Mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2014

pdf 13 trang Gia Huy 23/05/2022 1980
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2014", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmuc_do_lanh_manh_tai_chinh_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_tai.pdf

Nội dung text: Mức độ lành mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2014

  1. 14 MỨC ĐỘ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2014 An Hải Anh, K15-TCD Tạ Thị Huệ, K15-TCB I. Tổng quan chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng Sau 23 năm đổi mới và phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam là đầu tàu thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống tài chính hướng tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, đi tiên phong trong quá trình mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế. Từ hệ thống ngân hàng một cấp rồi hai cấp ban đầu chỉ có 4 NHTM nhà nước hoạt động hạn chế về quy mô tài chính, dịch vụ, hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ về số lượng, quy mô tài chính và các loại hình dịch vụ hoạt động. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có cấu trúc rất đa dạng về loại hình sở hữu (nhà nước, tập thể, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, cổ phần) và đa dạng hóa về loại hình (NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô). Đến năm 2014 tại Việt Nam có 38 NHTM trong đó 5 NHTM nhà nước và 33 NHTM cổ phần, nhóm NHTM nhà nước đồng thời cũng là nhóm gồm 4 ngân hàng với vốn điều lệ lớn nhất hệ thống, đều trên 20 nghìn tỷ đồng (Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank) duy chỉ có Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) là ngân hàng quy mô nhỏ, tại các ngân hàng này, Nhà nước vẫn nắm đa số cổ phần. Nhóm NHTM cổ phần có 4 ngân hàng có vốn điều lệ từ 10 nghìn - 20 nghìn tỷ (MBBank, SCB, Sacombank, Eximbank), 13 ngân hàng có vốn điều lệ từ 5 - 10 nghìn tỷ đồng, số còn lại có vốn điều lệ dưới 5 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, hệ thống còn bao gồm 6 ngân hàng liên doanh, 66 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng nước ngoài, khoảng 30 công ty tài chính và cho thuê tài chính, hơn 1.000 quỹ tín dụng. Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
  2. 15 nghèo, cải thiện an sinh xã hội. Với quy mô và vai trò quan trọng như vậy, lành mạnh tài chính của hệ thống ngân hàng là nhân tố quan trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia và kinh tế vĩ mô. Song song với sự lớn mạnh không ngừng về quy mô, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn bộc lộ nhiều điểm yếu như: hoạt động giám sát cảnh báo rủi ro còn hạn chế, tính minh bạch chưa cao, sở hữu chéo ngày càng trở nên phức tạp tại các ngân hàng thương mại, thông tin công bố còn chưa bám sát thực tế khiến cho nhà đầu tư, người vay tiền gặp khó khăn trong việc ra quyết định, các ngân hàng cạnh tranh chưa lành mạnh chủ yếu cạnh tranh thông qua lãi suất, tỷ giá và trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay những bất cập này càng bộc lộ rõ nét hơn. Các NHTM chật vật giải quyết nợ xấu khổng lồ do đóng băng bất động sản và hoạt động trì trệ của các doanh nghiệp gây ra, hàng loạt các ngân hàng tuyên bố phá sản, giải thể, hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết nhằm cứu cánh cho các ngân hàng đang trên thời kỳ lao dốc, thực hiện áp chỉ tiêu để trả lương nhân viên như chỉ tiêu về mở tài khoản, huy động vốn hàng tháng Cùng với sự điều hành của NHNN, các NHTM đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm khơi thông tín dụng, khuyến khích cho vay và ban đầu thu được một vài tín hiệu tích cực nhưng xét về dài hạn, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là giải pháp tối ưu nhất để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các ngân hàng phát triển ổn định, bền vững. Đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng bao gồm 3 nội dung chính là: nâng cao vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN, củng cố và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thanh tra giám sát của cơ quan quản lý, lành mạnh hóa ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác mà trong đó lành mạnh hóa NHTM được coi là trọng tâm. Mục tiêu của đề án này là: đến năm 2020 hệ thống ngân hàng Việt Nam về cơ bản phát triển theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả có khả năng cạnh tranh lớn dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, quản trị ngân hàng được tiến hành phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt trong giai đoạn 2011 – 2015 đề án tập trung lành mạnh hóa tài chính các NHTM, nâng cao trật tự kỉ cương trong hoạt động ngân hàng.
  3. 16 II. Đánh giá mức độ lành mạnh của các NHTM Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu tài chính Hình 2.1: Biểu đồ tỷ lệ vốn tự có với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro CAR là chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức khỏe thực sự của một ngân hàng, hệ số CAR càng cao tức ngân hàng càng dễ dàng đối phó khi có những rủi ro như khách hàng rút tiền nhiều, thiếu hụt thanh khoản, trả nợ các khoản vay Tại nhiều nước chỉ tiêu này đặt ra với các ngân hàng tối thiểu là 12% trong khi đó tại Việt Nam năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn tối thiểu từ 8% lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II. Thời điểm đó đã có nhiều tranh cãi cho rằng 9% là quá cao, ngân hàng khó đáp ứng được nhưng sau đó, hầu hết các ngân hàng đều đạt an toàn vốn cao hơn nhiều so với mức tối thiểu, trừ Agribank, theo số liệu năm 2011. Cuối năm 2012 cùng với những khó khăn của thị trường, CAR của hệ thống ngân hàng thương mại tư nhân có xu hướng giảm cụ thể theo số liệu của NHNN CAR giảm từ mức 14,01% ở thời điểm cuối năm 2012 về 12,8% vào tháng 6/2013. Theo số liệu tính toán của nhóm nghiên cứu, đến cuối năm 2013, tỷ lệ vốn tự có với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro của hệ thống ngân hàng thương mại đạt trung bình là 13,68% cao hơn nhiều so mức tối thiểu, tất cả các ngân hàng đều đáp ứng trên 9% trong đó có một số ngân hàng đạt CAR khá cao như: KienLong bank, MDB, TPbank. Tuy nhiên theo một số chuyên gia, điều này chưa hẳn đã tốt vì những ngân hàng có CAR cao thường là các ngân hàng nhỏ, hoặc CAR cao do sở hữu chéo, hoặc CAR quá cao đồng nghĩa ngân hàng đó gần như không huy động nổi tiền gửi
  4. 17 hoặc không thể cho vay. Mặt khác các ngân hàng đang tận dụng triệt để việc tăng vốn tự có để xử lý nợ xấu hoặc tái cấu trúc và điều này góp phần duy trì CAR ngày càng cao chẳng hạn như trường hợp TPbank. Hình 2.2:Biểu đồ nợ xấu trên tổng dư nợ Khi tình hình kinh tế vĩ mô được cải thiện và dần phục hồi, cộng với những nỗ lực của hệ thống TCTD, diễn biến nợ xấu đã có những tín hiệu khả quan. Đến cuối tháng 12/2013, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đã giảm mạnh về mức 3,63% tổng dư nợ tín dụng. Đây là số liệu nợ xấu của NHNN được xác định dựa trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và các thông tin chính thức, có sự sai khác nhỏ do với mức trung bình là 3,06% theo kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu. Nguyên nhân của sự sai khác này xuất phát từ việc một số ngân hàng như Agribank không công bố cụ thể Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính hay BaoViet bank không công bố báo cáo riêng của ngân hàng mà chỉ công bố báo cáo hợp nhất của tập đoàn trong khi đó như Agribank đã chiếm gần ¼ nợ xấu của khu vực ngân hàng. Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu đã có sự biến chuyển tích cực so với những năm trước đó. Để có được những kết quả trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tích cực, chủ động thực hiện các giải pháp để kiềm chế nợ xấu gia tăng và xử lý nợ xấu như: Cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ sản xuất; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động, tích cực đôn đốc, thu hồi nợ, trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro; bán nợ, xử lý tài sản đảm bảo; thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế nợ xấu phát sinh mới, đáng chú ý là, việc thành lập và đưa vào hoạt động Công ty quản lý tài sản VAMC. Bên cạnh đó, biện pháp cơ cấu lại nợ theo Quyết định 780/QĐ-NHNN thực sự có ý nghĩa hỗ trợ cho doanh
  5. 18 nghiệp trong việc tiếp tục được vay vốn ngân hàng với lãi suất hợp lý hơn nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu tăng trở lại nếu kinh tế vĩ mô và điều kiện sản xuất kinh doanh, thị trường bất động sản chậm được cải thiện. Giải quyết vấn đề nợ xấu vẫn là bài toán nan giải của ngành ngân hàng và của Chính phủ. Để đạt mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu xuống 3% vào năm 2015 tiến tới an toàn ở ngưỡng 1,5% theo chuẩn mực quốc tế và quản lý tốt nợ xấu trong dài hạn, xử lý nợ xấu không thể chỉ được giải quyết thông qua một vài công cụ là VAMC hay sáp nhập các ngân hàng mà cần có những điều chỉnh linh hoạt để giúp giảm thiểu tổn thương ở khu vực này bên cạnh đó Chính phủ cần phải xây dựng chiến lược xử lý nợ xấu trong dài hạn, nguyên tắc minh bạch hóa trong quản lý nợ xấu phải được chú trọng. Hình 2.3: Biểu đồ lợi nhuận ròng trên tài sản bình quân ROA có mức trung bình là 0,56% căn cứ vào số liệu tính toán của nhóm nghiên cứu trong đó ngân hàng KienLong bank là ngân hàng có ROA cao nhất 1,47% và VIB có tỷ lệ thấp nhất là 0,07%. Xét trên toàn hệ thống tỷ lệ này giảm so với năm 2012 là 0,73% theo tính toán của Viettinbank. Theo một chuyên gia ngân hàng, nguyên nhân do tổng tài sản, vốn điều lệ của hệ thống các TCTD vẫn tăng trưởng khá tốt trong năm 2013. Theo đó, đến cuối năm 2013, tổng tài sản của toàn hệ thống TCTD đạt 5.755.869 tỷ đồng, tăng 13,17% so với cuối năm 2012; vốn tự có cũng tăng 9,61% lên 466.926 tỷ đồng. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận không theo kịp, một mặt do tín dụng tăng thấp, bằng chứng là tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động tại thời điểm 31/12/2013 chỉ là 84,71%, giảm mạnh so với con số 89,35% tại thời điểm cuối năm 2012. Mặt khác, lãi suất cho vay giảm nhanh hơn lãi suất huy động khiến chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào giảm
  6. 19 mạnh do hệ thống các TCTD tích cực giảm lãi suất để chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy vậy xét trên từng ngân hàng cụ thể thì những điểm sáng có thể kể đến như KienLong bank, MBbank, Saigonbank, TPbank, Viettinbank là những ngân hàng đạt mức an toàn từ 1 – 2% theo chuẩn mực quốc tế Hình 2.4: Biểu đồ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Theo Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia và NHNN trong năm 2013, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE có sự sụt giảm đáng kể, trung bình từ mức 15% năm 2009 xuống còn khoảng 5% năm 2013. Theo số liệu nhóm tính toán được, tỷ lệ này là 5,59% trong đó nhiều ngân hàng tạo lợi nhuận kém với ROE < 10% bao gồm ABBank, ACB, BacABank, DongAbank, Eximbank đáng báo động như PVcombank, SCB; chỉ một số ngân hàng tạo lợi nhuận bình thường như BIDV, MBbank, Sacombank, TPbank, VCB, Viettinbank, VPbank, không có ngân hàng đạt ROE hiệu quả. Đây là kết quả tất yếu của việc tăng trưởng tín dụng thấp, ứ đọng vốn, chi phí trích lập dự phòng cao, giảm chênh lệch lãi suất cho vay và huy động với nguyên nhân sâu xa từ việc nhiều ngân hàng đặc biệt đẩy mạnh cho vay, nhất là tín dụng cho bất động sản, các khoản vay có bất động sản làm thế chấp trước đó. Khi thị trường bất động sản lao dốc thì các món nợ trở thành nợ xấu và giá trị bảo đảm giảm thiểu nhiều. Với tình hình thị trường bất động sản đóng băng như hiện nay thì tín dụng dành cho bất động sản và dùng bất động sản làm thế chấp sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều, lợi nhuận của các ngân hàng những năm qua có sự đóng góp rất lớn từ tín dụng, đặc biệt tín dụng bất động sản và lợi thế đó không còn nữa trong năm 2013 cũng như trong tương lai.
  7. 20 Hình 2.5: Biểu đồ tỷ trọng dư nợ theo lĩnh vực kinh tế so với tổng dư nợ Nhìn vào biểu đồ có thể thấy dư nợ cho vay năm 2013 của các NHTM tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực gia công chế biến, thương mại. Tỷ trọng dư nợ cho vay vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa lớn; vậy tại sao các lĩnh vực được nhà nước ưu tiên lại chiếm tỷ trọng thấp như vậy? Theo như tìm hiểu của nhóm nghiên cứu, việc các ngân hàng đẩy mạnh cho vay các lĩnh vực thương mại chế biến mà không chú trọng cho vay với nhóm ngành ưu tiên bởi lẽ các ngân hàng đẩy mạnh cho vay khu vực thành thị và điều đặc biệt hơn là lãi suất cho vay đối với các ngành nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp. Tổng chi phí huy động sau khi tính toán các khoản trích lập theo yêu cầu là 8,4%/năm trong khi lãi suất cho vay nhóm lĩnh vực ưu tiên chỉ 8%/năm, cho vay lúa gạo 7%/năm, như vậy các ngân hàng không thể thực hiện đẩy mạnh cho vay được. Từ ngày 29/10/2014, NHNN sẽ điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của các tổ chức, cá nhân tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 1%/năm xuống 0,75%/năm. Điều này làm cho cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các
  8. 21 lĩnh vực ưu tiên. Cơ cấu tăng trưởng tín dụng đã đi vào thực chất và hiệu quả, theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên. Tín dụng cho nông nghiệp nông thôn tăng trưởng khoảng 12,8%; cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng khoảng 14%. Đặc biệt, tín dụng cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp nông thôn theo đề án tái cơ cấu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng trưởng cao hơn khoảng trên 16%; một loạt các chương trình kết nối ngân hàng doanh nghiệp; các chương trình tín dụng đối với các lĩnh vực thuỷ sản, lúa gạo, cà phê và các lĩnh vực khác đều có sự tăng trưởng tích cực, kể cả tín dụng cho xuất khẩu. Như vậy nhìn vào chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ kinh tế so với tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại mà NHNN có thể có những điều chỉnh hợp lý mang lại sự đầu tư hiệu quả cho nền kinh tế Hình 2.6: Biểu đồ chi phí ngoài trả lãi trên tổng thu nhập Chi phí ngoài trả lãi hay chi phí hoạt động bao gồm các chi phí nhân viên, chi phí hành chính, các khoản phí và chi phí hoạt động khác. Nhìn biểu đồ ta có thể thấy rằng chi phí ngoài trả lãi của các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn so với thu nhập của các ngân hàng cụ thể như ngân hàng PVcombank chiếm 111,52 %. Điều này có thể khiến PVcombank rơi vào tính trạng lỗ, mà cụ thể năm 2013 ngân hàng đã có lợi nhuận trước thuế âm là - 33,659 tỷ đồng. Ngoài ra các ngân hàng như NCB, VietAbank, SHB, MDB đang có tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng thu nhập khá cao từ 74-90 %, vì vậy, các ngân hàng này cần có biện pháp thích hợp để quản lý hiệu quả chi phí hoạt động để tránh rơi vào tình trạng hoạt động kém hiệu quả. Các ngân hàng có tỷ lệ được cho là an toàn hay quản lý tốt chi phí của mình như ngân hàng Vietcombank, MB bank, Kien Long bank, BIDV có tỷ lệ 25 -40 %. Như vậy chỉ tiêu này cho ta thấy khả năng hoạt động của các ngân hàng: ngân
  9. 22 hàng nào đang hoạt động hiệu quả, ngân hàng nào đang rơi vào tình trạng thua lỗ, ngân hàng nào đang đứng trước nguy cơ thua lỗ. Chính vì vậy các ngân hàng cần đánh giá chỉ tiêu để kịp thời có biện pháp phù hợp trong trường hợp hoat động kém hiệu quả hoặc đang có nguy cơ xấu Hình 2.7: Biểu đồ chi phí nhân viên so với tổng chi phí đã trừ đi chi phí trả lãi Theo thống kê từ báo cáo tài chính của 38 NHTM năm 2013 thì chi phí nhân viên chiếm gần 50% so với tổng chi phí hoạt động mặc cho sự nỗ lực giảm dần tỷ lệ này, ví dụ như Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) quỹ lương, thưởng cho nhân viên trong năm 2013 đều chiếm 53 - 54% tổng chi phí hoạt động. Ngân hàng Công Thương (Vietinbank) và Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng bỏ hơn 50% chi phí hoạt động để trả lương. Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu giảm chi cho nhân viên là xu hướng hiện nay các ngân hàng trên toàn cầu, trung bình ở một số nước, tỷ trọng chi cho nguồn nhân lực chiếm khoảng 40% chi phí hoạt động. Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh khó khăn, chi phí hoạt động của các ngân hàng ngày một tăng cao, nhưng lợi nhuận sụt giảm, đòi hỏi trước hết ngân hàng phải tinh giản bộ máy, với các ngân hàng thuộc diện tái cơ cấu, việc cắt giảm nhân sự càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Bởi khi hai hoặc ba tổ chức tín dụng hợp nhất lại với nhau, số lượng nhân viên sẽ gia tăng, gây áp lực rất lớn đến quỹ lương của ngân hàng SHB vừa gây sốc trong báo cáo tài chính riêng lẻ 2014, khi điểm đáng lưu ý nhất không phải chỉ tiêu lợi nhuận được cải thiện mà chính là việc SHB mạnh tay cắt giảm nhân sự. Chỉ trong ba tháng, 666 nhân sự đã phải rời SHB khiến tổng nhân sự tại ngân hàng này chỉ còn 4.256 người, thay vì 4.922 người như thời điểm đầu năm 2014 nhưng đây không phải lần
  10. 23 đầu tiên SHB cắt giảm nhân sự. Trước đó, vào quý 3/2013, SHB cũng đã sa thải 134 người và cắt giảm tới 70% lương so với cùng kỳ năm 2012. Tương tự, Maritime Bank cũng là ngân hàng có các quyết định điều chỉnh về nhân sự mạnh tay nhất trong hệ thống; tại thời điểm cuối năm 2013, ngân hàng có tổng cộng 3.536 nhân sự, giảm 1.343 người so với cuối năm 2012; trước đó ngân hàng này cũng đã cắt giảm 1.060 nhân sự, theo lý giải của lãnh đạo Maritime Bank, công tác nhân sự năm qua được bố trí, sắp xếp lại là nhằm tinh giản bộ máy, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực cốt lõi của ngân hàng. Tuy không mạnh tay cắt giảm nhân sự như Maritime Bank nhưng trong năm 2013, số lượng nhân viên tại ACB cũng tiếp tục giảm. So với cuối năm 2012, số lượng lao động tại ACB mất việc lên tới 1.115 người. Hình 2.8: Biểu đồ tổng tiền gửi khách hàng so với tổng dư nợ Ngân hàng thương mại có chức năng chính là trung gian tài chính, trung gian thanh toán và tạo ra phương tiện thanh toán cho nền kinh tế chính vì vậy cấu phần tiền gửi của khách hàng chiếm phần lớn trong lượng vốn huy động của ngân hàng có vai trò rất quan trọng giúp ngân hàng thực hiện các chức năng này. Một ngân hàng được coi là có khả năng thanh toán tốt khi số lượng vốn huy động của nó đáp ứng được số lượng tiền mà ngân hàng cho các cá nhân tổ chức trong nền kinh tế vay và tỷ lệ này thường ở mức an toàn là 100 - 125%. Nếu chỉ tiêu này ở mức thấp dưới mức an toàn trên cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đó đang đối mặt với nguy cơ căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Có thể nhận thấy rằng trong năm 2013 tình hình thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng không có nhiều lo ngại mà thậm chí các ngân hàng còn đang dư thừa, ế ẩm vốn huy động duy chỉ có MDB và NamA bank đang đứng trước nguy cơ căng thẳng
  11. 24 thanh khoản. Nguyên nhân do năm 2013, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng là 12 % ở mức thấp so với mức trên 20 % của các năm trước, cùng với đó, sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô, đóng băng của nhiều ngành hàng khiến cho doanh nghiệp sản xuất ra không tiêu thụ được nên phải ngưng sản xuất đợi tiêu thụ hàng tồn kho. Do đó, nhu cầu vốn của doanh nghiệp giảm đi đáng kể, chỉ còn một vài nhóm ngành vẫn còn thị trường tiêu thụ nên duy trì nhu cầu vay vốn để sản xuất cầm chừng, giữ khách hàng là chính. Đó chính là lý do vì sao năm 2013 các ngân hàng đẩy mạnh ưu đãi lãi suất cho vay nhưng lượng vốn ế vẫn nằm im trong két sắt. Ngoài ra, chỉ tiêu tổng tiền gửi của khách hàng trên tổng dư nợ còn có thể là dấu hiệu dẫn đến sự mất niềm tin của người gửi, nhà đầu tư vào hệ thống ngân hàng điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư đang có tín hiệu mất niềm tin vào các ngân hàng MDB và Nam A bank. III. Một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao mức độ lành mạnh của các NHTM Lành mạnh hóa ngân hàng thương mại là công tác quan trọng hướng tới hệ thống tài chính thật sự ổn định, phát triển bền vững đồng thời cũng là nhiệm vụ quan trọng mà các ngân hàng cần phải thực hiện để xử lý những vấn đề còn tồn tại trước mắt như tỷ lệ nợ xấu cao, khả năng thanh khoản thấp, hoạt động kém hiệu quả. Qua phân tích thực trạng hoạt động hệ thống NHTM Việt Nam, có thể thấy mức độ an toàn là yếu kém, khả năng xảy ra đổ vỡ trước những cú sốc bất lợi từ môi trường kinh tế khá cao. Đóng vai trò quan trọng đối với phát triển của nền kinh tế, những bất ổn từ hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam, vì vậy, các NHTM Việt Nam cần phải thực hiện các giải pháp cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện, tiến tới phát triển bền vững. Nhóm nghiên cứu xin được đề xuất một số khuyến nghị như sau: Thứ nhất, NHNN cần phải quán triệt hơn nữa trong việc kiên quyết thực hiện đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đây là giải pháp đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng, quyết định, bởi lẽ những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM thời gian qua là rủi ro mang tính hệ thống, là hậu quả của những vấn đề liên quan tới tầm nhìn chiến lược, tới năng lực quản trị điều hành. Vấn đề quan trọng đối với các NHTM hiện nay không chỉ là vốn, mà còn là trình độ, kinh nghiệm quản lý và quản trị chiến lược, là xác định được mục đích và định hướng kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn. Mặt khác NHNN cần xây dựng
  12. 25 lộ trình cụ thể sáp nhập, hợp nhất và mua lại NHTM yếu kém, trước mắt là tinh giảm số lượng, gia tăng chất lượng hoạt động của các ngân hàng. Thứ hai, nâng cao tính minh bạch về thông tin như tiến hành đánh giá và công bố chính xác thực trạng nợ quá hạn, nợ xấu tại các NHTM; hiện nay, các số liệu công bố về tỷ lệ nợ xấu của các NHTM là thấp hơn nhiều so với thực tế và đánh giá của các tổ chức có uy tín, không phản ánh được chất lượng các khoản tín dụng. Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực giám sát, tạo môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro nâng cao lành mạnh ngân hàng như bộ chỉ tiêu CAMELS, bộ chỉ tiêu FSIs Với những ưu điểm to lớn, cũng như tính chất bao quát hoạt động ngân hàng, bộ chỉ tiêu FSIs là công cụ giám sát cần được ứng dụng trong tương lai để thực hiện lành mạnh tài chính tiến đến thống kê xếp hạng lành mạnh ngân hàng. Thứ tư, tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng; tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Thứ năm, hoàn thiện các quy định liên quan đến huy động và cho vay nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn theo lãi suất thị trường; cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay vì họ e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng vì thế, họ sẵn sàng chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi suất cho vay mới, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO nguyen-tri-hieu loi-nhuan-ngan-hang-nam-2013-duoc- nhu-nam-2012-d%C3%A3-la-rat-tot_4_983.aspx
  13. 26 2013-Nhung-mang-mau-sang-toi/39882.tctc