Cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng ở Việt Nam: Thực trạng và một số hàm ý chính sách

pdf 13 trang Gia Huy 23/05/2022 1350
Bạn đang xem tài liệu "Cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng ở Việt Nam: Thực trạng và một số hàm ý chính sách", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfco_che_truyen_tai_cstt_qua_kenh_tin_dung_o_viet_nam_thuc_tra.pdf

Nội dung text: Cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng ở Việt Nam: Thực trạng và một số hàm ý chính sách

  1. 68 CƠ CHẾ TRUYỀN TẢI CSTT QUA KÊNH TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH Lê Mỹ Linh, K14 – NHTMK 1. Lý luận chung về cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng 1.1. Khái niệm chung về chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (thường là ngân hàng trung ương), hướng tới một mức lãi suất mong muốn để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, quy định mức dự trữ bắt buộc, hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. Chính sách tiền tệ nhằm đạt được hai mục tiêu không thể thực hiện được đồng thời là lãi suất và lượng cung tiền. Mục tiêu lãi suất thường được lựa chọn khi nền kinh tế ở trạng thái bình thường, trong khi đó, nếu nền kinh tế quá nóng hoặc quá lạnh thì mục tiêu cung tiền thường được lựa chọn. Tùy vào điều kiện và mục tiêu trong từng thời kỳ mà chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: - Chính sách tiền tệ mở rộng: cơ quan quản lý tiền tệ tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế nhưng lại khiến lạm phát gia tăng. - Chính sách tiền tệ thắt chặt: cơ quan quản lý tiền tệ giảm cung tiền, tăng lãi suất, làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, lạm phát giảm nhưng lại khiến thất nghiệp tăng. Dựa trên cách tiếp cận các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ, chính sách tiền tệ có thể được truyền dẫn qua các kênh: lãi suất, giá tài sản hoặc tín dụng. Kênh lãi suất: Khi khối lượng tiền M mở rộng, mức lãi suất thực giảm xuống làm giảm giá vốn vay. Nhu cầu đầu tư tăng lên dẫn đến tăng tổng cầu và tăng sản lượng. Sự
  2. 69 thay đổi mức lãi suất ngắn hạn được khống chế trực tiếp bởi ngân hàng trung ương (NHTW) có thể ảnh hưởng đến các mức lãi suất khác của nền kinh tế và cuối cùng ảnh hưởng lan truyền tới toàn bộ hệ thống lãi suất của nền kinh tế. Hiệu quả của tác động này phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức của thị trường tài chính và mức độ trông đợi của thị trường. Kênh giá tài sản: Giá các loại tài sản khác có khả năng truyền tác động của chính sách tiền tệ có thể kể đến như tỷ giá hoặc giá cổ phiếu. Khi lượng cung tiền tăng lên, giá cổ phiếu tăng và đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ do tỷ giá tăng, sản lượng từ đó cũng tăng lên do tiêu dùng và xuất khẩu được kích thích. Kênh tín dụng: Chính sách tiền tệ được truyền dẫn qua kênh tín dụng thông qua kênh tín dụng ngân hàng và kênh tác động điều chỉnh bảng cân đối tài sản. 1.2. Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng Các trung gian tài chính, trong đó chủ yếu là các ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với tài trợ vốn cho nền kinh tế. Sự mở rộng hay thu hẹp quy mô cho vay của các trung gian tài chính này quyết định tới quy mô của tổng cầu, từ đó quyết định tới sự tăng trưởng kinh tế. Kênh tín dụng là kênh truyền dẫn ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới khả năng cấp tín dụng của trung gian tài chính. Kênh tín dụng truyền dẫn ảnh hưởng của chính sách tiền tệ qua 2 giác độ là hoạt động tín dụng ngân hàng và sự điều chỉnh bảng cân đối kế toán. 1.2.1. Tác động qua hoạt động tín dụng của ngân hàng. NHTW thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt đều sẽ làm thay đổi mức cung tiền tệ và khối lượng tín dụng cung ứng của hệ thống ngân hàng, truyền dẫn ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế, được thể hiện thông qua tác động về mặt lượng và mặt lãi suất, có thể khái quát thông qua sơ đồ sau: M↑ => Tiền gửi ngân hàng ↑ => tiền vay ↑ => lãi suất ↑ => sản lượng ↑ Về mặt lãi suất, lãi suất thị trường sẽ thay đổi theo các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHTW và do đó, tác động tới lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Lãi suất giảm có thể làm giảm lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng,
  3. 70 nhưng cũng có thể tác động làm giảm rủi ro và gia tăng khả năng thành công của dự án; do đó, có thể làm cho lượng tín dụng mà NHTM cấp cho nền kinh tế tăng, làm tăng đầu tư và tăng tổng cầu. Về mặt lượng. khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng làm tăng lượng tiền gửi ngân hàng, các NHTM sẽ giảm lãi suất hoặc mở rộng hạn mức tín dụng, làm cho lượng tín dụng cấp cho nền kinh tế tăng lên, tăng đầu tư của doanh nghiệp và góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Sự thay đổi lãi suất còn có ảnh hưởng đến giá trị tài sản trên bảng cân đối tài sản của NHTM. Khi lãi suất giảm do chính sách tiền tệ nới lỏng, giá trị thị trường của tài sản dưới dạng chứng khoán, bất động sản trên bảng cân đối của NHTM tăng lên, làm tăng khả năng cho vay của ngân hàng và tác động làm tăng sản lượng, tổng cầu nền kinh tế. Ngoài ra, lãi suất giảm còn giúp khuyến khích các doanh nghiệp đi vay, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần tăng đầu tư và tổng cầu nền kinh tế. 1.2.2. Tác động qua điều chỉnh bảng cân đối tài sản của khách hàng Chính sách tiền tệ làm thay đổi giá trị tài sản ròng trên bảng cân đối của doanh nghiệp theo 4 hướng chủ yếu: - Ảnh hưởng đến nguy cơ rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch: Khi giá trị trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp bị giảm thấp, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng tăng lên vì các doanh nghiệp này có động cơ để đầu tư vào những dự án có mức rủi ro cao, làm giảm mong muốn cho vay của ngân hàng, từ đó giảm chi tiêu và tổng cầu. Nếu NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, giá cổ phiếu tăng lên, giá trị ròng trên bảng cân đối tài sản tăng, hạn chế các hoạt động gây nên rủi ro cho ngân hàng, vốn cho vay tăng lên và tổng cầu và sản lượng tăng. Quá trình này có thể được khái quát như sau: M↑ => Pe ↑ => lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức ↓ => cho vay ↑ => sản lượng ↑ - Ảnh hưởng thông qua cải thiện tình trạng dòng tiền mặt: Các luồng thu tiền mặt ròng là nguồn trả nợ chủ yếu cho ngân hàng. Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, luồng thu tiền mặt trở nên dễ dàng hơn, tính thanh khoản tăng. Ngân hàng tin
  4. 71 tưởng hơn vào khả năng trả nợ của khách hàng, khối lượng vốn cho vay tăng, đầu tư và sản lượng do đó được mở rộng. M↑ => lãi suất ↓=> tiền mặt ↑ => lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức ↓ => cho vay ↑ => sản lượng ↑ - Ảnh hưởng thông qua sự biến động mức giá chung: Nếu NHTW thực thi chính sách tiền tệ mở rộng, mức giá chung sẽ tăng lên và làm giảm gánh nặng các khoản nợ của các doanh nghiệp, giá trị ròng trên bảng cân đối tài sản của các doanh nghiệp tăng lên, nguy cơ gây rủi ro cho các ngân hàng giảm, vốn cho vay tăng lên và sản lượng cũng tăng. M↑ => Pe ↑ => lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức ↓ => cho vay ↑ => sản lượng ↑ Kênh tín dụng bên cạnh tác động tới doanh nghiệp, cũng có thể tác động tới tiêu dùng của hộ gia đình và làm tăng tổng cầu với cơ chế tương tự như với doanh nghiệp. 2. Thực trạng hiệu quả cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng ở Việt Nam Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của hội nhập quốc tế, các chủ thể kinh doanh phải đương đầu với nhiều thách thức mới. Trong hoàn cảnh này, tín dụng ngân hàng đã trở thành mắt xích trọng yếu của hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó, thị trường vốn còn non yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế nên kênh tín dụng ngân hàng trở thành kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ quan trọng và phổ biến. Ở Việt Nam, mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2 (bao gồm: lượng tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm ở ngân hàng và kỳ phiếu do ngân hàng phát hành) và tăng trưởng tín dụng hệ thống ngân hàng làm mục tiêu trung gian. Trong thời gian qua, mục tiêu hoạt động của
  5. 72 chính sách tiền tệ ở Việt Nam là tổng lượng tiền cung ứng MB, cụ thể là dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở xác định được các mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ có những điều chỉnh hợp lý để truyền dẫn chính sách tiền tệ qua các kênh, hướng tới thực hiện các mục tiêu đã đề ra. 2.1. Tác động truyền tải CSTT qua kênh tín dụng ngân hàng ở Việt Nam 2.1.1. Mối quan hệ của lượng tiền cung ứng tới tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng Nhìn chung, cung tiền M2 và tiền gửi ngân hàng có cùng xu hướng biến động. Ở Việt Nam, xu hướng này cũng diễn ra như vậy, tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng có cùng chiều hướng, trong nhiều thời kỳ có thể thấy là gần như trùng khớp nhau Biểu đồ 2.1. Mối quan hệ giữa mức tăng cung tiền M2 và tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Năm 2002, do thị trường bất động sản tại Việt Nam đang trong tình trạng nóng, lợi tức từ đầu tư bất động sản hay cổ phiếu (lợi tức từ 10-15%) cao hơn từ tiền gửi ngân hàng (lãi suất với tiền gửi VND là 8%/năm), tốc độ tăng vốn tiền gửi giảm mạnh. Trong giai đoạn 2003-2007, thị trường bất động sản hạ nhiệt, lượng vốn đầu tư vào bất động sản giảm đáng kể trong khi hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn chưa sôi động trở lại, người dân tạm thời chọn kênh gửi tiết kiệm ngân hàng để hưởng lãi và giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa và thực hiện IPO, số vốn thu về lớn nhưng chưa đầu tư được tạm thời gửi trong tài khoản tiền gửi tại NHTM, tiền gửi ngân hàng tăng mạnh, đặc biệt là trong năm 2007 do trong xã hội có một lượng cung tiền rất lớn, vốn tiền gửi tăng nhanh và đều đặn, năm 2007 đạt mức kỷ lục 47.8%.
  6. 73 Tới năm 2008, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường chứng khoán sụt giảm và việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt của NHTW nhằm kiềm chế lạm phát, các NHTM bị khống chế hạn mức tín dụng, các doanh nghiệp giảm tiền gửi để chuyển sang đầu tư hoặc cho các đối tác kinh doanh của mình vay, cung tiền trong lưu thông giảm, tăng trưởng tiền gửi của ngân hàng do đó sụt giảm mạnh, chỉ còn trên 20%. Từ năm 2008 tới nay, tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng có xu hướng giảm do xu thế thắt chặt tiền tệ nhằm tiếp tục mục tiêu kiềm chế lạm phát. Chỉ duy trong năm 2009, nhờ những đợt tăng lãi suất huy động nội tệ liên tiếp giữa các ngân hàng thương mại và sự bất ổn định của các kênh đầu tư tài chính khác, tổng số dư tiền gửi của khách hàng mới tăng lên không đáng kể. Từ sau năm 2011, với việc NHNN khống chế trần lãi suất huy động, tiền gửi ngân hàng tăng chậm lại và cung tiền tệ trong nền kinh tế cũng giảm dần. Từ đó có thể thấy, lượng tiền cung ứng hay mục tiêu chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng mạnh mẽ tới tốc độ tăng tiền gửi của ngân hàng và ngược lại trong điều kiện thực tiễn nền kinh tế nước ta. 2.1.2. Tác động của tăng trưởng tiền gửi ngân hàng đến tăng trưởng tín dụng Vốn tiền gửi là vốn cơ bản để ngân hàng thực hiện cho vay. Do vậy, ngân hàng càng cho vay được nhiều thì hiệu suất sử dụng vốn tiền gửi càng cao.
  7. 74 Biểu đồ 2.2.Mối quan hệ giữa tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng và tăng trưởng tín dụng Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Từ năm 2001 tới năm 2004, tốc độ tăng trưởng tín dụng và tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng chênh lệch không đáng kể, hiệu suất sử dụng tiền gửi ngân hàng tăng lên. Tuy nhiên, do lãi suất VND giảm thấp trong thời gian này, người dân chuyển từ tiền gửi VND sang tiền gửi USD, các ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu cung nội tệ, du cung ngoại tệ. Năm 2004, với nhu cầu vốn tăng cao của nền kinh tế trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có một con đường là vay vốn từ ngân hàng để đầu tư, tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt tới hơn 40%. Xu hướng này tiếp tục tiếp diễn với đỉnh điểm tăng cao nhất là vào năm 2007, đạt tới 53,89%. Nguyên nhân khiến cho tăng trưởng tín dụng cao trong giai đoạn này là do sự chuyển dịch vốn kinh tế từ những ngành quan trọng trong tăng trưởng như hạ tầng, công nghiệp, thương mại – dịch vụ, sang các lĩnh vực khác tiềm ẩn nhiều rủi ro như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản, vàng và cho vay tiêu dùng. Năm 2008, do tình hình tăng trưởng tín dụng quá nóng năm 2007, căng thẳng vốn khả dụng và thanh khoản, các NHTM bắt đầu khan hiếm tiền VND và bắt đầu hạn chế cho vay; ngoài ra, lãi suất cao cùng với khó khăn từ thị trường chứng khoán, bất động sản cũng khiến các NHTM ngần ngại hơn trong việc đưa ra quyết định tín dụng. Từ sau năm 2008, ngoại trừ lần tăng lên 37.73% vào năm 2009 do NHNN thực hiện nới lỏng tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế trong khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng tín dụng liên tục giảm. Nguyên nhân của hiện tượng này chủ yếu là do nhu cầu sử dụng vốn phục vụ
  8. 75 sản xuất kinh doanh chưa được cải thiện bởi lượng tồn kho lớn của doanh nghiệp, các doanh nghiệp tập trung bán tháo hàng tồn, hạn chế sản xuất và do đó, hạn chế vay vốn. Cùng với đó, nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh, người dân thắt chặt chi tiêu và tình trạng nợ xấu chưa được cải thiện cũng tác động khiến tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn sau 2009 liên tục giảm mạnh. Tăng trưởng tín dụng liên tục giảm tới cuối năm 2011 thì bắt đầu có dấu hiệu tăng trở lại do NHNN tiến hành các biện pháp hỗ trợ giúp ngân hàng đẩy vốn ra nền kinh tế, lãi suất cho vay giảm xuống mức khá thấp, thanh khoản tốt và vốn khả dụng khá dồi dào trong hệ thống qua điều tiết “bơm – hút” vốn. Năm 2013, Quyết định 780 của NHNN cho phép cơ cấu lại nợ mà không chuyển nhóm đã tạo điều kiện cho những doanh nghiệp khó khăn vẫn có thể tiếp cận vốn và các ngân hàng cũng bớt áp lực nợ xấu để cho vay ra. Tăng trưởng tín dụng bắt đầu có dấu hiệu tăng trở lại, tuy vẫn chưa cao và chưa phản ánh được nhu cầu vay thực sự của doanh nghiệp. NHNN Việt Nam sử dụng cung tiền M2 làm mục tiêu trung gian nhưng cũng sử dụng dư nợ tín dụng làm chỉ tiêu bổ sung. Mức độ ảnh hưởng của cung tiền tới tốc độ tăng trưởng tín dụng còn phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường tín dụng. Tuy nhiên, thị trường tín dụng ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như: chưa quán xuyến được toàn bộ nhu cầu vốn qua kênh tín dụng ngân hàng với nền kinh tế, dẫn đến tồn tại hình thức cho vay nặng lãi, cơ cấu vốn chưa phù hợp, ranh giới giữa thị trường tín dụng thương mại và tín dụng ưu đãi chưa rõ ràng, gây ảnh hưởng tới sự lành mạnh của thị trường, khuôn khổ pháp lý chưa thực sự rõ ràng và cơ chế chính sách chưa hoàn thiện. 2.1.3. Tác động của tăng trưởng tín dụng tới đầu tư
  9. 76 Biểu đồ 2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng đầu tư toàn xã hội Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Tổng cục Thống kê Khi lượng tiền cung cứng tăng lên, tiền gửi vào ngân hàng tăng, ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay, kích thích đầu tư, tiêu dùng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Có thể thấy được từ biểu đồ trên, tăng trưởng đầu tư toàn xã hội (bao gồm vốn đầu tư tạo ra tài sản cố định, vốn đầu tư làm tăng tài sản lưu động và các loại vốn đầu tư phát triển khác) tại Việt Nam có xu hướng biến động tương tự với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong giai đoạn từ 2001-2006, tốc độ tăng trưởng đầu tư xã hội còn thấp do các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào vốn vay từ ngân hàng để đầu tư phát triển, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp hay tiếp cận vốn nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Tín dụng ngân hàng do đó có ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp và ảnh hưởng gián tới tăng trưởng kinh tế và lạm phát do đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng tác động tới tổng cầu nền kinh tế. Tới năm 2007, với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức kỷ lục 20.3 tỷ USD, tăng 27% so với năm 2006. Ngoài nguồn vốn huy động từ tín dụng ra, các nguồn vốn mới từ nước ngoài như FDI, FPI cũng tăng đột biến. Tuy nhiên, từ sau năm 2008, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, tăng trưởng tín dụng giảm dần cùng với sự sụt giảm trong các nguồn vốn nước ngoài, tăng trưởng đầu tư toàn xã hội liên tục giảm dần. Từ năm 2013 tới nay, tuy tăng trưởng đầu tư toàn xã hội bắt đầu có xu hướng tăng nhẹ nhưng không đáng kể và tỷ lệ đầu tư/GDP vẫn tiếp tục giảm, cho thấy môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thực sự được cải thiện.
  10. 77 Bên cạnh tốc độ tăng vốn đầu tư, ta có thể xem xét hệ số ICOR để đánh giá về hiệu quả đầu tư của Việt Nam trong giai đoạn này. Biểu đồ 2.4. Hệ số ICOR của Việt Nam và mối quan hệ với đầu tư giai đoạn 1995-2013 Nguồn: Tổng cục Thống kê Hệ số ICOR là tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội so với tốc độ phát triển GDP, hệ số càng thấp thì càng thể hiện hiệu quả đầu tư cao, hệ số càng cao thì càng thể hiện hiệu quả đầu tư thấp. Gần đây, hệ số ICOR của Việt Nam tương đối cao, thể hiện rõ ràng rằng hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp, môi trường đầu tư không thuận lợi, chất lượng tín dụng kém, đặc biệt là các dự án đầu tư thuộc khu vực nhà nước. 2.2. Đánh giá cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng ở Việt nam giai đoạn vừa qua Những kết quả đạt được Tín dụng đã trở thành kênh chủ yếu trong việc truyền dẫn ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới nền kinh tế để góp phần thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ của Việt Nam. Dư nợ tín dụng tăng trưởng qua các năm góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống NHTM đã được NHNN thực hiện quyết liệt thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc để điều tiết lượng vốn khả dụng của các NHTM và tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền
  11. 78 từ lưu thông về. Đặc biệt, chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011, yêu cầu các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với mục tiêu tăng trưởng tín dụng dưới 20% đã giúp tập trung vốn vào phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ xuống 22% đến 30/06/2011 và 16% đến 31/12/2011. Các hộ gia đình nhờ có vốn ngân hàng mà nâng cao đời sống, các doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, đời sống xã hội được nâng lên. Những hạn chế còn tồn tại Tác động truyền dẫn qua kênh tín dụng của Việt Nam đôi khi không được như mong muốn. Tác động của dư nợ tín dụng đến lạm phát trong một số năm đã không phát huy hiệu quả, đặc biệt là vào năm 2008, khi tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm nhưng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng thế giới, giá xăng dầu, lương thực tăng nóng nên không thể giảm được áp lực lạm phát, lạm phát đã tăng đột biến lên tới 22%. Ngoài ra, hệ số ICOR luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực cho thấy môi trường đầu tư ở Việt Nam còn chưa được cải thiện, do vậy, không phải tăng trưởng tín dụng còn chưa đi kèm với hiệu quả đầu tư. Tác động truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng còn hạn chế là do một số nguyên nhân: - Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình tiền tệ hóa, do vậy, nhu cầu thanh toán của nền kinh tế vượt quá hơn nhiều so với mức tăng trưởng GDP danh nghĩa, vòng quay tiền tệ không ổn định làm cho việc dự báo tiền tệ còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, thực trạng đô la hóa nền kinh tế cũng ảnh hưởng không ít đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. - Hệ thống thống kê số liệu kinh tế vĩ mô, tiền tệ còn hạn chế. Thống kê về GDP, lạm phát chưa hoàn chỉnh, chất lượng chưa đồng nhất, có sự khác biệt giữa các nguồn khác nhau, đặc biệt, số liệu về CPI qua các năm chưa phản ánh đúng mức độ lạm phát do cơ cấu hàng hóa tính CPI cũng như phương pháp tính còn một số bất cập. Về thống kê tiền tệ, mặc dù trong điều hành một số mục tiêu như tăng trưởng tổng
  12. 79 phương tiện thanh toán (M2), hay tăng trưởng tín dụng có thể tạm coi là mục tiêu trung gian, nhưng theo hệ thống thống kê tiền tệ của NHNN, M2 cũng chưa bao hàm toàn bộ phương tiện thanh toán của nền kinh tế. - Hạn chế về năng lực phân tích dự báo, về kiến thức kinh tế vĩ mô, kinh tế lượng, năng lực nghiên cứu, hoạch định chính sách của đội ngũ cán bộ NHNN, năng lực điều hành, phối hợp điều hành giữa các đơn vị NHNN cũng khiến cho việc thực hiện chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng thiếu hiệu quả. 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng ở Việt Nam 3.1. Duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định Chính phủ Việt Nam cần phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế bền vững gắn liền với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, kiểm soát tốt lạm phát, tránh để lạm phát biến động bất thường (tăng cao tới 22% năm 2008). Ngoài ra, NHNN cần phối hợp chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất để hạn chế tình trạng đô la hóa, và khuyến khích đầu tư bằng cách cải thiện môi trường đầu tư, thu hút đầu tư cả trong lẫn ngoài nước. 3.2. Phát triển thị trường tín dụng - Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường tín dụng, đa dạng hóa các công cụ tín dụng bằng cách tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng trng và ngoài nước tham gia thị trường, mở rộng hoạt động đầu tư, đổi mới thủ tục tín dụng, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi doanh nghiệp, đa dạng hóa phương thức tài trợ tín dụng trong sản xuất và tín dụng. - Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng và thực thi chính sách tiền tệ, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, tăng cường công tác giám sát hoạt động tín dụng ưu đãi, thực hiện minh bạch thông tin tín dụng ưu đãi, sắp xếp, phân bổ hệ thống mạng lưới tổ chức tín dụng hợp lý, tạo sự lành mạnh trong kinh doanh. - Nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả quản lý và điều hành tích cực phòng chống rủi ro bằng cách tăng vốn điều lệ cho ngân hàng thương mại, thúc đẩy nhanh chóng
  13. 80 quá trình cơ cấu lại ngân hàng thương mại, xử lý nợ tồn đọng, ngăn chặn nợ xấu phát sinh, thiết lập và hoàn thiện theo thông lệ quốc tế về hệ số an toàn vốn, thực hiện theo tiêu chuẩn mức kế toán quốc tế ở tất cả các ngân hàng. - Đổi mới cơ chế quản lý tín dụng ngân hàng của NHNN, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tín dụng. - Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và thiết lập chuẩn mực an toàn với thị trường tín dụng, trong đó, NHNN với tư cách là một cơ quan quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng cần đảm bảo quản lý khu vực ngân hàng tránh không để các ngân hàng chấp nhận nhiều rủi ro đến mức thành rủi ro hệ thống. - Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác phân tích dự báo theo mô hình kinh tế lượng. 3.3. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng Để thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trong khu vực ngân hàng, các ngân hàng cần đa dạng hóa các hình thức cho vay, nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng vay vốn, xây dựng hệ thống thông tin tín dụng, tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng, chú trọng hơn công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, đào tạo cán bộ tín dụng và thẩm định tín dụng chất lượng cao. Bằng việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, các ngân hàng sẽ có thể đẩy mạnh việc cho vay hơn, các khoản cho vay cũng an toàn hơn, đầu tư tăng và tăng sản lượng trong nền kinh tế.