Nghiên cứu thiết lập phương pháp cơ bản đánh giá rủi ro lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long - Cấn Thu Văn
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu thiết lập phương pháp cơ bản đánh giá rủi ro lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long - Cấn Thu Văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nghien_cuu_thiet_lap_phuong_phap_co_ban_danh_gia_rui_ro_lu_l.pdf
Nội dung text: Nghiên cứu thiết lập phương pháp cơ bản đánh giá rủi ro lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long - Cấn Thu Văn
- Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 264-270 Nghiên cứu thiết lập phương pháp cơ bản đánh giá rủi ro lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long Cấn Thu Văn1,*, Nguyễn Thanh Sơn2 1Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh, 236B Lê Văn Sỹ, Tân Bình, TP. HCM 2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 08 tháng 8 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 26 tháng 8 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 12 năm 2016 Tóm tắt: Hiện nay, phần lớn các nghiên cứu về rủi ro lũ lụt đều xác định rủi ro là hàm số của ba thành phần: hiểm họa; độ phơi nhiễm và tính dễ bị tổn thương xã hội. Đánh giá rủi ro lũ lụt ngoài việc cung cấp các ước tính thiệt hại về người và tài sản còn đề ra các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro thiên tai bằng việc xem xét năng lực của từng hộ gia đình để thích nghi và ứng phó khi lũ xuất hiện. Tuy nhiên không thể dùng chung một phương pháp và các biện pháp giảm thiểu cho các vùng khác nhau, mỗi vùng có đặc tính lũ khác nhau, điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau gây ra tính dễ bị tổn thương và khả năng chống chịu hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, ứng với một vùng cụ thể cần thiết phải xác lập một phương pháp tính toán sao cho phù hợp nhất đảm bảo đề xuất được các biện pháp giảm thiểu có hiệu quả. Đặc biệt lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có những tính chất khác hẳn so với các vùng khác ở phía Bắc hay miền Trung đã được công bố ở các nghiên cứu trước đây, vì vậy nghiên cứu này sẽ phân tích và thiết lập phương pháp đánh giá rủi ro do lũ lụt phù hợp cho vùng ĐBSCL. Từ khóa: Lũ lụt, Rủi ro, ĐBSCL. 1. Tổng quan về đánh giá rủi ro thiên tai lũ lụt1 hưởng bởi lũ lụt và 1/3 thiệt hại về kinh tế. Một cách tiếp cận tổng hợp là rất quan trọng trong Thiên tai và những tác động đến kinh tế, xã việc bảo vệ và quản lý lũ, việc nghiên cứu các hội ngày càng gia tăng trên toàn thế giới với hiểm họa lũ và tính dễ bị tổn thương nên được một tốc độ rất đáng báo động. Con người, tài định hướng tới các hoạt động thích ứng [1, 2]. sản, xã hội và môi trường đang bị ảnh hưởng rất Biến đổi khí hậu được dự báo sẽ làm tăng nhiều từ các hiểm họa tự nhiên. Bất kỳ sự thay tần suất và mức độ nghiêm trọng của các hiện đổi nào về mặt xã hội như: sự tăng dân số, tăng tượng thời tiết cực đoan. Kết quả là những thiệt trưởng kinh tế, đô thị hóa, công nghiệp hóa, phá hại về kinh tế gây ra bởi các hiểm họa tự nhiên rừng, mở rộng khu dân cư, di canh, di cư làm có thể tăng lên một cách đáng kể. Với quá trình cho xã hội dễ bị tổn thương bởi các hiểm họa tự đô thị hóa nhanh chóng trong điều kiện biến đổi nhiên. Số người bị ảnh hưởng bởi thiên tai khí hậu, thiên tai lũ lụt ngày càng gia tăng sẽ đe trung bình 147 triệu người từ năm 1981-1990 dọa đến sự phát triển bền vững vì vậy cách tiếp và con số này tăng lên 221 triệu người cho thập cận quản lý tổng hợp lũ là cần thiết. Quản lý kỷ tiếp theo 1991-2000. 2/3 trong số này là ảnh tổng hợp lũ sẽ cho thấy sự tương quan giữa các ___ biện pháp quản lý rủi ro, các phân tích đánh giá, * Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-983738347 chi phí, tính hiệu quả và vai trò của các yếu tố Email: canthuvantrh@gmail.com 264
- C.T. Văn, N.T. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 264-270 265 này trong điều kiện thay đổi kinh tế, xã hội và rủi ro lũ lụt trong vùng đồng bằng ngập lũ. Số môi trường. Các khu đô thị được mở rộng, ngày lượng các tham số có liên quan tới các khía càng kiên cố và sự thay đổi dân cư trong vùng cạnh: hiểm họa lũ, kinh tế, xã hội và môi trường đồng bằng ngập lũ, sự thay đổi đặc trưng lũ theo sự phân bố có trọng số của rủi ro lũ. Bên theo sự phát triển của lưu vực trong điều kiện cạnh đó thì đặc trưng tần suất, cường suất lũ, sự biến đổi khí hậu, tất cả các hành động làm tăng thay đổi của mực nước biển coi như tham số sự tiếp xúc của cộng đồng với nguy cơ rủi ro lũ. tính nhạy đối với đánh giá tương lai. Nếu không có một cách quản lý hiệu quả nguy Đã có nhiều hướng nghiên cứu khác nhau cơ rủi ro lũ lụt, quy mô tác động của lũ lụt đối về rủi ro, nhằm phân loại các thành phần, yếu tố với con người, tài sản, công nghiệp và kinh tế để đánh giá. Tuy nhiên, việc sử dụng các thuật sẽ ngày càng gia tăng. ngữ liên quan đến rủi ro giữa các ngành, lĩnh Nguy cơ lũ lụt là khả năng xảy ra những vực nghiên cứu vẫn còn nhiều tranh cãi trong thiệt hại tiềm năng do lũ với một cường độ nhất các cộng đồng, các hướng nghiên cứu khoa học định trong một vùng nhất định ở một thời điểm khác nhau. Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực nhất định. Một số các yếu tố (hoặc các tham số) khoa học tự nhiên thường chú trọng vào khái gây ra những thiệt hại tiềm năng do hiểm họa lũ niệm rủi ro (risk) trong khi các nhà nghiên cứu lụt. Các tham số này có thể được định lượng trong lĩnh vực khoa học xã hội thường nhắc đến thông qua các chỉ số như: độ sâu ngập lụt, thời thuật ngữ tính dễ bị tổn thương (vulnerability). gian ngập lụt, vận tốc, tỷ lệ tăng lên của mực Khái niệm rủi ro lũ lụt được cho là mức độ nước biển, tần xuất xuất hiện. Tất cả các nhân nguy hiểm của tai biến lũ lụt hay rủi ro là các tố này và các chỉ số có mối quan hệ phức tạp và thiệt hại ngẫu nhiên của tai biến lũ lụt. Sự phát tác động khác nhau [1, 3]. triển của việc phân tích tai biến lũ lụt đã được Sự gia tăng dân số và mức sống của người nghiên cứu song song với đánh giá thiệt hại lũ dân ngày càng cao với việc sử dụng các đồ lụt. Trong vài thập kỷ qua, phân tích lũ lụt tập dùng gia đình có giá trị đã làm tăng tính dễ bị trung chủ yếu vào các đại lượng vật lý (lượng tổn thương của xã hội đối với các hiểm họa lũ ngập, diện tích ngập, độ sâu ngập lụt, ) và thiệt lụt. Sự phát triển này đã tạo ra những thách thức hại trực tiếp của các thành phần kinh tế do lũ lụt mới cho xã hội và môi trường. Sự phát triển gây ra. Tuy nhiên, trong những năm gần đây kinh tế và mức sống người dân ngày càng cao phân tích rủi ro lũ lụt cũng đã đề cập đến rủi ro đòi hỏi một môi trường ngày càng an toàn. Tuy môi trường - xã hội theo hướng tiếp cận quản lý nhiên, có sự xung đột là trong khi công nghiệp tổng hợp lũ [5]. hoá, hiện đại hoá và sức mạnh chi tiêu sẽ sử Rủi ro lũ lụt được coi là các sản phẩm ngẫu dụng nhiều sản phẩm, kéo theo là việc để lại nhiên của nguy cơ và tiềm năng tổn thất của nó. đằng sau số lượng lớn các chất thải cần được xử Trong vài thập kỷ qua, lũ lụt phân tích tập trung lý đúng cách. Vì vậy, để phát triển một phạm vi chủ yếu vào kích thước vật lý của lũ lụt (lượng, rộng để đánh giá tính dễ tổn thương liên quan diện tích, độ sâu ) và thiệt hại trực tiếp của đến khía cạnh kinh tế, xã hội, và môi trường là các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trong những cần thiết [4]. năm gần đây phân tích rủi ro lũ lụt cũng đã Hầu hết những nghiên cứu đánh giá rủi ro phân tích đến rủi ro môi trường - xã hội – đó là lũ lụt, các tham số rủi ro đã được thẩm định một hướng tiếp cận quản lý tổng hợp lũ. ADRC cách riêng biệt và số lượng các tham số cũng (2005) (Asian Disaster Reduction Center) cho được giới hạn. Việc số lượng các trận lũ ngày rằng rủi ro là giá trị của thiệt hại như là: tính càng tăng và nước biển dâng do nóng lên toàn mạng, thương, tài sản bị ảnh hưởng bởi hiểm cầu, biến đổi khí hậu và sự thay đổi môi trường họa. Theo hướng tiếp cận này, gần đây, nhóm cũng được tính đến một cách thích hợp. Để có tác giả E. Koks và cộng sự đã đánh giá rủi ro lũ được những tham số này thì các nghiên cứu lụt bằng việc kết hợp giữa ba thành phần là phải được tiếp cận theo hướng quản lý tổng hợp hiểm họa lũ lụt, độ phơi nhiễm và tính dễ bị tổn
- 266 C.T. Văn, N.T. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 264-270 thương xã hội, nghiên cứu cho rằng ngoài việc Cùng với khái niệm thì phương pháp đánh cung cấp các ược tính thiệt hại về người và tài giá rủi ro cũng ngày càng phát triển đa dạng. sản thì để đề ra các biện pháp nhằm giảm thiểu Các phương pháp này có thể nhóm lại theo hai rủi ro lũ lụt còn phụ thuộc vào năng lực của hướng đánh giá: trực tiếp - mang tính định tính từng hộ gia đình để thích nghi và ứng phó với và gián tiếp - mang tính định lượng (thông qua lũ lụt, vì vậy cần thiết phải xem xét đến tính dễ bộ chỉ số), cụ thể như: phương pháp điều tra xã bị tổn thương xã hội do lũ lụt của khu vực hội học, phương pháp tích hợp bản đồ và nghiên cứu [3, 5]. phương pháp chỉ số. Mỗi phương pháp đánh giá Qua đó thấy rằng, các nghiên cứu đã tiếp có những ưu, nhược điểm riêng, trong nghiên cận theo hướng tổng hợp, tích hợp các thành cứu này sẽ làm rõ phương pháp chỉ số: phần vật lý, kinh tế, xã hội, môi trường các Xây dựng bộ chỉ số rủi ro lũ lụt gồm các nghiên cứu đều nhận định rằng đánh giá rủi ro bước: 1- Lựa chọn vùng nghiên cứu (Tìm hiểu lũ lụt tổng hợp là cần thiết để quản lý lũ. Tuy đặc trưng lũ lụt vùng nghiên cứu); 2- Thiết lập nhiên không thể dùng chung một phương pháp các tiêu chí; 3- Chuẩn hóa các biến số; 4- Xác định trọng số (nếu có); 5- Tính giá trị các tiêu chí và các biện pháp giảm thiểu cho các vùng khác (H, V, E); 6- Xác định chỉ số rủi ro và đánh giá nhau, mỗi vùng có đặc tính lũ khác nhau, điều mức độ rủi ro lũ lụt. Cụ thể các bước như sau: kiện kinh tế-xã hội khác nhau gây ra tính dễ bị tổn thương và khả năng chống chịu hoàn toàn 2.1. Lựa chọn và đặc điểm lũ vùng đồng bằng khác nhau. Vì vậy, ứng với một vùng cụ thể cần sông Cửu Long thiết phải xác lập một phương pháp tính toán sao cho phù hợp nhất đảm bảo đáp ứng từng phần với Đối với ĐBSCL, đây là khu vực có ý nghĩa tình hình đặc trưng của từng vùng cụ thể. đặc biệt quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của cả nước và trước những biểu hiện của BĐKH thì nơi đây được cho là sẽ chịu 2. Xây dựng phương pháp cơ bản đánh gía ảnh hưởng nặng nề nhất và mức độ rủi ro thiên rủi ro lũ lụt vùng đồng bằng sông Cửu Long tai vì thế cũng ở mức cao. Hơn nữa nơi đây có những đặc trưng riêng đặc biệt là về lũ lụt đòi Bản chất của rủi ro lũ lụt là ngẫu nhiên và hỏi phải có nghiên cứu và đánh giá chuyên sâu việc xác định rủi ro lũ là rất đa dạng. Vì vậy rất mức độ rủi ro tổng hợp nhằm định hướng và khó khăn để định lượng rủi ro lũ lụt khi coi rủi xây dựng chính sách quản lý lũ lụt. Ở ĐBSCL ro là hệ quả của một hiện tượng tự nhiên có tác ta quen dùng chữ “lũ lụt” đối với ĐBSCL như ở động đến con người bao gồm: cuộc sống, tài phía Bắc mà dân ở đây chỉ xem là mùa nước sản và khả năng chống chịu với hiểm họa. Rủi nổi, bởi lẽ dù là mùa nước lũ thì cường suất lũ ro chỉ xảy ra khi hiểm họa tự nhiên và những lo lên chỉ khoảng 5-15 cm/ngày là chưa thực sự lắng của con người cùng xảy ra, nếu không thì phù hợp. Thực tế cho thấy, nếu không có mùa không có rủi ro. Rủi ro lũ lụt được định nghĩa là nước nổi hàng năm thì ĐBSCL chưa chắc đã có mức độ tác động bất lợi tổng thể của lũ lụt. diện mạo như ngày hôm nay vì nước nổi đã Thuật ngữ “rủi ro lũ” kết hợp các khái niệm của mang lại nhiều lợi ích cho đồng bằng như: phù sự đe dọa cho cuộc sống, sự khó khăn và nguy sa, dưỡng chất, thủy sản, rủa độc, diệt sâu bọ, hiểm cho việc sơ tán người và tài sản khi có lũ cải tạo môi trường trừ phi là năm mà có nước lụt, những thiệt hại tiềm năng về cấu trúc và giá quá lớn. trị ngôi nhà, gián đoạn xã hội, tổn thất hoa màu, Khác hẳn với các vùng phía Bắc và miền phá hủy các công trình công cộng. Rủi ro là Trung, ở ĐBSCL tồn tại một khái niệm là “lũ hàm của hiểm họa (Hazard), tính dễ bị tổn đẹp” khi mực nước Hmax tại Tân Châu trong thương xã hội (Vulnerability) và độ phơi nhiễm khoảng 400cm đến 420cm, vượt khỏi khoảng (Exposure), Risk = f(H,V,E). này ±30cm thì lập tức mức độ gây hại là nhiều
- C.T. Văn, N.T. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 264-270 267 hơn lợi ích mà nó mang lại. Nếu mực nước tại lũ, có thể được xác định bằng các phần mềm, Tân Châu lớn hơn 450cm là mực nước sẽ gây phương pháp tính toán thủy văn. nguy hiểm về uy hiếp ngập sâu, an toàn dân cư (2) Tiêu chí độ phơi nhiễm (E): đặc trưng và các thực thể kinh tế khác (trong 87 năm từ cho mức độ ảnh hưởng của hiện trạng bề mặt hệ 1929-2015 chỉ có 15 năm như vậy tức trung thống khi tiếp xúc trực tiếp với hiểm họa lũ lụt. bình cứ 5 năm lại có 1 năm Hmax lớn hơn Hiện trạng bề mặt hệ thống ở đây là: hiện trạng 450cm). Ngược lại nếu mực nước Hmax tại Tân sử dụng đất, mật độ nhà cửa, mật độ các công Châu thấp hơn 370 cm trường hợp này ở đây trình công cộng, diện tích gieo trồng, vậ nuôi, gọi là “đói lũ” và mức độ thiệt hại cũng không vùng kinh tế, mật độ dân cư, thấp hơn so với lũ lớn có Hmax lớn hơn 450cm, Các tham số thuộc tiêu chí độ phơi nhiễm như: nguồn nước ô nhiễm trong mùa khô không có thể được xác định bằng các hình thức: khai được rửa trôi, chuột bọ sinh sôi nhiều, thiếu thác bản đồ, dữ liệu hiện trạng sử dụng đất, bản nước trong những năm tiếp theo (trung bình đồ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; niên cứ 10 năm lại có 3 năm như vậy). giám thống kê hay điều tra xã hội học, 2.2. Thiết lập bộ tiêu chí đánh giá rủi ro lũ lụt (3) Tiêu chí tính dễ bị tổn thương xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long (V): là mức độ mà ở đó một hệ thống dễ bị ảnh hưởng và khó có thể chống chịu với các tác Ở [1, 5] cũng đã chỉ ra chi tiết cách xác động tiêu cực của lũ lụt, được xác định thông định các tiêu chí đối với lưu vực sông miền qua các thành phần tính nhạy và khả năng Trung. Như đã trình bày, mỗi vùng có đặc trưng chống chịu. (i) Tính nhạy: đặc trưng các tính lũ lụt khác nhau, bộ tiêu chí với các tham số tự chất về kinh tế, xã hội và môi trường, chúng sẽ nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường vì thế cũng phản ứng ra sao trước tai biến lũ lụt. Các biến khác nhau nhất định giữa vùng ĐBSCL và miền thuộc thành phần tính nhạy như: dân số, dân Trung. Các tiêu chí ở đây gồm 3 tiêu chí: hiểm tộc, trình độ học vấn, giới tính, độ tuổi, thu họa lũ lụt (H), độ phơi nhiễm (H), tính dễ bị tổn nhập, sinh kế, đời sống tinh thần và hiện trạng thương (V) với các tham số thuộc các tiêu chí môi trường, nhiễm mặn, nhiễm phèn ; (ii) Khả này được xác định là: năng chống chịu đặc trưng cho khả năng chống (1) Tiêu chí hiểm họa lũ lụt (H) phản ánh đỡ và chịu đựng trước tai biến lũ lụt. Khả năng tính chất, quy mô, cường độ của tai biến lũ lụt, chống chịu phản ánh sức kháng cự của của nó được coi là mối đe dọa trực tiếp đến hệ người dân, của cộng đồng, của chính quyền và thống. Các đặc trưng thuộc tiêu chí này có thể hệ thống tự nhiên trước tai biến lũ lụt. Các biến là: tần suất lũ, độ sâu ngập lụt, thời gian ngập thuộc thành phần khả năng chống chịu như kinh lụt, diện tích ngập, vận tốc dòng chảy lũ, cường nghiệm, điều kiện, khả năng chống lũ, công suất lũ. Ở ĐBSCL xét các đặc trưng về lũ cao, trình phòng, tránh lũ; khả năng dự báo, cảnh lũ trung bình và lũ thấp. báo lũ; sự hỗ trợ của cộng đồng; khả năng tự phục hồi. Giá trị các đặc trưng thuộc tiêu chí nguy cơ ngập lụt có thể được xác định bằng các hình Đối với vùng ĐBSCL các tham số thuộc tiêu thức điều tra hay mô phỏng những trận lũ thực, chí tính dễ bị tổn thương cần được xem xét riêng lũ thiết kế bằng mô hình toán phù hợp. Mô hình biệt ở các mức độ lũ khác nhau là cao, thấp và áp dụng để mô phỏng lũ có thể là mô hình thủy trung bình. Vì ở đây ngoài những ảnh hưởng xấu văn (xác định lượng mưa sinh dòng chảy trên do lũ cao thì những lợi ích mà lũ lụt mang lại là lưu vực), thủy lực 1 chiều (để diễn toán dòng đáng kể. Hơn nữa đối với lũ thấp, ngoài việc giảm chảy lũ trong sông) hay mô hình 2 chiều (để thiểu tác hại của nước cao còn có những bất lợi xác định dòng chảy vượt đê tràn vào khu chứa, nhất định do xâm nhập mặn, phèn. vùng đồng bằng) Ngoài ra, một số đặc trưng Các tham số thuộc tiêu chí tính dễ bị tổn khác như tần suất xuất hiện, cường suất đỉnh thương thu nhận được từ điều tra xã hội học
- 268 C.T. Văn, N.T. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 264-270 (phiếu, phỏng vấn, ghi âm, ghi hình ) và các tham số: mật độ nhà cửa, các công trình thông tin trong niên giám thống kê cấp huyện công cộng, diện tích lúa, diện tích cây ăn trái, thuộc lưu vực nghiên cứu. vật nuôi, khu công nghiệp, diện tích nuôi trồng thủy sản, mật độ dân cư, loại đất ứng theo quy 2.3. Chuẩn hóa các biến số hoạch sử dụng đất. Các biến, thành phần có thứ nguyên khác Tiêu chí tính dễ bị tổn thương xã hội (V): nhau, vì thế cần chuẩn hóa trước khi tính toán được tính riêng cho 2 thành phần tính nhạy (S) giá trị tính dễ bị tổn thương lũ lụt (1). Trong và khả năng chống chịu (A): nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp đánh - Tính nhạy (S): được tính là trung bình có giá chỉ số phát triển con người (HDI) của trọng số của các tham số: dân số, dân tộc, trình UNDP (2006) để chuẩn hóa dữ liệu. Các giá trị độ học vấn, giới tính, độ tuổi, thu nhập, sinh kế, chuẩn hóa của các biến thu được nằm trong đời sống tinh thần, hiện trạng môi trường, diện khoảng từ 0 đến 1 và sau bước tính này thiết lập tích nhiễm mặn, diện tích nhiễm phèn. được bộ giá trị các biến đã chuẩn hóa. - Khả năng chống chịu (A) được tính trung (1) bình có trọng số của các tham số: kinh nghiệm chống lũ, điều kiện chống lũ, khả năng chống lũ, công trình phòng lũ, công trình tránh lũ; khả trong đó: x - giá trị điểm thứ j thuộc biến thứ i ij năng dự báo lũ, cảnh báo lũ, sự hỗ trợ của địa đã chuẩn hóa; X - giá trị điểm thứ j thuộc biến ij phương, khả năng tự phục hồi, khả năng đẩy thứ i chưa chuẩn hóa; - giá trị lớn mặn, khả năng rửa phèn, khả năng làm sạch sâu nhất thuộc biến thứ i chưa chuẩn hóa; bọ, khả năng mang phù sa, khả năng mang - giá trị nhỏ nhất thuộc biến thứ i nguồn lợi thủy sản. chưa chuẩn hóa. Sau khi (S) và (A) được xác định, tiêu chí 2.4. Xác định trọng số (V) được tính theo công thức V = S - A, nếu như A>S thì V được lấy = 0, tức là không bị Các tiêu chí được thiết lập liên quan đến tai tổn thương mà ngược lại lũ lụt còn mang đến biến lũ lụt được thể hiện qua chỉ số rủi ro lũ lụt những lợi ích nhất định cho một vùng, địa tổng hợp. Thực chất, mỗi tiêu chí, thành phần phương cụ thể. đều có một vai trò nhất định trong việc hình 2.6. Xác định chỉ số rủi ro lũ vùng ĐBSCL thành mức độ rủi ro của lưu vực. Tùy thuộc vào mục đích đánh giá mà mỗi tác giả có thể coi vai Theo ADRC chỉ số rủi ro lũ được xác định trò của các tiêu chí là ngang bằng hoặc có trọng là giao của 3 tiêu chí (H), (E) và (V) (Hình 1) số đáp ứng yêu cầu của từng bài toán. Ở đây sẽ [4]. Ở đây nghiên cứu sẽ sử dụng công thức: sử dụng phương pháp xác định trọng số theo R = H * E * V, với các giá trị của 3 tiêu chí phương pháp chuyên gia AHP kết hợp với đã được tính như ở mục 2.5. phương pháp thống kê Iyengar-Sudarshan đã Theo đó để đề xuất các biện pháp nhằm được mô tả chi tiết [1, 5]. giảm rủi ro lũ là: (i) giảm tính dễ bị tổn thương; 2.5. Tính giá trị các tiêu chí (ii) giảm diện tiếp xúc với tác động của hiểm họa như biện pháp di dời nơi ở và tài sản. Rủi Tiêu chí hiểm họa lũ lụt (H): được xác định ro thiên tai và diện tích bị ảnh hưởng có thể làm theo công thức trung bình cộng có trọng số của giảm nhẹ nếu các biện pháp này được áp dụng các tham số: độ sâu ngập, thời gian ngập, diện đúng. tích ngập, cường suất lũ ứng với từng tần suất Sau khi bộ chỉ số rủi ro lũ lụt được tính ứng xuất hiện lũ. với từng cấp lũ, ta có thể tổng hợp phân tích Tiêu chí độ phơi nhiễm (E): được xác định hoặc phân tích từng cấp độ riêng biệt cho từng theo công thức trung bình cộng có trọng số của vùng (cell) cụ thể.
- C.T. Văn, N.T. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 264-270 269 Trong khuôn khổ nghiên cứu này bài báo đã thiết lập được phương pháp tính chi tiết cho từng yếu tố cụ thể. Kết quả tính toán và kiểm nghiệm sẽ được trình bày ở nghiên cứu sau. Tai biến Lời cảm ơn Rủi ro Nghiên cứu này được hoàn thành trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài cấp Bộ Tài nguyên và Môi trường, mã số Sự tổn thương Sức ép TNMT.2016.05.15. Các tác giả xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo Hình 1. Biểu đồ xác định rủi ro lũ. Từ bộ chỉ số rủi ro lũ lụt tổng hợp cho các [1] Cấn Thu Văn (2015), “Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học đánh giá tính dễ bị tổn thương do lũ lụt vùng (cell) có thể tiến hành thành lập các bản lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn phục vụ quy đồ chuyên đề, các bảng dữ liệu số để người hoạch phòng chống thiên tai”, Luận án tiến sĩ quản lý, người dân có thể tra cứu dễ dàng. ĐHQGHN. [2] Pilon P J (2003), "Guidelines for reducing flood losses". 3. Kết luận (www.un.org/esa/sustdev/puplications/flood_gui delines.pdf) Như đã phân tích, ĐBSCL là vùng có ý [3] Nguyen Mai Dang (2010), "Intergrated flood nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và risk assessment for the Day river flood diversion area in the Red river, Vietnam". PhD dissertation là vùng có mối quan hệ chặt chẽ với lũ lụt. Lũ of engineering in water engineering and lụt không đơn thuần là hiện tượng tự nhiên gây management. AIT 2010 hại cho người dân như những vùng khác mà lũ [4] ADRC (2005), "Total diaster risk management – lụt còn mang lại những lợi ích nhất định cho good practices”, Report. Asian Diaster vùng và tạo nên một vựa lúa của cả nước như Reduction Center, Kobe, Japan. Available via ngày nay. Dialog. Bộ công cụ là các tiêu chí, thành phần, tham [5] Nguyễn Thanh Sơn và nnk (2015), “Đánh giá số được xác định dựa trên việc nghiên cứu và mức độ tổn thương về kinh tế - xã hội do lũ lụt am hiểu đặc điểm lũ lụt cũng như mối quan hệ trên một số lưu vực sông chính ở miền Trung trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khai thác giữa lũ lụt và đời sống kinh tế-xã hội-môi công trình thủy điện, thủy lợi”, Đề tài cấp nhà trường của ĐBSCL là cốt lõi của công tác đánh nước thuộc chương trình Khoa học và Công giá rủi ro phục vụ phòng chống tác hại của nghệ phục vụ chương trình mục tiêu Quốc gia thiên tai lũ lụt trong đời sống người dân. ứng phó với biến đổi khí hậu, mã số BĐKH-19.
- 270 C.T. Văn, N.T. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 264-270 Research Setting Basic Methods of Flood Risk Assessment in the Mekong Delta Can Thu Van1, Nguyen Thanh Son2 1HCMC University of Natural Resources and Environment, 236B Le Van Sy Str., Tan Binh Dist. HCMC 2VNU University of Sciences, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam Abstract: Recently, the most of research on flood risk are identified risk is a function of three components: hazard, exposure and social vulnerability. Flood risk assessment in addition to providing estimates of damage to people and property also proposed measures to reduce disaster risk by considering the capacity of households to adapt and cope when floods event occur. But can not use a method and mitigation measures for different regions, each region has different characteristics floods, economic conditions different social cause vulnerable properties and resistance completely different subject. So, for a particular area is necessary to establish a calculation method most appropriate to ensure the proposed mitigation measures are effective. Especially, floods in the Mekong Delta have different properties compared to other regions in the North or Central of Vietnam was announced in the previous research, so this paper will analyze and establish a risk assessment method by floods suitable for Mekong Delta. Keywords: Floods, flood Risk assesment, Mekong Delta.