Phát triển du lịch cộng đồng trở thành sinh kế bền vững ở Lai Châu (nghiên cứu trường hợp người lự ở bản Hon - Tam Đường – Lai Châu)

pdf 8 trang Hùng Dũng 04/01/2024 740
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển du lịch cộng đồng trở thành sinh kế bền vững ở Lai Châu (nghiên cứu trường hợp người lự ở bản Hon - Tam Đường – Lai Châu)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphat_trien_du_lich_cong_dong_tro_thanh_sinh_ke_ben_vung_o_la.pdf

Nội dung text: Phát triển du lịch cộng đồng trở thành sinh kế bền vững ở Lai Châu (nghiên cứu trường hợp người lự ở bản Hon - Tam Đường – Lai Châu)

  1. ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 201(08): 157 - 163 e-ISSN: 2615-9562 PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TRỞ THÀNH SINH KẾ BỀN VỮNG Ở LAI CHÂU (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP NGƯỜI LỰ Ở BẢN HON - TAM ĐƯỜNG – LAI CHÂU) Hoàng Thị Phương Nga*, Nguyễn Hồng Vân Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Là một trong 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người, dân tộc Lự hiện chỉ còn 5.601 khẩu (Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Họ cư trú tập trung ở Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Người Lự vốn có truyền thống sinh hoạt kinh tế là làm nương, dệt vải, săn bắn hái lượm. Tuy nhiên, người Lự ở Lai Châu nói chung và ở Bản Hon (huyện Tam Đường – Lai Châu) nói riêng hiện nay đã tiếp cận đến một hướng sinh kế mới, đó là du lịch cộng đồng. Bản Hon không chỉ hấp dẫn du khách vì cảnh quan đẹp mà hơn tất cả chính là các giá trị văn hóa của đồng bào Lự vẫn được giữ gìn, trao truyền như một bảo tàng sống động. Người Lự Bản Hon đã biết “xuất khẩu tại chỗ” các giá trị văn hóa ấy bằng công cụ “du lịch cộng đồng” để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm nghèo bền vững. Từ khóa: Người Lự; Bản Hon; du lịch cộng đồng; sinh kế; giảm nghèo. Ngày nhận bài: 16/4/2019; Ngày hoàn thiện: 17/6/2019; Ngày duyệt đăng: 18/6/2019 DEVELOPMENT COMMUNITY TOURISM TO BECOME SUSTAINABLE LIVING FOR THE LU ETHNIC IN BAN HON (TAM DUONG – LAI CHAU) Hoang Thi Phuong Nga*, Nguyen Hong Van TNU - University of Sciences ABSTRACT As one of the 16 ethnic groups, under 10,000 people, the Lu ethnic is currently only 5,601 people (according to General census and Housing in 2009). They are concentrated in Phong Tho and in Sin Ho district, Lai Chau province, including Ban Hon village (Tam Duong-Lai Chau). In addition to the traditional economic activity as the eater, textile and hunting, the hunter, today of the Lu ethnic has a new livelihood, it is a community tourism. Ban Hon village is not only attractive tourists because of the beautiful landscape but also all the traditional cultural values. They are still preserved, conferred as a lively museum. The Lu ethnic has known to export cultural value on-premises by "community tourism" tool to improve and enhance the quality of life and sustainable poverty. Keywords: Lu ethnic; Ban Hon; community tourism; livelihood; reduce poverty. Received: 16/4/2019; Revised: 17/6/2019; Approved: 18/6/2019 * Corresponding author. Email: ngahtp@tnus.edu.vn Email: jst@tnu.edu.vn 157
  2. Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 1. Sinh kế bền vững với người dân tộc thiểu số tài chính, xã hội ) trong một môi trường dễ Sinh kế bền vững đang là mối quan tâm hàng bị tổn thương có sự quản lý của các tổ chức, đầu của người dân, đặc biệt là đồng bào dân định chế, chính sách. Và khi hoạt động sinh tộc thiểu số. Hiện Việt Nam có 16 dân tộc rất kế thích ứng, hoặc tránh được các tác động ít người, với số dân dưới 10.000 người, bao tiêu cực từ môi trường dễ bị tổn thương, đồng gồm: Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Si La, thời bảo đảm duy trì, phát triển được các Ngái, Cống, Bố Y, Cơ Lao, Lô Lô, Mảng, Lự, nguồn lực trong cả hiện tại và tương lai thì Chứt, Pà Thẻn, La Ha, La Hủ. Đây là những được coi là sinh kế bền vững. Cách tiếp cận tộc người có điều kiện sống vô cùng khó sinh kế bền vững là lấy con người làm trung khăn, địa bàn sinh sống chủ yếu ở vùng sâu, tâm rất hữu ích trong việc giải quyết xóa đói vùng xa, giao thông đi lại không thuận tiện. giảm nghèo, phát triển nông thôn, ứng phó Họ có tỷ lệ hộ thuộc diện đói nghèo cao, khả với những trường hợp khẩn cấp, năng tự bảo tồn, phát huy văn hóa truyền Ở Việt Nam, đối với vùng đồng bào dân tộc thống rất hạn chế. Vì vậy, việc tìm kiếm và thiểu số, công tác giảm nghèo nói chung và ứng dụng mô hình sinh kế bền vững trở thành việc xây dựng mô hình sinh kế bền vững nói điều cấp thiết đối với đồng bào, trong đó có riêng là nhiệm vụ cấp bách. Trong nhiều năm người dân tộc Lự. qua, thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc Trong bối cảnh, đa phần các dân tộc thiểu số gia Giảm nghèo bền vững”, Chính phủ đã ban rất ít người hầu như đều thiếu tư liệu sản xuất, hành nhiều Nghị quyết, Nghị định, Quyết hiếm cơ hội tiếp cận các tiến bộ về khoa học định, đồng thời các tỉnh, thành phố cũng đã trong sản xuất nông/ lâm nghiệp; thu nhập của ban hành nhiều văn bản, chính sách hỗ trợ hộ đồng bào chỉ cố gắng đảm bảo nhu cầu cuộc nghèo, cận nghèo, phù hợp với đặc điểm của sống tối thiểu thì người Lự ở xã Bản Hon từng địa phương. Cùng với đó, ưu tiên nguồn (Tam Đường – Lai Châu) đã tìm được một lực đầu tư hỗ trợ tạo sinh kế và phát triển hướng đi mới – đó là du lịch cộng đồng. Họ vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; cải đã khai thác chính giá trị văn hóa truyền cách thủ tục hành chính và phương thức để thống của mình để tạo sức hấp dẫn đối với du người dân, cộng đồng tham gia và tiếp cận khách du trong nước và quốc tế. Hiện nay, chính sách giảm nghèo; đẩy mạnh công tác bên cạnh phương thức sinh hoạt kinh tế tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức tự truyền thống là săn bắt, hái lượm, dệt vải thì vươn lên thoát nghèo. Trong đó, đẩy mạnh người Lự Bản Hon đã “làm du lịch”. Sinh kế các cơ chế, giải pháp tác động nhằm nâng cao mới này đã giúp cộng đồng tạo công ăn, việc khả năng tiếp cận của người dân đối với các làm, có thêm thu nhập. dịch vụ xã hội cơ bản theo hướng tiếp cận đa 2. Du lịch cộng đồng là sinh kế bền vững chiều; cơ chế, giải pháp lồng ghép nguồn lực cho đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện 21 chương trình có mục tiêu với Kế Người đầu tiên sử dụng khái niệm Sinh kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc (livelihood) là Robert Champer với nghĩa như gia giảm nghèo. sau: “sinh kế gồm năng lực, tài sản, cách tiếp Trong các mô hình sinh kế cho đồng bào dân cận (sự dự trữ, tài nguyên, quyền sở hữu, tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay, du lịch cộng quyền sử dụng) và các hoạt động cần thiết đồng nổi lên như một mô hình kiểu mẫu nhằm cho cuộc sống” [1]. Trong khung phân tích cải thiện sinh kế, tạo nguồn thu nhập bền vững sinh kế bền vững của DFID thì “sinh kế bao và cơ hội việc làm cho cộng đồng dân tộc thiểu gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả số. Bên cạnh đó cũng cải thiện điều kiện vệ các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt sinh làng bản, bảo vệ môi trường tự nhiên và động để kiếm sống” [2]. Nhìn một cách toàn góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi diện hơn, sinh kế chính là hoạt động kiếm một trong những đặc điểm của du lịch là “tạo sống của con người thông qua việc sử dụng ra rất nhiều việc làm và là nguồn phát triển các nguồn lực (con người, tự nhiên, vật chất, quan trọng và việc làm, đặc biệt cho những đối 158 Email: jst@tnu.edu.vn
  3. Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 tượng khó tiếp cận thị trường lao động như Tây Nam huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu, phụ nữ, thanh niên, lao động nhập cư và cư có tổng diện tích đất tự nhiên là 5.443,06 ha. dân nông thôn. Du lịch có thể đóng góp đáng Dân số 2.471 người, trong đó, dân tộc Lự kể vào phát triển kinh tế xã hội và giảm chiếm 90%. Với vị trí địa lý phía Bắc giáp xã nghèo” [3]. Đây là mô hình sinh kế bền vững Hồ Thầu huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu; bởi vừa giữ gìn bản sắc của dân tộc, vừa không phía Nam giáp với xã Khun Há huyện Tam phá vỡ cảnh quan, gắn phát triển kinh tế với Đường tỉnh Lai Châu; phía Tây giáp với xã bảo tồn văn hóa, xóa đói giảm nghèo. Bởi bản Bản Giang huyện Tam Đường và huyện Sìn chất của du lịch cộng đồng là loại hình du lịch Hồ; phía Đông giáp với xã Bình Lư huyện được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa Tam Đường tỉnh Lai Châu. Trong đó, điểm của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, du lịch văn hóa cộng đồng Bản Hon nằm trên tổ chức khai thác và hưởng lợi [4]. Nhìn nhận xã Bản Hon gồm Bản Hon 1 (88 hộ) và Bản theo khía cạnh giảm nghèo, Tổ chức Lao động Hon 2 (69 hộ) với hơn một trăm ngôi nhà sàn thế giới cũng đánh giá “du lịch cộng đồng là được bảo tồn nguyên trạng, cùng với nghề dệt loại hình du lịch mà người dân địa phương và những tập tục sinh hoạt văn hóa đậm đà (thường là nông dân, người nghèo và những bản sắc của đồng bào dân tộc Lự. người bị thiệt thòi về kinh tế) mời du khách 3.1. Sức hấp dẫn từ văn hóa truyền thống đến thăm cộng đồng của họ, bằng cách đó của người Lự ở Bản Hon cung cấp cơ sở vật chất và các hoạt động du lịch cho du khách” [3]. Hiện nay, du lịch cộng Người Lự định cư ở gần sông, suối và sinh sống đồng đang được coi là loại hình du lịch mang bằng nghề trồng lúa nước; chăn nuôi; đan lát; lại nhiều lợi ích phát triển kinh tế bền vững dệt, thêu vải Cuộc sống của người Lự giản dị nhất cho địa phương. nhưng luôn ẩn chứa sự tinh tế, thể hiện rõ nét qua kiến trúc nhà sàn, nghề thủ công, trang phục Cả nước có nhiều mô hình du lịch cộng đồng phát triển khá thành công ở các vùng miền núi truyền thống và tục nhuộm răng đen có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống Nhà ở của người Lự là nhà sàn, có 1 cầu như ở Lào Cai, Hà Giang v.v Những mô hình thang. Căn nhà có mái phía sau ngắn hơn, còn này đã mang lại hiệu quả thiết thực, không chỉ mái phía trước kéo dài xuống che cả hàng phát huy được thế mạnh văn hoá bản địa của hiên và cầu thang. Gầm sàn sạch sẽ, hầu hết các dân tộc, mà còn góp phần xoá đói giảm các gia đình dùng làm nơi để trữ củi khô, nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của khung cửi và một số đồ dùng khác. Bên trong đồng bào dân tộc thiểu số. Việc phát triển các nhà sàn của người Lự thường dành 1 gian sản phẩm du lịch cộng đồng là phù hợp với xu giữa để thờ cúng và con dâu trong gia đình thế thời đại, đáp ứng nhu cầu khám phá của không được vào gian này. Nhà bếp thì nối đông đảo du khách muốn tìm hiểu văn hoá dân trực tiếp với căn nhà chính, do vậy khi bước tộc đặc sắc. Tuy nhiên, muốn du lịch cộng chân vào nhà thì thấy ngay nhà ở và nhà bếp đồng phát triển cần giữ nguyên gốc, nguyên là một thể liên hoàn không tách rời nhau. sơ, chất phác chân thực của văn hoá bản địa, Từ lâu đời, đồng bào đã biết trồng bông, nuôi đó là giá trị cốt lõi của cộng đồng, không để tằm kéo sợi dệt vải để phục vụ cho nhu cầu đánh mất nó. Để giảm nghèo cho đồng bào dân may mặc của cộng đồng. Đa số phụ nữ Lự tộc thiểu số nói riêng và phát triển kinh tế địa đều giỏi trong nghề dệt vải, thêu thùa. Người phương nói chung, cũng như tôn trọng những con gái trước khi lấy chồng đều thành thạo giá trị bản địa, giá trị cộng đồng thì loại hình công việc may vá, thêu dệt, đồng bào lấy đó du lịch cộng đồng sẽ là mô hình sinh kế đúng làm thước đo sự khéo léo, tiêu chuẩn đánh giá hướng và bền vững. vai trò của một người phụ nữ trong gia đình 3. Du lịch cộng đồng – mô hình sinh kế bền cũng như trong bản. Tại Bản Hon, huyện Tam vững ở Bản Hon Đường, người dân vẫn tự dệt và mặc trang Bản Hon là một xã nông nghiệp, nằm ở phía phục truyền thống. Bản Hon hiện có 100% hộ Email: jst@tnu.edu.vn 159
  4. Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 dân lưu giữ nghề dệt truyền thống của dân tính. Những chiếc áo này dành cho các chú rể tộc, dưới từng mái nhà của người Lự đều có hoặc các trai làng mặc trong các lễ hội như từ 1 đến 3 khung dệt để người phụ nữ dệt váy, cúng rừng, lễ mừng mùa áo cho mình và những đồ dùng sinh hoạt cho Người Lự ở Bản Hon còn giữ nguyên tập tục cả gia đình. Sản phẩm dệt của người Lự khá nhuộm răng có từ thời xa xưa. Khi đến tuổi phong phú về chủng loại và trang trí hoa văn, dậy thì, các cô gái được mẹ sắm cho dụng cụ họa tiết rất độc đáo. Ngoài quần áo, váy, nhuộm răng gọi là “pẳng tèm khèo”. Nó là người Lự còn sản xuất các loại túi, khăn, một thanh sắt mỏng, là vật bất ly thân trong địu Hầu như các thành phẩm từ nghề dệt suốt cuộc đời của người phụ nữ Lự. Đồng bào truyền thống của người Lự đều được làm hết dùng cây tỉu - một loại cây có nhựa cay, vị sức tỉ mỉ, thủ công ngay từ việc chọn nguyên thơm mọc ở rừng sâu để làm nguyên liệu liệu đến tìm kiếm màu sắc từ thiên nhiên để nhuộm răng. Họ thu hái cây này về phơi khô nhuộm chàm cho trang phục. dự trữ trong nhà để dùng dần. Mỗi khi ăn cơm xong hoặc trước khi đi ngủ, các bà các cô thường ngồi bên bếp lửa để tiến hành nhuộm răng. Họ lấy một đoạn cây tỉu đặt vào bếp lửa đốt thành than hồng rồi bỏ vào một cái lon bằng nhuôm, lấy thanh sắt “pẳng tèm khèo” đậy lại. Khi đó cục than hồng đốt nóng làm tan chảy nhựa cây tỉu dưới đáy lon, khói bốc lên nghi ngút và ám nhựa cây có màu đen vào phía dưới thanh sắt. Họ lấy tay trỏ chấm vào nhựa còn đang nóng đưa qua đưa lại trên khắp Hình 1. Người Lự ở Bản Hon hàm răng để nhuộm, nhựa cây bám chặt vào (Nguồn: Báo Lai Châu) răng. Đồng bào Lự thực hành nhuộm răng Phụ nữ Lự ăn mặc đẹp và cầu kỳ. Bộ trang như là một “nghi thức” không thể quên trong phục truyền thống gồm khăn đội, áo váy, thắt cuộc sống hàng ngày, đồng thời là phút thư lưng cùng với bộ trang sức đi kèm. Áo tứ thân giãn, nghỉ ngơi, làm đẹp của người phục nữ dài tay may bằng vải chàm, được ghép liên sau ngày lao động mệt nhọc. Nét đặc biệt là kết với nhau từ 6 miếng vải cắt theo hình rẻ trong hàm răng đen tuyền ấy còn điểm xuyết quạt làm cho chiếc áo có vạt xòe rộng so với chiếc răng vàng lấp lánh ở hàm trên, ngay ở eo. Hai bên vạt áo được đính hai dây vải hoa, vị trí chiếc răng khểnh, tạo nên nét đẹp riêng dải dây bên sườn phải có 5 tua bằng sợi len biệt không lẫn với bất cứ tộc người nào. Để các màu có xâu hạt cườm. Chiếc áo được làm đẹp, phụ nữ Lự còn kết hợp đeo vòng cổ điểm xuyết các hoa văn dệt và hoa văn ghép bằng bạc, cài lá thơm và hoa trên tóc. vải. Khăn đội đầu được làm bằng vải bông, Người Lự có tục “chọc sàn” - một cách tỏ tình nhuộm chàm đen dài khoảng trên 4 m, rộng của trai gái khi đến tuổi trưởng thành. Người 0,3 m, hai đầu khăn có tua dài khoảng 0,2 m. Lự có tục thách cưới, do nhà gái quy định, Trên nền đen của hai đầu khăn dệt xen kẽ 18 thường dùng bạc trắng để thách cưới. Nhà trai đường chỉ trắng. Trang phục nam giới cũng là phải mang sang nhà gái những sính lễ: 26.000 màu chàm đen, nét đặc biệt là trên áo nam, đồng tiền giấy, 1 chai rượu, 5 đôi nến sáp phần cúc áo được đính tay bằng những nút ong, 1 con gà hoặc 1 con heo tùy thuộc vào thổ cẩm được khâu, đan cầu kỳ, kết hợp các nhà gái muốn cúng heo hay gà. Người Lự có chùm cúc bạc. Cổ áo được làm theo kiểu cổ tục ở rể, lúc đưa rể mọi người trong gia đình cao 3 phân, thêu và ghép hoa văn hình tam nhà trai mang theo chăn, đệm, vải tấm. Tân giác, hình vuông mà xanh, đỏ. Hai bên sườn lang phải ở rể trong 3 năm liền. Sau đó cô gái được khâu hai túi với đường viền hoa văn tinh về nhà chồng làm dâu ít nhất 2 năm, rồi đôi tế, tạo cho chiếc áo thêm nét mạnh mẽ, nam vợ chồng có thể tách ra ở riêng. 160 Email: jst@tnu.edu.vn
  5. Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 Cùng với những nét văn hóa đặc trưng nêu gian núi rừng Tây Bắc. Ví dụ như: đi bộ trên, văn hóa ẩm thực, lễ hội truyền thống, hoặc đạp xe ngắm cảnh bản làng/ núi rừng; các làn điệu dân ca, nhạc cụ, trò chơi dân quay phim/chụp ảnh điểm cảnh; trải nghiệm gian của người Lự đã tạo nên một kho tàng cuộc sống của người Lự trên ngôi nhà sàn văn hóa đặc sắc, thể hiện rõ sự tài hoa và cảm truyền thống; chiêm ngưỡng bộ trang phục dân tộc cầu kỳ với hoa văn đa dạng, phong nhận cuộc sống rất tinh tế của họ. phú; tìm hiểu và trải nghiệm nghệ thuật dệt 3.2. Hoạt động du lịch cộng đồng ở Bản Hon vải; được hướng dẫn thực nghiệm phương Với vị trí thuận lợi, nằm cách thị xã Lai thức đánh bắt và chế biến cá suối của cư Châu 20 km và nằm trên tuyến du lịch Vòng dân địa phương; thưởng thức ẩm thực cung Tây Bắc, lượng khách đến Bản Hon truyền thống của người Lự với nhiều món tương đối ổn định bao gồm cả khách trong ngon đậm vị núi rừng Tây Bắc; tham gia nước và quốc tế. Trung bình mỗi tuần có từ sinh hoạt văn hóa dân gian: Nghe kể về các 1 - 2 đoàn khách (thường mỗi đoàn có số truyền thuyết, huyền sử, quá trình mở đất lượng dao động từ 5 đến 30 người). Đến lập làng của người Lự; tìm hiểu các tín đây, khách du lịch được tìm hiểu, khám phá ngưỡng dân gian của người Lự; giao lưu và trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt, lao văn nghệ với cộng đồng dân cư địa phương: động của người dân địa phương. Các hoạt Những nghệ nhân dân gian hát bằng tiếng động đó rất bình dị, mộc mạc trong cuộc Lự, múa các điệu dân vũ truyền thống của sống thường nhật nhưng lại vô cùng sinh cha ông, biểu diễn nhạc cụ dân gian như động, giàu màu sắc văn hóa giữa không trống, chiêng, sáo, 30% Cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật 25% Cảnh quan 20% Nhà sàn 15% Nghề dệt 10% Phong tục truyền thống 5% Âm nhạc dân gian 0% Lễ hội Khách quốc tế Khách trong Ẩm thực nước Biểu đồ 1. Các yếu tố thu hút khách du lịch đến Bản Hon (Nguồn: Tác giả phân tích và tổng hợp, 2019) Rất hài lòng Khá hài lòng Hài lòng ở mức trung bình Kém hài lòng Không hài lòng Mức độ hài lòng 0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35% Biểu đồ 2. Mức độ hài lòng của khách đối với du lịch cộng đồng Bản Hon (Nguồn: Tác giả phân tích và tổng hợp, 2019) Email: jst@tnu.edu.vn 161
  6. Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 Cho con đi học Mua trang thiết bị hiện đại Mua phương tiện đi lại Nâng cấp nhà cửa, cải tạo cảnh quan Tiêu dùng hàng ngày Tiết kiệm Khác Biểu đồ 3. Các nội dung tái đầu tư từ thu nhập du lịch của người Lự ở Bản Hon (Nguồn: Tác giả phân tích và tổng hợp, 2019) Để đáp ứng nhu cầu của du khách, người dân lân cận. Không những chỉ góp phần giảm Bản Hon đã đầu tư sửa sang nhà cửa, lắp đặt nghèo mà doanh thu từ du lịch, sau khi chi trả trang thiết bị hiện đại (không phá vỡ không những khoản mục cho chuỗi nguyên vật liệu gian kiến trúc truyền thống); khôi phục các kiến thiết nên các dịch vụ du lịch người Lự ở món ăn đặc sắc, đa dạng hóa thực đơn và giá Bản Hon đã có một nguồn lợi nhất định tái cả; phục dựng và phát triển dân ca dân vũ; tìm đầu tư vào những nội dung liên quan đến chất hiểu văn hóa truyền thống dân tộc Lự để giới lượng cuộc sống như: giáo dục đào tạo nâng thiệu thông tin cho du khách, Nhiều gia đình cao dân trí, nâng cấp nhà cửa, cải tạo cảnh trong bản đã có dịch vụ homestay. Trong hơn quan, mua sắm đồ dùng, 100 nóc nhà sàn ở Bản Hon có khoảng 5 nhà 4. Định hướng nâng cao hiệu quả sinh kế có khả năng phục vụ khách lưu trú. Mức thu bằng du lịch cộng đồng ở tỉnh lai châu tiền là 70.000 đồng/đêm/khách. Đặc điểm ngôi 4.1. Nhân rộng mô hình trong toàn tỉnh nhà sàn của người Lự là thường có diện tích Trong những năm qua, Lai Châu đã kết hợp nhỏ, sàn nhà không cao nên sức chứa không với người dân địa phương lập kế hoạch xây lớn do vậy, bình quân mỗi hộ gia đình có thể dựng chương trình du lịch cộng đồng tại Bản đón khoảng 15 khách/đêm. Một số ngôi nhà Hon; đồng thời liên kết hợp tác, đầu tư du lịch lớn thì có sức chứa 20 - 25 khách/đêm. với nhiều địa phương, công ty lữ hành trong cả Hiện nay, Bản Hon có đủ năng lực đón nước, xuất bản ấn phẩm du lịch, website du khoảng 10 ngàn lượt khách du lịch mỗi lịch và xây dựng chương trình du lịch hấp dẫn năm. Các dịch vụ người dân cung ứng gồm: nhằm thu hút khách đến Bản Hon. Đến nay, homestay, tour tham quan làng bản, tour đi dân bản đã thuần thục trong việc đón, tiếp bộ trekking ven suối, tour học nấu ăn/thưởng khách; bố trí chỗ ăn, ngủ cho khách; chế biến thức ẩm thực truyền thống Lự, biểu diễn văn các món ăn đảm bảo vệ sinh, phù hợp với khẩu nghệ truyền thống, dệt vải truyền thống, vị của khách; biểu diễn các tiết mục văn hóa Những năm gần đây khách tới Bản Hon tham văn nghệ dân gian phục vụ du khách như: hát quan ngày càng nhiều vì thế thu nhập của các khắp, thổi sáo, thổi khèn, chơi đàn nhị, chơi gia đình khá dần lên. Du lịch cộng đồng ở trống, ném én, kéo co Sở Văn hóa, Thể thao Bản Hon đã góp phần tăng thu nhập cho ít và Du lịch Lai Châu đã triển khai chương trình nhất 20% số dân thuộc đối tượng nghèo ở địa hỗ trợ xây dựng mô hình thí điểm nghề thủ phương thông qua việc cung cấp các sản công truyền thống gắn với phát triển sản phẩm phẩm, dịch vụ cho du khách. Bên cạnh đó góp du lịch tại Bản Hon, như: Khảo sát thu thập phần bảo tồn các giá trị văn hóa, tài nguyên thông tin làm cơ sở cho việc phát triển nghề và môi trường tại điểm Bản Hon và khu vực dệt; tổ chức các khóa tập huấn để qua đó động 162 Email: jst@tnu.edu.vn
  7. Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 viên khuyến khích các nghệ nhân có kinh giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn nghiệm truyền dạy lại tinh hoa nghề dệt cho để đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương thế hệ trẻ; hỗ trợ một số trang thiết bị nghề dệt lai. Ngoài ra, chính quyền và nhân dân cần liên (guồng quay, khung dệt, bộ đồ nhuộm chàm, kết với các doanh nghiệp lữ hành để nghiên dụng cụ cán bông, xa quay sợi, các loại chỉ dệt, cứu tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo mang sắc bộ đồ in sáp ong ); tổ chức trình diễn nghề thái riêng của Bản Hon. dệt, qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm cho 5. Kết luận người dân tại bản trong việc gìn giữ giá trị văn Bản Hon (Tam Đường – Lai Châu) sở hữu hóa truyền thống của dân tộc mình nhằm phát những cảnh quan thiên nhiên đẹp, văn hóa triển du lịch bền vững. đậm đà bản sắc dân tộc. Đây chính là những Bản Hon hiện đã trở thành điểm đến thân lợi thế để địa phương phát triển du lịch cộng thiện, tiếp cận dễ dàng đối với khách du lịch. đồng nhằm xóa đói giảm nghèo – như một Hạ tầng kỹ thuật như đường xá, nhà cộng sinh kế bền vững cho đồng bào Lự. Điều này đồng, công trình vệ sinh, nước sạch, điện không chỉ góp phần bảo vệ và phát huy những lưới, viễn thông và hệ thống dịch vụ khá tốt. giá trị văn hóa vốn có mà còn giúp người dân Đây là mô hình phát triển du lịch cộng đồng phát triển kinh tế. Khi đến với Bản Hon, đầu tiên tại Lai Châu, góp phần thúc đẩy công khách du lịch, đặc biệt là du khách quốc tế sẽ cuộc xóa đói giảm nghèo bền vững, tạo điều được hòa mình vào không khí náo nhiệt của kiện cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc âm nhạc truyền thống, trực tiếp tham gia sản thiểu số vượt qua khó khăn vươn lên xóa đói xuất nông nghiệp với người dân, tìm hiểu các giảm nghèo cho bản thân. Như vậy, có thể nghề thủ công truyền thống như dệt vải, làm nhân rộng mô hình sinh kế bền vững này cho nhạc cụ hay thưởng thức các món ăn dân dã các địa phương khác có cùng điểm xuất phát nhưng chứa đựng tinh hoa ẩm thực của cộng như Bản Hon. Và thực tế hiện nay tỉnh Lai đồng Đó chính là những trải nghiệm thực Châu cũng đã tiếp tục phát triển du lịch cộng sự hấp dẫn và khó quên đối với du khách. Và đồng tại các điểm bản dân tộc thiểu số như Nà những giá trị đó đã mang lại nguồn lợi kinh tế Luồng, Sin Suối Hồ, Vàng Pheo, Gia Khâu nhất định cho người Lự ở Bản Hon giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống. 4.2. Tăng cường quảng bá và thu hút đầu tư Chính vì thế, du lịch cộng đồng ở Bản Hon cho du lịch cần được quan tâm hơn nữa để trở thành sinh Tuy nhiên, để phát triển du lịch cộng đồng trở kế bền vững cho địa phương. thành sinh kế bền vững mang tính toàn diện và hiệu quả cao, chính quyền địa phương cần tăng TÀI LIỆU THAM KHẢO cường xúc tiến quảng bá điểm du lịch Bản Hon [1]. Chambers, Robert, Rural development: Putting trên các phương tiện thông tin đại chúng; kêu the last first, Longman Scientific & Technical, gọi sự đầu tư tài chính hỗ trợ người dân nâng Co-published in the United States with John Wiley & Sons, Inc., New York, 1983. cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu [2]. Nguyễn Văn Sửu, “Khung sinh kế bền vững: tham quan của du khách; đồng thời hỗ trợ Một cách phân tích toàn diện về phát triển và người dân đưa ra định hướng tổ chức các hoạt giảm nghèo”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2, tr 3- động du lịch và khai thác tài nguyên du lịch 12, 2010. phù hợp với đặc điểm riêng của bản. Người [3]. Tổ chức Lao động Quốc tế, Bộ công cụ hướng dẫn giảm nghèo thông qua du lịch, 2012. dân địa phương cần được nâng cao trình độ [4]. Bùi Thị Hải Yến, Du lịch cộng đồng, Nxb chuyên môn nghiệp vụ; có ý thức bảo tồn các Giáo dục, 2007. Email: jst@tnu.edu.vn 163
  8. 164 Email: jst@tnu.edu.vn