”. Để kiên định với mục tiêu này, NHNN đã lựa chọn điều chỉnh chính sách tỷ giá theo cơ chế duy trì cố định với biên độ mục tiêu định sẵn. Điều này có ý nghĩa rất to lớn trong việc tạo lập niềm tin thị trường, giúp các doanh nghiệp và người dân biết chắc chắn về biên độ dao động của tỷ giá, từ đó xây dựng một kế hoạch tài chính, thương mại với rủi ro tỷ giá được giảm bớt. Để duy trì được cơ chế điều hành tỷ giá này, Chính phủ và NHNN đã thực hiện một số biện pháp như: Thứ nhất, chủ động và linh hoạt trong ổn định tỷ giá. Để ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, NHNN đã thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng chủ động, linh hoạt, thực hiện các biện pháp mua và bán ngoại tệ, can thiệp thị trường khi cần thiết, kết hợp giữa điều hành tỷ giá với các công cụ chính sách tiền tệ để giảm áp lực lên tỷ giá và thị trường ngoại tệ, duy trì chênh lệch giữa lãi suất VND và USD để đảm bảo việc nắm giữ tiền đồng có lợi hơn so với USD, khuyến khích doanh nghiệp và người dân chuyển từ giữ USD sang VND, phát hành tín phiếu NHNN trên thị trường mở để hút tiền về, hạn chế áp lực đầu cơ tỷ giá. Tiếp theo đó, NHNN tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành trong việc quản lý thị trường, kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm về quản lý ngoại hối; triển khai các giải pháp đổi mới, sắp xếp căn bản thị trường vàng, hạn chế tác động của biến động giá vàng lên tỷ giá; kịp thời thông tin, tuyên truyền dưới nhiều hình thức để định hướng, ổn định thị trường. Thực hiện Nghị quyết số 02/2011/NQ-CP4, NHNN đã ban hành Quyết định số 230/2011/QĐ-NHNN5 nhằm điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 20.693 VND, tăng 9,3% so với mức 18.932 VND trước đó, đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch từ ± 3% 4 Nghị quyết số 02/2011/NQ-CP ngày 09/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. 5 Quyết định số 230/QĐ-NHNN ngày 11/2/2011 của Ngân hàng Nhà nước về quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của tổ chức tín dụng được phép giao dịch hối đoái. 125
  3. xuống ± 1%. NHNN cũng ban hành Thông tư số 07/2011/TT-NHNN6 để thu hẹp đối tượng cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng vay là người cư trú. Tiếp đó, NHNN ban hành hàng loạt văn bản quy định giảm trần lãi suất huy động USD từ 6%/năm xuống 2%/năm, điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ đối với các TCTD thêm 2% lên 6%, mở rộng đối tượng doanh nghiệp nhà nước thực hiện bán ngoại tệ cho các TCTD, chuyển dần quan hệ huy động - cho vay ngoại tệ trong nước của TCTD sang quan hệ mua bán ngoại tệ, xử lý các giao dịch ngoại tệ bất hợp pháp trên thị trường tự do. Với những biện pháp quyết liệt trên, thị trường ngoại tệ đã ổn định dần, căng thẳng tỷ giá được đẩy lùi. Cuối năm 2011, tỷ giá chính thức chỉ tăng 10,01% so với cùng kỳ năm trước và đứng ở mức 20.828 VND, tỷ giá niêm yết tại các NHTM tương đối ổn định và nằm trong biên độ cho phép, trạng thái ngoại hối của các NHTM được cải thiện; tỷ lệ nhập siêu giảm mạnh và chỉ bằng 10,4% giá trị xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với con số 18% đề ra, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư khoảng 3,1 tỷ USD, so với mức thâm hụt 3,07 tỷ USD vào năm 2010. Hình 1. Diễn biến tỷ giá bình quân liên ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015 (Đơn vị: USD/VND) Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp Thứ hai, hạn chế hiệu quả tình trạng đô la hóa trong kinh tế. Từ tháng 8/2011, NHNN đã đặt mục tiêu kiểm soát tỷ giá trong những tháng cuối năm tăng không quá 1% và tiếp tục đặt mục tiêu ổn định tỷ giá trong biên độ tăng không quá 2 - 3%/năm trong năm 2012, kết hợp đồng bộ các giải pháp điều hành tỷ giá 6 Thông tư số 07/2011/TT-NHNN ngày 24/3/2011 của Ngân hàng Nhà nước quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú. 126
  4. với chính sách lãi suất để hài hòa giữa thị trường ngoại hối và thị trường nội tệ. Đồng thời, kiên quyết xử phạt những vi phạm trong hoạt động ngoại hối theo Nghị định số 95/2011/NĐ-CP7 của Chính phủ. Để phù hợp với chủ trương của Chính phủ về hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế và kiểm soát tăng trưởng tín dụng ngoại tệ ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường ngoại hối, kể từ năm 2011, mức lãi suất trần huy động USD của các TCTD được quy định ở mức thấp hơn so với mức lãi suất trần huy động VND, với mục tiêu khuyến khích người dân giảm dần thói quen nắm giữ ngoại tệ, thay vào đó là bán ngoại tệ để đổi lấy nội tệ gửi vào ngân hàng. Với sự kiên định của NHNN trong việc duy trì mức chênh lệch cao giữa lãi suất huy động đồng VND và USD, cùng với điều kiện nền kinh tế vĩ mô có sự khởi sắc và đi dần vào ổn định8, tâm lý nắm giữ ngoại tệ và chờ đợi phá giá mạnh của công chúng giảm xuống, tạo điều kiện giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN cũng ban hành các quy định chặt chẽ hơn về mua bán ngoại tệ và trạng thái ngoại tệ của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể, NHNN đã ban hành Thông tư số 20/2011/TT-NHNN9 nhằm quy định chặt chẽ hơn về nhu cầu được phép mua ngoại tệ và hạn mức mua ngoại tệ. Hình 2. Trần lãi suất huy động VND và USD đối với khu vực dân cư theo quy định của NHNN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 Nguồn: Số liệu của NHNN Việt Nam và Nhóm tác giả tổng hợp 7 Nghị định số 95/2011/NĐ-CP 20/10/2011 của Chính phủ nhằm sửa đổi Nghị định 202/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. 8 Trong giai đoạn 2011 - 2015, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam có xu hướng giảm dần, đạt 0,63% vào năm 2015, giảm 17,5% so với năm 2011. Xem chi tiết tại “Một số đánh giá về chính sách chống lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015”, ngày 18/3/2016. Truy cập tại: chinh-sach-chong-lam-phat-cua-viet-nam-giai-doan-2011-2015.html, ngày 17/5/2016. 9 Thông tư số 20/2011/TT-NHNN ngày 29/8/2011 của Ngân hàng Nhà nước về quy định việc mua, bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân với tổ chức tín dụng được phép. 127
  5. Năm 2012, NHNN tiếp tục ban hành thêm các quy định nhằm hạn chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế như Thông tư số 03/2012/TT-NHNN10 thu hẹp các trường hợp được vay vốn bằng ngoại tệ. Theo đó, khách hàng chỉ được vay ngoại tệ nếu có đủ nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh để trả nợ vay, những trường hợp khác phải có sự chấp thuận bằng văn bản của NHNN; Thông tư số 07/2012/TT-NHNN quy định về trạng thái ngoại tệ của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm giảm trạng thái ngoại tệ từ mức ± 30% xuống mức ± 20% vốn tự có, từ đó phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho các TCTD và toàn hệ thống TCTD trong bối cảnh quy mô vốn tự có của các TCTD tăng nhanh trong khi thị trường ngoại hối diễn biến phức tạp, khả năng quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối chưa tăng theo kịp so với quy mô gia tăng của vốn tự có. Nhờ đó, cuối năm 2012, giá USD mua vào tại các NHTM giảm trung bình 1% so với cuối năm 2011, chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp. Các tổ chức kinh tế và cá nhân đẩy mạnh bán ngoại tệ cho các NHTM, tạo điều kiện để NHNN mua một lượng lớn ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Năm 2013, NHNN đề ra mục tiêu duy trì tỷ giá trong biên độ không quá 2 - 3% nhằm kiểm soát kỳ vọng về sự mất giá của VND, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh. Để đạt mục tiêu đề ra, NHNN tiếp tục quản lý thị trường ngoại hối và điều hành tỷ giá chặt chẽ theo tín hiệu thị trường, phù hợp với các cân đối vĩ mô và cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Tuy nhiên, tại một số thời điểm trong năm 2013, áp lực tỷ giá tăng nhẹ theo diễn biến trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế, một số NHTM đã nâng giá USD lên kịch trần cho phép, thậm chí tăng giá mua bằng giá bán lên kịch trần 21.036 VND, giá bán USD trên thị trường tự do lên tới 21.320 VND. Do đó, để chấm dứt áp lực lên tỷ giá, ngày 27/6/2013 NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1,0% lên mức 21.036 VND/USD, sau 1,5 năm ổn định ở mức 20.828 VND, đồng thời tiếp tục khẳng định quyết tâm ổn định tỷ giá như định hướng đề ra từ đầu năm. Sau thời gian đó, nhu cầu USD tại các NHTM bắt đầu hạ nhiệt, gây tác động lan tỏa sang thị trường tự do. Trong những ngày cuối năm 2013, giá USD tại các NHTM ổn định quanh mức 21.140 VND. Trên thị trường tự do, giá USD phổ biến ở mức 21.180 - 21.200 VND. Nhờ chính sách ổn định tỷ giá và chủ động can thiệp trong trường hợp cần thiết, thị trường ngoại tệ năm 2013 giữ được sự ổn định, tỷ giá dao động trong biên độ cho phép, không có đột 10 Thông tư số 03/2012/TT-NHNN ngày 08/3/2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú. 128
  6. biến về nhu cầu ngoại tệ trên thị trường. Chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, tỷ lệ đô la hóa giảm xuống 13,2% từ mức 15,8% vào cuối năm 2011. Thị trường trong nước không còn chịu tác động của giá USD trên thị trường quốc tế, đây là yếu tố quan trọng trong việc duy trì và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư. Tỷ giá ổn định đã góp phần tích cực trong việc ổn định lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng dự trữ ngoại hối. Do tỷ giá ổn định, các tổ chức kinh tế và cá nhân có thiên hướng đẩy mạnh bán ngoại tệ cho các NHTM để lấy VND, dòng kiều hối chuyển về tăng mạnh. Lượng kiều hối về Việt Nam trong năm 2013 đạt khoảng 11 tỷ USD, đứng thứ 9 trong danh sách các nước nhận kiều hối hàng đầu thế giới. Thứ ba, ổn định tỷ giá, hỗ trợ thị trường. Nhờ những kết quả đạt được trong năm 2013, NHNN đã đề ra mục tiêu ổn định tỷ giá trong năm 2014 trong biên độ không quá ± 2%, kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất. Đồng thời, theo dõi chặt chẽ những diễn biến trên thị trường ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế, tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi USD và tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả, thông suốt. Trong bối cảnh tín dụng VND tăng chậm, NHNN đã nới lỏng đối tượng được vay ngoại tệ theo chủ trương của Chính phủ, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và khả năng cân đối ngoại tệ của NHTM. Với lãi suất thấp hơn 4 - 5%/năm so với vay vốn VND, các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn tín dụng giá rẻ, góp phần giảm chi phí trong việc tìm kiếm thị trường mới thay thế để giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Do tín dụng ngoại tệ tăng cao, giá mua bán USD được duy trì ở mức cao, cùng với tâm lý kỳ vọng về khả năng NHNN sẽ sớm điều chỉnh tăng tỷ giá sau những thông điệp của Thống đốc và định hướng chính sách tỷ giá trong năm 2014, NHNN đã quyết định nâng tỷ giá chính thức thêm 1% lên 21.246 VND/USD, có hiệu lực từ ngày 19/6/2014. Đây là lần điều chỉnh tỷ giá đầu tiên trong vòng một năm và là lần thứ 2 trong gần 3 năm 2011 - 2014. Quyết định điều chỉnh tỷ giá thêm 1% đã góp phần ổn định thị trường và hỗ trợ xuất khẩu trong những tháng cuối năm, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Sau khi điều chỉnh, NHNN tiếp tục thực hiện những biện pháp cần thiết để ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối trên mặt bằng giá mới. Năm 2015 là một năm đầy biến động và nhiều thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng trong bối cảnh đồng 129
  7. USD liên tục lên giá do kỳ vọng Fed điều chỉnh tăng lãi suất và Trung Quốc bất ngờ điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng Nhân dân tệ kéo theo làn sóng giảm giá mạnh của các đồng tiền của các đối tác thương mại chính của Việt Nam. Việc huy động trái phiếu chính phủ (TPCP) với lượng lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách không thành công đã đẩy lãi suất TPCP tăng cao, tạo áp lực kép lên thị trường tiền tệ: Dư thừa thanh khoản trong ngắn hạn trong khi lãi suất tăng cao trong dài hạn, qua đó gián tiếp cản trở mục tiêu tiếp tục giảm lãi suất cho vay và ổn định tỷ giá. Trước tình hình đó, NHNN đã rất chủ động, linh hoạt trong điều hành để đưa ra những giải pháp phù hợp với điều kiện, tình hình mới. Ngay sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc bất ngờ phá giá đồng Nhân dân tệ vào ngày 11/8 và ngày 12/8/2015, NHNN đã linh hoạt, kịp thời điều chỉnh biên độ tỷ giá giữa VND và USD tăng từ ± 1% lên ± 2%. Tiếp đó, để tiếp tục chủ động dẫn dắt thị trường, xóa bỏ tâm lý kỳ vọng, đón đầu các tác động bất lợi của khả năng Fed tăng lãi suất và biến động của thị trường tài chính thế giới, ngày 19/8, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND và USD thêm 1%, đồng thời mở rộng biên độ tỷ giá từ ± 2% lên ± 3%11. Tính chung trong năm 2015, NHNN thực hiện điều chỉnh tăng tỷ giá 3% và nới biên độ thêm 2% từ mức ± 1% lên ± 3%. Việc điều chỉnh cũng đã được truyền thông rất rõ ràng đến thị trường nhằm giải thích rõ lý do điều chỉnh là nhằm trung hòa, bảo vệ nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài. Hình 3. Số lần điều chỉnh tỷ giá trong năm 2015 của NHNN Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp Kết quả là thị trường đã đón nhận động thái này một cách hoan nghênh, các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế (IMF, WB), ngân hàng quốc tế (HSBC, ANZ, Standard 11 Theo Quyết định số 1636/2015/QĐ-NHNN ngày 18/8/2015 của Ngân hàng Nhà nước quy định về tỷ giá giao ngay giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép. 130
  8. Chartered, Citibank ) ủng hộ và đánh giá cao là phản ứng “chủ động”, “cần thiết”, “nhanh nhạy” và “kịp thời”. Tỷ giá và thị trường ngoại hối đã nhanh chóng đi vào ổn định, tâm lý thị trường được giải tỏa. Thêm vào đó, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã khiến đầu cơ, găm giữ đồng USD trở thành một thói quen trong nền kinh tế. Khi thị trường quốc tế biến động, tâm lý găm giữ tăng cao, các tổ chức kinh tế chưa có nhu cầu USD thực cũng đẩy mạnh mua ngoại tệ để phòng thủ, tạo ra vấn nạn cầu ảo đối với đồng USD, gây áp lực lên tỷ giá. Để giải quyết vấn đề này, NHNN đã có những bước đi và giải pháp được đánh giá là sáng tạo nhằm hạn chế hoạt động đầu cơ đồng USD trên thị trường. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc giảm lãi suất đối với đồng USD, qua đó tăng tính hấp dẫn của VND, điều chỉnh lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng ở mức phù hợp nhằm hạn chế các ngân hàng đầu cơ ngoại tệ và ban hành Thông tư số 15/2015/TT-NHNN quy định các TCTD chỉ được bán kỳ hạn cho các nhu cầu ngoại tệ trước ngày thanh toán từ 3 ngày trở lên nhằm xóa bỏ tình trạng cầu ảo do các doanh nghiệp mua ngoại tệ trước hạn. Kết quả là thị trường ngoại tệ ổn định, tỷ giá trên thị trường giảm xuống dưới mức tỷ giá bán của NHNN và phản ánh sát hơn cung - cầu thực của nền kinh tế. Các TCTD đã tự cân đối được ngoại tệ và gần đây không phải xin mua ngoại tệ từ NHNN. Với việc điều hành tỷ giá mang tính chủ động và linh hoạt hơn, tỷ giá và thị trường ngoại tệ trong giai đoạn này đã ổn định hơn so với giai đoạn trước, tỷ giá giao dịch của các NHTM diễn biến linh hoạt trong biên độ cho phép. Thanh khoản ngoại tệ toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam được cải thiện, lòng tin vào giá trị của đồng Việt Nam được củng cố, tình trạng đô la hóa giảm mạnh, các TCTD có xu hướng mua ròng ngoại tệ từ khách hàng và bán lại cho NHNN, cán cân thanh toán cải thiện dần và đang thặng dư ở mức cao. NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của chính sách tỷ giá này chính là khi nền kinh tế thế giới có rất nhiều biến động thì NHNN khó có thể ứng phó và đáp trả kịp thời để không có những biến động lớn trong thị trường nội địa. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng cố định trong 1 thời gian tương đối dài (khoảng vài tháng) sẽ tạo ra sự bị động, khó ứng phó kịp. Điều này có thể thấy rõ qua sự kiện NHNN phải điều chỉnh 3 lần tỷ giá trong năm 2015 trước sự kiện Fed điều chỉnh lãi suất và Nhân dân tệ phá giá để vào rổ tiền tệ thế giới (SDRs). Cùng với đó, thị trường luôn xuất hiện tâm lý kỳ vọng tỷ giá sẽ còn tăng tiếp và đẩy giá USD lên kịch trần biên độ cho phép. 131
  9. 2. Bối cảnh và thực tiễn điều chỉnh chính sách tỷ giá hiện nay 2.1. Bối cảnh điều chỉnh chính sách tỷ giá Khác với chính sách điều hành tỷ giá của giai đoạn 5 năm trước đó (với mục tiêu kiên định là “neo” chặt tỷ giá, thắt chặt tiền tệ, kéo lạm phát xuống, tạo dựng lại lòng tin thị trường, ổn định giá trị tiền đồng) thì ngay từ đầu năm 2016, NHNN Việt Nam đã ban hành chính sách tỷ giá theo cơ chế mới12. Theo đó, tỷ giá trung tâm giữa VND và USD, tỷ giá chéo giữa VND và một số ngoại tệ sẽ biến động theo ngày. Việc áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá này được xem là cần thiết trong bối cảnh phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn phát triển tiếp theo bởi các lý do: Thứ nhất, chính sách tỷ giá mới ban hành, áp dụng này là phù hợp với bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam. Rõ ràng, Việt Nam đã và sẽ đẩy mạnh việc hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu thông qua hàng loạt các hiệp định thương mại FTA, cũng như AEC, TPP Do đó, yêu cầu về một cơ chế tỷ giá mới là cần thiết trong bối cảnh này bởi sau khi hội nhập Việt Nam cần một cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt để đảm bảo cạnh tranh. Nếu Việt Nam tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá cố định, có thể làm cho giá trị tiền đồng quá cao dẫn đến mất khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, khó có khả năng điều hành chính sách tiền tệ một cách tự chủ hơn, kiểm soát cung tiền tốt hơn bởi vì các luồng vốn đầu tư ra và vào. Thứ hai, chính sách tỷ giá mới này nhằm đối phó hiệu quả hơn với các biến động khó lường của thị trường tài chính toàn cầu. Trước những dự báo về sự biến động mạnh mẽ của thị trường tài chính - tiền tệ thế giới có thể ảnh hưởng tới thị trường trong nước trong năm 2016 như: khả năng Fed còn 4 lần tăng lãi suất để thực hiện lộ trình bình thường hóa (tăng) lãi suất trong giai đoạn 2016 - 2018, đồng Nhân dân tệ (CNY) vào giỏ tiền tệ quốc tế, nếu tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá trong một khoảng biến động sẽ làm cho nền kinh tế trong nước gặp nhiều rủi ro hơn. Do đó, chính sách điều hành tỷ giá cần được điều hòa hơn, trong đó phải hướng tới sự điều chỉnh linh hoạt, cho phép tỷ giá đóng vai trò lớn hơn trong việc xác lập cân bằng trên thị trường ngoại hối và cán cân thanh toán, hạn chế việc gây xáo trộn trong kỳ vọng của thị trường. Đặc biệt, một cơ chế tỷ giá linh 12 Được ban hành theo Quyết định số 2730/2015/QĐ-NHNN ngày 31/12/2015 của Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam với Đô la Mỹ, tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ khác. 132
  10. hoạt, thường xuyên thay đổi theo kỳ vọng của thị trường sẽ giúp triệt tiêu tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, hạn chế được nguy cơ nắm giữ ngoại tệ để đầu cơ. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh chính sách tỷ giá này kỳ vọng hạn chế được rủi ro xung đột về chính sách, giúp NHNN có thể độc lập thực thi chính sách tiền tệ, nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng liên quan đến tăng trưởng và kiểm soát lạm phát trong trung và dài hạn. Thứ ba, chính sách tỷ giá mới với kỳ vọng sẽ thúc đẩy kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng có xu hướng tăng, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, tạo điều kiện cho Việt Nam có thể lựa chọn việc mở cửa tài chính mạnh mẽ hơn. Chính sách tỷ giá với nhiệm vụ tạo lập lòng tin của công chúng đối với thị trường đã được hoàn thành xong, do đó, trong bối cảnh phát triển mới này - bối cảnh của hội nhập và tăng trưởng - Việt Nam cần phải lựa chọn một cơ chế tỷ giá hối đoái mới đáp ứng các yêu cầu tăng trưởng, có đủ điều kiện để có thể ứng phó hiệu quả với những biến động từ bên ngoài. Thứ tư, việc thực hiện chính sách tỷ giá mới này do dự trữ ngoại hối của NHNN trong 5 năm gần đây vẫn rất “mỏng” và chi phí tài chính để cải thiện dự trữ ngoại hối quá lớn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát, xử lý nợ xấu và hút tiền trong lưu thông nhằm trung hòa lượng tiền mua USD từ các ngân hàng thương mại, NHNN đã phát hành hơn 2.067 nghìn tỷ đồng tín phiếu NHNN với tổng tiền lãi phải trả cho số tín phiếu phát hành nêu trên lên tới hơn 17.300 tỷ đồng. Điều này dẫn tới cán cân thanh toán tổng thể của nền kinh tế chuyển từ trạng thái thặng dư 7.919 triệu USD tại thời điểm quý I/2014 sang trạng thái thâm hụt -6.594 triệu USD tại thời điểm quý III/2015. Chính cam kết không phá giá thêm đồng nội tệ từ sau đợt điều chỉnh vào tháng 8/2015 khiến NHNN phải chịu tổn thất đối với tài khoản dự trữ ngoại hối và đưa cân đối vĩ mô là dự trữ ngoại hối về lại tình trạng bấp bênh. 2.2. Thực tiễn điều chỉnh chính sách tỷ giá Thứ nhất, chính sách tỷ giá mới của NHNN được điều chỉnh liên tục theo ngày, có khả năng phản ứng ngay lập tức với diễn biến trong nước và quốc tế nên sẽ phản ánh chính xác và kịp thời hơn những biến động của thị trường. Nếu như trước đây, tỷ giá bình quân liên ngân hàng có thể được duy trì trong khoảng thời gian một hoặc vài tháng tùy vào mức độ tích tụ của thị trường và trên cơ sở diễn biến tích tụ của thị trường trong khoảng thời gian đủ dài mới được NHNN xem 133
  11. xét điều chỉnh, thì hiện nay, NHNN có thể điều chỉnh hằng ngày. Cụ thể, tỷ giá trung tâm của VND và USD sẽ được công bố hằng ngày, là cơ sở tham chiếu cho các thành viên trên thị trường giao dịch, là cơ sở để các ngân hàng xác định tỷ giá mua, tỷ giá bán của VND với USD. Tỷ giá trung tâm là tỷ giá chính thức cuối ngày hôm trước vào giờ chốt giao dịch cộng với một biên độ để làm tỷ giá giao dịch của ngày hôm sau. Đặc biệt, khi NHNN công bố tỷ giá trung tâm hằng ngày, các NHTM vẫn được quyết định tỷ giá giao dịch với khách hàng trong biên độ ± 3%. Thứ hai, mức tỷ giá trung tâm này được tính toán một cách toàn diện, đảm bảo phản ánh đầy đủ các yếu tố biến động của thị trường có thể gây ảnh hưởng lớn tới thay đổi của tỷ giá. Tỷ giá này được NHNN công bố hằng ngày vào trước phiên giao dịch dựa trên cơ sở tham chiếu 3 yếu tố sau theo thứ tự mức độ quan trọng giảm dần: (1) Diễn biến tỷ giá trên thị trường quốc tế của một số đồng ngoại tệ, (2) Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền của phiên liền trước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và (3) Các cân đối kinh tế vĩ mô (ở đây liên quan đến các vấn đề cả kinh tế trong nước lẫn quốc tế, gồm đầu tư, thanh toán, thương mại). Khác với Trung Quốc là sử dụng tỷ giá cuối ngày để tính toán, NHNN lựa chọn tỷ giá bình quân gia quyền nhằm loại bỏ yếu tố đầu cơ, làm giá trên thị trường ngoại hối. Ngoài ra, NHNN cũng không sử dụng thuần túy yếu tố diễn biến thị trường quốc tế để xác định tỷ giá trung tâm như một số quốc gia khác (ví dụ như Kuwait, Singapore) bởi không phản ánh được quan hệ cung cầu trong nước. Do đó, cơ chế xác định tỷ giá mới của NHNN lựa trên cả diễn biến quốc tế lẫn nội địa, đặc biệt, biến động trong nước có tính đến bình quân gia quyền, dựa trên biến động giá trong cả phiên và khối lượng giao dịch thành công, nhằm đảm bảo tính xác thực và hợp lý hơn. Hơn nữa, giỏ tiền tệ được NHNN xác định tỷ giá trung tâm gồm đồng tiền của 8 quốc gia có quan hệ thương mại lớn với Việt Nam là USD (Hoa Kỳ), Euro (châu Âu), NDT (Trung Quốc), Yên (Nhật Bản), Dollar Singapore, Won (Hàn Quốc), Dollar Taiwan và Bath (Thái Lan). Cách thức điều hành tỷ giá mới cho không những cho phép tỷ giá biến động linh hoạt hằng ngày theo diễn biến cung cầu ngoại tệ trong nước, biến động trên thị trường thế giới mà còn bảo đảm vai trò quản lý của NHNN theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Thứ ba, bên cạnh biện pháp xác định tính tỷ giá trung tâm mới, NHNN cũng bổ sung thêm cách thức giao dịch với NHTM theo hợp đồng phái sinh, thay cho hợp đồng giao ngay trước đó. 134
  12. Qua cách thức giao dịch kỳ hạn, NHNN tạo ra kỳ vọng điều chỉnh tỷ giá và quản lý kỳ vọng đó thông qua công cụ thị trường. Điều này làm phong phú thêm danh mục các công cụ điều hành, qua đó tăng cường hiệu lực, hiệu quả các biện pháp can thiệp nhằm định hướng tỷ giá thị trường theo mục tiêu điều hành, đảm bảo cung - cầu ngoại tệ, đồng thời sẽ là cú hích hỗ trợ sự phát triển của thị trường phái sinh ngoại tệ trong nước. Bước đi này cũng phù hợp với quy định trong pháp lệnh quản lý ngoại hối là thả nổi có quản lý. 3. Một số tác động của chính sách tỷ giá mới Kể từ khi áp dụng từ ngày 04/01/2016 đến nay, chính sách điều hành tỷ giá mới này của NHNN đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ nền kinh tế, các TCTD cũng như cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Thể hiện cụ thể như: Thứ nhất, chính sách điều hành tỷ giá mới đã đưa ra một thông điệp tới toàn thị trường là điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn, bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời cũng phản ánh các nguyên tắc thị trường hơn so với cách điều hành tỷ giá hối đoái trước đây. Do tỷ giá được điều chỉnh lên xuống hằng ngày nên mức điều chỉnh có thể cao hoặc thấp nhưng không có những biến động quá mạnh lên tới vài % như trước đây, từ đó giúp làm giảm những cú sốc về tỷ giá đối với thị trường tài chính cũng như doanh nghiệp. Bên cạnh đó, với chính sách tỷ giá thay đổi hằng ngày sẽ phản ánh sát hơn các diễn biến của thị trường kể cả trong nước và quốc tế, giúp cho NHNN chủ động hơn trong việc ứng biến với các biến động trong bối cảnh thị trường tài chính - tiền tệ ngày càng có xu hướng biến động mau lẹ và phức tạp theo hướng giảm giá nhiều đồng tiền của các đối tác thương mại chủ chốt khu vực và quốc tế13. Ngoài ra, cùng với việc công bố tỷ giá trung tâm cũng như cách xác định tỷ giá đó, NHNN cũng đưa thêm biện pháp, công cụ để tỷ giá trung tâm được công bố tạo ra hiệu lực, bổ sung các công cụ nghiệp vụ nhằm chuyển từ quan hệ tín dụng trước đây sang quan hệ mua bán trực tiếp đồng ngoại tệ nói chung đồng USD nói riêng, theo đó sẽ giảm mức độ đô la hóa nền kinh tế. 13 Cụ thể, từ ngày 04 - 07/01/2016, đồng Nhân dân tệ liên tục mất giá lên tới xấp xỉ 1,1%. Đồng thời, chỉ trong vòng 1 tuần đầu năm mới, thị trường chứng khoán Trung Quốc đã hai ngày (04/01 và 07/01/2016) phải ngừng giao dịch do lao dốc trên 7%, kéo theo sự sụt giảm trên một loạt các thị trường chứng khoán lớn, giá dầu phiên ngày 070/1 chạm mức đáy (32.16 USD/thùng) trong hơn một thập kỷ qua. Đồng tiền nhiều nước châu Á giảm giá mạnh: đồng Won Hàn Quốc giảm giá 2,8%, Đô la Singapore giảm 1,6%, Đô la Đài Loan giảm 0,97%. 135
  13. Chính sách tỷ giá mới tác động đến doanh nghiệp như thế nào? Kiên định và nhất quán với mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối, nâng cao vị thế của VND, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, nhưng phương thức điều hành tỷ giá của NHNN đã thay đổi căn bản, theo hướng linh hoạt hơn. Theo đó, kể từ nay, thay vì công bố một tỷ giá và giữ cố định trong một khoảng thời gian nhất định, NHNN vẫn công bố tỷ giá hằng ngày nhưng tỷ giá hằng ngày có thể được điều chỉnh lên xuống. Lãnh đạo NHNN cho biết, tỷ giá công bố được xác định trên cơ sở tham chiếu vào diễn biến của đồng USD cũng như một số đồng tiền khác trên thị trường quốc tế; trên cơ sở tham chiếu vào diễn biến tỷ giá trên thị trường ngoại tệ như ngân hàng ở trong nước; đồng thời, vẫn căn cứ vào việc cân đối vĩ mô tiền tệ, mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng như mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh các luồng thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam với thế giới ngày càng luân chuyển nhanh hơn và mạnh hơn khi một loạt hiệp định thương mại tự do đã và sẽ được ký kết, đây là sự thay đổi cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, như bất cứ sự thay đổi nào, cách thức xác định tỷ giá mới của NHNN cũng sẽ kéo theo sự thay đổi trong cách thức hoạt động của các đối tượng liên quan. Cách xác định tỷ giá hối đoái trung tâm sẽ không chỉ dựa trên mối tương quan trực tiếp giữa VND và USD như trước đây, mà là giữa đồng USD với một số đồng tiền chủ chốt khác; căn cứ vào mối tương quan này để xác định một tỷ giá hối đoái hợp lý nhất. Điều này sẽ khiến giới đầu cơ khó dự đoán xu hướng thay đổi của đồng USD. Tình trạng USD hóa và tâm lý găm giữ ngoại tệ cũng giảm theo. Về phía doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có hoạt động xuất - nhập khẩu, cũng sẽ phải có sự thay đổi về phương thức quản trị cũng như hoạt động để vừa tránh rủi ro vừa tận dụng được lợi thế “linh hoạt” của chính sách này. Giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu (cả đầu ra lẫn đầu vào), rồi các sản phẩm tài chính (bao gồm cả lãi suất và tỷ giá) sẽ có sự thay đổi liên tục buộc doanh nghiệp phải có phương pháp quản trị hợp lý và mang tính chuyên nghiệp. Theo ông Nguyễn Văn Hân - Trưởng phòng Tài chính kế toán Công ty ô tô Cửu Long TMT, “doanh nghiệp cần phải đề cao và chú trọng việc theo dõi diễn biến từng ngày, và trên cơ sở đó đưa ra phương án mua kỳ hạn và dùng sản phẩm phái sinh nào cho phù hợp”. Nguồn: tac-dong-den-doanh-nghiep-nhu-the-nao/1094380/ 136
  14. Thứ hai, cơ chế điều hành tỷ giá mới giúp hạn chế tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, đảm bảo tốt tính thanh khoản của thị trường. Nếu như trước đây, NHNN thường công bố một biên độ nhất định rồi thị trường neo vào đó và có sự kỳ vọng, thì nay với cách thức điều hành tỷ giá mới, mức độ kỳ vọng quá mức vào việc phá giá hay nỗ lực quá mức để giữ tỷ giá hối đoái như thời gian vừa qua sẽ giảm dần. Với việc tỷ giá hối đoái diễn biến hằng ngày và diễn biến lên, xuống theo một rổ tiền tệ và chịu tác động của rất nhiều yếu tố của thị trường bên trong cũng như bên ngoài, hoạt động đầu cơ ngoại tệ sẽ giảm đi do khả năng dự báo, dự đoán sẽ khó hơn rất nhiều. Do đó, các nguồn ngoại tệ vào Việt Nam, thay vì bị các tổ chức, cá nhân giữ lại với kỳ vọng tỷ giá sẽ tăng mạnh, đã được bán cho các TCTD, để hưởng lợi tức lớn hơn, giải phóng lượng ngoại tệ được đầu cơ, găm giữ trong thời gian qua, tạo nguồn cung cho thị trường. Một lượng lớn ngoại tệ đã bị găm giữ từ cuối năm ngoái cũng dần được giải phóng sau khi NHNN áp dụng cách thức điều hành tỷ giá mới, giúp cho nguồn cung ngoại tệ đã có sự cải thiện nhất định. Nhờ đó, mặc dù nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp trong tháng đầu năm vẫn ở mức cao, biểu hiện là trong 3 tuần đầu tháng 01/2016, hệ thống TCTD vẫn bán ròng ngoại tệ cho nền kinh tế nhưng việc bán ròng ngoại tệ không gây áp lực tăng tỷ giá như các giai đoạn trước mà tỷ giá vẫn giảm nhanh do tâm lý thị trường đã chuyển từ kỳ vọng tỷ giá tăng sang kỳ vọng tỷ giá ổn định với việc áp dụng cách thức điều hành tỷ giá mới. Thứ ba, chính sách tỷ giá và quản lý ngoại tệ mới đang và sẽ khiến nhiều ngân hàng thương mại hưởng lợi thông qua việc giảm chi phí trả lãi tiền gửi và tăng cơ hội mua vào lượng USD trên thị trường; có thêm kỳ vọng kinh doanh ngoại hối dựa trên mặt bằng cung - cầu và giá cả thị trường linh hoạt, biến động mau lẹ hơn. Thị trường tài chính phái sinh, nhất là thị trường quyền chọn, hợp đồng mua - bán ngoại tệ tương lai và các giao dịch kỳ hạn giữa các tổ chức tín dụng với các khách hàng thường xuyên sẽ phát triển, tăng hàng chục lần về quy mô so với trước đó. Điều này cũng sẽ làm giảm đáng kể áp lực về mua bán ngoại tệ tại một hoặc một số thời điểm nào đó. Mặt khác, chính sách tỷ giá mới đòi hỏi phải tăng năng lực và trách nhiệm nhiều hơn cho công tác dự báo tỷ giá và thị trường tiền tệ triển vọng. Một số ngân hàng và doanh nghiệp có thể chịu rủi ro tỷ giá cao hơn nếu năng lực phân tích chính sách và phản ứng thị trường chậm được cải thiện, coi nhẹ sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Thậm chí, một số ngân hàng có thể chịu áp lực khó huy động USD mới, trong khi gia tăng áp lực rút tiền gửi USD của các khoản tiền gửi cũ đáo hạn đang được hưởng lãi suất cũ 137
  15. Thứ tư, doanh nghiệp cũng sẽ hưởng lợi từ cơ chế điều hành tỷ giá mới này. Bởi thông qua cơ chế tỷ giá mới biến động linh hoạt, cung cầu ngoại tệ sẽ trở nên thông suốt hơn, từ đó doanh nghiệp cũng dễ dàng tiếp cận và mua bán ngoại tệ hơn. Ngoài ra, do linh hoạt tăng, giảm hằng ngày nên mức biến động của tỷ giá so với cách thức điều hành cũ sẽ bớt thay đổi mạnh hơn, dẫn đến những tác động tới doanh nghiệp cũng sẽ nhỏ hơn. Ngoài ra, kết hợp cơ chế tỷ giá này với công cụ thực hiện bán kỳ hạn giữa NHNN với các TCTD sẽ giúp thúc đẩy và khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn công cụ phái sinh, giúp bảo hiểm tỷ giá tốt hơn cho doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp trở nên chủ động hơn trong việc quyết định các hoạt động kinh doanh của mình có liên quan ngoại tệ. Bên cạnh đó, vẫn có những ý kiến cho rằng chính sách điều hành tỷ giá mới này chưa thực sự hiệu quả và có thể đem lại một số ảnh hưởng tiêu cực tới doanh nghiệp, cụ thể như: Một là, chính sách điều hành tỷ giá mới chưa thực sự phản ánh yếu tố thị trường. Bởi có quan điểm cho rằng NHNN Việt Nam vẫn là người có khả năng giữ vai trò điều hành tỷ giá trung tâm theo cơ chế mới, khiến cho tỷ giá trung tâm không phản ánh đúng giá trị thực tế của đồng tiền và quan hệ cung cầu trên thị trường. NHNN có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình theo ba cách sau: (1) Sử dụng dự trữ ngoại hối để điều tiết cung - cầu trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của các ngày hôm trước - là một trong những tham chiếu - để xác định tỷ giá trung tâm cho ngày hôm sau; (2) Việc tính toán và áp tỷ trọng đối với các đồng tiền được chọn trong rổ tham chiếu mặc dù có nguyên tắc cụ thể nhưng không được công bố công khai một cách đầy đủ; (3) Việc quy định biên độ biến động hằng ngày quanh tỷ giá trung tâm cũng có thể được linh hoạt, thu hẹp hoặc nới rộng tùy từng giai đoạn (hiện nay, NHNN đang áp dụng biên độ dao động ± 3%). Nguyên nhân chính dẫn tới ý kiến trái chiều này chính là việc thiếu minh bạch thông tin của NHNN và khả năng can thiệp của NHNN tới tỷ giá trung tâm này. Nếu điều này xảy ra, tỷ giá trung tâm mỗi ngày này sẽ là một hàm số của các ước đoán (giả thuyết là tốt nhất) đến từ NHNN, mang nặng suy nghĩ chủ quan của những con người cụ thể và chắc chắn, đến một lúc nào đó, sẽ dẫn tới sai lầm. Khi đó, tỷ giá ngày càng xa rời thực tế đến khi buộc phải điều chỉnh thì chi phí sẽ rất lớn. Hai là, đối với doanh nghiệp, đó chính là sự gia tăng về rủi ro tỷ giá. Nếu như với chính sách tỷ giá cố định biên độ dao động trước đây, doanh nghiệp 138
  16. có thể dễ dàng xây dựng cho mình một kế hoạch kinh doanh ít rủi ro về tỷ giá hơn do đã xác định được các biến cố cố định, thì nay với cơ chế điều hành tỷ giá mới này, doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu, phải thay đổi phương thức quản trị và hoạt động bởi mức độ bất định sẽ tăng lên, có thể gây khó cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp luôn muốn ổn định tỷ giá để kiểm soát chi phí và bảo đảm hoạt động kinh doanh, nên khi tỷ giá biến động, chi phí bị tăng. Tỷ giá năm 2016 có thể biến động từng ngày, doanh nghiệp phải xác định diễn biến của thị trường và khoản chi phí để đưa ra giá thành sản phẩm, phải kiểm soát tốt để bảo đảm giá bán và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Điều này cũng có thể tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp FDI với chiến lược nhập khẩu nguyên vật liệu, sản xuất sản phẩm để bán tại thị trường Việt Nam. Với các doanh nghiệp FDI xuất khẩu sản phẩm, việc VND giảm giá sẽ có tác động tích cực do các chi phí sản xuất bằng tiền VND sẽ rẻ đi tương ứng với mức tăng của tỷ giá khi quy ra ngoại tệ. Yếu tố hỗ trợ đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài là tỷ giá ổn định. Tuy nhiên, do VND hiện đang được định giá cao tương đối so với USD, việc VND diễn biến ổn định sau khi được điều chỉnh giảm về đúng giá trị nội tại sẽ tốt hơn cho nền kinh tế Việt Nam về tổng thể. Ba là, doanh nghiệp là người chịu thiệt thòi hơn so với các NHTM trong quy định của NHNN liên quan tới hoạt động mua bán USD kỳ hạn. Cụ thể, theo quy định của NHNN, ngân hàng thương mại khi mua USD kỳ hạn của NHNN được phép hủy ngang giao dịch, còn các doanh nghiệp khi mua USD kỳ hạn của NHTM thì không được hủy hợp đồng. Điều này có nghĩa là NHTM được giảm thiểu rủi ro từ biến động tỷ giá, trong khi doanh nghiệp thương mại sẽ đối mặt với rủi ro tăng thêm, làm cho khoảng cách bất bình đẳng trong kinh doanh tăng lên. Do đó, việc mua USD kỳ hạn giữa doanh nghiệp với NHTM, giữa ngân hàng thương mại với NHNN cần hài hòa về mức độ rủi ro, khuyến khích doanh nghiệp sẵn sàng mua USD kỳ hạn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong tương lai. 139
  17. Hai mặt chính sách tỷ giá mới Theo đánh giá của các chuyên gia về tài chính - ngân hàng, chính sách tỷ giá mới được áp dụng sẽ có tác động hai mặt đối với nền kinh tế, cũng như đối với các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp. Chính sách tỷ giá đã không còn mang tính cố định khá cứng hoặc ổn định khiên cưỡng như trước đây. Đặc biệt tuy chưa thực sự là chế độ tỷ giá thả nổi tự do, nhưng đã mang tính thị trường đậm nét hơn, được điều chỉnh lên/xuống hằng ngày, với mức độ sẽ được NHNN tính toán, bảo đảm yếu tố linh hoạt, theo đúng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đã được xác định tại các văn bản về quản lý ngoại hối hiện hành. Cách thức điều hành tỷ giá mới này sẽ cho phép tỷ giá phản ứng linh hoạt, kịp thời hơn với diễn biến trong nước và quốc tế; giảm bớt áp lực bán ngoại tệ can thiệp thị trường và kỳ vọng đầu cơ khác. Đồng thời, tạo hiệu ứng tích cực tăng thu hút FDI và vốn nước ngoài vào đầu tư, cũng như hỗ trợ tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Triệt tiêu áp lực gây sốc Chính sách này được nhận định sẽ triệt tiêu áp lực gây sốc tỷ giá trong bối cảnh thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế ngày càng có xu hướng biến động nhanh và phức tạp theo hướng giảm giá nhiều đồng tiền của các đối tác thương mại chủ chốt trong khu vực và quốc tế. Chính sách tỷ giá và quản lý ngoại tệ mới đang và sẽ khiến nhiều ngân hàng giảm được chi phí trả lãi tiền gửi và tăng cơ hội mua vào lượng USD trên thị trường. Mặt khác, các ngân hàng thương mại còn có thêm nhiều kỳ vọng kinh doanh ngoại hối dựa trên mặt bằng cung - cầu và giá cả thị trường linh hoạt, biến động mau lẹ hơn. Thị trường tài chính phái sinh, nhất là thị trường quyền chọn, hợp đồng mua - bán ngoại tệ tương lai và các giao dịch kỳ hạn giữa các tổ chức tín dụng với các khách hàng thường xuyên sẽ phát triển, tăng hàng chục lần về quy mô. Do đó, các doanh nghiệp cũng sẽ sử dụng nhiều hơn công cụ phái sinh, giúp bảo hiểm tỷ giá tốt hơn cho mình. Chính sách tỷ giá mới đặt ra không ít yêu cầu trong việc tăng năng lực và trách nhiệm nhiều hơn cho công tác dự báo tỷ giá và thị trường tiền tệ triển vọng. Một số ngân hàng và doanh nghiệp có thể chịu rủi ro tỷ giá cao hơn nếu năng lực phân tích chính sách và phản ứng thị trường chậm được cải thiện, coi nhẹ sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Thậm chí, một số ngân hàng có thể chịu áp lực khó huy động USD mới, trong khi gia tăng áp lực rút tiền gửi USD của các khoản tiền gửi cũ đáo hạn đang được hưởng lãi suất cũ. 140
  18. Thực tế thế giới và trong nước cho thấy, không có một cơ chế tỷ giá nào là tối ưu trong mọi trường hợp, và cho mọi quốc gia; song chính sách tỷ giá linh hoạt vẫn là phương thức phổ biến được lựa chọn để giữ ổn định tỷ giá trong xu hướng vận động chung “có lên - có xuống”. Tuy nhiên, linh hoạt cũng không có nghĩa là tùy tiện thay đổi theo ý chí chủ quan vì một mục tiêu cục bộ, ngắn hạn nào đó, mà cần cân nhắc hài hòa các mục tiêu được lựa chọn phù hợp điều kiện kinh tế cụ thể, hướng tới lâu dài và vì lợi ích chung. Linh hoạt chính sách giữ ổn định tỷ giá không chỉ là điều kiện ổn định giá trị Đồng Việt Nam, mà còn có ý nghĩa kinh tế đặc biệt, gắn với yêu cầu giữ ổn định vĩ mô, hỗ trợ sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp, củng cố niềm tin trên thị trường và hài hòa các lợi ích trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Trên cơ sở đó, có thể nói, năm 2016, tỷ giá sẽ biến động không quá lớn và mặt bằng lãi suất trung và dài hạn có khả năng giảm nhẹ. Nguồn: 4. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của chính sách điều chỉnh tỷ giá trong thời gian tới Trên cơ sở đánh giá và phân tích về chính sách điều hành tỷ giá mới vừa ban hành trong năm 2016, để tăng cường hiệu quả của chính sách điều chỉnh tỷ giá trong thời gian tới cần chú ý một số giải pháp như sau: Thứ nhất, Chính phủ cần tăng cường công tác dự báo và kiên định trong việc theo đuổi những mục tiêu dài hạn về lạm phát và tăng trưởng. Trong đó, cần theo dõi sát sao lộ trình tăng lãi suất của Fed và diễn biến của đồng Nhân dân tệ. Theo dự báo mới nhất của Fed công bố vào ngày 16/12/2015, ngay sau khi tổ chức này quyết định lần đầu tiên nâng lãi suất, lãi suất vào cuối năm sẽ đạt mức 0.4%. Lộ trình nâng lãi suất trong những năm sau đó cho thấy mỗi năm Fed sẽ nâng lãi suất thêm 1%. Lãi suất mục tiêu sẽ ở mức 3.3% vào năm 2018, và lãi suất dự kiến trong dài hạn sẽ ở mức 3.5%. Điều kiện này sẽ tạo ra những nền tảng quan trọng cho việc tạo dựng một chính sách tỷ giá mới, hiện đại trong tương lai, bởi những thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô cần dựa trên những dự báo tốt để điều chỉnh các kỳ vọng và động cơ trên thị trường, hướng đến việc đạt được những mục tiêu trong dài hạn, thay vì các mục tiêu ngắn hạn và chạy theo những diễn biến trong quá khứ. Thứ hai, cần tập trung các giải pháp chống đầu cơ ngoại tệ, gắn với các giải pháp chống đô la hóa, vàng hóa nền kinh tế. Từ năm 2016, với cơ chế tỷ giá mới, kỳ vọng sẽ không còn đầu cơ, làm giá với VND, tuy nhiên, kinh nghiệm những năm qua cho thấy, VND có thời gian mất giá có 141
  19. liên quan đến đầu cơ của thị trường (diễn biến tỷ giá kịch trần trong một số giai đoạn rõ ràng là phản ánh kỳ vọng của thị trường và hành vi đầu cơ của thị trường, không loại trừ chính một số ngân hàng lớn). Ngoài ra, thực tế chống đô la hóa, chống vàng hóa thời gian qua (chống găm giữ đầu cơ ngoại tệ) đã góp phần ổn định VND. Do vậy, NHNN nên tiếp tục kiên định với giải pháp chống đô la hóa bằng giải pháp kinh tế như (1) Thắt chặt hơn nữa trạng thái ngoại tệ nhằm ngăn chặn các NHTM găm giữ ngoại tệ; NHNN có thể chủ động và khẳng định vai trò là người tạo lập thị trường về các công cụ phòng tránh rủi ro hối đoái (2) Hạn chế việc nhập khẩu vàng quá mức cần được chú trọng bởi vàng không phải là hàng thiết yếu và nhập khẩu vàng dẫn đến giảm dự trữ ngoại hối, gây hiệu ứng mất giá VND và tạo nên vòng xoáy. Về lý thuyết, có thể phỏng đoán rằng, vàng hóa nền kinh tế có thể làm tăng thêm danh mục tài sản lựa chọn đầu tư hoặc nắm giữ cho dân chúng, điều này có thể dẫn đến lấn át VND (3) Tiếp tục tạo sức hấp dẫn đối với đồng VND bằng cách đưa lãi suất huy động tiền gửi ngoại tệ xuống mức 0% hay kể cả áp dụng lãi suất âm. Ngoài ra, hai yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất VND không giảm trong thời gian tới là lãi suất TPCP và nợ xấu. Do nợ xấu chưa được xử lý tận gốc nên các NHTM phải trích lập dự phòng 20%/năm làm tăng mạnh chi phí hoạt động/tổng chi phí của các NHTM. Vì vậy, dù NHNN muốn giảm lãi suất thì chính các NHTM cũng không thể chịu được. Hiện tại, trong bối cảnh lạm phát năm 2015 chưa tới 1% trong khi lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 6,5 - 7%/năm và trung, dài hạn khoảng 10%, không ít người đi vay và doanh nghiệp so sánh lãi suất cao với lạm phát thấp. Việc đẩy lãi suất tăng sẽ tiếp tục tác động đến sức khỏe tài chính của doanh nghiệp, vào ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và nghĩa vụ ngân sách của doanh nghiệp nói riêng. Thứ ba, cần hạn chế các tác động tỷ giá từ NSNN. Theo nguyên tắc điều hành tỷ giá mới được thực hiện từ năm 2016, diễn biến tỷ giá cũng được tham chiếu các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ điều này hàm ý rằng, việc mất cân đối NSNN sẽ tác động đến tỷ giá hối đoái của VND trên thị trường. Trên góc độ lý thuyết, khi NSNN thâm hụt quá mức sẽ dẫn đến hiệu ứng lãi suất tăng và VND lên giá; việc NSNN huy động từ nước ngoài để bù đắp thâm hụt ngân sách, khi cần ngoại tệ để trả nợ, sẽ làm VND mất giá (NSNN dùng VND để mua ngoại tệ để trả nợ khi đến hạn). Khi đó, chi phí nợ công cũng tăng hơn dự tính hiện nay. Hay nói cách khác, tình trạng mất cân bằng ngoại tệ một phần là do mất cân bằng ngân sách và mất cân bằng này đã gây ra các hiệu ứng đến chính sách tiền tệ. 142
  20. Thứ tư, NHNN cần tiếp tục truyền thông, minh bạch hóa thông tin về cách thức xác định và tính toán mức tỷ giá trung tâm mới này. Trong đó, NHNN cần liên tục truyền thông để thị trường hiểu tỷ giá Đồng Việt Nam/Đô la Mỹ (VND/USD) công bố mỗi ngày không phải là tỷ giá song phương (giữa Việt Nam và Mỹ) giống như trước đây mà đó chính là tỷ giá hiệu lực đa phương, đã tính tới tỷ giá chéo và tỷ trọng thương mại của 08 quốc gia khác nhau. Để thuyết phục được niềm tin của thị trường về tính minh bạch trong điều hành tỷ giá của mình, NHNN có lẽ cần cân nhắc công bố công khai quyền số thương mại trong rổ 08 đồng tiền hiện nay để tính ra chỉ số đồng Việt Nam (VND Index). Tuy nhiên, việc lộ trình công bố thông tin cần được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi khi công khai chỉ số VND Index, các nhà đầu tư sẽ đoán được xu hướng thị trường mỗi ngày để tiến hành đầu cơ. Như vậy, sẽ có sự đánh đổi giữa việc công bố chỉ số VND Index để chính sách tiền tệ càng minh bạch hơn với nguy cơ phải đối mặt với rủi ro đầu cơ tiền tệ. Thứ năm, NHNN cần chú trọng phát triển các sản phẩm tài chính phái sinh. NHNN cần phát triển một thị trường ngoại tệ mà ở đó các NHTM và doanh nghiệp có thể sử dụng các sản phẩm tài chính phái sinh đa dạng như kỳ hạn, hoán đổi, tương lai, quyền chọn trong các giao dịch thương mại của mình. Điều này sẽ giúp NHTM và doanh nghiệp có thể chủ động và tính toán thực thi các chiến lược kinh doanh của mình phù hợp với tỷ giá, hình thành văn hóa, kỹ năng và phương thức kinh doanh phù hợp hơn với thông lệ, chuẩn mực của thị trường quốc tế. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam chưa quá quen với công cụ thị trường phái sinh do vậy cần một quá trình tương tác giữa NHTM, các định chế tài chính và doanh nghiệp. Đây cũng chính là lý do vì sao cần phải có một bước đi linh hoạt dần dần với học hỏi của thị trường và hội nhập của Việt Nam. Bên cạnh đó, NHNN cần ban hành thông tư hướng dẫn các NHTM về các công cụ phái sinh tỷ giá, trong đó có công cụ mua - bán USD kỳ hạn nhằm đảm bảo tính lợi ích và cân bằng về rủi ro giữa NHTM và doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy doanh nghiệp mạnh dạn giao dịch những hợp đồng tài chính phái sinh hơn. Thứ sáu, cần tăng cường năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam bằng giải pháp tăng năng suất. Thời gian qua, thị trường thường kỳ vọng vào việc hạ giá VND (phá giá) để kích thích xuất khẩu. Tuy nhiên, rõ ràng cách thức này dường như không phù hợp cho thương mại Việt Nam khi cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ chế, tài nguyên thô và hàng nông, thủy sản Do đó, thay vì chủ trương phá giá nội tệ, Việt Nam nên 143
  21. có các giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh của Việt Nam bằng các giải pháp tổng thể (như tăng giá trị gia tăng, hạn chế xuất hàng thô, sơ chế; thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng gia tăng sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao, sản phẩm tinh chế, hạn chế xuất khẩu sản phẩm nguyên liệu thô, sản phẩm sơ chế hoặc dựa quá nhiều vào hay kỳ vọng vào việc phá giá VND để khuyến khích xuất khẩu như thời gian vừa qua). Điều này sẽ góp phần tăng trưởng xuất khẩu bền vững và thực chất hơn và tránh được tâm lý ỷ lại, đòi hỏi phá giá VND. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp trong nước cũng phải tăng cường khả năng thích ứng và trang bị năng lực về quản lý rủi ro tỷ giá, đặc biệt là phải chuẩn bị một đội ngũ nhân sự có năng lực nghiên cứu, dự báo, đánh giá, tự mình xây dựng các phương án về tỷ giá, chủ động trong các phương án cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. 5. Kết luận Chính sách điều hành tỷ giá của NHNN Việt Nam trong năm 2016 đã được điều chỉnh theo hướng phù hợp với tình hình và bối cảnh phát triển mới của quốc gia. Nếu trong giai đoạn phát triển 5 năm trước đó, mục tiêu của chính sách tỷ giá là ổn định trong một biên độ mục tiêu định sẵn thì trong giai đoạn phát triển mới này, chính sách tỷ giá đã hướng tới một sự linh hoạt hơn, đảm bảo tốt hơn khả năng phản ứng với các biến động khó lường của kinh tế trong nước cũng như khu vực. Bên cạnh nhiều kết quả thực tế tích cực như giảm tình trạng đô la hóa nền kinh tế, phát triển thị trường phái sinh, hạn chế những cú sốc lớn của thị trường thì vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng chính sách điều hành tỷ giá mới này chưa thực sự hiệu quả do sự thiếu minh bạch thông tin từ phía NHNN Việt Nam trong việc tính toán các tham số tham chiếu của tỷ giá trung tâm. Do đó, trong thời gian tới, NHNN Việt Nam cần tiến hành những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế hiện nay trong chính sách điều hành tỷ giá mới này trên cơ sở tiếp tục phát huy những thành tựu kinh tế đã đạt được trong giai đoạn phát triển kinh tế 2011 - 2015. Tài liệu tham khảo 1. Học viện Ngân hàng (2015), “Diễn biến tỷ giá và thị trường ngoại tệ Việt Nam dưới tác động chính sách của Ngân hàng Nhà nước”, Báo cáo nghiên cứu 15/01/2016. 2. Nghị định số 95/2011/NĐ-CP 20/10/2011 của Chính phủ nhằm sửa đổi Nghị định số 202/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. 144
  22. 3. Nghị quyết số 02/2011/NQ-CP ngày 09/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. 4. Quyết định số 1636/2015/QĐ-NHNN ngày 18/8/2015 của Ngân hàng Nhà nước quy định về tỷ giá giao ngay giữa Đồng Việt Nam với các ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép. 5. Quyết định số 230/QĐ-NHNN ngày 11/02/2011 của Ngân hàng Nhà nước về quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của tổ chức tín dụng được phép giao dịch hối đoái. 6. Quyết định số 2730/2015/QĐ-NHNN ngày 31/12/2015 của Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá trung tâm của Đồng Việt Nam với Đô la Mỹ, tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ khác. 7. Thông tư số 03/2012/TT-NHNN ngày 08/3/2012 của Ngân hàng Nhà nước quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú. 8. Thông tư số 07/2011/TT-NHNN ngày 24/3/2011 của Ngân hàng Nhà nước quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú. 9. Thông tư số 20/2011/TT-NHNN ngày 29/8/2011 của Ngân hàng Nhà nước về quy định việc mua, bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân với tổ chức tín dụng được phép. 10. rat-kho-minh-bach-20160106101308317.chn 11. gia-giai-doan-2011-2015-20151119085906418.chn 12. phat-cua-viet-nam-giai-doan-2011-2015.html 13. 20160104034927255p4c149.news 14. tac-dong-den-doanh-nghiep-nhu-the-nao/1094380/ 15. 145