Gỡ bỏ rào cản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại

pdf 16 trang Gia Huy 18/05/2022 5270
Bạn đang xem tài liệu "Gỡ bỏ rào cản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgo_bo_rao_can_nham_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_cua_cac_doan.pdf

Nội dung text: Gỡ bỏ rào cản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại

  1. GỠ BỎ RÀO CẢN NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TỰ DO HÓA THƢƠNG MẠI PGS, TS. Phan Thế Công Trƣờng Đại học Thƣơng mại TS. Vũ Duy Nguyên Học viện Tài chính Tóm lược: Làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bước vào giai đoạn bùng nổ với xu thế đổi mới công nghệ nhanh chóng có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong bối cảnh tự do hóa thương mại, cạnh tranh từ các nước trong khu vực và các đối thủ thuộc nhóm các nền kinh tế đang phát triển ngày càng mạnh, niều hiệp định thương mại, đầu tư đa và song phương khác được ký kết sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam vào vị thế phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt với các doanh nghiệp của các nước thành viên khi hàng rào thuế quan gần như được gỡ b hoàn toàn. Bên cạnh đó, muốn “sống kh e” trong bối cảnh hội nhập, ngoài tiếp cận vốn, các doanh nghiệp nh và vừa cần phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới. Khu vực doanh nghiệp ngày càng phát huy và khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Tuy nhiên, để doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và nâng cao được sức cạnh tranh trong bối cảnh tự do hóa thương mại toàn cầu, đòi h i, một mặt các doanh nghiệp phải sáng tạo và đổi mới. Mặt khác, để doanh nghiệp phát triển bền vững, cần phải có sự chung sức hỗ trợ từ phía Nhà nước, Chính phủ, các Bộ ngành và các Hiệp hội có liên quan. Từ khóa: Năng lực cạnh tranh; Tự do hóa thương mại; FTA; Doanh nghiệp Việt Nam; Rào cản phát triển doanh nghiệp 1. Đặt vấn đề Bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên quy mô toàn cầu là tất yếu khách quan và áp lực cạnh tranh này tác động lên tất cả các doanh nghiệp chứ không chỉ riêng Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả người dân phát huy tinh thần tự do kinh doanh theo pháp luật. Việt Nam đã thực hiện hàng loạt các cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh thông qua việc hoàn thiện chính sách pháp luật: sửa đổi các Luật: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, các Luật chuyên ngành về đất đai, tín dụng, thuế, hải quan, lao động ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết: Nghị về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững Hiện nay, khu vực doanh nghiệp còn đối diện nhiều rào cản phát triển. Mặc dù môi trường kinh doanh cải thiện hơn sau những nỗ lực xây dựng Nhà nước kiến tạo, số lượng doanh nghiệp và lượng vốn đăng ký đã tăng mạnh trong năm 2019, nhưng khu vực doanh 1091
  2. nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Khoảng 98% tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động là thuộc khu vực kinh tế tư nhân, trong đó đại đa số là DNVVN. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tăng cao liên tục từ năm 2012, và hiện nay lên đến hơn 50% tổng số doanh nghiệp. Trong ba khu vực, các DNTN và DN FDI có tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ cao hơn hơn so với DNNN. Nếu doanh nghiệp FDI thua lỗ có thể một phần từ hoạt động ―chuyển giá‖, thì con số hơn 48% doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân thua lỗ, so với hơn 16% doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước thua lỗ, đã phản ánh rõ nét những khó khăn rất lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Những kết quả trên cho thấy các doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng vẫn đang đối diện với những rào cản phát triển, trong đó có các rào cản khi tham gia thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng như vốn, lao động, đất đai, công nghệ, cơ sở hạ tầng và logistics; cũng như gặp nhiều tồn tại bất hợp lý khi khởi sự kinh doanh hay thực hiện những nghĩa vụ thuế và hải quan, Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp, theo đó ảnh hưởng đến tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Khu vực doanh nghiệp ngày càng phát huy và khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Tuy nhiên, để doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và nâng cao được sức cạnh tranh trong bối cảnh tự do hóa thương mại toàn cầu, đòi hỏi, một mặt các doanh nghiệp phải sáng tạo và đổi mới. Mặt khác, để doanh nghiệp phát triển bền vững, cần phải có sự chung sức hỗ trợ từ phía Nhà nước, Chính phủ, các Bộ ngành và các Hiệp hội có liên quan. 2. Tình hình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2019 2.1. Sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam Theo Báo cáo của Bộ kế hoạch và Đầu tư (2019), những năm qua, tỷ trọng các doanh nghiệp có quy lớn, vừa, và nhỏ có xu hướng tăng trong khi tỷ trọng nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ giảm: Tinh thần khởi nghiệp kinh doanh mạnh mẽ, liên tục gia tăng số doanh nghiệp thành lập mới và lượng vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế. 05 năm liên tiếp có số lượng doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký đạt cao nhất trong lịch sử (trong đó 96% là doanh nghiệp khu vực tư nhân). Năm 2019 dự kiến đạt 136.000 doanh nghiệp thành lập mới, tổng số vốn đăng ký khoảng 1,7 triệu tỷ đồng. Tỷ trọng của nhóm doanh nghiệp quy mô lớn trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp năm 2018 chiếm 2,8%, tăng 0,4% so với năm 2016 (2,4%); doanh nghiệp vừa chiếm 3,5%, tăng 1% so với năm 2016 (2,5%), nâng tổng tỷ trọng doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn từ 4,9% năm 2016 lên 6,3% năm 2018. Tỷ trọng nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ cũng tăng từ 25% lên 30,8% trong khi nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ, tỷ trọng giảm từ 70,1% xuống còn 62,9%. Bên cạnh các tập đoàn nhà nước, doanh nghiệp lớn FDI, đã xuất hiện những tập đoàn kinh tế lớn trong khu vực tư nhân với quy mô ngày càng tăng, tiềm lực lớn và đã tham gia đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có tác động lớn đến phát triển kinh tế- xã hội đất nước như phát triển hạ tầng, công nghệ thông tin, lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực chế tạo kỹ thuật cao, Theo GSO (2019), hiện có 9/29 doanh nghiệp Việt Nam có giá trị vốn hoá trên 1 tỷ USD thuộc khu vực tư nhân (Vingroup, FLC, Masan, Vietjet, Trường Hải, Techcombank, Thế 1092
  3. Giới Di Động, Novaland, Hòa Phát, ). Còn theo xếp hạng của Báo cáo Việt Nam (VNR), năm 2019, trong danh sách 50 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, có 21 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân (con số này năm 2016 là 11 doanh nghiệp và năm 2017 là 16 doanh nghiệp, năm 2018 là 17 doanh nghiệp). Trong đó có 1 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân nằm trong danh sách 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (Tập đoàn Vingroup). (Hình 1) Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019) Hình 1. Số doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký mới Trong những năm gần đây, bình quân số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giai đoạn 2016-2018 so với giai đoạn 2011-2015: ngành chế biến chế tạo tăng 40%; ngành hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ tăng 56,6%, sản xuất; phân phối điện nước tăng 62%; giáo dục và đào tạo tăng 89,5%. Các doanh nghiệp đang có xu hướng chuyển dịch đầu tư từ các ngành đơn thuần về khai thác tài nguyên thô sang các lĩnh vực chế biến, chế tạo và dịch vụ tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm, hang hóa. Số lượng doanh nghiệp trung bình trên 1.000 dân và 1.000 người lao động liên tục có sự gia tăng với tốc độ ngày càng cao. Năm 2018 trung bình 1.000 người dân có 7,6 doanh nghiệp (con số này năm 2016 là 5,4 và năm 2017 là 6), trong khi đó, số doanh nghiệp trên 1.000 lao động từ 15 tuổi năm 2018 là 11,5 (con số này năm 2016 là 9,3 và 2017 là 10,2). B ng sự linh hoạt, đổi mới sáng tạo trong kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong quá trình hội nhập. Chỉ số mức độ năng động trong kinh doanh (Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI 2019 - WEF) tăng 12 bậc về thứ hạng, một trong 3 trụ cột có cải tiến lớn nhất. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, tăng 3 bậc lên vị trí 42 trên 129 quốc gia/nền kinh tế được xếp hạng so với năm 2018. Thứ hạng này đã cải thiện 17 bậc so với xếp hạng năm 2016 và đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapore và Malaysia. Đặc biệt là chỉ số đầu ra của Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: chỉ số Sản phẩm dựa trên tri thức và công nghệ đã có bước nhảy vọt (tăng 8 bậc). Kết quả này cho 1093
  4. thấy chuyển biến rõ nét trong việc tiếp nhận chuyển giao, hấp thụ và phát triển công nghệ của khu vực doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy nhiều kết quả tích cực trong quá trình hội nhập. Số liệu của Tổng cục Thống kê công bố cho biết, trong tháng 11/2019, cả nước có 12.265 DN thành lập mới với số vốn đăng ký là 139,9 nghìn tỷ đồng. Vốn đăng ký bình quân một DN thành lập mới trong tháng đạt 11,4 tỉ đồng, giảm 3,2% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn có 3.326 DN quay trở lại hoạt động, giảm 54,1% so với tháng trước và giảm 2,3% so với cùng kỳ năm trước Tính chung 11 tháng năm 2019, cả nước có 126,7 nghìn DN đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1,5 triệu tỉ đồng, tăng 4,5% về số DN, tăng 27,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Số DN thành lập mới tăng kèm theo đó số vốn đăng ký cũng tăng khá so với năm trước cho thấy, môi trường kinh doanh có những cải thiện rõ nét. Việc giảm thiểu các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh tại nhiều ngành, nhiều lĩnh vực giúp cho doanh nghiệp hoạt động một cách dễ dàng hơn, giảm bớt những gánh nặng đè nặng trên vai DN. Hiện nay. số doanh nghiệp tuyên bố rời thương trường vẫn là con số không hề nhỏ, thậm chí có dấu hiệu tăng mạnh. Điều này cho thấy, vẫn còn những rào cản trong môi trường kinh doanh khiến cho các DN nhỏ và vừa khó có thể phát triển ổn định. Không ít DN vẫn phàn nàn về việc phải tiếp nhiều đoàn thanh kiểm tra mỗi năm, bên cạnh đó là các loại chi phí không chính thức vẫn làm khó doanh nghiệp. Đó còn chưa kể, để xin một giấy phép nhập khẩu một lô hàng, doanh nghiệp phải đi qua nhiều cửa và mất rất nhiều thời gian. Có khi xin được xong giấy phép thì mất cơ hội làm ăn với đối tác Giới chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, việc cắt bỏ điều kiện kinh doanh của một số bộ, ngành chưa thực chất, nhiều nơi mới chỉ là ―đơn giản hóa‖. Thậm chí có một số điều kiện kinh doanh sau sửa đổi còn gây thêm khó khăn cho DN. Bà Nguyễn Minh Thảo- Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - CIEM) cho biết, điều kiện kinh doanh vẫn là trở ngại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ví dụ có những quy định như nhà xưởng bao nhiêu mét vuông, kê hàng cách bao nhiêu đó là những quy định làm khó thêm cho doanh nghiệp. Theo vị chuyên gia, mặc dù các bộ, ngành đã cắt giảm bớt những điều kiện kinh doanh không cần thiết nhưng thực chất, nhiều điều kiện không phải là cắt giảm mà chuyển qua kiểm tra sau thông quan. ―Những vấn đề vẫn còn tồn tại trong môi trường kinh doanh hiện nay cần phải được tiếp tục gỡ bỏ‖- đại diện VCCI nhấn mạnh. Hiện nay, mặc dù Chính phủ đã rất nỗ lực cắt giảm các điều kiện kinh doanh, nhưng vẫn có tới 18% doanh nghiệp cho biết, họ vẫn phải chờ mất hơn một tháng mới được giải quyết các thủ tục liên quan đến sản xuất, kinh doanh và tình trạng này đang có xu hướng tăng những năm gần đây. Đó còn chưa kể, những chi phí không chính thức vẫn còn tồn tại ở hầu hết các lĩnh vực. 1094
  5. 2.2. Những đóng góp của doanh nghiệp Việt Nam đến phát triển kinh tế - xã hội - Các doanh nghiệp có nhiều đóng góp lớn cho xuất khẩu, ngân sách nhà nước; tạo dựng thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Theo GSO (2018, 2019), năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 243,5 tỷ USD, tang 13,2% so với năm 2017 (vượt mục tiêu Quốc hội đề ra; tăng 7%-8%). Kinh tế Việt Nam năm 2019 tiếp tục đánh dấu một năm khởi sắc trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại. Căng thẳng thương mại giữa Mỹ-Trung và các vấn đề địa chính trị càng làm gia tăng đáng kể tính bất ổn của hệ thống thương mại toàn cầu. Tăng trưởng GDP năm 2019 đạt 7,02% so với năm 2018; trong đó quý 1 tăng 6,82%, quý 2 tăng 6,73%, quý 3 tăng 7,48% và quý 4 tăng 6,97%, vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra là từ 6,6-6,8%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 7,08% của năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng của các năm 2011-2017. Năm 2019, Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu lớn trong việc ký kết các hiệp định thương mại tự do. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt gần 517 tỷ USD, tăng 7,6% so năm 2018; lần đầu vượt ngưỡng 500 tỷ USD và là kết quả lịch sử, với giá trị xuất siêu đạt mức kỷ lục mới đạt 9,94 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 263,45 tỷ USD, tăng 8,1%. Khu vực kinh tế trong nước năm qua đánh dấu sự phát triển vượt bậc với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lên tới 17,7%, cao hơn rất nhiều tốc độ tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (4,2%). - Các doanh nghiệp tạo việc làm, cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân, người lao động, góp phần quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo và ổn định xã hội. Bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2018, các DN thu hút 14,48 triệu lao động, tăng 24,4% so với bình quân giai đoạn 2011-2015 (11,64 triệu người). Trong đó DN khu vực tư nhân thu hút nhiều lao động nhất, chiếm 60,9% tổng lao động toàn bộ khu vực DN; khu vực DN FDI chiếm 30,4%, khu vực DN nhà nước chiếm 8,7%. Thu nhập theo tháng bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2018 của người lao động trong khu vực doanh nghiệp là 8,24 triệu đồng, tăng 40,1% so với giai đoạn 2011-2015. Trong đó, khu vực DN tư nhân tốc độ tăng cao nhất 47,4%, khu vực DN FDI tăng 38,1%, DN nhà nước tăng 35,9%. Thu nhập bình quân tháng của người lao động trong dự kiến năm 2018: 8,94 triệu đồng, tăng 7,7% so với năm 2017, gấp gần 2 lần so với năm 2011. Tại một số địa phương, ước 2018: Bà Rịa Vũng Tàu: 10,2 triệu đồng; TP. Hồ Chí Minh: 10,8 triệu đồng; Hà Nội 10,2 triệu đồng; Bắc Ninh: 9,4 triệu đồng; Đồng Nai: 9,8 triệu đồng; Thái Nguyên 8,9 triệu đồng; Quảng Ninh: 9,6 triệu đồng; Bình Dương 8,6 triệu đồng. - Doanh nghiệp là lực lượng quan trọng thu hút đầu tư trong xã hội để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh. Bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2018, khu vực DN sử dụng khoảng 34,28 triệu tỷ đồng cho đầu tư sản xuất kinh doanh, tăng 82,05% so với vốn bình quân hàng năm giai đoạn 2011-2015 (18,83 triệu tỷ đồng). Năm 2018, theo số liệu điều tra thống kê sơ bộ, khu vực DN sử dụng khoảng 41,73 triệu tỷ đồng, tăng 26,45% so với năm 2017, gấp 2,8 lần năm 2011. Đáng mừng là một số ngành có mức tăng vốn đầu tư cao so với năm 2017 như: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy 1095
  6. sản tăng 31% so với năm 2017; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 20%; Cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tang 25%; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 36,9%; Hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ tăng 53,2%. - Doanh nghiệp là trọng tâm trong đổi mới sáng tạo thông qua chuyển đổi mô hình sản xuất tiến tiến, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Hiện nay, có khoảng 4000 công ty khởi nghiệp sáng tạo (startup) đang hoạt động. Theo kết quả điều tra của Bộ Khoa học và Công nghệ, năm 2018 có khoảng 30% doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo (đạt mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020). Ngày càng nhiều các tập đoàn đầu tư vào khoa học và công nghệ như Vietel, FPT, Vingroup, TTC, Phenikaa và được kỳ vọng tạo bước tiến đột phá. Năm 2018, theo số liệu thống kê sơ bộ, tổng nguồn vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nhóm ngành hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đã có mức tăng đột phá, đạt 965 nghìn tỷ đồng: tăng 53,2% so với năm 2017 (630 nghìn tỷ đồng) và là mức tăng cao nhất trong tất cả các nhóm ngành, nghề. - Doanh nghiệp là yếu tố then chốt thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, dịch vụ. Các doanh nghiệp là nhân tố chính, là mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, hình thành nên những cụm liên kết điện tử, dệt may, thủy sản.v.v Qua đó, tạo công văn việc làm và hiệu quả chung cho nền kinh tế, quyết định đến sự tang trưởng GDP bền vững, tăng thu nhập người lao động. 3. nh hưởng của tự do hóa thương mại toàn cầu đến phát triển doanh nghiệp Việt Nam Các FTA đã có tác động lớn góp phần quan trọng giúp môi trường kinh doanh của Việt Nam thông thoáng, dễ dự báo và có tính hội nhập cao hơn. Việc ký kết và đưa vào thực hiện các FTA như FTA Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), FTA ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam – Liên minh Á Âu, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA), đã tạo sự cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, mở rộng đầu tư và thương mại cho doanh nghiệp Việt Nam, tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu trong nước. Hoạt động sản xuất, xuất khẩu có lợi thế hơn do ưu đãi thuế quan theo các FTA, thu hút được nhiều nguồn vốn, công nghệ và trình độ quản lý của DN được nâng cao. Bên cạnh đó, trong số các FTA mà Việt Nam đang thực hiện, có FTA đến từ những nước có cơ cấu kinh tế và thương mại tương đồng, tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa, nhập siêu tăng. Trong đó, điển hình là các cam kết xóa bỏ hoàn toàn thuế quan trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 2015, xoá bỏ thuế quan trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Tự do ASEAN - Australia/New Zealand (AANZFTA), Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA). Bên cạnh việc chịu những ảnh hưởng chung từ nền kinh tế, ngành kinh tế, các doanh nghiệp còn chịu những ảnh hưởng mang tính đặc thù: 1096
  7. - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở Việt Nam chưa thực sự mạnh, nguy cơ mất thị trường nội địa là khá lớn. Khi Việt Nam ký kết các FTA, nếu không tận dụng tốt, các doanh nghiệp không chỉ mất cơ hội chiếm lĩnh thị trường nước ngoài mà ngay cả thị trường nội địa cũng khó để giữ vững. - Việc vượt qua các hàng rào phi thuế quan thực sự là thách thức lớn. Nguồn lực đầu tư, đổi mới kỹ thuật, công nghệ còn hạn chế, những yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh kiểm dịch, đóng gói, bao bì, khả năng truy soát nguồn gốc, các tiêu chuẩn liên quan đến sức khỏe và đời sống con người của các nước khối EU, Nhật, Mỹ khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn để thâm nhập thị trường. - Một thực tế khác, khả năng tài chính và quản lý tài chính của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có nguồn vốn chủ sở hữu còn khá nhỏ so với mức trung bình quốc tế. Trong khi khả năng tiếp cận nguồn vốn vay trong nước của đối tượng này còn nhiều khó khăn, chủ yếu do không có tài sản đảm bảo cũng như tình hình tài chính và hồ sơ tài chính chưa thực sự minh bạch. Khi hội nhập sâu rộng với quốc tế, nguồn vốn hạn chế và năng lực tài chính yếu sẽ lấy mất những cơ hội cũng như hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp. - Nhận thức cũng như mối quan tâm về FTA của các doanh nghiệp chưa thực sự sâu sắc. Theo kết quả khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2014, có tới 76% doanh nghiệp Việt Nam không hiểu về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), 94% DN không nắm được các nội dung đàm phán trong AEC, 63% DN không nắm được cơ hội, thách thức của AEC. Việc bị động khi hội nhập thị trường quốc tế sẽ khiến các DNVVN Việt Nam mất đi cơ hội kinh doanh cũng như không trở tay kịp trước những chiến lược kinh doanh bài bản của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Nguồn: Nguy n Thị Thu Trang (2019) Hình 2. Điều gì ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi FTA của doanh nghiệp Tổng cục Thống kê (GSO, 2919) đã tiến hành điều tra chuyên đề nhằm thu thập thông tin đánh giá mức độ sẵn sàng tham gia hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp (DN) hoạt động trong ngành chế biến, chế tạo - ngành có nhiều DN quy mô lớn, chịu tác động và ảnh hưởng nhiều từ hội nhập quốc tế. TCTK chọn mẫu 3500 DN công nghiệp chế biến, chế tạo bao gồm: 1097
  8. 200 DN nhà nước, 100 DN có vốn đầu tư nước ngoài và 2200 DN ngoài nhà nước để tiến hành điều tra. Các ngành thuộc công nghiệp chế biến, chế tạo có qui mô lớn, có nhiều DN được chọn mẫu điều tra gồm: Sản xuất, chế biến thực phẩm (601 DN), sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại (476 DN), sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (329 DN), sản xuất trang phục (254 DN) Thông tin thu thập để đánh giá mức độ sẵn sàng tham gia hội nhập quốc tế của DN bao gồm: Kênh thông tin qua đó DN biết đến các hiệp định thương mại; quan điểm của DN về việc Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại; đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của DN; cơ hội kinh doanh của DN với đối tác nước ngoài; nội dung của các hiệp định ảnh hưởng tới hoạt động SXKD của DN; thế mạnh và bất lợi của DN khi tham gia các hiệp định thương mại về các yếu tố chính của SXKD như: chất lượng, giá thành sản phẩm, vốn đầu tư, trình độ, chuyên môn, kỹ thuật của người lao động và khả năng quản trị DN, về thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp, cập nhật thông tin, hiểu biết về pháp luật kinh doanh, mong muốn của DN từ Chính phủ/các cơ quan nhà nước và chiến lược theo đuổi của DN để nắm bắt cơ hội từ hội nhập. Kết quả khảo sát của GSO cho thấy, có tới 94,5% doanh nghiệp cho biết họ biết đến một hoặc nhiều hiệp định thương mại Việt Nam đã tham gia. Chỉ có 5,5% doanh nghiệp không biết đến bất kỳ hiệp định nào. Một số ngành có tỷ lệ DN biết đến các hiệp định thương mại cao (trên 97%) gồm: Sản xuất thuốc lá; SX than cốc, dầu mỏ tinh chế; SX máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu; Sửa chữa bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị; SX phương tiện vận tải khác; SX xe có động cơ; SX kim loại; SX thuốc, hóa dược và dược liệu; Nguồn: Nguy n Thị Thu Trang (2019) Hình 3. Sự quan tâm của Doanh nghiệp đến các FTA 1098
  9. Nguồn: Nguy n Thị Thu Trang (2019) Hình 4. Đánh giá của Doanh nghiệp về tác động của FTA Về kênh thông tin nhận biết của các DN, trong các DN biết đến hiệp định thương mại, có tới 86,9% DN biết qua kênh truyền thông; 16,3% DN biết qua hiệp hội; 15,1% DN biết qua cơ quan quản lý nhà nước; 10,8% DN biết qua đối tác kinh doanh; còn lại 8,8% biết qua các kênh thông tin khác. Đối với khu vực DN nhà nước: có 90,4% số DN biết các hiệp định thương mại qua truyền thông; có 26,3% DN biết qua các cơ quan quản lý nhà nước và có 19,7% DN nhà nước biết đến qua hiệp hội. Tỷ lệ tương ứng đối với khu vực DN ngoài nhà nước là 86,7%; 15,4% và 14,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 86,4%; 11,8% và 20,2%. Các ngành công nghiệp biết đến các hiệp định thương mại thông qua truyền thông với tỷ lệ cao gồm: SX xe có động cơ 97,6%; SX thuốc, hóa dược và dược liệu 97%; SX thuốc lá 92,3%; SX thiết bị, máy móc chưa được phân vào đâu 91,4%; Về phân theo loại hiệp định, kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ các DN được hỏi biết đến Cộng đồng kinh tế ASEAN đạt cao nhất với 83,8% (16.2% không biết); tiếp đến là Hiệp định TPP 82,2% (16,8% không biết); Hiệp đinh thương mại tự do Việt Nam – Nhật Bản 66,8% (33,2% không biết); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Liên minh Châu Âu 64,1% (35,9% không biết); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Hàn Quốc 62,7% (37,3% không biết). 4. Khó khăn và thách thức của quá trình phát triển doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thƣơng mại Cơ cấu quy mô doanh nghiệp còn chưa bền vững Mặc dù số lượng doanh nghiệp thành lập mới liên tục tăng nhưng tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng kinh doanh vẫn còn ở mức cao. Tỷ lệ doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và giải thể so với tổng số doanh nghiệp thành lập mới hàng năm trong giai đoạn 2017- 2019 trung bình khoảng 58,1%. Trong đó: năm 2017 là 57,3%; năm 2018 là 67,7% và năm 2019 là 49,8%. Việt Nam đặc biệt thiếu các doanh nghiệp quy mô lớn và doanh nghiệp cỡ vừa. Hiện tượng thiếu vắng doanh nghiệp cỡ vừa này dẫn tới sự mất cân đối trong cấu trúc các doanh nghiệp tư nhân chính thức. Thiếu doanh nghiệp cỡ vừa và lớn 1099
  10. cũng là một trong những yếu tố hạn chế khả năng kết nối của khu vực doanh nghiệp Việt Nam với các chuỗi giá trị toàn cầu. Đối với các doanh nghiệp lớn, mặc dù được xếp hạng là doanh nghiệp lớn, nhưng quy mô trung bình của các doanh nghiệp lớn trong khu vực tư nhân của Việt Nam cũng nhỏ bé hơn rất nhiều so với mức trung bình tại các quốc gia trong khu vực. Số lượng các doanh nghiệp từ nhỏ vươn lên quy mô vừa và từ quy mô vừa lên quy mô lớn rất thấp. Quá trình tích tụ vốn bằng nguồn nội lực trong các doanh nghiệp tư nhân trong nước diễn ra với tốc độ chậm chạp. Nguồn: Nguy n Thị Thu Trang (2019) Hình 5. Mức độ chủ động của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập Năng lực khoa học công nghệ của các doanh nghiệp còn hạn chế, máy móc thiết bị lạc hậu; chưa mạnh dạn đầu tư cho ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ trong doanh nghiệp, đặc biệt công nghệ lõi, công nghệ tiên phong Trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn cần đến những giải pháp công nghệ để tăng năng suất và hoạt động hiệu quả ở tất cả các khâu. Trong môi trường cạnh tranh và toàn cầu hóa như hiện nay, những doanh nghiệp không kịp thời nắm bắt công nghệ để đổi mới sáng tạo mà vẫn chọn phương thức kinh doanh truyền thống sẽ có nguy cơ rời khỏi thị trường. Khảo sát mới đây của Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, chỉ có 23% số các DN được điều tra có hoạt động đổi mới, cải tiến công nghệ. Nguyên nhân là do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, trong khi cơ chế tài chính hỗ trợ cho DN vay vốn, bảo lãnh vốn vay và các hỗ trợ khác chưa tạo điều kiện để DN đổi mới công nghệ chưa thông thoáng, thuận lợi cho DN. Khảo sát này cũng cho thấy, các tổ chức làm nhiệm vụ môi giới và dịch vụ trong thị trường công nghệ để kết nối giữa nguồn cung và cầu công nghệ còn hạn chế. Điều này góp phần lý giải nguyên nhân vì sao các nhà khoa học chưa thuyết phục được nhiều DN thương mại hóa các kết quả nghiên cứu Trong khi đó, theo khảo sát của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, tỷ lệ nhập khẩu công nghệ của Việt Nam hiện chỉ ở mức 10% (thấp hơn nhiều so với con số trung bình 40% của các nước đang phát triển). Trong đó, nhiều công nghệ thuộc thập niên 80 1100
  11. - 90 của thế kỷ trước và 75% máy móc đã hết khấu hao. Kết quả này phần nào phản ánh tình trạng chậm đổi mới công nghệ của DN Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV với tiềm lực tài chính yếu. Sự yếu kém trong cải tiến công nghệ của DNNVV bắt nguồn từ các yếu tố chi phối đến khả năng đổi mới của DN như quy mô nguồn lực của DN, đặc điểm của chủ DN, cơ chế chính sách cho đổi mới sáng tạo. Hiện nay, số lượng DN Việt Nam nhiều và gia tăng liên tục, nhưng trong đó có đến 97% là DNNVV, DN siêu nhỏ. Năng lực sản xuất của DN Việt Nam hạn chế do ít cập nhật sự thay đổi của thị trường và công nghệ. Thực trạng chung của các DN này là sử dụng công nghệ lạc hậu, năng suất lao động quá thấp so với các nước trong khu vực, thường xuyên gặp khó về tài chính, nhân lực yếu kém chưa tiếp nhận thông tin và công nghệ mới trong sản xuất, cũng như các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Quá trình đổi mới công nghệ của DN cũng luôn đối mặt với những trở lực, nhất là công nghệ đã đầu tư với giá trị lớn nhưng lạc hậu khi chưa thu hồi vốn, kiến thức và kỹ năng của nguồn nhân lực không thích ứng với bối cảnh mới. Hiện nay, các DN có thể nhận thức được lợi ích từ việc đổi mới, cải tiến công nghệ, nhưng khi đối mặt với những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, công nghệ là vấn đề chưa được DNNVV ưu tiên đầu tư. Với việc công nghệ không được coi là lĩnh vực ưu tiên khi bắt đầu kinh doanh, do đó, DN thiếu bài bản và tầm nhìn trong phát triển công nghệ, thiếu sự đầu tư một cách đồng bộ, dẫn đến tốn kém và mất thời gian để chuyển đổi công nghệ, khó tăng quy mô sản xuất. Tình trạng các DN thiếu sự chủ động trong việc tiếp cận công nghệ mới, chưa quan tâm việc đầu tư công nghệ trong sản xuất không chỉ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính DN, mà còn kéo theo hậu quả tác động xấu đến môi trường đối với địa bàn nơi DN đóng. Trình độ quản trị doanh nghiệp còn thấp, chủ yếu theo quy mô hộ gia đình, thiếu tầm nhìn, chiến lược kinh doanh dài hạn; chưa chú trọng đào tạo nâng cao kỹ năng quản trị, thiếu lao động chất lượng cao, có tay nghề Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2018), chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đật mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10) xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm. Như vậy, nhân lực nước ta còn yều về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong công nghiệp. Theo một kết quả điều tra, có tới 55,63% số chủ DN nhỏ và vừa có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ DN có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Về lực lượng lao động, có tới 75% lực lượng lao động trong các DNNVV chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Trong khi đó nhân lực được coi là yếu tố then chốt của sự phát triển bền vững doanh nghiệp. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và độ mở của nền kinh tế, các nhà quản trị doanh nghiệp buộc phải thích ứng nhanh về mọi mặt, trong đó việc tuyển chọn, sắp xếp, đào tạo đội ngũ nhân sự mang đến hiệu quả kinh doanh tích cực và ngày càng đươc doanh nghiệp quan tâm. Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP. Hồ Chí Minh (Falmi), nhu cầu về nguồn nhân lực tại các DN hiện nay đang phát triển theo hướng thu hút cần nhân lực có trình độ cao, nhân lực qua đào tạo 1101
  12. chiếm đến 82,92%. Trong đó, nhu cầu nhân lực có trình độ đại học trở lên chiếm 12,46%; cao đẳng chiếm 17,04%; trung cấp chiếm 26,04%; sơ cấp nghề - công nhân kỹ thuật lành nghề chiếm 27,38%. hả năng liên kết yếu, năng lực cạnh tranh thấp để có thể xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu Đặc biệt, mối liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất yếu và có nhiều hạn chế. Theo một cuộc khảo sát của JETRO4, các công ty Nhật Bản, một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, mua sắm khoảng 32,4% các dịch vụ và sản phẩm đầu vào từ các nhà cung cấp địa phương trong năm 2016. Con số này thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI của Nhật tại các nước láng giềng ví dụ như Trung Quốc (67,8%), Thái Lan (57,1%) và Indonesia (40,5%). Cũng cần nhấn mạnh rằng trong số các doanh nghiệp cung cấp cho các công ty FDI của Nhật Bản tại Việt Nam, 58,9% các doanh nghiệp đó là các công ty FDI có trụ sở tại Việt Nam. Chỉ có 13% 4 JETRO (2016), ―Khảo sát về Điều kiện kinh doanh của các Công ty Nhật Bản tại Châu Á và Châu Đại Dương‖. Hiện tại, chỉ 21% DNNVV Việt Nam là một phần trong chuỗi giá trị toàn cầu và chỉ 14% DNNVV đã thành công trong việc thu hút khách hàng hoặc đối tác nước ngoài, mặc dù số lượng FDI được đầu tư trong nước là rất lớn. Tình trạng năng suất thấp và thiếu lao động có tay nghề cao ở các doanh nghiệp trong nước đã làm hạn chế những mối liên kết chuỗi giá trị. Các rào cản khác hạn chế sự phát triển các doanh nghiệp Việt Nam Hiện nay, các doanh nghiệp tiếp tục có các phản ánh, kiến nghị liên quan tới thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, sự mâu thuẫn, không rõ ràng giữa các quy định pháp lý. Vẫn còn nhiều doanh nghiệp phản ánh chưa tiếp cận với các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước do không có thông tin hoặc thông tin không đầy đủ, các thủ tục còn phức tạp, nhiều tầng nấc, mất nhiều thời gian, chi phí bỏ ra để theo đuổi thậm chí còn lớn hơn tổng số tiền được nhận hỗ trợ. Việc cắt giảm điều kiện kinh doanh trong một số lĩnh vực chưa thực chất hoặc khi cắt giảm nhưng chưa công bố rộng rãi và có so sánh cụ thể các thủ tục doanh nghiệp cần thực hiện trước và sau khi cắt giảm. (Nguyễn Quang Thái (2018), Phan Thế Công (2019)). Một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã được ban hành nhưng chưa đi vào cuộc sống: Ưu đãi thuế thu nhập DN cho các DN nhỏ và vừa; ưu đãi về tín dụng, hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ mặt bằng sản xuất do chưa có sự đồng nhất giữa các Luật; hoặc do thiếu nguồn lực để triển khai. Thực tế cho thấy, hạn chế yếu kém xuất phát từ quy mô nhỏ bé của DN. Đa số là siêu nhỏ, nhỏ và vừa. (chiếm 97-98% tổng số DN). Các doanh nghiệp vẫn còn tư duy kinh doanh chộp giật, mong muốn làm giàu nhanh chóng mà không chịu đầu tư thời gian và công sức để học hỏi và nghiên cứu, nhất là các công nghệ mới, công nghệ lõi của sản phẩm. Một số doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia: Tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, gây ô nhiễm môi trường 1102
  13. 5. Một số kiến nghị và giải pháp giảm thiểu các rào cản để năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam Hiện nay, Việt Nam vẫn là điểm đến đầu tư hấp dẫn trong khu vực ASEAN và Châu Á. Nhà đầu tư của các nước Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc tiếp tục đặt niềm tin rất cao vào thị trường Việt Nam, nhiều tập đoàn lớn có chiến lược xây dựng căn cứ địa thứ hai của mình tại Việt Nam. Đây là cơ hội cũng là động lực để các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi, đổi mới, nâng cao năng lực để có thể trở thành đối tác của các DN nước ngoài, từng bước nâng cao cấp độ tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và thế giới. Nhận thức và sự quan tâm của xã hội, cộng đồng quốc tế và Chính phủ ngày càng gia tăng trong việc thúc đẩy phát triển các mô hình kinh doanh, đổi mới sáng tạo gắn với các mục tiêu phát triển bền vững (sản xuất sạch, xanh, hướng tới người thu nhập thấp, người yếu thế trong xã hội). Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, cần có sự vào cuộc của các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội và các doanh nghiệp. 5.1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước Để gỡ b các rào cản phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia: hoàn thiện cơ chế chính sách và đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; rà soát cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính; nghiêm túc thực hiện công bố công khai, minh bạch, có sự so sánh trước và sau khi cắt giảm, hướng dẫn cụ thể quy trình, thủ tục thực hiện. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển tốt, nâng cao vị thế vào sự đóng góp phát triển của nền kinh tế thì Chính phủ, Quốc hội cần rà soát lại những văn bản pháp luật, trước hết là các luật liên quan tới tổ chức hoạt động của doanh nghiệp để đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Những luật liên quan đến điều kiện hoạt động của doanh nghiệp như Luật Tài chính, tiền tệ, tín dụng, các luật về đất đai, đấu thầu, đấu giá để đảm bảo tính đồng bộ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Cần phải có cách nhìn tổng thể hơn, rà soát lại để đảm bảo cho khối doanh nghiệp nói chung có thể chủ động, sáng tạo, bình đẳng tiếp cận nguồn lực trong xã hội như nguồn lực về tài chính, vốn, nguồn lực về lao động và các cơ chế chính sách khác. Thứ hai, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp (cắt giảm điều kiện kinh doanh, cải cách quản lý thuế, hải quản, xây dựng chính phủ điện tử ). Xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số ở Việt Nam là điều kiện tiên quyết, cần phải làm nhanh và mạnh. Hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử đã dần được thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính chất nền tảng thông tin như Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia đang được xây dựng và đã có những cấu phần đi vào vận hành. Các cơ quan Nhà nước đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như: Đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội 1103
  14. Thứ ba, triển khai thực hiện kế hoạch phát triển bền vững doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các mô hình kinh doanh bền vững, công nghệ sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên. Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, khai thác cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Thúc đẩy khởi nghiệp, chú trọng khởi nghiệp sáng tạo trong một số ngành có lợi thế và tiềm năng; tạo điều kiện hình thành doanh nghiệp công nghệ, nhất là doanh nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa mô hình kinh doanh mới và kinh tế truyền thống theo hướng rà soát, bãi bỏ các quy định về điều kiện kinh doanh không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh truyền thống; xây dựng khung thể chế thí điểm cho mô hình kinh doanh mới trong một số lĩnh vực có tiềm năng rủi ro cao. Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện chính sách thu hút các công nghệ hiện đại tạo ra các sản phẩm, dịch vụ xanh, sạch, thân thiện với môi trường; hoàn thiện các tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, về ứng dụng chuyển giao công nghệ, sử dụng năng lượng trong thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài. Thứ năm, tăng cường liên kết doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp lớn, DNNN, doanh nghiệp FDI liên doanh, liên kết với các DNNVV trong nước; đồng thời nâng cao năng lực doanh nghiệp tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, phát triển chuỗi giá trị bền vững. Một trong ba nội dung hỗ trợ trọng tâm của Luật Hỗ trợ DNNVV là hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết, chuỗi giá trị. Nghị định 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật đã quy định các Bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng Đề án hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Thứ sáu, tăng cường khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng và các nguồn lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong đó: tập trung nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng (điện, đường, bến bãi, khu cụm công nghiệp xanh ); tăng cường tiếp cận tín dụng, đất đai, thông tin về khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ; phát triển nguồn lao động đáp ứng nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp thông qua tăng cường kết nối doanh nghiệp và nhà trường. Khuyến khích sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường Cùng với Chiến lược Tăng trưởng xanh, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất theo hướng bền vững như: Chính sách ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ tài nguyên môi trường, năng lượng sạch; Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030 Qua đó, ở nhiều địa phương, các doanh nghiệp điển hình thực hiện các biện pháp sản xuất xanh và sạch hơn. 1104
  15. 5.2. Đối với các hiệp hội doanh nghiệp Các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp tiếp tục phối hợp tích cực với các cơ quan quản lý nhà nước để khuyến nghị chính sách khuyến khích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm xã hội, tăng cường tham gia thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Thêm vào đó, chủ động tìm kiếm nguồn lực, xây dựng và triển khai các sáng kiến hỗ trợ phát triển doanh nghiệp thành viên, tăng cường liên kết để cùng phát triển hiệu quả, bền vững. Một điểm nữa, các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp tiếp tục xây dựng các chương trình, biện pháp cụ thể, khả thi để tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên, là cầu nối hiệu quả giữa doanh nghiệp và Chính phủ. 5.3. Đối với các doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực sản xuất, đón đầu và tham gia các chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp nước ngoài. Thúc đẩy đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, tăng công suất để phục vụ sản xuất; phát triển công nghiệp phụ. Các doanh nghiệp cần tăng cường đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt các công nghệ lõi có tính tiên phong. Các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ; chuẩn hóa sản xuất kinh doanh để đáp ứng các yêu cầu, tiêu chí của các thị trường quốc tế. Trong hội nhập, doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức, năng lực thực thi các quy định của pháp luật về phòng vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, ghi nhãn; nâng cao tính tuân thủ pháp luật, thực hiện theo đúng các cam kết quốc tế về quy tắc xuất xứ hàng hóa. Không tiếp tay cho hoạt động chuyển tải hàng hóa từ các nước đang bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại sang Việt Nam để tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu đi nước thứ 3, đồng thời phải thực hiện quản trị tốt việc lưu trữ các chứng từ về nguồn gốc xuất xứ của nguyên liệu, sản phẩm đẻ phục vụ hoạt động xác minh, điều tra của hải quan nước nhập khẩu trợ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh gắn với mục tiêu phát triển bền vững: sản xuất sạch, xanh, tiết kiệm, sử dụng hiệu quả năng lượng, bảo vệ môi trường, hướng tới nhóm người yếu thế trong xã hội . Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nhưng cũng có không ít rủi ro và thách thức. Bên cạnh đó những vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu và các vấn đề xã hội ngày một phức tạp. Chính vì vậy, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân cần phát huy tinh thần đoàn kết, biến lòng tự hào dân tộc thành sức mạnh để cùng nhau phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đồng thời tăng cường trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội, với quốc gia dân tộc, cùng nhau tạo dựng đất nước độc lập, tự chủ, bền vững và hùng cường. Thêm vào đó, tăng cường liên kết, hợp tác kinh doanh phát triển các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, dịch vụ, tiến tới nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Các doanh nghiệp cần tận dụng ưu đãi thuế quan FTA để 1105
  16. tăng khả năng cạnh tranh về giá của hàng hóa cho doanh nghiệp, đồng thời tận dụng các cam kết về phát triển bền vững để tăng hình ảnh-uy tín của hàng hóa Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO ADB (2019), Asian Economic Intergration Report 2019/2020, demographic change, productivity, and the role of technology. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Báo cáo phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp – hội nhập, hiệu quả, bền vững. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với Doanh nghiệp ngày 23 tháng 12 năm 2019. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng: Doanh nghiệp Việt Nam năm 2019. NXB Thống kê. Chính phủ (2018), Nghị định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nh và vừa, Số: 34/2018/NĐ-Chính phủ. Đoàn Ngọc Phúc. (2017), Kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thành tựu, hạn chế và giải pháp phát triển, Tạp chí Lý luận chính trị số 09 năm 2017. Economica Vietnam (2018), “Kinh tế tư nhân Việt Nam: Năng suất và Thịnh vượng”, GSO (2016), Báo cáo mức độ sẵn sàng tham gia hội nhập quốc tế của doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo. GSO (2017, 2018, 2019), Báo cáo Thống kê kinh tế - xã hội. NXB Thống kê. Nghị quyết 10-NQ/TW Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Đình Luận. (2015), Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 25(35), tr.24-28. Nguyễn Hồng Sơn. (2017), Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Những rào cản và giải pháp khắc phục. Nguyễn Quang Thái (2018), Nhận r rào cản để vươn lên trong cạnh tranh, Kỷ yếu Kội thảo quốc gia Kinh tế Việt Nam năm 2017 và Triển vọng năm 2018 với chủ đề: Tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp. NXB trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Nguyễn Thị Thu Trang (2019), Doanh nghiệp Việt Nam với CPTPP trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, Trung tâm WTO và Hội nhập Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Phan Thế Công (2018), Tập đoàn kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế, Kỷ yếu Kội thảo quốc gia Kinh tế Việt Nam năm 2017 và Triển vọng năm 2018 với chủ đề: Tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp. NXB trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2016-2019. Quốc Hội (2017), Luật Hỗ trợ các doanh nghiệp nh và vừa, số 04/2017/QH14. 1106