Kinh nghiệm xác định các mục tiêu phát triển trên con đường công nghiệp hoá của Nhật Bản và NICS để trở thành nước công nghiệp và bài học cho Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm xác định các mục tiêu phát triển trên con đường công nghiệp hoá của Nhật Bản và NICS để trở thành nước công nghiệp và bài học cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- kinh_nghiem_xac_dinh_cac_muc_tieu_phat_trien_tren_con_duong.pdf
Nội dung text: Kinh nghiệm xác định các mục tiêu phát triển trên con đường công nghiệp hoá của Nhật Bản và NICS để trở thành nước công nghiệp và bài học cho Việt Nam
- KINH NGHIỆM XÁC ĐỊNH CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN TRÊN CON ĐƯỜNG CÔNG NGHIỆP HOÁ CỦA NHẬT BẢN VÀ NICs ĐỂ TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TS. Nguyễn Vĩnh Tường Viện Hàn lâm KH Việt Nam Tóm tắt Trở thành một nước công nghiệp, các nền kinh tế trên thế giới đã trải qua các giai đoạn khác nhau của quá trình công nghiệp hoá. Trong mỗi thời kỳ, bối cảnh phát triển cùng những vấn đề nội tại của nền kinh tế đã chi phối việc xác định mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là biện pháp để trở thành nước công nghiệp, vừa là mục tiêu tổng quát phải thực hiện trong thời kỳ đầu. Tuy nhiên, nâng cao năng lực cạnh tranh là mục tiêu khi công nghiệp hoá đã sang những giai đoạn cao hơn. Chi phối bởi đặc trưng quan trọng nhất của công nghệ sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 của thế giới, các nền kinh tế Nhật Bản, Hàn quốc và NICs đã tập trung vào hai mục tiêu là (a) nguồn nhân lực có chất lượng và (b) doanh nghiệp tư nhân. Các biện pháp được thực hiện để tăng cường chất lượng nguồn nhân lực bao gồm thúc đẩy đào tạo trong nước và quốc tế, thuê chuyên gia quốc tế, hay cải thiện chất lượng các yếu tố môi trường kinh doanh, khuyến khích tinh thần nhà doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu phát triển. Mở đầu Trở thành một nước công nghiệp là mục tiêu của các nền kinh tế đang phát triển và kém phát triển, bởi đằng sau tiêu chí nước công nghiệp là một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng của nền kinh tế. Hơn thế nữa, trở thành một nước công nghiệp còn được xem là cơ sở vững chắc để đạt được phát triển của con người và những nền tảng đảm bảo cho quá trình phát triển bền vững, thích ứng với những vấn đề toàn cầu. Con đường trở thành nước công nghiệp, bắt kịp với các nền kinh tế phát triển đi trước, chính phủ của các nền kinh tế đi sau như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là một quá trình phát triển, trải qua nhiều giai đoạn, tuỳ thuộc vào xuất phát điểm của mỗi nền kinh tế. Trong quá trình đó, chính phủ các nền kinh tế nói trên đã xác định các mục tiêu phát triển và ban hành, thực thi các chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh và hiệu quả. Một hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu được xây dựng, hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá,giúp chính phủ đánh giá kết quả 230
- huy động và sử dụng các nguồn lực, cũng như xác định vấn đề và nguyên nhân của các vấn đề trong việc huy động các nguồn lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hó. Việt Nam đã và đang nỗ lực trở thành một nước công nghiệp, nhưng đến nay, nhiều mục tiêu thành phần để đảm bảo bản chất của một nước công nghiệp đến nay vẫn chưa đạt được. Trong bối phát triển mới, sự cần thiết của việc xác định các mục tiêu phát triển kinh nghiệm của các nền kinh tế Nhật Bản và NICs có thể giúp gợi ý cho Việt Nam . I. Quá trình công nghiệp hoá của nền kinh tế Nhật Bản và các mục tiêu phát triển Trong lịch sử phát triển kinh tế, thôi thúc bởi khả năng “bắt kịp” với các nền kinh tế phát triển trên cơ sở mô hình tăng trưởng Harrod-Domar (1946), mô hình Sollow-Swan (1956), Mankiw N. G., Romer D., Weil D. N., (1992). Các mô hình tăng trưởng đó đã gợi mở những nguồn lực cần huy động cũng như vai trò của công nghệ trong quá trình theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá – với những nỗ lực đổi mới, nâng cấp công nghệ sản xuất, kết hợp với việc huy động bổ sung các nguồn vốn, lao động và nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực – được xem là phương thức để đạt được mục tiêu sớm trở thành nước công nghiệp. Và lịch sử phát triển kinh tế của Nhật Bản, và sau này là của các nền kinh tế mới nổi (NICs) mà đại diện là Hàn Quốc, đã trở thành những bằng chứng cho việc theo đuổi mô hình tăng trưởng đó. Giai đoạn bùng nổ phát triển của nền kinh tế Nhật Bản kéo dài ba thập kỷ (1950-1970), chỉ 5 năm sau khi kết thúc thế chiến thứ II, được thế giới xem là “điều thần kỳ”. Điều đó bắt nguồn từ những quan sát ban đầu về nước Nhật bại trận và những gì còn sót lại cho nền kinh tế lúc đó là đống đổ nát của nhà xưởng, máy móc thiết bị công nghệ. Thực tiễn phát triển không có điều kỳ diệu và yếu tố căn bản nhất, quan trọng nhất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của phát triển hầu như không bị ảnh hưởng. Yếu tố đó đã được chuẩn bị từ thời Minh Trị và thậm chí được bổ sung mạnh mẽ hơn khi nước Nhật dân sự hoá các nhà máy công nghiệp quốc phòng. Đó là yếu tố con người và chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; và các mục tiêu công nghiệp hoá thời kỳ đầu hay mục tiêu phát triển sau này, đều chú trọng đến và tập trung vào việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng. 1. Công nghiệp hoá thời kỳ Minh trị và những kế thừa của thời kỳ Edo Lịch sử công nghiệp hoá của Nhật Bản được xem là bắt đầu từ thời kỳ Minh Trị. Trong bối cảnh chịu áp lực mở cửa của Mỹ và các nước phương Tây, nhà nước Minh Trị, ngay sau khi được thành lập, đã nhanh chóng xác định mục tiêu hiện đại hoá Nhật Bản, “theo kịp với phương Tây trong mọi vấn đề liên quan đến văn minh hoá đất nước” Ohno, k., (2006). Đây có thể xem là mục tiêu tổng quát. Công nghiệp hoá được xem là biện pháp giúp thu hẹp khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, bản thân công nghệ của Nhật Bản lạc hậu hơn nhiều so với các nền kinh tế 231
- đã trải qua cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai. Vì vậy, chính quyền thời Minh Trị tập trung đầu tư cho hai nguồn lực chính yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là (a) nguồn nhân lực có chất lượng và (b) các doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn (hay còn gọi là Zaibatsu). Công nghiệp hoá, vì thế, vừa được xem là phương tiện để đạt được mục tiêu tổng quát, vừa được xem là mục tiêu trong thời kỳ Minh Trị; và để đạt được mục tiêu thứ cấp, chính phủ đã tập trung vào việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và phát triển doanh nghiệp tư nhân. Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố con người có năng lực hấp thụ công nghệ hiện đại của thế giới và chuyển hoá thành công nghệ “Made in Japan”, chính quyền thời Minh trị đã thực hiện các biện pháp phát triển nguồn nhân lực thông qua (a) cử thanh niên lưu học ở phương tây; (b) tuyển chuyên gia, kỹ sư nước ngoài; (c) thúc đẩy đào tạo lao động tại các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, sở hữu nhà nước. Ba giải pháp này hướng tới việc khai thác lợi thế của (i) lực lượng lao động thanh niên đông đảo trong nền kinh tế Nhật Bản, (ii) lực lượng lao động chất lượng cao dư thừa của thế giới, do quá trình hiện đại hoá tiếp tục phát triển; (iii) và năng lực đào tạo kỹ sư của các doanh nghiệp nhà nước Nhật Bản rất tốt, mặc dù các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả (Ohno, k., 2006, trang 52). Song song với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng, chính phủ Nhật Bản cũng thực hiện các biện pháp hiện đại hoá công nghệ. Trong thời kỳ này, đặc trưng cơ bản là công nghệ truyền thống của Nhật Bản và công nghệ hiện đại của phương Tây cùng tồn tại trong các doanh nghiệp. Việc hiện đại hoá công nghệ được thực hiện bởi các biện pháp (a) mở các hội chợ thương mại và (b) hỗ trợ các tập đoàn kinh tế tư nhân, (zaibatsu); Những biện pháp này dựa trên lợi thế căn bản của doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản, những doanh nghiệp năng động. Đặc trưng năng động của khu vực kinh tế tư nhân được xem là quan trọng hơn cả yếu tố chính sách của chính phủ, trong việc thực hiện công nghiệp hoá. Kinh nghiệm đáng chú ý là việc các doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản không đủ năng lực chi trả tiền lương cho các chuyên gia nước ngoài và chính phủ đã thanh toán khoản chi phí đó. Tuy nhiên, đây là gánh nặng tài chính đối với chính phủ. Năm 1874, tiền lương cho chuyên gia nước ngoài chiếm 34% tổng ngân sách của Bộ Công nghiệp (Ohno, k., 2006, trang 72) Biện pháp phát triển doanh nghiệp tư nhân của chính phủ Nhật Bản gắn liền với các biện pháp khuyến khích các ngành công nghiệp then chốt; đó là nhóm ngành công nghiệp nhẹ phục vụ mục tiêu xuất khẩu và thị trường truyền thống, (ngành lụa, ngành sợi bông truyền thống và hiện đại); ngành công nghiệp cơ khí (sản xuất máy móc thiết bị, bao gồm cả sản xuất đầu tàu và toa xe của đường sắt); ngành công nghiệp đóng tàu; ngành cơ điện. Quá trình công nghiệp hoá thời kỳ Meji không thể thành công, nếu thiếu những nền tảng cần thiết, vốn đã được phát triển từ thời kỳ Edo. Những điều kiện đảm bảo đó 232
- bao gồm: (a) một thị trường nội địa thống nhất; (b) kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và hệ thống phân phối phát triển, giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí lưu thông, tiếp cận lao động và thị trường tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, (c) Một đội ngũ doanh nhân với tinh thần nhà doanh nghiệp, khát vọng làm giàu, (d) sự phát triển của dịch vụ hỗ trợ tài chính. Để theo dõi và đánh giá việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, một số chỉ tiêu thống kê đã được đưa vào sử dụng, tuy chưa mang tính chất hệ thống. Trong giai đoạn này, người ta có thể đánh giá được mức độ công nghiệp hoá thông qua một số chiều cạnh bao gồm sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá, sự phát triển của nguồn nhân lực có tay nghề; cơ sở nghiên cứu và phát triển (R&D) và kết quả hợp tác kỹ thuật, nhượng quyền công nghệ và sao chép công nghệ, sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân, kết quả phát triển của các ngành kinh tế quan trọng Liên quan đến cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chính phủ Nhật Bản đã đánh giá kết quả (a) phát triển của kết cấu hạ tầng giao thông, với chiều dài đường bộ, đường sắt được xây dựng qua thời gian; (b) phát triển của hạ tầng công phục vụ R&D với số lượng và quy mô trung tâm nghiên cứu nông nghiệp; Về kết quả phát triển chất lượng nguồn nhân lực, một số chỉ tiêu liên quan bao gồm số lưu học sinh, số lượng chuyên gia và chuyên gia nước ngoài, số lao động được đào tạo trong các doanh nghiệp, số kỹ sư tay nghề cao, số thợ thủ công. Đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, các chỉ tiêu được sử dụng, theo dõi đánh giá liên quan đến số lượng doanh nghiệp tư nhân, số lượng các Zaibatsu, kết quả hoạt động kinh doanh (lãi, lỗ của doanh nghiệp), giá trị sản xuất và giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp, thị phần của ngành công nghiệp xuất khẩu trên thị trường thế giới; cơ cấu hàng xuất khẩu trong quan hệ thương mại với các nền kinh tế Mỹ và châu Âu (phân theo sản phẩm thô và sản phẩm chế biến). Số lượng các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả được thay đổi cơ cấu chủ sở hữu, số lượng các triệu phú trong nền kinh tế qua các năm; Đối với nền kinh tế, việc đánh giá kết quả công nghiệp hoá dựa trên kết quả của các ngành công nghiệp mũi nhọn, chủ đạo, nhất là công nghiệp cơ khí, và thay đổi trong cơ cấu ngành của nền kinh tế; Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, và xu hướng thay đổi của tỷ lệ lao động trong nông nghiệp. Một trong những mục tiêu cụ thể của quá trình công nghiệp hoá trong thời kỳ Minh Trị là việc nhập khẩu công nghệ, máy móc từ các nền kinh tế phát triển và làm chủ các công nghệ đó. Kết thúc thời kỳ Minh Trị, Nhật Bản được đánh giá là thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đối với các ngành công nghiệp nhẹ, trọng tâm là công nghiệp dệt may. 233
- 2. Công nghiệp hoá thời kỳ sau thế chiến thứ II Sau thế chiến thứ II, Nhật Bản tiếp tục quá trình công nghiệp hoá, với các giai đoạn hợp lý hoá nền kinh tế (1945-1949) và giai đoạn bùng nổ (1950-1970s). Trong giai đoạn phát triển này, mục tiêu tổng thể là nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng và hiệu quả. Nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục quá trình công nghiệp hoá trong bối cảnh tái thiết đất nước, xây dựng lại cơ sở vật chất cho nền công nghiệp sau chiến tranh, kết nối với thị trường thế giới bằng vận tải biển bị gián đoạn, công nghiệp hàng không không được phát triển và nguyên vật liệu đầu vào sản xuất thiếu hụt. Hàng hoá sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu và lạm phát tăng cao. Bên cạnh đó, sản phẩm của Nhật trong thời kỳ trước cho đến giai đoạn này có chất lượng thấp. Đây là những áp lực khiến chính phủ Nhật Bản xác định mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh như là mục tiêu tổng quát của công nghiệp hoá giai đoạn này. Việc xác định mục tiêu công nghiệp hoá và các biện pháp thực hiện lúc đó không chỉ dựa trên bối cảnh của kinh tế trong nước và mối quan hệ ràng buộc với Mỹ và thế giới hậu chiến tranh thế giới thứ II mà còn dựa trên những dự báo về tương lai của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là của các ngành công nghiệp từng là mũi nhọn của nền kinh tế Nhật Bản như ngành dệt may. Để đạt được mục tiêu này, chính phủ Nhật Bản đã triển biện pháp như “Hợp lý hoá – Gorika”, khuyến khích nền kinh tế tăng năng suất lao động trên cơ sở đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị mới, hiện đại, kết hợp với việc tổ chức lại hệ thống quản lý và sản xuất. Như đã trình bày ở trên, công nghiệp hoá trong thời kỳ Minh Trị dựa trên biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sự phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân (Zaibatsu). Đằng sau sự phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân chính là việc nâng cao hiệu quả dựa trên tính kinh tế theo quy mô ở cấp doanh nghiệp. Trong khi nguồn nhân lực có chất lượng vẫn là yếu tố quan trọng thúc đẩy công nghiệp hoá thời kỳ sau thế chiến. Yếu tố thứ hai đã có sự thay đổi. Trong bối cảnh phải giải tán các Zaibatsu sau khi thất trận, việc khai thác tính kinh tế theo quy mô để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế cũng phải thay đổi theo. Trong giai đoạn mới, tính kinh tế theo quy mô được phát huy ở cấp ngành, trên cơ sở phát triển của hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, thay vì ở cấp doanh nghiệp, trên cơ sở phát triển của một số ít Zaibatsu trong thời kỳ Minh Trị. Sự thay đổi này cũng dẫn đến những thay đổi trong việc triển khai các biện pháp thực hiện các mục tiêu công nghiệp hoá. Đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng, Nhật Bản tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực, nhưng việc dựa trên các chuyên gia nước ngoài bằng ngân sách nhà nước đã giảm dần từ trước đó. Việc đào tạo nguồn nhân lực được thực hiện dựa trên hệ thống các trường đào tạo trong nước cũng như dựa trên việc thực hiện đào tạo tại 234
- doanh nghiệp nhằm thúc đẩy quá trình học thông qua hành (learning by doing). Các cuộc thi tay nghề thợ giỏi được xem như là biện pháp khuyến khích lao động nâng cao tay nghề, trở thành những chuyên gia trong lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực cơ khí. Cải cách giáo dục được xem là một nguyên nhân góp phần cải thiện chất lượng của lực lượng lao động Nhật Bản so với nhiều nước phát triển khác. Nghiên cứu của Maddison (1991) cho thấy, số năm trung bình đi học của người lao động Nhật Bản (độ tuổi 15- 64) đã tăng nhanh từ 5,1 năm (1913) lên 11,66 năm (1989) và thành tích đó vượt xa các nền kinh tế Pháp, Đức, Hà Lan và Anh, và chỉ xếp sau Mỹ trong cùng khoảng thời gian. Để nâng cao hiệu quả, trên cơ sở đổi mới công nghệ, phát huy tính kinh tế theo quy mô ở cấp ngành, hai nhóm chính sách đã được triển khai song song. Nhóm chính sách phát triển doanh nghiệp được chính phủ Nhật Bản triển khai bao gồm Luật (tạm thời16) về doanh nghiệp vừa và nhỏ với các nội dung liên quan đến hỗ trợ đổi mới công nghệ, hỗ trợ tiếp cận tài chính, quy định những ràng buộc liên quan đến việc thanh toán của doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối quan hệ thầu phụ. Bên cạnh các chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, chính phủ Nhật Bản đã triển khai các chính sách hỗ trợ cho một nhóm nhỏ các doanh nghiệp vừa và nhỏ - với đặc trưng tăng trưởng cao (high-growth SMEs). Sự hỗ trợ đó, như các nghiên cứu của Storey (1994), Acs (1999) và nhiều nghiên cứu khác cho thấy là cần thiết, bởi (a) ảnh hưởng lan toả từ các doanh nghiệp này đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác trong nền kinh tế, và bởi (b) các thể chế tài chính và các nhà đầu tư tiềm năng ra quyết định đầu tư dựa trên thông tin hỗ trợ của chính phủ. Song song biện pháp phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, các biện pháp phát triển ngành được triển khai, với mục tiêu phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, có lợi thế đối với, hoặc sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh cho Nhật Bản. Thuật ngữ “ngành công nghiệp non trẻ” – infant industries – cũng bắt nguồn từ chính sách hỗ trợ của chính phủ Nhật Bản đối với các ngành công nghiệp đã phát triển ở các nền kinh tế phát triển của thế giới như Mỹ, nhưng mới bắt đầu phát triển ở Nhật Bản hoặc mới bắt đầu xuất hiện. Mặc dù chính phủ Nhật Bản đã triển khai một số chính sách ngành, như trường hợp công nghiệp ô tô, nhưng hiệu quả của biện pháp này cho đến nay vẫn còn tranh cãi. Các công trình nghiên cứu, bao gồm cả những mô hình kinh tế lượng, cho thấy chính sách ngành, không chỉ ở Nhật Bản mà còn ở Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước khác không đem lại những kết quả như kỳ vọng. Những tranh cãi xoay quanh việc có thực 16 Trong giai đoạn này, nhiều luật được ban hành với cụm từ “tạm thời” – “temporary”, hàm ý luật có phạm vi điều chỉnh trong một khoảng thời gian và sẽ chấm dứt hiệu lực khi hết thời gian đó. Một đạo luật mới sẽ được ban hành thay thế luật hết hiệu lực, trên cơ sở điều chỉnh các điều khoản phù hợp với sự phát triển. Luật Doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là một ví dụ. 235
- sự chính sách có hiệu quả hay không khi có những bằng chứng cho thấy những ngành không được hỗ trợ vẫn phát triển tốt trong khi những ngành được tuyên bố hỗ trợ chính thức lại không phát triển được. Thậm chí, một số nghiên cứu về trường hợp của Nhật Bản cho thấy, các chính sách đó không thúc đẩy việc tái phân bổ nguồn lực từ những ngành xuất hiện đặc trưng tính kinh tế giảm theo quy mô (Decreasing return to scale) sang những ngành có tính kinh tế tăng theo quy mô (Increasing return to scale), như từng được ủng hộ bởi nghiên cứu của Itoh và cộng sự (1991). Các biện pháp bổ sung để đạt được mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm “made in Japan” trên cơ sở phát triển nguồn nhân lực và phát triển doanh nghiệp tư nhân bao gồm các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tỷ giá, chính sách đầu tư và tiết kiệm, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế hay chính sách thúc đẩy đô thị hoá và phát triển thị trường lao động. Chính phủ Nhật Bản đã triển khai các biện pháp ổn định tình hình lạm phát thời kỳ đầu, hay điều chỉnh chính sách tỷ giá, để các doanh nghiệp có điều kiện, thời gian nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế đã diễn ra từ từ nhằm tạo điều kiện về thời gian cho các doanh nghiệp công nghiệp cải thiện năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm trước khi đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp nước ngoài, vốn có lợi thế đi trước. Quá trình giảm thuế, và dỡ bỏ các rào cản thương mại có sự hợp tác chặt trẽ giữa chính phủ và doanh nghiệp tư nhân trong nước. Quan trọng hơn, lộ trình này được xác định trước một cách rõ ràng và không thoả hiệp. Cam kết đó giúp các doanh nghiệp tư nhân trong nước có đủ thời gian huy động nguồn lực cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh. Lợi thế của nguồn nhân lực dồi dào vẫn được duy trì cho đến cuối thập kỷ 60 của thế kỷ 20. Tuy nhiên, về cuối giai đoạn công nghiệp hoá, nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu thiếu hụt lao động cho công nghiệp. Đô thị hoá và sự phát triển của cơ sở hạ tầng vận tải đường sắt đã góp phần quan trọng trong việc kết nối các địa phương, thúc đẩy sự tích tụ tập trung lao động, giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động công nghiệp chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp. Kết quả của quá trình này đã động đổi cơ cấu kinh tế với việc một số ngành kinh tế đã bị loại khỏi cơ cấu, trong khi những ngành công nghiệp còn lại cải thiện được năng lực cạnh tranh và tiếp tục tồn tại, phát triển. II. Quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc và các mục tiêu trong quá trình Cũng giống như nền kinh tế Nhật Bản, lịch sử phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc không dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Lịch sử “cất cánh” của nền kinh tế Hàn Quốc trở thành một hiện tượng được ngưỡng mộ và được nhiều nền kinh tế đi sau nghiên cứu học hỏi. Nền kinh tế Hàn Quốc đã trải qua ba thập kỷ (1965-1995) tăng trưởng cao, giống như sự bùng nổ của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1950-1970. 236
- Lịch sử phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc, cho đến khi trở thành một nước công nghiệp – một nền kinh tế mới nổi (NICs) và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Lịch sử phát triển đó, cho đến nay, có thể được chia làm các giai đoạn cơ bản sau: (a) Thời kỳ hình thành Hàn Quốc; từ sau kết thúc thế chiến thứ II, chia cắt hai miền Nam – Bắc (1945 – 1950); (b) Giai đoạn chiến tranh Nam – Bắc Triều (1950 – 1953); (c) Giai đoạn bùng nổ của nền kinh tế Hàn Quốc và gia nhập nhóm các nền kinh tế phát triển (1953 – 1997); (c) giai đoạn phát triển đương đại (1997 đến nay). Khác với quá trình công nghiệp hoá của các nền kinh tế phát triển đi trước, quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc và các NICs hay Nhật Bản không gắn với năng lực phát minh (Invention), sáng chế (Innovation) mà cơ bản gắn với năng lực học hỏi (learning), nhất là trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá. Đây cũng là sự lặp lại của lịch sử phát triển khi nước Anh đi tiên phong trong phát minh và Châu Âu và Mỹ đi theo học hỏi. Quá trình học hỏi này gắn với các doanh nghiệp quy mô lớn, với giả định rằng những doanh nghiệp quy mô lớn có đủ năng lực học hỏi (learning) trong bối cảnh cạnh tranh trên thị trường thế giới, với các doanh nghiệp quốc tế có “lợi thế đi trước” đã diễn ra gay gắt. Và lợi thế cần được khai thác bởi các doanh nghiệp nội địa Hàn Quốc là lao động giá rẻ, trợ cấp chính phủ và tính kinh tế theo quy mô được phát huy. Công nghiệp hoá của Hàn Quốc bắt đầu trong bối cảnh các cơ sở kinh tế bị phá huỷ trong chiến tranh Nam-Bắc Triều và sự chia cắt của nhiều gia đình. Đô thị hoá diễn ra nhanh, do ảnh hưởng của cuộc chiến Nam-Bắc Triều, với phần lớn dân cư là người nghèo. Trước năm 1961, nền kinh tế Hàn Quốc được mô tả bởi những từ khoá đặc trưng như “đình đốn”, “lạm phát”, “tham nhũng”, và “lệ thuộc viện trợ nước ngoài”. Quá trình công nghiệp hoá, trong gần ba thập kỷ cuả chính quyền quân sự, đã đưa nền kinh tế Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp trở thành nước công nghiệp. Trong bối cảnh xuất phát điểm nhiều khó khăn, Park Chung Hee đã xác định mục tiêu phát triển là “nước giàu, quân đội mạnh”, thoát khỏi sự lệ thuộc kinh tế vào nước Mỹ, và mục tiêu này cũng không khác nhiều so với mục tiêu phát triển của dưới thời Minh Trị của Nhật Bản. Xây dựng nền tảng cho quá trình công nghiệp hoá, chính quyền Park Chung Hee trước hết đã ban hành nghị định nhằm xoá nợ cho khu vực nông thôn, trợ giá đối với gạo mới mục tiêu xoá nghèo cùng cực ở khu vực này. Bên cạnh đó, nhận thức được tầm quan trọng của giới doanh nhân có kỹ năng đối với tăng trưởng kinh tế, chính quyền đã trao trả tự do cho họ sau khi có được chữ ký với nội dung cam kết sẽ hiến toàn bộ tải sản cho chính phủ nếu đó là yêu cầu cần thiết cho sự tái thiết đất nước. Ngay sau đó, tổng thống Park đã chỉ định 13 trong số những doanh nhân được trả tự do vào một Hội đồng khuyến khích tái thiết kinh tế do Yi Pyong Chol làm chủ tịch. 237
- Các biện pháp nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, thoát khỏi sự lệ thuộc vào kinh tế Mỹ, cũng dựa trên (a) sự phát triển của tập đoàn tư nhân – Chaebol, và (b) nguồn nhân lực có chất lượng. Sự phát triển của tập đoàn tư nhân (Cheabol) đặt trong mối quan hệ Nhà nước – Cheabol với nhà nước giữ vai trò định hướng phát triển. Trong mối quan hệ này, Nhà nước giữ vai trò đảm bảo cho các tập đoàn được hỗ trợ đầy đủ nhất, tránh rủi ro của thua lỗ và phá sản, đồng thời các tập đoàn có vai trò đầu tư vào những ngành công nghiệp có tính rủi ro cao, mà các doanh nghiệp tư nhân thông thường không dám đầu tư, để thúc đẩy sự hình thành cơ cấu công nghiệp mới. Những Cheabol được lựa chọn tham gia vào quá trình này là những doanh nghiệp được lãnh đạo bởi những doanh nhân có tinh thần nhà doanh nghiệp, có năng lực quản lý và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ở trạng thái tốt. Quan điểm của Park về vai trò của doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ là rõ ràng. Việc hiện thực hoá tầm nhìn phát triển không thể dựa vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc xây dựng nền kinh tế công nghiệp hiện đại cần có các doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực tiếp cận vốn, công nghệ. Các doanh nghiệp quy mô lớn đó có vai trò tạo nền tảng cho quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng với quy mô lớn cũng như đảm bảo cho nền kinh tế đi theo mô hình tăng trưởng dựa xuất khẩu. Để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp tư nhân, Park tạo ra môi trường thúc đẩy cạnh tranh độc quyền trong các ngành kinh tế mũi nhọn, chiến lược. Cơ chế này thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, khai thác lợi thế “tinh thần nhà doanh nghiệp”, tinh thần kinh doanh để có được những doanh nghiệp đóng vai “kẻ thách thức”, cạnh tranh với các Cheabol dẫn đầu ngành. Với vị thế bị đe doạ, bản thân các Cheabol dẫn đầu cũng chịu áp lực và có động lực đổi mới, để phát triển và tiếp tục duy trì vị thế, nhằm thu lợi nhuận độc quyền. Để thúc đẩy sự phát triển của những ngành có rủi ro cao, chính quyền Park sẵ sàng hỗ trợ cho các Cheabol đối tác nâng cao năng lực kinh doanh, tham gia vào kế hoạch phát triển các ngành này. Park đã trao quyền cho Ban Kế hoạch kinh tế (EPB), được thành lập và vận hành bởi các nhà kỹ trị trẻ tuổi trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế Hàn Quốc. Ban Kế hoạch Kinh tế có nhiệm vụ khuyến khích các Cheabol tham gia phát triển các ngành công nghiệp mới, với cam kết hỗ trợ của chính phủ. Một trong những cam kết đó là việc giải ngân các khoản vay ưu đãi, lãi suất thấp từ các ngân hàng tư nhân đã bị quốc hữu hoá. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm được xem là biện pháp để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, trên cơ sở điều tiết lợi ích và chiến lược của các Cheabol và các doanh nghiệp lớn khác. Những chính sách đó đã đem lại những kết quả đáng khích lệ đối với sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Bình quân có khoảng 1000 doanh nghiệp tư nhân mới tham gia nền kinh tế, và quy mô chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, cho đến đầu những năm 1960, nền kinh tế Hàn Quốc có khoảng 509 doanh nghiệp quy mô 238
- lớn. Trong giai đoạn 1963-1969, Hàn Quốc có thêm 409 doanh nghiệp lớn khác ra đời, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá. Quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc bị thách thức bởi khủng hoảng tài chính giai đoạn 1968-1972. Những vấn đề phát triển do dựa vào Cheabol để hiện đại hoá nền kinh tế sau một thời gian dài đã bộc lộ. Nhiều Cheabol mắc nợ lớn do sử dụng các khoản vay ngắn hạn trên thị trường tài chính và các khoản vay thương mại nước ngoài. Bối cảnh nền kinh tế thế giới suy giảm, đặc biệt là thị trường xuất khẩu chính – Mỹ - có những động thái gia tăng bảo hộ, đã ngăn cản sự phát triển của công nghiệp dệt may Hàn Quốc. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phá sản vào năm 1971, bất chấp chính phủ có những nỗ lực mua lại các doanh nghiệp này. Trong bối cảnh đó, chính phủ đã xác lập mục tiêu củng cố vị thế của Cheabol đối với nền kinh tế, không chỉ dựa trên cơ sở hỗ trợ xây dựng nền tảng tài chính vững chắc, mà còn dựa trên cơ sở thúc đẩy các doanh nghiệp này tham gia phát triển các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất, góp phần tái cơ cấu nền kinh tế. Với biện pháp hoàn thiện cấu trúc Cheabol trong giai đoạn 1973-1979, nền kinh tế Hàn Quốc đã phát huy được tính lợi thế theo quy mô ở những ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất – những ngành có đặc trưng thâm dụng vốn. Các ngành công nghiệp mũi nhọn được xác định trong giai đoạn này bao gồm kim loại không sắt, hoá dầu, cơ khí, đóng tàu, điện tử, và công nghiệp thép. Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghiệp ô tô cũng đã trở thành một lĩnh vực đem lại tăng trưởng cao cho nền kinh tế Hàn Quốc. Nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp ô tô, chính quyền Park đã thiết lập các kế hoạch phát triển công nghiệp 5 năm. Đồng thời ban hành đạo luật Bảo vệ Công nghiệp Ô tô (1962), cấm nhập xe thành phẩm, cấm nhập khẩu bộ phận và linh kiện trừ các thiết bị phục vụ việc lắp ráp xe nhằm tạo cơ hội cho công nghiệp ô tô trong nước phát triển. Trong mối quan tâm đến sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, Park đã thúc đẩy sự thành lập và phát triển của các trung tâm nghiên cứu nhằm thúc đẩy sự lan toả tri thức công nghệ đến doanh nghiệp. Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc thành lập năm 1966 là kết quả đầu tiên của nỗ lực này. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng, chất lượng, chính phủ cũng đã khuyến khích giáo dục nghề, kỹ thuật và xây dựng hệ thống các cơ sở dạy nghề đối với hệ thống giáo dục bậc trung học và bậc phổ thông và các trường cao đẳng dạy nghề với hệ thống đào tạo 2 năm. Cũng giống như chính quyền Minh Trị, chính quyền của tổng thống Park cũng khuyến khích thanh niên du học, và chấp nhận một thực tế (khác với Nhật Bản) là nhiều người trong số đó không quay về nước sau khi tốt nghiệp. Cũng giống như nền kinh tế Nhật Bản, các Cheabol đã đóng vai trò trọng việc hấp thụ công nghệ tiên tiến của nước ngoài và lan toả công nghệ đối với doanh nghiệp trong nước. Các biện pháp chính được thực hiện bao gồm các nỗ lực thoả thuận 239
- nhượng quyền công nghệ; dựa vào các doanh nghiệp nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực, nhất là các kỹ sư. Quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc còn có đặc trưng là chuyển đổi kinh tế nông thôn. Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, gia tăng mức độ hưởng lợi từ kết quả tăng trưởng kinh tế cho khu vực nông nghiệp – vốn không được hưởng lợi nhiều trước những năm 70 – chính quyền địa phương đã có những chính sách nhằm giáo dục nông dân, giúp họ hiện đại hoá nông trại và hiện đại hoá nông thôn. Đồng thời với biện pháp đó, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và hạ tầng năng lượng (điện) tạo cơ hội cho nông dân, thanh niên nông thôn tiếp cận đến các cơ hội phát triển mới do sự phát triển của lĩnh vực công nghiệp đem lại. III. Bài học kinh nghiệm về xác định mục tiêu công nghiệp hoá, các biện pháp thực hiện và theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện. Lịch sử công nghiệp hoá của các nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc (thành viên của nhóm các nền kinh tế mới nổi – NICs) cho thấy, các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xác định rõ ràng, dựa trên thực trạng nền kinh tế và trên bối cảnh của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, mục tiêu tổng quát vẫn là bắt kịp các nền kinh tế phát triển. Bối cảnh chính, ảnh hưởng đến việc xác định mục tiêu xuyên suốt các giai đoạn là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3. Các nền kinh tế tiến hành công nghiệp hoá, trong hai cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, dựa trên các phát minh (inventions) và các đổi mới (innovation). Trong khi đó, với xuất phát điểm lạc hậu về công nghệ sản xuất (so với các nền kinh tế đi trước) và với sự sẵn có của công nghệ hiện đại trên thị trường thế giới nhờ các cuộc cách mạng công nghiệp thứ hai, công nghiệp hoá của các nền kinh tế đi sau như Nhật Bản, Hàn Quốc và NICs khác như Đài Loan, Singapore, Hongkong dựa trên sự “học hỏi” (Learning). Năng lực học hỏi đó được giao cho các doanh nghiệp quy mô lớn đảm nhiệm. Mục tiêu trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá là làm chủ công nghệ hiện đại của thế giới và thúc đẩy lan toả công nghệ đối với doanh nghiệp trong nước. Trong giai đoạn sau, mục tiêu là việc hình thành các công nghệ nội địa. Với tư cách của một nước đi sau, Việt Nam cũng cần xác định công nghiệp hoá còn dựa trên năng lực “học hỏi” nữa hay không và năng lực đó do ai đảm nhiệm. Cuộc cách mạng công nghiệp mới có thể thay đổi phương thức tăng trưởng. Sự thay đổi của công nghệ cho thấy, thay vì dựa trên đặc trưng tính kinh tế theo quy mô, các nền kinh tế có thể theo mô hình tăng trưởng mới dựa trên tính kinh tế theo phạm vi. Khi đó, các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, với số lượng đủ lớn, sẽ có vai trò động lực tăng trưởng. Năng lực “học hỏi” khi đó có thể được đảm nhiệm bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho dù theo mô hình tăng trưởng nào để bắt kịp các nền kinh tế phát triển, yếu tố con người và chất lượng nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu. Chuẩn bị năng 240
- lực để hấp thụ công nghệ hiện đại của thế giới và chuyển hoá thành công nghệ nội địa là điều kiện cần để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, phát triển doanh nghiệp và phát triển kinh tế. Các biện pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực luôn được ưu tiên thực hiện. Lợi thế của các nền kinh tế kém phát triển, đi sau, là không phải hi sinh nguồn lực tập trung tìm kiếm các phát minh, sáng chế, đổi mới. Thay vào đó, yếu tố quan trọng hàng đầu là năng lực học hỏi, nắm bắt các công nghệ tiến tiến được nhập khẩu, hay “vay mượn” từ các nền kinh tế phát triển. Bài học của Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy những ưu tiên trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo nghề, gửi thanh niên ra nước ngoài học và/hoặc sử dụng các chuyên gia nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều nền kinh tế như Nhật Bản đã và đang có hiện tượng dư thừa chuyên gia (những người về hưu nhưng vẫn còn năng lực hoạt động nghiên cứu ) và việc tận dụng nguồn lực này là quan trọng đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, tỷ lệ giáo dục đại học còn thấp là một trong những rào cản ảnh hưởng đến cơ hội phát triển nguồn nhân lực mà Việt Nam cần phải giải quyết. Thứ ba, vấn đề tiếp nhận công nghệ nước ngoài đòi hỏi có những doanh nghiệp có năng lực, có khả năng đàm phán với đối tác. Vai trò của các tập đoàn đối với quá trình hấp thu công nghệ của thế giới trong trường hợp Nhật Bản và Hàn Quốc đã được làm rõ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, với sự phát triển của công nghiệp viễn thông, tin học, vai trò đó có thể không còn đặt trên vai các doanh nghiệp lớn mà có thể đặt lên vai doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đằng sau việc ai đóng vai trò tiếp nhận công nghệ hiện đại là vấn đề phát triển doanh nghiệp tư nhân, dựa trên tinh thần nhà doanh nghiệp, tinh thần khởi nghiệp. Các chính phủ Hàn Quốc và Nhật Bản phát huy được các tính cách này để có được các doanh nghiệp tư nhân đi tiên phong, tiếp nhận các công nghệ hiện đại. Đây là bài học quan trọng mà Việt Nam cần tiếp nhận nếu muốn thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá. Một điểm không kém phần quan trọng là việc xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để định hướng phát triển, định hướng đầu tư tư nhân. Cả hai nền kinh tế đã thực hiện nhiệm vụ này và có những chính sách bảo hộ cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực đó phát triển. Tuy nhiên, kinh nghiệm này vẫn còn nhiều tranh cãi và cần được nghiên cứu sâu hơn trước khi áp dụng cho Việt Nam. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là việc tạo môi trường thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, bao gồm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, đặc biệt là giao thông đường sắt, thúc đẩy đô thị hoá, phát triển thị trường tài chính, thị trường lao động và các thị trường yếu tố đầu vào để doanh nghiệp tiết kiệm chi phí huy động nguồn lực trong quá trình phát triển. Các biện pháp này cũng là những bài học quan trọng đối với Việt Nam, khi xem xét lại các chính sách phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, chính sách đô thị hoá hay chính sách phát triển thị trường các yếu tố đầu vào hiện nay. 241
- TÀI LIỆU THAM KHẢO Acs, Z.J., and Audretsch, D.D., (1988), Innovation in large and small firms: an empirical analysis, American Economic Review, Vol. 78, pp. 678-90. Allen, G. C. (2013). Short economic history of modern Japan. Routledge. Amsden, A. H. (1992). Asia's next giant: South Korea and late industrialization. Oxford University Press on Demand. Kim, B. (2006). Infrastructure Development for the Economic Development in Developing Countries: Lessons from Korea and Japan, GSICS Working Paper Series, No. 11 Kim, L. (1980). Stages of development of industrial technology in a developing country: a model. Research policy, 9(3), 254-277. O'Regan, N., Ghobadian, A., & Gallear, D. (2006). In search of the drivers of high growth in manufacturing SMEs. Technovation, 26(1), 30-41. Richard Beason and David E. Weinstein, (1996), Growth, Economies of Scale, and Targeting in Japan (1955-1990), The Review of Economics and Statistics, Vol.78, No. 2, pp 286-295. Seth, Michael J. (2011). A History of Korea: From Antiquity to the Present, Rowman and Littlefield Publishers, Inc. Yoshihiro Eshima (2003), Impact of Public Policy on Innovative SMEs in Japan, Journal of Small Business Management, 41(1), 85-93 242