Mở rộng hợp tác quốc tế lĩnh vực ngân hàng và khuyến nghị chính sách
Bạn đang xem tài liệu "Mở rộng hợp tác quốc tế lĩnh vực ngân hàng và khuyến nghị chính sách", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- mo_rong_hop_tac_quoc_te_linh_vuc_ngan_hang_va_khuyen_nghi_ch.pdf
Nội dung text: Mở rộng hợp tác quốc tế lĩnh vực ngân hàng và khuyến nghị chính sách
- MỞ RỘNG HỢP TÁC QUỐC TẾ LĨNH VỰC NGÂN HÀNG VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH TS. Đào Minh Phúc1 Tóm tắt Bài viết tóm tắt một số thành tựu trong quá trình hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn 5 năm gần đây (2011 - 2015). Bên cạnh đó, bài viết cũng phân tích về những khó khăn, thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập để qua đó có sự chuẩn bị về nguồn lực và chính sách để việc hội nhập sâu rộng của hệ thống ngân hàng có hiệu quả hơn, cũng như nâng cao vị thế, tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ khóa: hệ thống ngân hàng, hội nhập quốc tế, tỷ lệ an toàn vốn, khả năng sinh lời Thế giới, trong những năm vừa qua với xu thế gia tăng tính toàn cầu hóa, khu vực hóa cũng như sự phụ thuộc ngày càng lớn giữa các nền kinh tế. Với tốc độ phát triển nhanh và mạnh, hệ thống ngân hàng thế giới đang ngày càng có tính liên kết và tương tác, phụ thuộc lẫn nhau, đem đến và củng cố những cơ hội kinh doanh mới cho các thị trường, các quốc gia nhưng cũng mang theo những rủi ro, bất ổn từ khu vực này sang những khu vực khác. Hợp tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã đến lúc không thể thiếu và trở thành một xu hướng tất yếu trên thế giới. 1. Một số thành tựu của hệ thống ngân hàng trong hội nhập quốc tế Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để kinh tế đất nước từ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến nay, ngành ngân hàng Việt Nam cũng từng bước đổi mới và hoàn thiện về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động cũng như công tác quản lý và điều hành, công nghệ và dịch vụ ngân hàng, chủ động hội nhập quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã phát triển được hệ thống ngân hàng đa sở hữu và một thể chế ngân hàng tương đối hoàn chỉnh, khuôn khổ pháp lý điều tiết hoạt động ngân hàng đã liên tục được hoàn thiện phù hợp hơn với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng ngày càng được nâng cao; chính sách tiền tệ được hoạch định và điều hành chủ động, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn; hệ thống giám sát an toàn hoạt động ngân hàng ngày càng hoàn thiện đồng bộ hơn; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân 1 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Email: minhphucdao09@gmail.com 455
- hàng được mở rộng và phát triển, góp phần thu hút các nguồn lực quốc tế để phát triển kinh tế đất nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ngày càng thực hiện đúng đắn hơn vai trò của ngân hàng trung ương trong kinh tế thị trường, đồng thời làm tròn nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hoạt động tiền tệ - tín dụng- ngân hàng. Hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) có bước phát triển mạnh mẽ về quy mô và mạng lưới, loại hình sở hữu, công nghệ, dịch vụ, ngày càng thực hiện tốt hơn vai trò huyết mạch trong nền kinh tế, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của các TCTD ngày càng được chú trọng, tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh, hướng dần theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Chủ động từng bước hội nhập quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã, đang được cơ cấu lại theo hướng giảm về số lượng, nhưng tăng về quy mô, chất lượng hoạt động, trình độ nghiệp vụ, quản lý và điều hành. Số lượng ngân hàng giảm, song quy mô vốn, tài sản, chất lượng hoạt động đã được tăng lên đáng kể, từng bước thực hiện quản trị rủi ro theo quy định của Basel II. Đi đôi với quá trình cải cách, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng là việc Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Một minh chứng cho bước chuyển đổi tích cực trong quá trình tham gia sâu và rộng của ngành ngân hàng Việt Nam thời gian qua là tham gia với vai trò hội viên sáng lập AIIB. Ngày 24/10/2014, tại Bắc Kinh, Trung Quốc, nguyên Thống đốc Nguyễn Văn Bình, đại diện cho Việt Nam, đã ký Điều lệ Hoạt động của Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) cùng lãnh đạo Chính phủ của 21 nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đánh dấu sự ra đời của AIIB. Tính đến nay, AIIB hiện có 57 thành viên sáng lập tiềm năng (trong đó có 37 nước thành viên khu vực và 20 nước ngoài khu vực). Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia vào một tổ chức tài chính, ngân hàng quốc tế với tư cách là thành viên sáng lập, đánh dấu bước chuyển đổi tích cực trong vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là trong việc tham gia xây dựng chính sách, luật chơi cho một tổ chức tài chính, ngân hàng quốc tế trong vai trò bình đẳng với các cường quốc khác. Nhìn chung, có thể khái quát một số thành tựu nổi bật của ngành ngân hàng trong quá trình hội nhập quốc tế trong thời gian qua như sau: Một là, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, NHNN đã không ngừng nỗ lực, củng cố quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, mở rộng quan hệ với các đối tác tiềm năng, tăng cường huy động hỗ trợ cả về tài chính và kỹ thuật cho Việt Nam. Tới nay, NHNN đã hoàn tất đàm phán 12 hiệp định thương mại tự do và đang đàm phán 4 hiệp định tự do với các đối tác quan trọng trong khu vực và trên thế giới. 456
- Trong 5 năm qua, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước huy động hiệu quả nhất nguồn vốn huy động của WB, ADB, IMF. Bên cạnh đó, NHNN đã chủ động hợp tác và tìm kiếm nguồn tài chính bổ sung, đẩy mạnh tìm kiếm đối tác và các nhà tài trợ tiềm năng, xúc tiến gia nhập các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mới như Ngân hàng Thanh toán quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á - Âu, Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á nhằm mở rộng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hai là, hoạt động quản lý và điều hành của NHNN đã và đang được đổi mới theo hướng tích cực, minh bạch và hiệu quả, tiệm cận dần thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong thời gian qua, chính sách tiền tệ được chuyển từ ứng phó bị động sang điều hành chủ động dẫn dắt thị trường. Các công cụ chính sách được thể hiện đồng bộ, linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu thanh khoản của thị trường tiền tệ, đảm bảo ổn định hoạt động của các TCTD. Cơ chế tỷ giá vận hành linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với điều hành lãi suất, có biện pháp hài hòa giữa biện pháp hành chính và cơ chế thị trường, trên cơ sở quá trình tham gia thực hiện các điều ước quốc tế. NHNN đã tiến hành bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng minh bạch hóa, tuân thủ các nguyên tắc thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và đặc biệt là các cam kết quốc tế. Ba là, hạ tầng tài chính không ngừng được cải thiện đáp ứng yêu cầu về khả năng kết nối trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong giai đoạn vừa qua, hệ thống thanh toán và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế không ngừng được nâng cấp và cải tiến, hạ tầng thanh toán quốc gia mà hạt nhân là hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế, hiện đã kết nối các TCTD trên phạm vi toàn quốc, đáp ứng yêu cầu thanh quyết toán tức thời, xử lý giao dịch chính xác an toàn và bảo mật, yêu cầu giao dịch thanh toán ngày càng tăng để đáp ứng tốt. Ngoài ra, với vai trò là thành viên tích cực tham gia vào các nhóm công tác về hệ thống thanh toán khu vực ASEAN, NHNN đã cùng NHTW các nước trong khu vực vạch ra lộ trình và giải pháp để triển khai kết nối các hệ thống thanh toán bán lẻ trong khu vực. Bốn là, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú, có giá trị gia tăng cao, dựa trên nền tảng công nghệ và hệ thống thanh toán hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế.Trên cơ sở tích cực ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, ngành ngân hàng đã không ngừng nâng cao cả về số 457
- lượng, chất lượng, dịch vụ và tiện ích ngân hàng, sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú, với sự tăng trưởng không ngừng của các dịch vụ ngân hàng truyền thống và xuất hiện thêm nhiều dịch vụ ngân hàng hiện đại. Nhiều sản phẩm đã bắt nhịp trình độ tiên tiến thế giới, các kênh phân phối dịch vụ có bước phát triển dịch vụ tích cực, dịch vụ ngân hàng hiện đại, các kênh liên kết tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ ngân hàng ngày càng thuận tiện, dễ dàng hơn. Chất lượng tiện ích dịch vụ được cải thiện rõ rệt. Năm là, quản trị NHTM, nhất là quản trị rủi ro đã có những chuyển biến mạnh mẽ và tích cực, từng bước hội nhập quốc tế. Khuôn khổ pháp lý về các chuẩn mực an toàn, lành mạnh, an toàn của các TCTD đã được cải thiện đáng kể, tiến gần hơn thông lệ, chuẩn mực, ngân hàng quốc tế, tạo nền tảng cho các TCTD hoạt động an toàn hơn và thúc đẩy cơ cấu lại theo các mục tiêu định hướng đề ra. Các NHTM Việt Nam đã từng bước triển khai áp dụng chuẩn an toàn vốn theo Basel II với lộ trình của NHNN. 2. Những khó khăn, thách thức của hệ thống ngân hàng trong hội nhập quốc tế Mặc dù thời gian qua, với nhiều biện pháp và chính sách khác nhau, các NHTM Việt Nam đã có sự gia tăng đáng kể về quy mô tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trước bối cảnh hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, nếu so sánh quy mô tài sản của các NHTM Việt Nam với một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì còn nhỏ bé. Nguồn thu từ tín dụng vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu lợi nhuận hàng năm của hệ thống. Điều này phản ánh một thực tế là thị trường tài chính ở Việt Nam vẫn ở trình độ thấp, thị trường chứng khoán, bảo hiểm, trái phiếu (trong đó đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp) chưa phát triển mạnh. Nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế vẫn hầu như do hệ thống ngân hàng đảm nhận. Biểu đồ 1. So sánh tỷ lệ an toàn vốn CAR của hệ thống NHTM Việt Nam với một số nước trên thế giới 458
- Tỷ lệ hệ số an toàn vốn CAR 25 20 15 19.8 10 15.2 14.5 14.6 17 16.4 15.6 14.4 5 11.6 12.2 12.3 13.14 0 Nguồn: TS. Cấn Văn Lực (2015) và tính toán của tác giả Biểu đồ 2. So sánh tỷ lệ ROE của hệ thống NHTM Việt Nam với một số quốc gia trong khu vực Tỷ lệ ROE Vietnam China Philippines Malaysia Thailand Singapore Indonesia 0 5 10 15 20 Nguồn: UBGSTCQG và TS. Cấn Văn Lực (2015) Biểu đồ 3. So sánh quy mô vốn chủ sở hữu của một số NHTM lớn của Việt Nam và các NHTM tại một số quốc gia trong ASEAN Quy mô vốn của một số NHTM 9,623 4,102 3,178 2,122 1,790 1,400 1,180 1,320 975 Nguồn: www.thebanker.com/top1000, Báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam 2014 và tính toán của tác giả Biểu đồ 4. Hệ số ROE, ROA của hệ thống ngân hàng Việt Nam 459
- Hệ số ROE, ROA của hệ thống ngân hàng ROE ROA 6.40% 0.60% 0.40% 4.60% 6.40%0.50% 2013 2014 2015 Nguồn: UBGSTCQG Khả năng sinh lời (ROE) của ngân hàng Việt Nam khá thấp, theo số liệu của UBGSTCQG thì năm 2015 hệ thống NHTM Việt Nam đạt khoảng 6,4%. Bên cạnh đó, có một thực tế là mặt bằng lãi biên của các ngân hàng thương mại hiện nay khá thấp. Trong cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng Chính phủ và doanh nghiệp ngày 29/4/2016, đại diện BIDV cho biết giá vốn đầu vào đang ở mức 7,8%/năm; trong đó lãi suất huy động 4,9%/năm, dự phòng rủi ro 1,22%; dự phòng thanh khoản 0,5%, chi phí quản lý 1,75%. Chênh lệch lãi ròng (giữa giá vốn và cho vay) của các NHTM Việt Nam khoảng 0,7% trong khi của ngân hàng các nước trong khu vực là 2,2-2,5%. Nếu coi BIDV đại diện cho các NHTM nước ta để so sánh với mặt bằng chung của các ngân hàng trong khu vực thì mức NIM của các ngân hàng Việt Nam thấp hơn các ngân hàng trong khu vực. Hiện tại, hệ số CAR của hầu hết các NHTM Việt Nam đều đạt trên 9%, và CAR của hệ thống đạt mức 13,14% (tuy nhiên cách tính hệ số CAR hiện nay của Việt Nam chưa đạt chuẩn Basel II, đặc biệt là cách tính hệ số rủi ro theo kết quả xếp hạng tín dụng). Chỉ số ROE của các ngân hàng cũng chưa tính hết mọi chi phí trích lập dự phòng rủi ro, do cách phân loại nợ hiện nay mặc dù đang tiệm cận dần nhưng chưa được đầy đủ theo tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù số lượng ngân hàng ở nước ta hiện nay là khá nhiều, đến cuối năm 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm 04 NHTMNN, 31 NHTMCP, 05 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 04 ngân hàng liên doanh, ngân hàng hợp tác xã, ngân hàng chính sách xã hội, và ngân hàng phát triển, tuy nhiên, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt còn cao, thanh toán qua ngân hàng chưa nhiều, số tài khoản thanh toán mở tại ngân hàng cũng chưa nhiều. Bên cạnh đó, mạng lưới ngân hàng phân bổ không đều, hầu hết các NHTM tập trung ở các thành phố lớn, sự có mặt của các NHTM ở các tỉnh lẻ, vùng nông thôn, 460
- vùng sâu vùng xa là rất ít. Qua phân tích tổng quan một số tồn tại của hệ thống ngân hàng Việt Nam như nêu trên, chúng ta có thể thấy những khó khăn, thách thức mà hệ thống ngân hàng phải đối mặt trong hội nhập quốc tế thời gian tới. Cụ thể: Thứ nhất, với sự tham gia ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngoài, đặc biệt các định chế tài chính đến từ Mỹ, Nhật Bản và EU thì áp lực cạnh tranh trong ngành sẽ ngày càng tăng lên. Các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính và khả năng quản trị chuyên nghiệp sẽ gia tăng sức ép đối với khối ngân hàng trong nước. Thứ hai, chiến lược “bán lẻ” của các ngân hàng nước ngoài với những thế mạnh về sản phẩm dịch vụ, công nghệ, kỹ năng tiếp cận khách hàng chuyên sâu có thể khiến ngân hàng nội địa mất dần các phân khúc thị trường quan trọng, và là vấn đề mà các ngân hàng Việt Nam cần đặc biệt quan tâm. Thứ ba, việc mở “room” tuy giúp các ngân hàng nội địa có thể tiếp nhận luồng vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài nhiều hơn, nhưng sức ép bị thâu tóm và chi phối cũng tăng lên. Những bài học về các doanh nghiệm niêm yết trong lĩnh vực sản xuất - thương mại đã từng bị nhà đầu tư nước ngoài chi phối, thao túng ở một số nước trên thế giới đã cho thấy rõ. 3. Một số khuyến nghị Văn kiện Đại hội Đảng XII đã chỉ rõ yêu cầu cần “triển khai mạnh mẽ chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, đồng thời xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác từng bước mở rộng; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Đảng cũng đưa ra định hướng cần nhận thức sâu sắc hơn yêu cầu giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Như vậy, chúng ta nhận thức rõ rằng, quan điểm của Việt Nam là tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, hướng đến một giai đoạn mới thực chất hơn, tìm kiếm những đột phá cả về tư duy và hành động. Trên cơ sở lĩnh hội quan điểm chỉ đạo chung của Đảng và Chính phủ trước yêu cầu phát triển ngành ngân hàng trong giai đoạn mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, NHNN tiếp tục xác định công cuộc cải cách, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng luôn 461
- gắn liền với hội nhập quốc tế, cải cách ngân hàng là một tất yếu khách quan cần được tiến hành thường xuyên, liên tục để phát triển bền vững. Quá trình hội nhập quốc tế vừa là cơ hội vừa là áp lực và cả động lực để NHNN cũng như các TCTD trong nước không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh. Do vậy, ngành Ngân hàng đã và đang hoàn thiện khuôn khổ thể chế, nâng cao năng lực xây dựng và hoạch định chính sách, thanh tra giám sát và quản lý hệ thống ngân hàng, tăng cường minh bạch hóa thông tin, năng lực thể chế, đồng thời đẩy mạnh tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu, tiến tới áp dụng các chuẩn mực quốc tế cao. Để thực hiện được mục tiêu này, bài viết xin đề xuất một số khuyến nghị chính sách sau: Một là, Việt Nam cần có chiến lược và chính sách tăng cường vị thế tiếng nói, hiện diện của Việt Nam tại các tổ chức ngân hàng tài chính quốc tế để tương xứng và phù hợp với vai trò và tầm ảnh hưởng của Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai. Kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, hay các nước trong khối ASEAN như Thái Lan, Singapore, Indonesia cho thấy, họ đã có những chiến lược và bước chuẩn bị dài để tăng cường tham gia vào các tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức tài chính, qua đó có được các vị trí chủ chốt, tham gia vào xây dựng chính sách, luật chơi phù hợp với đặc điểm quốc gia, tối đa hóa lợi ích quốc gia tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế có liên quan. Với vai trò đầu mối đại diện Việt Nam tại các tổ chức tài chính ngân hàng, NHNN cần chủ động đề xuất các chiến lược, biện pháp để nâng cao hiệu quả tham gia cũng như phát huy và dần nâng cao vai trò, vị trí hiện diện của Việt Nam tại các tổ chức này. Hai là, tiếp tục đẩy mạnh và phát triển nguồn nhân lực có năng lực tốt, được trang bị đầy đủ kiến thức về luật pháp trong đó đặc biệt là các luật về thương mại quốc tế, kiến thức về hội nhập và chuyên môn liên quan để sẵn sàng tham gia tích cực, sâu rộng hơn vào các sáng kiến, chương trình quốc tế, thể hiện được trình độ phát triển phù hợp với vị thế mới cũng như đảm đương được trách nhiệm mà vị thế mới đòi hỏi. Để làm được điều này, cần có kế hoạch chiến lược đào tạo, phát triển nguồn cán bộ trực tiếp làm việc với các tổ chức tài chính, ngân hàng quốc tế nói riêng. Ba là, đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa và có thể nghiên cứu giảm bớt tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các NHTM Nhà nước, đồng thời có thể nới “room” sở hữu cho các nhà đầu tư ngoại tham gia vào quản trị điều hành các TCTD trong nước. Mặc dù có thể gia tăng tỷ lệ sở hữu cho các đối tác nước ngoài tham gia vào các TCTD trong nước song cần đảm bảo Nhà nước nắm cổ phần chi phối 51%. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài chính tốt, kỹ năng quản trị ngân hàng hiện đại sẽ giúp 462
- nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, đảm bảo an toàn hoạt động bền vững, dần tiệm cận với các thông lệ quốc tế, đồng thời đáp ứng mong muốn của các nhà đầu tư ngoại tham gia thị trường tài chính - ngân hàng. Bốn là, triển khai mạnh mẽ Nghị quyết số 01/2016 của Chính phủ ban hành ngày 07/01/2016, theo đó cần tiếp tục khuyến khích, đẩy mạnh M&A theo nguyên tắc tự nguyện giữa các TCTD. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, để có thể cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh là những định chế tài chính hùng hậu nhất thiết các ngân hàng Việt Nam cần phải liên kết lại, gia tăng quy mô, cải thiện năng lực tài chính, đổi mới các sản phẩm dịch vụ, nâng cao kỹ năng quản trị để đảm bảo củng cố thị phần. Để làm được điều đó thì hoạt động sáp nhập, hợp nhất trên tinh thần tự nguyện, tuân thủ pháp luật là tất yếu khách quan. Tài liệu tham khảo 1. Phát biểu của Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng tại Lễ kỷ niêm 65 năm thành lập ngành ngân hàng. 2. Phát biểu của Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng tại The Asian Banker Summit 2016. 3. Phát biểu của Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh tại Hội thảo khoa học quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội và ngành Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ngày 8/12/2015. 4. Đoàn Hoài Anh - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - NHNN, Tham gia các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế. Một chặng đường nhìn lại, Tạp chí Ngân hàng số 3 - 4/2016. 5. 6. Các websites: www.sbv.gov.vn; www.cafef.vn, 7. Một số tài liệu tham khảo khác. 463