Giáo trình nội bộ Mĩ thuật học - Ngành: Hội họa - Trường Cao đẳng Lào Cai
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình nội bộ Mĩ thuật học - Ngành: Hội họa - Trường Cao đẳng Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_noi_bo_mi_thuat_hoc_nganh_hoi_hoa_truong_cao_dang.pdf
Nội dung text: Giáo trình nội bộ Mĩ thuật học - Ngành: Hội họa - Trường Cao đẳng Lào Cai
- ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI TRỪỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI GIÁO TRÌNH NỘI BỘ MÔN HỌC: MĨ THUẬT HỌC NGÀNH/CHUYÊN NGÀNH: HỘI HỌA Lưu hành nội bộ Năm 2019 1
- TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình trên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
- LỜI NÓI ĐẦU Môn Mỹ thuật học bao gồm hầu hết mọi lĩnh vực tri thức mỹ thuật. Nó cung cấp những hiểu biết tối thiểu về toàn bộ mỹ thuật từ các bộ môn (hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc ), các loại hình mỹ thuật và các chất liệu mỹ thuật. Thời Cổ đại, người ta chia nghệ thuật ra làm bảy loại hình nghệ thuật tự do (artes liberales) là: trivium (3 con đường) bao gồm: Văn phạm, Logic, Hùng biện; và quadrivium (4 con đường) bao gồm: Số học (lý thuyết về các con số), Hình học (các con số trong không gian), Âm nhạc (các con số trong thời gian), và Thiên văn học (các con số trong không gian và thời gian). Mẹ của cả 7 nghệ thuật đó là Triết học. Các nghệ thuật mang tính kỹ thuật như kiến trúc, nông nghiệp, hội họa, điêu khắc, và các nghề thủ công khác được xếp ở hàng thấp hơn. Cái Đẹp thường được đưa ra như một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng nghệ thuật. Tuy nhiên, định nghĩa được cái Đẹp còn khó hơn định nghĩa được Nghệ thuật, vì cái Đẹp phụ thuộc vào văn hóa và thời gian nhiều hơn. Một phần vô cùng quan trọng và phong phú của văn minh nhân loại nói chung và mỗi dân tộc nói riêng chính là mỹ thuật, sản phẩm đẹp được tạo nên bởi con người Các nhà kinh điển (Các Mác) cho rằng do tiến hóa xã hội, muốn thưởng thức nghệ thuật phải được giáo dục về nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải biết cách dùng con mắt mình để nhìn cái đẹp trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống, đó chính là mục đích của Mỹ thuật học Lào cai, năm 2019 Người biên soạn Hà Thị Minh Chính 3
- MỤC LỤC Chương 1: Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật 6 1.3. Đặc trưng ngôn ngữ hội họa, điêu khắc 12 1.4. Đặc trưng ngôn ngữ đồ họa 15 Chương 2: Thể loại và chất liệu hội họa 16 2. Thể loại và chất liệu hội họa 16 2.1. Thể loại hội họa 16 2.1.1. Khái niệm 16 2.1.2. Các thể loại hội họa 16 2.2. Chất liệu hội họa 23 Chương 3: Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa 29 3. Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa 29 3.1. Thể loại điêu khắc 29 3.2. Chất liệu điêu khắc 29 3.3. Thể loại đồ họa 30 3.4. Chất liệu đồ họa 32 Chương 4: Phân tích tác phẩm 35 4. Phân tích tác phẩm 35 4.1. Khái niệm 35 4.2. Những kiến thức liên quan tới phân tích tác phẩm 35 4.2.1. Kiến thức về nội dung và hình thức nghệ thuật 35 4.2.2. Kiến thức về đặc trưng ngôn ngữ mĩ thuật 36 4.3. Quy trình viết phân tích tác phẩm 36 4.3.1. Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm định phân tích 36 4.3.2. Phân tích tác phẩm 37 4
- GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Mỹ thuật học Vị trí, tính chất của môn học: - Vị trí: Thực hiện trước hoặc song song với các môn chuyên ngành. - Tính chất: Môn học cơ sở ngành. Mục tiêu môn học: - Về kiến thức: + Học sinh trình bày được những kiến thức về ngôn ngữ mỹ thuật, thể loại, chất liệu hội họa, điêu khắc + Phân tích được tác phẩm mỹ thuật. - Về kỹ năng: + Có khả năng nghiên cứu tài liệu, giáo trình tự học. + Biết đọc, phân tích tác phẩm hội họa. + Sử dụng ngôn ngữ của mỹ thuật để sáng tác tác phẩm. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Tham gia tích cực vào các giờ giảng + Thể hiện năng lực tự học 5
- Chương 1: Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật Giới thiệu: Các kiến thức về ngôn ngữ mĩ thuật có thể áp dụng hàng ngày, giúp ta hiểu sâu thêm các giai đoạn, các trường phái, các trào lưu, các tác giả trong lịch sử mỹ thuật. Khi thưởng thức một tác phẩm chúng ta có thể phân tích, bình luận theo cảm nhận cá nhân. Một số kiến thức có thể được ứng dụng cụ thể khi sáng tác, cân nhắc về cách chọn bố cục, chọn gam màu, xử lý nét, mảng, nhịp điệu Mục tiêu: + Trình bày được đặc trưng ngôn ngữ hội họa. + Phân biệt được sự đồng nhất và khác biệt giữa ngôn ngữ Hội họa, Điêu khắc và Đồ họa. + Biết được sự biểu hiện của ngôn ngữ mỹ thuật thông qua việc phân tích một số tác phẩm Hội họa, Điêu khắc và Đồ họa. Nội dung chương: 1. Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật 1.1. Kênh thông tin thị giác Có 5 loại giác quan: Thị giác : mắt Thính giác : tai Khứu giác : mũi Xúc giác : da Vị giác : lưỡi Cảm giác sinh ra do thông tin được truyền qua các giác quan này về não bộ để nhận biết, xử lý và lưu giữ Trong ngũ quan, con mắt là ngũ quan số một, nó ưu việt về nhiều mặt, 90% thông tin ta thu nhận được là nhờ thị giác. Thị giác là mảnh đất ưu việt cho bộ môn mỹ thuật đồng thời là cơ sở của tất cả những bộ môn nghệ thuật khác, của tư duy hình tượng. 1.2. Các yếu tố ngôn ngữ tạo hình Khi đề cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và phân tách vai trò quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm Như chúng ta đã thấy, ánh sáng chiếu vào những hình thể trong vũ trụ, tạo nên đường nét. Đường nét có thể là đen, là trắng, là xám, cũng có thể to hoặc nhỏ và không bắt buộc phải liên tục. Tùy theo tính chất và vị trí của đường nét, tùy theo những đường viền kết hợp thành nó, nên đường nét có thể làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác nhau. Đường nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh : thẳng, cong hay gẫy khúc, nó có thể cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh không có đường 6
- nét lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vô hình là đường nét chính) cho người xem. Đưòng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo. Đường nét có thể đặt theo những nhịp điệu có nhiều tương ứng với chúng ta, bởi vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên và nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy thuộc loại hình ảnh trình bày không thay đổi từ ngàn xưa. Như vậy người ta ghép ý nghĩa trang nghiêm với đường dọc, phẳng lặng với đường ngang, sống động với đường chéo. Và đường thẳng vẫn có ý nghĩa là cứng rắn, là nghiêm khắc, đường cong diễn tả sự rung cảm và sự trọn vẹn, đường gấp diễn tả sự sống động và hỗn loạn. Sự cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét và những mảng đậm lợt. Vì cân xứng không có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố cục bằng hai cách: Bố cục cân đối Bố cục không cân đối Bố cục cân đối Theo toán học: Cân đối là hai đối xứng ở hai hình bằng nhau, cách đều nhau hai bên một điểm hoặc một cái trục nhất định. Nghệ Thuật : Về phương diện nghệ thuật, cân đối là sự phù hợp về kích thước, về tương xứng của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy với toàn cục. Kết quả là một tổng hợp điều hòa tẻ nhạt về hình thức mà những tương xứng phối hợp lại một cách đều đặn. Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ thời cổ thường dùng nó để khai diễn những đề tài tôn giáo, những hình thái khắt khe, cứng rắn một cách trang trọng. Người ta thường dùng nó cho những ảnh về lâu đài, nhà thờ v.v Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và bố cục cân đối là một cách bố cục đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi. Nếu bố cục theo hình tam giác thì nó sẽ có sự linh động phần nào trong toàn thể. Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng tránh được càng tốt. Tuy nhiên có khi người ta muốn nghịch ngợm, dùng cách bố cục cân đối để nhạo cổ điển. Bố cục không cân đối Bố cục không cân đối là nguồn cảm hứng phóng khoáng của nghệ sĩ. Nó không có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác giả. Đối với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt chẽ với phép phối cảnh. Đường nét là nền tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó làm địa bàn đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh. Nhưng nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì 7
- những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đề tài mà mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót. Đường nét là yếu tố sáng tác của nghệ sĩ, nhưng khi không đạt được sự gợi cảm, thì dùng đường nét chỉ là đường nét mà không là nghệ thuật. Có nhiều cách bố cục, nhưng có một cách giản dị là bố cục theo mẫu chữ cái. Mỗi một chữ theo bản thể của nó là một bố cục đồ bản trên một diện tích trắng hay là trong không gian. Có một số chữ theo với bố cục đồ bản trội hơn những chữ khác. Nhưng phần nhiều những chữ được áp dụng là những chữ giản dị trong sự không cân đối của nó : G, Z, J, C, S, U, L, I, v.v Trong bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng nhau, phần trời và phần đất đều nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và mắt cứ đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để chân trời ở giữa tùy theo sự suy diễn của tác giả.) Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3 dưới tùy theo tác giả muốn đặt phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần dưới: như muốn tả về trời, về mây thì để chân trời ở 1/3 dưới, còn nếu muốn nhấn mạnh về cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất thì để đường chân trời ở 1/3 trên. Sự gợi cảm bằng đường nét Sự phù hợp giữa đường nét và tâm hồn: Ta phải tập nhìn ra đường nét ngay lúc đóng khung cho ảnh để chụp để có thể áp dụng những quy tắc bố cục. Có bốn loại đường nét thường dùng trong bố cục : Đường ngang Đường dọc Đường chéo Đường cong Những loại đường này có thể dùng riêng biệt hoặc phối hợp tùy theo loại và tùy theo chủ đề của ảnh. Làm sao những đường nét chỉ có hình thức trừu tượng mà lại có mãnh lực rung cảm? Nếu chúng ta nghiên cứu một số những tác phẩm hội họa thì ta thấy bố cục của những họa sĩ danh tiếng thường đặt căn bản trên vài hình thức kỷ-hà-học. Không phải chỉ có hội họa mà còn cái gì do người tạo ra đều tìm đến hình thức sắp xếp của Kỷ-hà- học vì nhãn quan của người ta đã bị giáo dục theo cái cân xứng sắp xếp đó, vô tình chúng ta đã tìm những đường mạnh của bố cục để căn cứ vào đó mà suy tưởng và cảm xúc. Bố cục của vũ trụ đặt căn bản trên hình thức kỷ-hà-học nên làm cho cảm giác chúng ta bị những hình thức kỷ hà ăn sâu và chi phối. Thí dụ khi nói đến kim-tự-tháp Ai-Cập là ta nghĩ ngay đến hình chóp bốn góc, khi nói đến nhà thờ ta nghĩ ngay đến tháp chuông cao vút với vẻ uy nghi. 8
- Như vậy là có sự liên quan chặt chẽ giữa sự xây dựng đường nét của ảnh với sự truyền cảm của tâm hồn. Nếu ta chú ý đến sự phù hợp đó ta sẽ kiểm điểm được bố cục của ta. Ngôn ngữ rung cảm của đường nét : Ta nhận thấy những loại đường nét gợi cho trí óc chúng ta cái cảm tưởng khá rõ ràng để nhận định cái ý nghĩa riêng biệt của nó. Cũng đôi khi cái cảm tưởng đó vượt khỏi tầm phân tách của ta. Những sự phù hợp sẵn có giữa đường nét và cảm giác đã được nghiên cứu kỹ càng và được dùng cho bộ môn kiến trúc và trang trí, thì người nhiếp ảnh chúng ta cũng có thể áp dụng nó được. Như vậy ta có thể khái niệm rằng: đường thẳng có nghĩa riêng là phù hợp với nghị lực và bền bỉ biểu lộ sự cương quyết mà đường cong không có được , vì nó chỉ có thể gợi cho ta ý mềm dẻo, yếu đuối và kết tụ. Đường cong cũng thuận cho cách gợi ra đều đặn, quý phái mà khi ngắm đường gẫy khúc không thể có được. Đường gẫy khúc khi cứ kéo dài mãi thì với sự chập chờn và run rẩy của nó cho ta cảm tưởng linh động. Nhưng đường nét lại còn cho ta nhiều cảm tưởng đặc biệt tùy theo vị trí của nó và cách xếp đặt. Ai lại không biết là đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu lộ sự lâu dài. Trái lại đường dọc gợi cho cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng trang nghiêm, cao quý. Chúng ta chợt có những cảm giác lạ khi ta ngắm đường ngang mặt biển trải rộng mênh mông hầu như vô tận trước tầm mắt chúng ta, hay khi ngắm cây tháp cao vút của ngôi giáo đường, ta thấy lân lâng lên mãi như dễ đụng tới từng mây. Những cảm giác đó tăng độ lực và phát hiện với những đường lập đi lập lại và giảm bới đi khi có những đường nghịch với nó. Góc cạnh là do sự gặp nhau của hai đường hội tụ mà thành và gợi cho những cảm giác do đường nghiêng nghiêng của cạnh. Góc cạnh càng thu hẹp thì cảm tưởng càng nhiều và giống như cảm tưởng phát sinh bởi cái ngắn của đường dọc. Góc cạnh càng mở rộng cảm giác có thể gần gũi đến lẫn lộn với cái ngắn của đường ngang. Như thế những đường của hình chóp và hình tam giác cho ta ý niệm lạ, lâu dài,, bền bỉ, vững vàng. Tùy theo hình dáng cân xứng của hình tam giác mà ta sẽ thấy hợp với đường ngang hay với đường dọc: hình tam giác cạnh dưới (đáy) hẹp và mỏng mảnh sẽ thoảng thấy như đường dọc. Hình tam giác cạnh dưới (đáy) rộng sẽ thấy như đường ngang. Hình tam giác gợi cảm giác vững chắc và sống động mà khi thêm vào đó những đường chéo sẽ cho cảm tưởng hoạt động và nhịp nhàng. Đường hội tụ cũng có thể gợi cho ta sự thoát ra, sự vô tận. Tùy theo vị trí của điểm tụ mà những đường đó cho ta cảm tưởng đi lên hay cảm tưởng về chiều sâu. 9
- Đường chéo gợi sự hoạt động, tốc độ. Nếu bắt chéo nhau, nó biểu lộ sự lẫn lộn, sự không thăng bằng, sự hằng hà sa số. Nếu nó vượt khỏi một điểm thì đó là phóng ra, là tia ra, là đụng chạm và là bạo hành. Nếu nó được phân chia đều đặn, nó cho ta cảm giác vững vàng. Đường cong cũng không có được tính chất rõ ràng như đường thẳng. Ta cũng thấy những đường cong rất mỹ miều hấp dẫn như trong thế giới thảo mộc, trong thế giới động vật lúc còn nhỏ và nó mất dần đi khi cằn cỗi già nua, và cũng như thấy đường cong đậm tính chất uy nghi gần nghĩa điều hòa khi nó mô tả đạn đạo vòng cầu. Đường cong dùng để nối liền những yếu tố trong bố cục và ráp lại những phần trong bố cục. Vì sự quan trọng của nó nên trong nhiều trường hợp nếu thiếu nó thì bố cục không thành. Hình: 1.1 Hình 1.2. Hình 1.3 Hình 1.4 Hình: 1.5 Hình 1.6 Hình 1.7 10
- Hình 1.8 Hình 1.9 11
- 1.3. Đặc trưng ngôn ngữ hội họa, điêu khắc Ngôn ngữ điêu khắc Khái niệm: Nói tới Điêu khắc là nói tới đục dẽo, khắc, chạm trên bề mặt của các vật cứng hay tạc, đổ, đắp, nặn bằng các vật liệu khác nhau để tạo ra hình khối. Các bề mặt vật liệu như: đá gỗ, kim loại, thạch cao, chất dẻo nhằm khắc họa cuộc sống, mang đến cho người thưởng thức những tư tưởng, tình cảm, những cảm xúc nhất định. Nghệ thuật điêu khắc tạo hình bằng cách phối hợp các hình khối trong không gian, qua đó nhà điêu khắc biểu hiện những ý tưởng nghệ thuật của mình. Tác phẩm điêu khắc mang những đặc trưng khác với các loại hình nghệ thuật khác. Nó tồn tại như một vật thể có trọng lượng, khối, có thể tích và chiếm lĩnh không gian. Ngôn ngữ của điêu khắc chính là hình khối, màu sắc, đường nét. Khối: Khái niệm về khối bao gồm ba tương quan chủ yếu: Sự chiếm chỗ trong không gian Cảm giác về tính chất vật lý của chất liệu Cảm giác về hình – như là một sự trừu tượng hóa khối lên một bề mặt Nếu ngôn ngữ của hội họa là hình khối, màu sắc, đường nét, là biểu hiện không gian thực trên mặt phẳng hai chiều thì ngôn ngữ của điêu khắc là mảng khối, là quan hệ của tác phẩm điêu khắc với không gian đa chiều xung quanh Ngôn ngữ khối của điêu khắc được khai thác rất đa dạng ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các nhà điêu khắc hiện đại không chỉ sử dụng tròn, chắc, đóng kín mà đi vào khai thác những khối tương phản đối lập như khối lồi, lõm, đặc, thủng, khối đóng, khối mở việc kết hợp khối tương phản này đã tạo ra nhiều hiệu quả mới lạ và đầy biểu hiện đối với thị giác Khi ánh sáng chiếu vào một vật nào đó trong không gian sẽ giúp ta cảm nhận được hình khối của vật đó. Khối lồi và khối lõm, sự tương phản về khối sẽ gợi ra những cảm xúc thẩm mỹ khác nhau hoặc ngược chiều Đường nét: Trong điêu khắc, đường nét đôi khi được tạo nên chính bởi sự xử lý các khối. Và một phần khác, chính các nghệ sĩ sử dụng nét để xử lý cùng đồng thời phối hợp hiệu quả cùng với khối, hòa nhập ăn ý với nhau để tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm Bề mặt tượng: Bề mặt tượng cũng là một yếu tố ngôn ngữ. Khối không chỉ được cảm thụ ở sự chiếm chỗ của nó trong không gian mà còn cảm thụ cả tính vật chất của khối đó nữa. Do con mắt làm được một phần chức năng của xúc giác nên tuy không sờ vào mặt tượng, mắt ta vẫn có cảm giác về các tính chất của vật chất này.Bề mặt tượng và kết cấu tượng cho một cảm giác cụ thể. 12
- Bề mặt tượng có hai khía cạnh, một là nó đại diện mặt cắt trừu tượng của một khối nào đó và hai là bề mặt tự nhiên do chất liệu sinh ra. Quá trình gia công chất liệu là biểu hiện vật chất cụ thể của quá trình sáng tác điêu khắc. Do vậy kết cấu bề mặt, tính chất của chất liệu thể hiện qua bề mặt là một phần của ngôn ngữ khối, quan hệ của khối với bề mặt của nó là không thể tách rời Vẻ đẹp chuẩn mực, thánh thần của tượng “Người ném đĩa” hay “Vệ nữ Milô” hay phù điêu Pác-tê-nông của điêu khắc Hy Lạp cổ điển có được một phần nhờ chất nhẵn của đã cẩm thạch. Chất đá xanh rắn với khối vuông vức, bề mặt nhẵn đanh lại là một phẩm chất của điêu khắc Ai Cập. Điêu khắc Ấn Độ, Chàm ưa thích cái nóng ấm da thịt, ưa cái xốp, bắt nắng, bắt sáng ấm áp của các loại đá cát. Bề mặt tượng còn liên quan tới yếu tố đường nét trên tượng, như ta thường thấy trong nhiều chùa, tượng Phật thường nhẵn láng kết hợp với đường nét mềm mại, thể hiện sự nhu hòa, còn các vị La Hán thường thô nhám và khúc khuỷu, thể hiện sự khắc khổ. Không gian: Điêu khắc là nghệ thuật chiếm chỗ trong không gian và kiến trúc là nghệ thuật phân chia không gian trong các khối. Vậy nên cũng có thể coi khối và không gian là một. Bản chất của khối là tạo không gian và bản chất của không gian là tạo khối. Khối rỗng chứa trong lòng nó một phần không gian, khối đặc thì vật chất của khối chiếm phần không gian ấy Có ba loại không gian khối: Không gian bao bọc lấy khối xung quanh bề mặt của tác phẩm, khối gây cảm giác chiếm chỗ mạnh mẽ, chắc chắn. Khối có sự len lỏi của không gian bên ngoài vào bên trong lòng nó. Sự chiếm chỗ ít khẳng định hơn, giao lưu giữa khối và không gian vây quanh tích cực hơn. Khối chính là không gian bên ngoài vào bên trong lòng nó. Tác phẩm điêu khắc được gắn với không gian thực. Không gian đặt tượng cũng góp một phần làm tăng giá trị cho tác phẩm điêu khắc. Nếu đặt đúng chỗ, đúng điều kiện ánh sáng, đúng môi trường sẽ làm cho tác phẩm đẹp thêm lên, và ngược lại. Trước khi làm một tác phẩm điêu khắc, ngoài việc suy nghĩ tìm ra cho tác phẩm một cách thể hiện, thì việc tìm hiểu về môi trường, nơi sẽ đặt tác phẩm cũng vô cùng quan trọng. Tác phẩm điêu khắc có liên quan mật thiết với cảnh quan, môi trường, kiến trúc. Đó là môi trường “sống” của một tác phẩm điêu khắc. Có được như vậy, nó mới phát huy hết chức năng của mình. 13
- Tính đa chiều của sự xử lý khối cũng tạo nên hiệu quả khi không gian và khối tượng sẽ tạo những đường hướng phong phú, nhà điêu khắc phải nghĩ tới ánh sáng, môi trường xung quanh. Tuy nhiên có những vị trí đặt tượng mà không cần phải xử lý ở nhiều đầy đủ các hướng mà tập trung giải quyết ở hướng chính, hướng quan trọng nhất, tuy nhiên vẫn luôn phải đảm bảo sự phụ trợ xử lý khối thành công ở các hướng phụ. → KL: Việc giải quyết không gian tượng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các hướng đi của người xem được xem xét như một yếu tố biểu đạt. Những khối tượng được tính toán các hướng nhìn, tầm nhìn chính phụ khác nhau. Mặt chính, hướng chính, không gian tiếp cận chính được ưu tiên và nhấn mạnh. Chủ đề tượng cũng như nghệ thuật thể hiện ở hướng chính cũng là trọng tâm về nội dung và hình thức tác phẩm. Thưởng thức: Khi thưởng thức một tác phẩm điêu khắc, người xem không chỉ được thỏa mãn một giác quan thị giác mà còn có thể cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan khác. Người thưởng thức có thể cảm nhận được sự mềm, lạnh, trơn nhẵn của đá; sự thô ráp, rắn chắc của xi măng, sự ấm áp, sự thô mộc của gỗ Như vậy, với tác phẩm điêu khắc, nhất là tượng tròn, ta có thể đi xung quanh ngắm nhìn, thưởng thức vẻ đẹp của pho tượng, có thể sờ mó để cảm nhận xúc cảm thẩm mỹ đưa lại từ chất liệu. Hình: 1.10 14
- Hình: 1.11 1.4. Đặc trưng ngôn ngữ đồ họa Đường nét, chấm, vạch Trong hội họa, đường và nét luôn đi song hành với nhau, đường chỉ ra một hướng, đường làm nên nét, tập hợp của nhiều đường đơn lẻ tạo ra nét vẽ và ngược lại, sự tập hợp củ nhiều né vẽ cũng tạo ra đường hướng nhất định trong tranh. Cũng tương tự như vậy, đồ họa sử dụng đường nét, chấm, vạch là ngôn ngữ chính, chủ yếu và cơ bản để thể hiện. Trong một số tác phẩm yếu tố mảng à màu trở thành thứ yếu, đường và nét trở thành cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tạo nên đường viên, tạo hình cho tác phẩm. Mảng, màu Song song với các đường nét, chấm vạch đồ họa còn dùng mảng màu. Các mảng trong đồ họa có khi do đường nét bao quanh mà thành, có khi do tập hợp củ nhiều chấm, nhiều nét tạo nên. Mảng tạo cho hình vững chãi, tạo độ đậm nhạt, khả năng diễn tả nông sâu, khả năng tạo khối. Màu và mảng góp phần tạo nên tiếng nói của tác phẩm với người xem. 15
- Chương 2: Thể loại và chất liệu hội họa Giới thiệu: Hội họa có những thể loại nào? Hội họa dùng những chất liệu gì để vẽ tranh? Lịch sử phát triển của cá thể loại và chất liệu vẽ tranh như thế nào? Tất cả các yếu tố đó là nội dung của chương 2. Có những kiến thức về thể loại và chất liệu vẽ tranh sẽ giúp ta phân biệt rõ ràng các loại tranh, hiểu sâu hơn về hội họa. Mặt khác, trong quá trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm hộ họa, đây cũng là những yếu tố quan trọng. Mục tiêu: + Người học trình bày được khái niệm, phân biệt được các thể loại và chất liệu vẽ tranh. + Phân biệt được đặc điểm của từng thể loại hội họa. Nội dung bài: 2. Thể loại và chất liệu hội họa 2.1. Thể loại hội họa 2.1.1. Khái niệm Hội hoạ là loại hình nghệ thuật tạo hình, dựa vào nội dung, đề tài, tác phẩm thể hiện mà phân chia thành những thể loại nhỏ hơn. Bức tranh vẽ về con người và bộc lộ cá tính, tính cách, đặc điểm riêng về ngoại hình, nội tâm được gọi là tranh chân dung. Tác phẩm vẽ về con người, nhưng những con người chung chung đặt trong các sinh hoạt, hoạt động, công việc lại được gọi là tranh sinh hoạt. Ngoài ra, người ta còn dựa vào đặc điểm, tính chất, hình thức thể loại hay khuôn khổ của bức tranh mà Hội hoạ có thể phân chia thành các thể loại: Hội hoạ giá vẽ và tranh tường (bích hoạ). Ngoài hai cách phân chia trên, còn cách phân chia thể loại dựa vào đặc điểm địa lý của từng quốc gia, từng khu vực (phương Đông, phương Tây ) Ở đây xin tập trung tìm hiểu cách phân thể loại theo kiểu châu Âu (thể loại tranh sinh hoạt, tranh chân dung, tranh lịch sử, tranh phong cảnh, tranh tĩnh vật). 2.1.2. Các thể loại hội họa Tranh sinh hoạt Khái niệm: Tranh sinh hoạt là thể loại tranh diễn tả về những hoạt động trong cuộc sống của con người diễn ra hàng ngày. Đề tài rất phong phú và đa dạng, tất cả mọi khía cạnh, mọi hoạt động của của con người đều được khai thác và xây dựng thành tác phẩm. Lịch sử và sự phân loại 16
- Là thể loại tranh ra đời sớm nhất, ngay từ thời Nguyên thuỷ, đã có rất nhiều bức họa mô tả các hoạt động trong đời sống hàng ngày của người nguyên thuỷ (săn thú, đánh cá ) Ở thời Cổ đại, tranh tường về đề tài sinh hoạt xuất hiện nhiều trong các lăng mộ, đền thờ làm nhiệm vụ minh hoạ, tả, kể về cuộc sống lao động, các hoạt động tôn giáo (bích hoạ Ai Cập) Lúc đầu tranh sinh hoạt chủ yếu tập trung vào đề tài cung đình và cuộc sống trong cung đình. Đến thế kỷ XVII, tại Hà Lan xuất hiện những tranh sinh hoạt của thị dân. Nhưng đến thế kỷ XIX mới có những cảnh sinh hoạt giản dị đề cập đến mọi mặt của đời sống thị dân (Cuốc-bê, Vec-me) Bên cạnh những cảnh sinh hoạt của thị dân còn có thể loại tranh mô tả những cảnh sinh hoạt của thần thánh theo kiểu “thần nhân đồng hình”, đề tài được lấy từ nguồn “Thần thoại Hy Lạp” và xuất hiện nhiều nhất ở thời Phục Hưng (tranh minh hoạ). Tranh sinh hoạt được chia thành các loại: + Tranh sinh hoạt hiên thực + Tranh sinh hoạt thần thánh + Tranh sinh hoạt tôn giáo + Tranh sinh hoạt lịch sử Trong đó có thể thấy 3 mảng đề tài: Cung đình, thị dân và hiện thực. Đặc điểm của tranh sinh hoạt Tranh sinh hoạt thường mang tính chất mô tả, diễn tả hiện thực thẩm mỹ đã làm rung động cảm xúc của người hoạ sĩ Tranh sinh hoạt mang đậm tính chân thực và sống động. Hình: 2.1. 17
- Những người thợ đập đá – Cuốc bê Hình: 2.2 Thể loại tranh chân dung Tranh chân dung có vị thế quan trọng và lâu đời trong lịch sử hội họa, trải qua thời gian dài của lịch sử sáng tạo, tranh chân dung luôn được các họa sĩ tìm tòi, thể nghiệm và đã có nhiều kiệt tác nghệ thuật. Tranh chân dung tự bản thân nó mang một cái nhìn về một con người cụ thể, sống động. Tái hiện chân thực hình tượng nhân vật về diện mạo, về thần khí, về tính cách và gắn kết nhân vật với cuộc sống hiện tại. Khái niệm Tranh chân dung là một thể loại căn bản của hội hoạ. Tranh thường vẽ một người hay một nhóm người. Đối tượng của tranh chân dung là các nhân vật quan trọng, các anh hùng, vĩ nhân, các nhà văn hoá, các nhà khoa học mà hình ảnh của họ được giữ gìn và lưu truyền cho đời sau Ngoài tranh chân dung về một con người hay một nhóm người cụ thể mà còn có loại tranh mang tính tiêu biểu cho một tầng lớp người nào đó trong xã hội, lý tưởng hoặc bắt nguồn từ trí tưởng tượng nào đó của hoạ sĩ. Cũng có khi hoạ sĩ tự lấy hình ảnh của mình để gửi gắm và bộc lộ những tâm tư tình cảm và những quan điểm sống – chân dung tự hoạ. Lịch sử phát triển và sự phân chia thể loại của tranh chân dung 18
- Hình: 2.3 Thể loại tranh chân dung xuất hiện sớm, từ thời Cổ đại, trong các hầm mộ với những bức chân dung sống động cực thực (quan niệm linh hồn người chết cần có ngôi nhà để đi về). Đến thế kỷ XV, giá trị của con người được đề cao (tư tưởng chủ đạo của nghệ thuật PH-Lê, Mi, Ra ) tranh chân dung phát triển rực rỡ. Với những bức chân dung Giáo hoàng, chân dung phụ nữ đến ngày nay vẫn nguyên giá trị. Thế kỷ 17, xuất hiện những trường hoạ chân dung nổi tiếng ở Hà Lan và đại diện tiêu biểu là Phờ-răng-xơ Han (Frans Hals), Rem-bờ-răng (Rembrandt), Giắc-cơ Lui Đa- vít (Jacques Louis David), Đô-mi-níc-cơ Anh-grơ (Dominique Ingres). Và có nhiều hoạ sĩ nổi tiếng với những bức chân dung tự hoạ như: Vangogh, Gauguin, Rembrandt Ở Việt Nam Tranh chân dung phát triển cùng các thể loại khác với các hoạ sĩ TNV, TVC, Huỳnh Văn Gấm tuy nhiên thì số lượng và chất lượng còn hạn chế so với thế giới. Phân chia Có nhiều tiêu chí phân chia thể loại tranh chân dung. Ở đây, chúng ta sẽ chia các thể loại tranh chân dung theo tiêu chí hiện thực, lý tưởng và chân dung tự hoạ. Tranh chân dung hiện thực Đặc tả về tâm lý, ngoại hình, tính cách, nội tâm sâu kín của nhân vật, người xem có thể cảm nhận được tâm trạng, toan tính, suy tư và những dấu ấn của từng chặng đường trong cuộc đời một nhân vật có thật. 19
- Với mục đích diễn tả cái đẹp, cái chân thực cụ thể của từng người, từng khuôn mặt. Đồng thời qua vẻ đẹp ngoại hình bộc lộ được bản chất bên trong và lưu giữ được hình ảnh một con người với đầy đủ dáng vẻ, diện mạo và tính cách của họ. Bên cạnh đó còn có loại tranh chân dung tập thể. Là tập hợp nhiều người được sắp xếp bố cục rõ ràng nhưng phải mang đặc điểm riêng về chân dung và đặc điểm cụ thể của từng cá nhân riêng biệt. (Tuần đếm, còn có thể có những tác phẩm nào nữa?). Tranh chân dung tự hoạ Hầu hết các hoạ sĩ vẽ tranh chân dung đều có tranh tự hoạ. Tự họa là đối thoại, là thông qua hình ảnh của bản thân mình để bộc lộ những tình cảm, tâm trạng, là biểu hiện thế giới quan của mình đối với thực tế, biểu hiện quan điểm sống tất cả như một bản tự sự của tác gải đối với người thưởng thức để khẳng định mình và như để được chia sẻ và cảm thông. Các họa sĩ vẽ chân dung tiêu biểu: Rembrandt, Vangogh, Picasso. Ở Việt Nam có Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Phan Chánh Tranh chân dung lý tưởng Là thể loại được xây dựng dựa trên những đặc điểm tiêu biểu, tượng trưng, mẫu mực cho một kiểu, mẫu người nào đó trong xã hội. Những hình thức biểu đạt của tranh chân dung Chân dung chỉ diễn tả gương mặt Chân dung bán thân: chú ý đến những đặc điểm chi tiết và những nét biểu hiện tình cảm, cảm xúc, diễn bếin tâm lý của nhân vật. Chân dung bán thân: biểu hiện nửa người, thêm phần tay – đôi bàn tay góp phần quan trọng bộc lộ tính cách, cuộc sống và thần thái của nhân vật. Chân dung toàn thân: cho người xem biết đặc điểm gương mặt, tình cảm, cá tính và còn biểu hiện dáng vẻ, hình ảnh hoàn thiện của một con người, một nhóm người trong những dáng động phong phú. Thường thì những chân dung loại này còn kết hợp với không gian thực, một số tuỳ thân, hoa hay các con thú nuôi như chó, mèo, chân dung các quý tộc, hoàng thân thường được vẽ đang cưỡi ngựa với trang phục uy nghiêm. Thể loại tranh lịch sử Khái niệm Là loại tranh phản ánh về lịch sử xã hội loài người, có thể để cập đến một sự kiện lịch sử, một nhân vật trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân loại, một giai đoạn cách mạng Đề tài lịch sử được quan tâm và đặc biệt coi trọng ở châu Âu trong nhiều thế kỷ, từ Phục Hưng đến tận thế kỷ XIX và đề tài ưa thích là không khí hào hùng thời La Mã cổ đại. Ngày nay thì dòng tranh này ít được ưa chuộng và kém phát triển so với các dòng tranh khác. Lịch sử phát triển của tranh lịch sử 20
- - Thế kỷ XIII-XV có những tranh mang tính chất thần bí, tôn giáo, mà thời bấy giờ người ta coi những nhân vật trong thần thoại hay tôn giáo là những nhân vật có thật, qua những tác phẩm đó hướng con người thêm lòng tin vào Chúa và sự hiện diện của Chúa cho nên có thể nói rằng thể loại tranh lịch sử xuất hiện tại thời điểm này. - Thế kỷ XVII ở châu Âu xuất hiện những tầng lớp thị dân mới đang vươn lên thay thế giai cấp phong kiến, nên hội hoạ cũng xuất hiện những tác phẩm ghi lại những nhân vật, những sự kiện lịch sử đã và đang xảy ra. - Các hoạ sĩ tiêu biểu của thế giới: Louis David, Rivera - Ở Việt Nam, những hoạ sĩ với những tác phẩm: Phạm Ngũ Lão – Thang Trần Phềnh, Trận Tầm Vu - Nguyễn Hiêm, Xô viết Nghệ Tĩnh - Phạm Văn Đôn, Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận - Tranh lịch sử có thể phân chia thành 3 loại: Tranh lịch sử tôn giáo, thần thoại Tranh lịch sử cách mạng, chiến trận Tranh vẽ một nhân vật lịch sử Đặc điểm, tính chất của tranh lịch sử - Tác phẩm phản ánh một cách trung thành các sự kiện lịch sử, hoạ sĩ phải nghiên cứu kỹ lịch sử, nghiên cứu kỹ các hình tượng nhân vật cụ thể cùng với thế giới quan của giai cấp mình để phân tích, xây dựng hình tượng nhân vật. - Hoạ sĩ phải chọn lọc những sự kiện điển hình, nổi bật, nêu lên được tầm khái quát của lịch sử (bức tranh “Trao chìa khoá thành Brêđa”). - Tranh lịch sử có tác dụng nhắc nhở mọi người nhớ về truyền thống, trên cơ sở đó khơi dậy niềm tin, lòng yêu nước, nuôi dưỡng nhiệt tình cách mạng, hiểu biết sâu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. - Thể loại tranh này luôn có mặt và đóng góp xứng đáng vào kho tàng chung của hội họa những tác phẩm tồn tại vĩnh cửu cũng giống như sự tồn tại của lịch sử. Tranh lịch sử là một thể loại cơ bản của Hội hoạ. Thể loại tranh phong cảnh Khái niệm Phong cảnh là những cảnh tượng tự nhiên. Tranh phong cảnh là thể loại tranh lấy thiên nhiên là đối tượng miêu tả chính. Là thể loại tranh góp tiểng nói ca ngợi vẻ đẹp của quê hương xứ sở. Qua những bức họa đó người nghệ sĩ gửi gắm lòng mjnhf, bộc lộ tình cảm, tình yêu của mình đói với thiên nhiên đất nước. Lịch sử phát triển Thời kỳ Phục Hưng, tranh phong cảnh đã manh nha xuất hiện như những phông nền cho những bức tranh sinh hoạt, tôn giáo hay chân dung. 21
- Đến thế kỷ XVII, tranh phong cảnh thực sự trở thành một thể loại hội họa ở Hà Lan. Các họa sĩ Hà Lan say mê vẽ phong cảnh như vẽ chân dung – đây chính là chân dung của đất nước Hà Lan xinh đẹp. Các tên tuổi như: Vermeer, Jacob Van Ruidael. Thế kỷ XVIII ở Pháp xuất hiện trường hoạ cảnh Bác-bi-dông với đề tài là những phong cảnh lãng mạn. Thế kỷ XIX, các hoạ sĩ đối diện với thiên nhiên, ghi lại những cảm xúc mãnh liệt của mình trước tự nhiên bằng những nét bút ào ạt, mạnh mẽ. Các tên tuổi: Poussin, Claude Lorrain, Jean-Baptiste-Cami Cozot, Jonh Constable, Vangogh, Cezanne Các hoạ sĩ phương Đông lại diễn tả phong cảnh theo lối “gợi”, không gian ước lệ, không bị ràng buộc bởi thực tế, cốt sao nêu được cái tinh thần của phong cảnh. Trung Quốc và Nhật Bản thấm nhuần đạo lý, tính tượng trưng cao và có ý nghĩa sâu sa. Thể loại tranh phong cảnh của Trung Quốc còn đề thơ, tranh và thơ hoà quyện vào nhau thành một bố cục chặt chẽ. Trung quốc nổi tiếng với thể loại “sơn thuỷ’. Ở Việt Nam, tranh phong cảnh cũng khá phát triển với các chất liệu Sơn dầu, Sơn mài, Lụa Đặc điểm và sự phân loại Đặc điểm Diễn tả xuyên suốt, biểu hiện thiên nhiên ở mọi nơi, mọi lúc. Để diễn tả được thiên nhiên đòi hỏi người hoạ sĩ phải có con mắt quan sát tinh tường và một tâm hồn nhạy cảm và một tình yêu thiên nhiên. Tranh phong cảnh phản ánh chân thực các hiện tượng, cảnh tự nhiên, qua đó chúng ta có thể cảm nhận được những địa điểm, địa danh của quê hương đất nước. Với thể loại này, hoạ sĩ có thể tạo nên những kiến trúc cổ đại, những con người và những con người và sự tích cổ bên cạnh đó còn kèm thêm yếu tố lịch sử vào tranh. Hoạ sĩ tiêu biểu: Pút-sanh, lo-ranh, Lê-vi-tan, Vangogh. Ở Việt Nam với những tên tuổi: Phan Kế An, Trần Đình Thọ, Lương Xuân Nhị Phân loại Dựa vào nội dung diễn tả hoặc hình thức biểu đạt để phân loại tranh: phong cảnh điểm người, phong cảnh nông thôn, phong cảnh đô thị Dựa vào hình thức có các thể loại: phong cảnh lịch sử, phong cảnh lãng mạn, phong cảnh ấn tượng, phong cảnh lập thể Thể loại tranh Tĩnh vật Khái niệm Tranh tĩnh vật là tranh thể hiện những đồ vật: trái cây, bình, lọ , các con vật đã chết hoặc đã được nhồi bông được ý thức sắp xếp trong một bố cục nhất định với trạng thái tĩnh. 22
- Tranh Tĩnh vật không đơn thuần là một thể loại tranh giải trí vô hồn, thiếu sức sống vì thông qua tác phẩm, người nghệ sĩ đã gửi gắm tình cảm, tư tưởng và thái độ của mình với cuộc sống, với quê hương, đât nước. Lịch sử phát triển Đến thế kỷ XVII, ở Hà Lan thể loại này mới thực sự trở thành một thể loại tranh độc lập. Với tên tuổi: Ca-ra-va-giô, Empoli Thế kỷ XVIII, với các tên tuổi như: Cezanne, Vanghogh, Gauguin Thế kỷ XIX với tên tuổi: Picasso, Ở Việt Nam, nhiều thế hệ hoạ sĩ vẽ Tĩnh vật với những chất liệu phong phú: Phan Kế An, Lương Xuân Nhị, Lê Huy Hoà, Nguyễn Tư Nghiêm Đặc điểm Tranh Tĩnh vật cũng được coi là một thể loại nghệ thuật Salon, vì thể loại tranh Tĩnh vật cùng với tranh Phong cảnh có ưu thế trang trí cao, nên được sử dụng nhiều trong trang trí nội thất. Là thể loại dễ xem, dễ cảm nhận nên được đông đảo công chúng đón nhận nên cơ hội phát triển cao cả về số lượng và chất lượng. 2.2. Chất liệu hội họa Sơn dầu Hình 2.4 Là một loại họa phẩm được làm từ sắc tố (pigment), thường dưới dạng bột khô được nghiền kỹ với dầu lanh (cây gai), dầu cù túc hay dầu óc chó. Tuy nhiên, việc chế màu đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn để tránh pha trộn, gây những phản ứng hóa họcgiữa các chất màu bởi sắc tố có thể là nguyên liệu khoáng, nguyên liệu hữu cơ hoặc nguyên liệu hóa học. 23
- Sơn dầu không thấm nước, có độ dẻo và độ che phủ mạnh (dễ dàng phủ kín lớp sơn khác ở dưới, trừ các màu có tính đặc biệt) và rất lâu khô Cũng có lúc người ta dùng từ "màu dầu" thay cho từ "sơn dầu" với ý định chỉ chất liệu dùng trong tác phẩm. Quá trình tìm ra sơn dầu Từ xa xưa, khi bắt đầu biết vẽ, con người đã chủ ý tìm kiếm những chất liệu tốt để vẽ và mong tranh có màu sắc đẹp bền vững. Ngay từ thời cổ đại, con người đã biết dùng màu trộn với dầu để vẽ, nhưng chất liệu lúc này vẫn rất thô sơ, còn nhiều nhược điểm và hạn chế. Trải qua thời gian, nhiều thế hệ họa sĩ đã dày công tìm tòi nguyên liệu, mày mò tự chế ra sơn vẽ. Nhưng phải đến thời anh em họa sĩ Jan van Ecyk (khoảng 1390-1441) họ mới có thành công lớn trong việc hoàn thiện và phát triển kỹ thuật vẽ chất liệu sơn dầu. Màu sắc sơn dầu đến thời kỳ này đã trong trẻo tươi sáng hơn, có độ bóng đẹp, không thấm nước, bền vững và chịu được thử thách của thời gian. Từ đó, sơn dầu được sử dụng rộng rãi, được dùng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Có thể nói, việc hoàn thiện chất liệu sơn dầu là một cuộc cách mạng kỹ thuật lớn, làm chuyển biến và nâng cao nghệ thuật vẽ tranh. Kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu Có nhiều loại sơn dầu chất lượng màu cũng khác nhau: mỗi thứ đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Các màu sơn được chế tạo bởi nguyên liệu khoáng chất thường cho ta chất sơn tốt hơn cả. Người vẽ cần có kiến thức về chất liệu sơn dầu thì tranh mới bảo tồn được lâu. Ví dụ: nếu dùng sơn pha ít dầu quá thì dễ gây nứt rạn tranh,nếu pha nhiều dầu lanh thì lâu khô gây bất tiện khi chờ vẽ nhiều lớp, nếu dùng dầu lanh pha với màu sáng sẽ làm màu ấy mau ngả vàng, Người sản xuất sơn dầu thường lập ra bảng phân loại hoặc dùng ký hiệu in trực tiếp lên ống sơn để giới thiệu màu tốt hoặc màu kém cho người vẽ tiện dùng. Sơn mài Hình 2.5 24
- Được coi là một trong các chất liệu hội họa ở Việt Nam. Đây là sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài (tiếng Anh: lacquer) thường được hiểu sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung Quốc. Kỹ thuật mài là điểm khác biệt lớn giữa đồ thủ công sơn mỹ nghệ và tranh sơn mài Việt Nam. Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề sơn như sơn then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp, vàng thếp, vỏ trai, v.v. vẽ trên nền vóc màu đen. Đầu thập niên 1930, những họa sĩ Việt Nam đầu tiên học tạit rường Mỹ thuật Đông Dương đã tìm tòi phát hiện thêm các vật liệu màu khác như vỏ trứng, ốc, cật tre, v.v. và đặc biệt đưa kỹ thuật mài vào tạo nên kỹ thuật sơn mài độc đáo để sáng tác những bức tranh sơn mài thực sự. Thuật ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ đó. Tranh có thể được vẽ rồi mài nhiều lần tới khi đạt hiệu quả mà họa sĩ mong muốn. Sau cùng là đánh bóng tranh. Người ta thường lưu ý rằng sơn mài có những điểm "ngược đời": muốn lớp sơn vừa vẽ khô, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy tranh lại phải mài mòn đi mới thấy hình. Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng: kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính ngẫu nhiên nên nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một hiệu quả đạt được sau khi mài tranh. Các nguyên liệu sử dụng trang trí Một sản phẩm sơn mài sử dụng khá nhiều nguyên liệu: đó là sơn, màu và các nguyên liệu khác. Có thể kể ra đây một vài nguyên liệu phổ biến như: Sơn: khai thác từ cây sơn ta, ngoài ra còn dùng dầu trẩu, dầu trám, nhựa thông và nhựa dó Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ (ví dụ: son) nên không bị phân huỷ trước ánh sáng và thời gian. Các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp Ngày nay, người ta đã chế tạo thành công các loại sơn công nghiệp có thể thay thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là dễ dàng trong sản xuất tranh và màu sắc thì vô cùng phong phú. Các công đoạn chính của công nghệ sơn mài Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung nhưng khác biệt trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân, từng gia đình cũng như nó được biến đổi kỹ thuật làm tranh khác với làm tượng, lại khác với trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim Có thể chia làm một số công đoạn chính sau: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng. 25
- Lụa Tranh lụa hiện đại Việt Nam mới ra đời từ thập niên 1930. Điểm khác biệt nhất giữa kỹ thuật vẽ tranh lụa cổ và tranh lụa hiện đại Việt Nam là ở chỗ: tranh lụa cổ thường được vẽ trực tiếp trên lụa khô, trong khi quá trình tranh lụa hiện đại giống như sự nhuộm đi nhuộm lại màu lên mặt lụa; lụa được căng trên khung gỗ và trong quá trình vẽ họa sĩ có thể rửa lụa nhiều lần rồi vẽ tiếp tới khi như ý. Hình 2.6 Các họa sĩ Việt Nam nổi tiếng với tranh lụa[ Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) được coi là họa sĩ đã khai phá loại hình tranh lụa hiện đại Việt Nam. Những bức vẽ thành công của ông có một phong vị đặc biệt Việt Nam, đồng thời phù hợp với quan niệm hội họa hiện đại: những mảng màu đơn giản, ấm áp, nhuần nhị, những đường viền mềm mại, những khoảng trống rất đúng chỗ. Ngoài ra, nhân vật và bối cảnh Việt Nam được nghiên cứu đơn giản và cách điệuđộc đáo. Thành công của ông đã lôi cuốn các bạn cùng lứa và các họa sĩ thuộc lớp sau, mỗi người đã đóng góp làm phong phú thêm kỹ thuật vẽ tranh lụa. Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Lê Thị Lựu là những người sống ở Paris, trung tâm hội họa thế giới với đủ trường phái tân kỳ, nhưng họ vẫn vẽ tranh lụa, góp phần cất lên một tiếng nói nghệ thuật độc đáo của Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám, số họa sĩ vẽ tranh lụa đông hơn. Họ mở rộng hơn đề tài, kỹ thuật và đã có những thành công mới. Nguyễn Thụlà một họa sĩ chuyên nhất về tranh lụa, có một phong cách riêng biệt. Bố cục tranh của ông đơn giản, nhịp nhàng, màu sắc mát mẻ êm dịu; bút pháp phóng khoáng, nhẹ nhàng; không gian mờ ảo thơ mộng với những nhân vật bình dị, thân quen Một số nữ họa sĩ khác nhưVũ Giáng Hương, Lê Kim Mỹ, Trần Thanh Ngọc, Mộng Bích, Kim Bạch, Đặng Thu Hương cũng đã có nhiều thành công với tranh lụa. 26
- Bàng Thúc Long (1922-1990) Ông là một trong những thế hệ đầu tiên vẽ tranh lụa thành công, ông không được nhiều người trong nước biết tranh ông chủ yếu được các khách nước ngoài thời bao cấp đến mua trang của ông ở các gradi,hiện còn nhiều bưc tranh được các bảo tàng mua trưng bày như Bảo tàng mỹ thuật VN, bảo tàng Betlin Đức.Ông cùng thế hệ với Họa sĩ Tạ thúc Bình cung chuyên vẽ tranh lụa.[cần dẫn nguồn] Kỹ thuật vẽ tranh lụa Lụa vẽ Lụa vẽ thường là lụa tơ tằm, không lỗi, mịn hoặc hơi thô, dệt thủ công hay dệt bằng máy. Gần đây, do yêu cầu của ngành mỹ thuật, các nhà máy dệt đã sản xuất loại lụa chuyên dùng để vẽ tranh, mỏng và hơi thưa, nhìn rõ thớ lụa. Màu vẽ Màu dùng để vẽ lụa thường là màu nước, phẩm hoặc mực nho. Sau này, người ta còn dùng những họa phẩm đục hơn, dày hơn như tempera, màu bột, phấn màu Các kỹ thuật khi vẽ tranh Lụa trước khi vẽ phải căng lên khung. Thông thường, lụa mới được quét một lớp hồ loãng, người vẽ nên rửa qua lớp hồ này để màu có thể ngấm vào thớ lụa. Nếu lụa hút nhiều nước như lụa Trung Quốc thì nên quét một lớp hồ loãng lên trên, có pha lẫn một ít phèn chua để chống mốc. Điểm mạnh của tranh lụa là ở sự trong trẻo và êm dịu của màu sắc, vì vậy phần lớn người vẽ tranh lụa thường xây dựng phác thảo (hình, mảng) hết sức kỹ càng trước khi thể hiện lên lụa. Nhiều người sử dụng cách can hình từ bản can giấy lên lụa để lưu lại nét một cách chính xác. Tuy nhiên cũng có thể vẽ lụa một cách thoải mái. Khi vẽ lụa, người ta thường vẽ từ nhạt đến đậm, màu nhạt chồng lên nhau nhiều lần sẽ thành đậm nhưng vẫn nhìn thấy thớ lụa tạo nên vẻ đẹp của chất lụa. Vẽ chồng lên nhau bằng các màu khác nhau cũng là một cách pha màu. Thỉnh thoảng, khi màu đã khô, phải rửa nhẹ cho sạch những chất bẩn nổi lên mặt lụa và để cho màu ngấm vào từng thớ lụa. Muốn cho các mảng màu cạnh nhau hòa vào với nhau không còn ranh giới tách bạch, tạo ra một hiệu quả mềm mại, mờ ảo, người ta vẽ khi mặt lụa còn hơi ẩm và không cần viền nét nữa. Có thể sử dụng bột điệp và bạc thêm vào tranh lụa (dán ở mặt sau). Tranh lụa vẽ xong thường được bồi lên một lớp giấy, sau khi khô hoàn toàn, họa sĩ có thể rạch phần tranh ra khỏi khung lụa để đưa vào khung. Tranh lụa tăng hiệu quả thẩm mỹ nhiều khi với khung kính. Màu nước (tiếngAnh: watercolour, tiếng Pháp: aquarelle) là một chất liệu dùng trong hội họa, đồng thời vẽ màu nước là một kỹ thuật vẽ phổ biến. Màu nước hình thành do các sắc tố (thường dưới dạng bột) được hòa tan vào nước tạo ra một dung dịch có màu sắc. Chất liệu biểu diễn truyền thống và phổ biến nhất đi cùng với màu nước là giấy, ngoài ra còn có giấy cói, nhựa, giấy da, da, vảivà gỗ. Những thuộc tính cơ bản của màu nước là 27
- tính trong suốt và nhẹ nhàng, cũng như tính thuần khiết và tính cường độ của các chất màu. Những thuộc tính ấy là do các lớp màu mỏng luôn được đặt lên giấy và vì thế các lớp màu đó trở nên trong suốt đối với những tia sáng xuyên qua. Ở một số nước Đông Á, tranh màu nước được vẽ bằng các loại mực gọi là tranh thủy mặc. Trong hội họa truyền thống của Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, tranh màu nước chủ yếu là tranh thủy mặc chỉ dùng một màu đenhoặc nâu. Ấn Độ, Ethiopia và nhiều nước khác cũng có nghệ thuật vẽ màu nước từ lâu đời. Lịch sử Màu nước đã xuất hiện từ rất lâu, có thể tìm thấy trên những bức bích họa trong hang đá từ thời kỳ đồ đá cũ ở châu Âu cũng như trong những bản viết tay thời Ai Cập cổ đại. Tuy nhiên, phải đến tận thời Trung Cổ màu nước mới bắt đầu được phát triển và sử dụng rộng rãi. Nó chỉ thực sự trở thành một chất liệu cho hội họa vào thời kỳ Phục hưng. Họa sĩ người Đức thời Phục hưng Albrecht Dürer (1471–1528) có một vài bức tranh về cây cối, động vật hoang dã và phong cảnh bằng màu nước nên ông được coi như một trong những người đi tiên phong trong việc sử dụng kỹ thuật vẽ màu nước. Về sau, một ngôi trường chuyên dạy vẽ màu nước do họa sĩ Hans Bol (1534–1593) thành lập đóng một vai trò quan trọng trong phong trào Phục hưng Dürer Vào thời đó, màu nước thường được các họa sĩ Baroque sử dụng chỉ để vẽ phác thảo, bản sao hoặc hình mẫu. Một số họa sĩ màu nước đầu tiên gây được sự chú ý là Van Dyck (trong thời gian ông ở Anh), Claude Lorrain, Giovanni Benedetto Castiglione cùng với nhiều họa sĩ Hà Lan và vùng Flemish. Tuy nhiên màu nước chủ yếu dược dùng để vẽ tranh minh họa thực vật và động vật hoang dã. Minh họa thực vật trở nên phổ biến trong thời kỳ Phục hưng, cả loại hình minh họa khắc gỗ màu trong sách và loại hình vẽ mực trên giấy da. Họa sĩ vẽ minh họa thực vật là những họa sĩ màu nước vẽ chính xác và đẹp nhất. Minh họa động vật hoang dã đã đạt đến đỉnh cao của nó vào thế kỷ 19 với nhiều họa sĩ ví dụ như John James Audubon, thậm chí đến tận ngày nay người ta vẫn cần các họa sĩ màu nước với những kỹ thuật điêu luyện của họ để minh họa các ấn phẩm khoa học và ấn phẩm của bảo tàng. Có 2 kĩ thuật cơ bản trong màu nước: Wet-on-wet: Quết một lớp nước mỏng lên trên mặt giấy rồi dùng màu ướt tô lên, tạo hiệu ứng loang màu nhẹ nhàng. Wet-on-dry:Tô màu ướt thẳng lên giấy, tạo thành những nét sắc và mảnh, thường dùng để tô chi tiết. Ngoài ra, còn những kĩ thuật như sửa, dùng muối, vảy màu, dùng cồn, 28
- Chương 3: Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa Giới thiệu: Trong bốn loại hình nghệ thuật tạo hình: kiến trúc, hội họa, đồ họa, điêu khắc thì điêu khắc là loại hình nghệ thuật có truyền thống lâu đời. Trong nền mỹ thuật Việt Nam cổ, điêu khắc và kiến trúc còn lại nhiều dấu tích hơn cả. Trong mỹ thuật hiện đại, so với hội họa, điêu khắc có chậm hơn đôi chút bởi điều kiện còn hạn chế. Sau khi hòa bình lặp lại, mới có điều kiện phát triển và đạt được những thành công lớn. Càng ngày, điêu khắc càng phát triển và có nhiều tác phẩm giàu chất khám phá, sáng tạo của các nhà điêu khắc. Trong bài học ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về ngôn ngữ của nghệ thuật điêu khắc Mục tiêu: + Phân biệt được các thể loại, chất liệu điêu khắc, đồ họa + Phân biệt được tính chất, kỹ thuật thể hiện của các thể loại, chất liệu điêu khắc, đồ họa, từ đó có thêm tri thức trong thưởng thức và đánh giá loại hình nghệ thuật này. Nội dung chương: 3. Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa 3.1. Thể loại điêu khắc Thể loại điêu khắc Một cách phân chia đơn giản và chính xác đối với điêu khắc là nó chia thành hai loại tượng tròn và phù điêu. Cả về mặt ngôn ngữ và công năng, sự phân chia này đều có lý và dễ dàng Tượng tròn: là tượng có khối ba chiều chiếm chỗ trong không gian ba chiều. Người ta có thể quan sát nó khi đi xung quanh. Một số tượng tròn có một chiều tựa vào nền tường hay một phong cảnh nào đó. Phù điêu: là những chạm khắc hay đắp nổi lên bề mặt hai chiều. Có loại phù điêu nổi rất cao. Có loại phù điêu thấp, phần nổi lên không nhiều. Phù điêu chìm thì hình thể được khắc chìm vào nền và có hiệu quả tranh khắc, đồ họa nhiều hơn. 3.2. Chất liệu điêu khắc Chất liệu: Với hội họa, màu sắc là một ngôn ngữ mạnh mẽ thì với điêu khắc, ngoài vẻ đẹp về hình khối, đường nét, bố cục thì chất liệu cũng là một trong những tiếng nói mạnh mẽ. Điêu khắc phụ thuộc vào chất liệu nhiều nhất và vật liệu làm điêu khắc cũng phong phú bậc nhất. Vẻ đẹp của chất liệu, tính chất vật lý của chất liệu góp phần quan trọng vào giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Việc sử dụng các chất liệu khác nhau của mỗi thời kỳ nghệ thuật không chỉ là vấn đề kinh tế, kỹ thuật mà còn bắt rễ từ những tư tưởng thẩm mỹ khác nhau. 29
- Đá: là vật liệu cổ xưa nhất của điêu khắc. Người nguyên thủy đã dùng nó để đục đẽo những pho tượng đầu tiên Văn minh Ai Cập xây dựng bằng đá granit. Nghệ thuật Hy Lạp còn lại, tỏa sáng tới ngày nay nhờ đá cẩm thạch Điêu khắc Chăm có được nhờ vẻ đẹp mê hoặc một phần nhờ chất liệu đá cát ở miền Trung nước ta. Tượng đá gợi cảm giác trang trọng, bề thế Đồng: là chất liệu điêu khắc quý giá nhất. Kỹ thuật đổ đồng cũng phát triển phong phú ở nhiều nước trên thế giới. Gỗ: là vật liệu điêu khắc phổ biến nhất ở Việt Nam. Gỗ thuận khi thi công, chế tác nhưng hạn chế ở độ bền và kích thước. Tượng đồng đen gợi cảm giác sâu lắng, uy nghiêm, còn tượng gỗ lại gợi cảm giác ấm cúng, thô mộc, gần gũi Đất: là chất liệu điêu khắc lâu đời từ khi con người biết làm gốm. Tượng gốm được nặn bằng tay rồi đổ khuôn nung hàng loạt. Trong điêu khắc cổ, để tăng hiệu quả trang trọng và giống thực một cách tối đa, tượng thường được tô màu. Tượng Phật Việt Nam thường được sơn son thếp vàng, hoặc sơn đen như tượng Tuyết Sơn. Với điêu khắc, màu sắc đóng vai trò thứ yếu, các nghệ sĩ điêu khắc chủ yếu khai thác giá trị thẩm mỹ của chất liệu để biểu hiện. Một số chất liệu khác: thạch cao, sắt, bê tông, 3.3. Thể loại đồ họa Đồ họa độc lập (Đồ họa giá vẽ) Đồ họa in ấn Đồ họa máy tính Đồ họa độc lập, hay còn gọi là Đồ họa giá vẽ, là một trong những bộ môn nghệ thuật tạo hình kinh viện. Trong ngành Mỹ thuậtngười ta thường dùng thuật ngữ "đồ họa" để chỉ Đồ họa độc lập như một khái niệm đồng nhất. Người ta dùng các kỹ thuật in để thể hiện một tác phẩm đồ họa. Một tranh đồ họa đẹp, ngoài yêu cầu về chủ đề, bố cục và hình, còn phải chú ý tới những ký thuật chế bản và in ấn. Tuy nhiên, việc in tranh trong đồ họa độc lập có một vài điểm khác với đồ họa ấn loát. Mỗi tác phẩm được in riêng biệt, được đánh số và ký tên như một tác phẩm nghệ thuật, chứ không phải một bản sao. Mỗi tác phẩm đồ họa có thể được in bởi một hoặc nhiều bản in khác nhau. Việc tạo ra các bản in này gọi là chế bản. Có ba kỹ thuật chế bản là khắc nổi, khắc lõm và khắc phẳng, phụ thuộc vào phần tác động của bản in lên tranh. Các nghệ sĩ đồ họa làm việc với nhiều chất liệu như mực in, màu nước, màu dầu, màu sáp vân vân Bề mặt in thường là gỗ, kẽm, đá. Ngày càng có nhiều phương pháp mới 30
- hiện đại ứng dụng vào công nghệ in đồ họa làm cho chất liệu trở nên phong phú hơn, ví dụ kỹ thuật số. Các kỹ thuật in đồ họa Bốn kỹ thuật in chính trong ngành đồ họa là khắc gỗ, khắc kẽm (khắc kim loại), in đá và in lưới. Ngoài ra còn có chine-collé (kỹ thuật in trên chất liệu giấy mỏng), collography, in độc bản, khắc nguội, chấm và nét, khắc nạo, linocut (in trên ván lót sàn), aquatint (kỹ thuật rắc nhựa thông lên bản in) và in bằng sáp ong (như trên vải hoa của người Mông). Tranh độc bản là tác phẩm hội họa chỉ có một bản duy nhất, không có bản thứ hai. Trong hội họa, hầu hết các tác phẩm vẽ bằng sơn dầu, lụa, chì, màu nước, đều là độc bản, những tranh chép lại chỉ là phiên bản. Tuy vậy, trong thực tế, người ta ít dùng thuật ngữ độc bản để chỉ các tranh trên. Thuật ngữ này thường dùng để chỉ tranh đồ họa in được một bản duy nhất. Tranh in độc bản thường hay sử dụng mika, kính, tấm kẽm phẳng như một bề mặt chế bản. Vẽ lên chúng và phối hợp nhiều chất liệu, nhiều thủ pháp kỹ thuật khác nhau sẽ cho ra một bản tranh in duy nhất. Ví dụ: kết hợp in với vẽ bằng tay, in và vẽ chồng chéo các chất liệu khác nhau trong một tác phẩm, phun các mảng màu lên giấy rồi in nét lên sau Tranh độc bản thường được coi là quý hiếm. Theo cuốn Lịch sử design của họa sĩ Lê Huy Văn và Trần Văn Bình,"mỹ thuật công nghiệp", còn được gọi là design (phát âm như "đi-zai"), là ngànhthiết kế tạo mẫu, tạo dáng cho sản phẩm công nghiệp, tạo mỹ thuật sản phẩm, thiết kế môi trường sống hay thế giới đồ vật. Danh từ design có xuất xứ từ chữ disegno[cần dẫn nguồn] của tiếng Latin Italia, có từ thời Phục Hưng, có nghĩa là phác thảo, thuật vẽ, thiết kế, mô tả, sắp đặt và là cơ sở của mọi nghệ thuật thị giác, công việc của sự sáng tạo. Thời đó thuật ngữ này thường ám chỉ công việc sáng tạo của các họa sĩ vẽ tranh, tạc tượng v.v. và hơn nữa đó vẫn chưa phải là một nghề chuyên nghiệp hoàn toàn (full-time professional) mà gắn kết như một thuộc tính của họa sĩ, nhà điêu khắc hay các nghệ nhân. Theo sách Design Đại cương (Artmedia Books) của Trần Văn Bình, thuật ngữ design (tiếng Anh) lần đầu xuất hiện trong từ điển đại học Oxford năm 1588 tiền thân từ tiếng Ý disegno được Giorgio Vasari viết trong bộ sách sử nghệ thuật đầu tiên khá đồ sộ gần một nghìn trang về nghệ thuật và kiến trúc có tên Cuộc đời của những Họa sĩ, Điêu khắc gia và Kiến trúc sư xuất chúng (Le Vite de' più eccellenti pittori, scultori e architettori) năm 1550 (tái bản năm 1568) có sức phổ biến rộng nhờ phát minh máy in của Gutenberg thời Phục hưng. Từ điển tiếng Ý dịch disegno là thiết kế. Trang Từ điển định nghĩa disegno bao hàm hai nghĩa là diễn họa/thiết kế (drawing/design), là bản vẽ diễn 31
- họa hoặc thiết kế: một thuật ngữ được sử dụng trong thế kỷ 16 và 17 để chỉ định bộ môn nghệ thuật cần thiết để biểu diễn hình thức tối ưu của một đối tượng trong nghệ thuật thị giác, đặc biệt là thể hiện trong cấu trúc tuyến tính của tác phẩm nghệ thuật. Nói một cách đơn giản. disegno nhấn mạnh ý tưởng của nghệ sĩ như một người sáng tạo. Sử dụng thiên tài sáng tạo của mình, các nghệ sĩ quan niệm sử dụng kỹ năng diễn họa của mình, nghệ sĩ thể hiện hình ảnh tưởng tượng của mình. Còn colorito chỉ đơn thuần là một kỹ năng tô màu (colouring), mà một họa sĩ sử dụng để tái tạo lại những gì anh ta thấy. Ngay cả khi sáng tác trong một studio, các nghệ sĩ sử dụng màu sắc theo nhu cầu thị giác để hoàn thiện tác phẩm, nhiều khi có thể hoàn toàn khác với những gì dự định ban đầu. Vì vậy, trong khi disegno đòi hỏi sự trung thực với một khái niệm và ý tưởng ban đầu, colorito chỉ có nghĩa là thực hiện một hình ảnh đẹp. Trong mắt thẩm mỹ của các nghệ sĩ Phục hưng (Renaissance), có một khoảng cách lớn giữa hai cách tiếp cận: disegno được xem là nghệ thuật đích thực, trong khi colorito được coi là một nghề thủ công. Lịch sử Tại Anh, vào thế kỉ 16, khái niệm này đã mở rộng hơn như là "lập trình một cái gì đó để thực hiện", "thực hiện phác thảo một bản vẽ đầu tiên cho một tác phẩm nghệ thuật" hoặc "phác thảo của một sản phẩm mỹ nghệ". Design là phác thảo, thiết kế, chế mẫu và lập kế hoạch cho sản phẩm công nghiệp. Với quá trình công nghiệp hóa cũng là quá trình hình thành lịch sử design và bắt đầu vào khoảng giữa thế kỉ 19. Trong thời gian này thuật ngữ Design được hiểu ở là “Nghệ thuật công nghiệp” hay “nghệ thuật ứng dụng”. Cụm từ design ở Việt Nam có nghĩa là "mỹ thuật công nghiệp", "thiết kế tạo dáng công nghiệp" hay "mỹ thuật ứng dụng". Thuật ngữ này mới nhập vào Việt Nam trong thập niên 1960, bắt nguồn từ Industrielle Formgestaltung trong tiếng Đức khi các giáo sư trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Halle (Die Hochschule für Industrielle Formgestaltung – Halle) sang trường Trung cấp Mỹ nghệ Hà Nội trao đổi học thuật và đã được dịch thành "Mỹ thuật công nghiệp" (MTCN). Từ đó MTCN trở thành thuật ngữ của ngành và trở nên thông dụng, quen thuộc. 3.4. Chất liệu đồ họa Khắc gỗ Chế bản in khắc gỗ Khắc gỗ là kỹ thuật in khắc nổi cổ xưa nhất, có tại Trung Quốc từ thế kỷ thứ 9. Phương pháp này phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 15 với việc phổ biến giấy và kỹ thuật in chữ rời. Trong kỹ thuật khắc gỗ, người ta dùng gỗ xẻ ngang cây (ngang thớ) để khắc và in những hình ảnh chi tiết tinh xảo. Gỗ xẻ dọc thớ được dùng cho những bản in rộng, dễ khắc. Quy trình khắc và in được thực hiện như sau: người nghệ sĩ vẽ phác lên tấm gỗ rồi dùng dao khắc đục hoặc khắc bỏ đi những phần không cần bắt mực. Đường nét và 32
- hình khối có trên bức tranh sẽ nổi lên. Các phần này được bôi mực bằng con lăn (ru-lô). Đặt một tờ giấy áp sát bề mặt bản in và vuốt tay, hoặc lăn ru-lô, hoặc in bằng máy rập nén chuyên dụng. Như vậy các bề mặt không bị khắc bỏ đi sẽ để lại hình vẽ trên tranh in gỗ. Với tranh in gỗ màu, người ta dùng từng bản in riêng cho mỗi màu. Tiêu biểu cho loại hình này là các bản khắc cổ của tranh Đông Hồ tại làng Hồ, tỉnh Bắc Ninh. Tranh khắc gỗ dân gian như tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống là những di sản quý của nền mỹ thuật Việt Nam. Khắc kim loại Khắc kim loại là một nhánh phổ biến của kỹ thuật in khắc lõm intaglio. Tranh khắc kim loại có khả năng diễn tả sự vật bằng phương pháp chấm, nét, tạo mảng một cách tinh vi, tỉ mỉ, chính xác để tạo nên vẻ hấp dẫn kì diệu. Kỹ thuật này ra đời vào thế kỷ 15 ở châu Âu, phần lớn là tranh in đen trắng, sau này mới phát triển thêm tranh in màu. Bản in thường là một tấm kẽm, hoặc đồng. Bằng cách khắc nguội hoặc khắc nóng kết hợp với các kỹ thuật khác như khắc nạo (mezzotint), rắc nhựa thông (aquatint) , người ta sẽ tạo ra các hình dáng, đường nét và các điểm lõm trên bề mặt bản in. Khắc nguội: Dùng dao trổ có mũi nhọn tạo những nét và chấm trên bề mặt tấm kim loại. Khắc nóng: Còn gọi là khắc axit. Phủ kín hai mặt của tấm kim loại bằng một loại sơn hay vecni để chống lại sự ăn mòn của axit. Dùng dao khắc có mũi nhọn để vạch, khía vào lớp phủ theo hình vẽ muốn có. Nhúng tấm kim loại vào dung dịch axit, những chỗ kim loại lộ ra sẽ bị axit ăn mòn. Tình thời gian cho đến khi sự thẩm thấu của axit vừa đủ độ sâu thì dừng lại. Rửa sạch lớp phủ trên tấm kim loại bằng dầu hỏa hoặc dầu thông, việc chế bản đã hoàn tất. Người ta lăn mực vào bản in và dùng một cái giẻ chà mạnh để mực xuống đều trong các rãnh lõm. Lau sạch bề mặt tấm kim loại, những chỗ lõm đó sẽ giữ lại mực. Đặt giấy in đã được làm ẩm lên bản khắc, lót lên trên một lớp nỉ mềm rồi ép mạnh qua các máy in (có trục sắt lăn tạo lực rất mạnh). Giấy ẩm sẽ hút mực và in hình tranh lên mặt giấy. In đá In đá (lithography) là loại hình in tiểu biểu cho phương pháp khắc phẳng. lithos trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là đá còn graphy là vẽ, viết. Được khám phá vào năm 1798 bởi Aloys Senefelder (1771-1834, nhà văn Đức) như một phương tiện rẻ tiền để in các vở kịch múa cho mình, tranh in đá ngay lập tức được phổ biến khắp châu Âu. 33
- Ở Việt Nam, tranh in đá được sử dụng để in quảng cáo nhãn hiệu hàng hóa từ thời thuộc địa của Pháp, trước năm 1945. Kỹ thuật này được dạy tại trường ĐH Mỹ thuật Việt Nam từ khi mở khoa Đồ họa vào năm 1977. Kỹ thuật chế bản in đá: Người ta phủ một lớp vecni hoặc một loại sơn đặc biệt lên mặt phẳng của tấm đá litho. Dựa vào tính chất đối kháng của nước và mỡ trong mực in, người ta dùng bút chì mỡ (để tạo chất cứng) và dung dịch laque (để tạo chất mềm) vẽ lên mặt tấm đá litho đã mài phẳng và nhẵn. Sau đó, hình vẽ được định hình trong dung dịch keo arabic để cho nước bám chặt vào những phần còn nguyên vẹn mà không đụng chạm đến phần có hình vẽ đã phủ keo. Chờ cho lớp keo này khô hẳn (khoảng hơn 12 tiếng) việc chế bản đã hoàn tất. Kỹ thuật in: Tiếp theo, người ta dùng nước rửa sạch tấm đá in, sấy khô mặt đá cho chắc cốt rồi tiếp tục xoa nước cho ướt đều. Lăn mực đều lên mặt đá, đặt giấy in, hạ tấm nén của máy vào giấy nằm trên bản đá và quay qua trục lăn của máy in chuyên dụng. Cuối cùng ta được một bản in có hình ngược với hình vẽ trên đá. In lưới Trong Nam thường được gọi là in lụa. Đây là một phương pháp in thủ công nhưng sản phẩm đạt được tương đối chất lượng nhờ kỹ thuật ép mực bằng gạc su trực tiếp qua mặt lưới xuống sản phẩm chứ không gián tiếp như kỹ thuật in ofset Kỹ thuật in lụa có thể in trên hầu hết các chất liệu khác nhau như giấy, bao bì nhựa, thủy tinh và đặc biệt là vải. Cần chuẩn bị một khung in lụa phù hợp với sản phẩm đang cần in, chất cảm nhận ánh sáng (là một chất muối hóa học có tên là amon), keo pva hoặc chất keo apumin như lòng trắng trứng gà hoặc chất apumin trích chiết ra từ vi cá, sơn, xăng, dầu tẩy để làm sạch tấm lụa sau khi in xong. Trước hết người thiết kế sẽ thiết kế hình ảnh trên máy tính, rồi xuất phim bằng máy lase hoặc bằng máy xuất phim (phim dương bản hay âm bản tùy theo sản phẩm in), tiếp theo hòa chất muối amon cảm ánh sáng vào dung dịch keo, rồi quét lên tấm lưới (khung lụa) xong sấy khô, sau đó áp những hình mẫu tách màu lên khung và đem chụp ánh sáng mặt trời hoặc dùng dàn đèn neon. Sau đó đem rửa bằng nước nơi nào không có màu đen ở phim ánh sáng sẽ xuyên qua và lớp keo sẽ bắt ánh sáng làm cho keo se lại rắn chắc và bám vào lụa, còn lớp keo nào bị màu đen trên miếng phim che lại thì không bắt được ánh sáng nên khi gặp nước sẽ bị tan rã và thông xuyên, khi rửa thật kỹ hoàn toàn keo thừa trôi đi, đem phơi nắng hoặc xông khô. Đến đây hoàn tất công đoạn chụp bản. Đến công đoạn in, đem khuôn in áp lên bề mặt sản phẩm rồi cho mực in vào dùng gạt in (giống như gạt chùi gương) gạt mực in qua lớp lụa để mực in lọt xuyên qua những nơi bản lụa thông không có keo chụp dính lại, sẽ lọt xuống dính vào trực tiếp trên sản phẩm. Tùy thuộc vào nhiều màu hay ít màu mà làm bấy nhiêu khung in. 34
- Chương 4: Phân tích tác phẩm Giới thiệu: Tác phẩm nghệ thuật có phát huy được tác dụng đối với người thưởng thức nghệ thuật hay không, một phần quan trọng là do chính nội dung và giá trị nghệ thuật tồn tại trong tác phẩm đó, ngoài ra còn phụ thuộc vào đối tượng cảm thụ, thưởng thức nghệ thuật. Tất cả những yếu tố đó liên quan tới một nội dung quan trọng, đó là giới thiệu và phân tích các tác phẩm nghệ thuật. Mục tiêu: + Người học trình bày được quy trình viết bài phân tích tác phẩm, giới thiệu tác giả, tác phẩm. + Tổng hợp được kiến thức về ngôn ngữ mĩ thuật, thể loại, chất liệu để áp dụng vào phân tích tác phẩm. + Đánh giá cơ bản được giá trị của một tác phẩm mĩ thuật. Nội dung chương: 4. Phân tích tác phẩm 4.1. Khái niệm Tác phẩm mỹ thuật là tổng hòa của nhiều yếu tố về ngôn ngữ, nội dung, hình ht]cs, tư tưởng, quan niệm thẩm mỹ, lịch sử Phân tích tác phẩm đồng nghĩa với việc nghiên cứu, tìm hiểu tất cả các yếu tố đó, bằng cách cảm thụ, đánh giá đúng mức các giá trị của tác phẩm, tác giả. Hay nói một cách ngắn gọn, phân tích tác phẩm là một bộ môn nghiên cứu, tìm hiểu caccs yếu tố cấu thành nên tác phẩm nhằm mục đích hiểu được ý tưởng, cảm xúc và tài năng của tác giả bộc lộ qua tác phẩm của họ. Đây cũng chính là khâu giới thiệu và đưa tác phẩm đến với ng]ời cảm thụ, thưởng thức nghệ thuật. 4.2. Những kiến thức liên quan tới phân tích tác phẩm 4.2.1. Kiến thức về nội dung và hình thức nghệ thuật Hình tượng nghệ thuật Trong hình tượng nghệ thuật ghi lại hoặc biểu hiện những đặc điểm căn bản nhất của nghệ thuật nói chung. Một trong những vị trí trung tâm mà phạm trù này giữ trong khoa học mỹ học được lý giải bởi chức năng đặc biệt của hình tượng nghệ thuật – phản ánh lại hiện thực khách quan dưới một hình thức đặc thù. Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất phản ánh và sáng tạo, cũng như cảm thụ những hoạt động biểu hiện vai trò của chủ thể hoạt động và cảm thụ nghệ thuật. Giống như nghệ thuật ra đời từ cái không phải là nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật bắt rễ từ cái mà chúng ta gọi là tính hình tượng, hoặc tư duy hình tượng theo nghĩa rộng nhất. Hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm thường do tác giả tạo ra. Với tính hình tượng hay tư duy hình tượng theo nghĩa rộng của từ này. Các cấp độ của hình tượng nghệ thuật Hình tượng – ý đồ: Trình độ trừu tượng nhất của tư duy nghệ thuật là trình độ tư tưởng. Sự hình thành hình tượng nghệ thuật ở cấp độ này là một thao tác hoàn toàn lý trí. Hình tượng như vậy hiện diện ở nơi nào ý thức nhào nặn chất liệu của nghệ thuật, 35
- cũng như khi người lĩnh hội thể nghiệm bằng cảm xúc hình tượng nghệ thuật đã được sáng tạo. Tâm lý là cấp độ thứ hai (hình tượng – cảm thụ): Đây là cấp độ các tình cảm và cảm xúc nghệ thuật, nhờ đó người ta thể nghiệm các hình tượng của nghệ thuật trong quá trình cảm thụ. Cấp độ cuối cùng là ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc và sự kết hợp chúng để vật chất hóa hình tượng. Điều kiện bắt buộc để nghiên cứu hình tượng trong nghệ thuật là tính đến tất cả các cấp độ của nó: tư tưởng, tâm lý cũng như vật chất. Nội dung và hình thức trong nghệ thuật Nội dung trong nghệ thuật là lĩnh vực ý và nghĩa mang tính tư tưởng – tình cảm, hình tượng – cảm tính. Lĩnh vực này được thể hiện phù hợp trong hình thức nghệ thuật và có giá trị thẩm mĩ – xã hội. Để nghệ thuật thực hiện được chức năng không gì thay thế được của mình là tác động về tinh thần – xã hội vào thế giới nội tâm của cá nhân, nội dung của nghệ thuật phải có những đặc điểm nhất định. Nghệ thuật phản ánh, tái tạo – với mức độ ít nhiều gián tiếp và ước lệ - các lĩnh vực khác nhau của thực tại tự nhiên và xã hội. Hình thức nghệ thuật được thể hiện ở thể loại, kết cấu, không gian và thời gian nghệ thuật, nhịp điệu. Ở đây phản ánh khía cạnh thẩm mỹ chung của nghệ thuật. Tính nhân dân, tính dân tộc trong nghệ thuật. Tính nhân dân là phẩm chất tư tưởng, thẩm mỹ của sáng tạo nghệ thuật và các tác phẩm nghệ thuật, quy định sứ mệnh nhân đạo của nghệ thuật tiên tiến, vai trò đặc thù của nó trong tự ý thức và tự khẳng định của nhân dân và nhân loại. Nhân dân là người sáng tạo lịch sử, bởi vậy việc biểu hiện về mặt nghệ thuật những lợi ích căn bản và khát vọng của họ rút cục là nhân tố quyết định sự phát triển nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật sản sinh do nhu cầu củng cố và truyền đạt kinh nghiệm lao động và kinh nghiệm cảm tính. 4.2.2. Kiến thức về đặc trưng ngôn ngữ mĩ thuật Khi phân tích tác phẩm cần quan tâm đến đặc trưng ngôn ngữ của từng loại hình nghệ thuật. Đối vv[í hội họa, hai yếu tố đặc trưng là tính tạo hình trực tiếp và tính không gian phải được làm rõ, trong đí tất cả các yếu tố màu sắc, hình khối, đường nét đều góp phần làm nên giá trị bức tranh. Đối với một tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật đồ họa thì đặc trưng là mảng, nét. Các biểu hiện của các yếu tố nét, mảng đóng vai trò quan trọng trong thành công của tác phẩm. Vận dụng kiến thức về ngôn ngữ tạo hình của mỗi loại hình nghệ thuật, thể loại, chất liệu sáng tác của tác giả để đánh giá tác phẩm. 4.3. Quy trình viết phân tích tác phẩm 4.3.1. Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm định phân tích Tên tuổi, ngày tháng năm sinh của tác giả Sơ lược về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của tác giả. Vị trí của tác phẩm định phân tích trong sự nghiệp của tác giả. 36
- Giới thiệu sơ qua về tác phẩm: tên tác phẩm, chất liệu của tác phẩm, khuôn khổ, năm sáng tác, xuất xứ, sự ra đời của tác phẩm. 4.3.2. Phân tích tác phẩm Phân tích về nội dung và hình thức tác phẩm để rút râ giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Phân tích các yếu tố ngôn ngữ tạo hình được vận dụng như thế nào, phù hợp, đặc biệt hay không đặc biệt, khác lạ Tác phẩm thuộc thể loại nào dùng chất liệu gì ? đóng góp của chất liệu thể loại đến sự thành công của tác phẩm. 4.3.3. Đánh giá Sự thành công của tác phẩm về nội dung và hình thức nghệ thuật. Vị trí, vai trò của tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác của tác giả cũng như trong lịch sử ỹ thuật và đối với cuộc sống xã hội Đánh giá giá trị khách quan của tác phẩm. 4.4. Một số bài phân tích cụ thể Những yếu tố căn bản trong phân tích tác phẩm Trước khi phân tích tác phẩm bằng kiến thức nghệ thuật phải dùng cảm giác trực quan của mình để nhận xét tác phẩm. Dùng ngôn ngữ mĩ thuật để phân tích: Đường nét, hình mảng, bố cục, không gian, màu sắc Phân tích tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu Phân tích mỗi giai đoạn phát triển của nghệ thuật đều có các tác phẩm tiêu biểu cho từng giai đoạn đó. Khi phân tích phải nắm được đặc điểm của từng thời kỳ, phong cách của từng nghệ sĩ, đặc trưng của từng phong cách nghệ thuật. Phân tích tranh dân gian Tranh dân gian bao gồm tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng, Tranh làng Sình, Phải nêu được đặc điểm của từng vùng miền nơi xuất xứ của tranh. Nêu được đặc điểm nghệ thuật tạo hình và những thông điệp, kinh nghiệm của cha ông muốn truyền cho con cháu đời sau. Giới thiệu tranh và phân tích, trao đổi, thảo luận, thực hành trên lớp. Phân tích tranh thiếu nhi Khi phân tích thể loại tranh này phải chú ý tới tính cách của trẻ thơ, những đặc thù của trẻ được thể hiện trong tranh ra sao? Ngôn ngữ tạo hình của trẻ có điểm gì giống và khác tranh thời nguyên thủy. Phân tích một vài bức tranh thiếu nhi. Giới thiệu một số bài phân tích tác phẩm Cách thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật Bất kỳ một ai sinh ra cũng đều có tố chất nghệ thuật trong mình. Do vậy phải tin vào cảm giác thực của mình khi xem tranh. 37
- Cảm giác đầu tiên về các tác phẩm nghệ thuật hầu hết là đúng với chính mình. Sau đó chúng ta mới tiến lại gần và phân tích theo kiến thức mĩ thuật mà mình có. Tham khảo ý kiến của mọi người xung quanh và những ý kiến chủ quan của người nghệ sĩ. Điều quan trọng khi ta thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật đó chính là phải đánh giá nó theo tương quan nghệ thuật, tương quan xã hội mà nó đang tồn tại. 38
- 4. Tài liệu tham khảo: [1] - Đỗ Văn Khang, 2002, Nghệ thuật học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [2] - Lê Thanh Lộc (dịch), 1996, Lịch sử hội họa, NXB Văn hóa Thông tin. [3] - Lê Thanh Lộc , 1998, Từ điển mỹ thuật, NXB Văn hóa Thông tin. [4] - Nguyễn Phi Hoanh, 1978, Một số nền mỹ thuật thế giới, NXB Văn hóa. [5] - Thái Bá Vân, 1992, Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện mỹ thuật. [6] - Phạm Đức Cường, 2001, Kỹ thuật sơn mài, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội. [7] - Nguyễn Trân, 1995, Nghệ thuật Đồ họa, NXB mỹ thuật Hà Nội. 39