Tác động của phổ cập tài chính tới bình đẳng trong thu nhập - Trường hợp các nước Châu Á

pdf 8 trang Gia Huy 24/05/2022 1940
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của phổ cập tài chính tới bình đẳng trong thu nhập - Trường hợp các nước Châu Á", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_pho_cap_tai_chinh_toi_binh_dang_trong_thu_nhap.pdf

Nội dung text: Tác động của phổ cập tài chính tới bình đẳng trong thu nhập - Trường hợp các nước Châu Á

  1. TÁC ĐỘNG CỦA PHỔ CẬP TÀI CHÍNH TỚI BÌNH ĐẲNG TRONG THU NHẬP - TRƯỜNG HỢP CÁC NƯỚC CHÂU Á TS. Nguyễn Đăng Tuệ Trường đại học Bách Khoa Hà Nội Tóm tắt Bài viết này xem xét mối quan hệ giữa phổ cập tài chính và bình đẳng trong thu nhập của các quốc gia ở Châu Á. Sử dụng số liệu thu thập từ các tổ chức quốc tế như IMF, World Bank, ILO, tác giả áp dụng phương pháp của Sarma (2015) để tính toán chỉ số phổ cập tài chính cho 17 quốc gia châu Á trong giai đoạn từ 2004 đến 2015. Từ đó tác giả xem xét mối quan hệ giữa phổ cập tài chính và bất bình đẳng về thu nhập của các quốc gia này. Kết quả cho thấy phổ cập tài chính có thể giúp giảm sự bất bình đẳng trong thu nhập của các quốc gia. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số hàm ý về chính sách liên quan đến phổ cập tài chính. Từ khóa: phổ cập tài chính, bất bình đẳng, thu nhập, châu Á 1. Giới thiệu Tăng trưởng hòa nhập (inclusive growth) gần đây đã trở thành một trong những mục tiêu chính sách quan trọng nhất của thế giới. Các chính phủ, các đối tác phát triển và các nhà kinh tế đã chú ý đến việc đưa vào đời sống kinh tế và xã hội sự tiếp cận rộng rãi hoặc phổ cập đến giáo dục, y tế, an sinh xã hội, nước sạch và vệ sinh, vận tải và điện. Việc phổ cập tài chính là điểm mới nhất được thêm vào chương trình hòa nhập xã hội và thúc đẩy sự tiếp cận giữa tất cả các bộ phận của xã hội với một loạt các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý. (Bhowmik & Saha, 2013) Phổ cập tài chính hay còn được gọi là tài chính toàn diện (financial inclusion) là việc cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi thành viên xã hội với mức chi phí hợp lý, đặc biệt chú trọng đến nhóm cá nhân và tổ chức yếu thế, chưa được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thống. Các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả phải chăng đáp ứng được nhu cầu của họ trong giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm (World Bank, 2014). Từ định nghĩa trên, Camara (2014) cho rằng phổ cập tài chính là quá trình mà việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức được tối đa hoá, đồng thời giảm thiểu những rào cản bởi những cá nhân không tham gia vào hệ thống tài chính chính thức. Ngoài ra, phổ cập tài chính còn có thể được hiểu là một quá trình đảm bảo khả năng tiếp cận, tính khả dụng và sử dụng hệ thống tài chính chính thức cho tất cả các thành viên của nền kinh tế (Sarma, 2015) Việc nhận thức được rằng phổ cập tài chính là yếu tố then chốt cho cả cuộc chiến chống nghèo đói và đạt được mục tiêu phát triển kinh tế tổng thể đang dẫn tới việc tập trung ngày càng nhiều vào các chính sách và sáng kiến phổ cập tài chính (World Bank, 2017). Phổ cập tài chính có thể đem lại những lợi ích ở góc độ vĩ mô và vi mô. Ở góc độ vi mô, phổ cập tài chính cho phép những người nghèo có thể tối ưu hóa tiêu dùng và đảm bảo cuộc sống của họ ít bị ảnh hưởng bởi những sự kiện bất thường như bệnh tật, tai nạn, thất nghiệp. Phổ cập tài chính giúp tạo ra những kênh thanh toán và chuyển tiền cho những người chưa có tài khoản ngân hàng. Nếu không có phổ cập tài chính, những người này không có lựa chọn nào khác ngoài những phương thức chuyển tiền tốn kém và đầy rủi ro. Phổ cập tài chính cho phép người nghèo có thể tiết kiệm và vay mượn để xây nhà, đầy tư vào giáo dục và kinh doanh để cải thiện cuộc sống của mình. Phổ cập tài chính cũng đóng góp vào việc phát triển tín dụng một cách lành mạnh đối với những người trước đây vốn dựa vào tín dụng phi chính thức. 458
  2. Tiếp cận tài chính tạo điều kiện cho các gia đình và doanh nghiệp lên kế hoạch cho cuộc sống từ các mục tiêu dài hạn đến những trường hợp khẩn cấp bất ngờ. Cung cấp một nền tảng giáo dục tài chính cá nhân, hình thành thói quen tiết kiệm, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp luôn sống dưới áp lực tài chính. Phổ cập tài chính đặc biệt quan trọng đối với các nhóm cá nhân và tổ chức yếu thế như: người nghèo, phụ nữ, trẻ em và cộng đồng nông thôn, tạo niềm tin thúc đẩy nhu cầu đầu tư, kinh doanh, cải thiện năng suất lao động tại các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa (Klapper & Demirguc-Kunt, 2011). Vì những lý do này, phổ cập tài chính đã thu hút rất nhiều quan tâm trong những năm gần đây vì một mục tiêu chính sách nhằm cải thiện cuộc sống của người nghèo. Phổ cập tài chính là một trong những chủ đề đang được ưu tiên thảo luận trong các chương trình nghị sự của các nhà lãnh đạo toàn cầu, các tổ chức quốc tế cũng như các chính phủ tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực với quy mô rộng như GPFI-G20, WB, BIS, AFI, UNCDF, CEMLA Kết quả của sự hợp tác đó, đến nay có 57 quốc gia đã thể hiện cam kết thúc đẩy phổ cập tài chính, trong đó hơn 30 nước - chủ yếu là các nước đang phát triển, đã và đang trong quá trình ban hành và triển khai một Chiến lược phổ cập tài chính quốc gia (National Financial Inclusion Strategies - NFIS), thậm chí có quốc gia đang triển khai ở giai đoạn 3 (World Bank, 2017). Tuyên bố Maya năm 2011 đã đóng góp đáng kể trong việc nâng cao chiến lược quốc gia về phổ cập tài chính. Trong số 57 quốc gia đã thực hiện cam kết theo Tuyên bố Maya vào cuối tháng 9 năm 2015 có 35 nước đã cam kết xây dựng và thực hiện NFIS. Và trong số 35 nước này, 16 nước đã hoàn thành xây dựng chiến lược quốc gia (AFI, 2015). 2. Tổng quan nghiên cứu Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa phổ cập tài chính và tăng trưởng kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm cách chứng minh phổ cập tài chính là một động cơ thúc đẩy tăng trưởng. Về nguyên tắc, một hệ thống tài chính phát triển sẽ hỗ trợ tăng trưởng cả từ phía cung (phát triển tài chính dẫn đến thúc đẩy sản xuất) và từ phía cầu (tăng trưởng tạo ra nhu cầu cho các sản phẩm tài chính) (Mohan, 2006). Cụ thể, một hệ thống tài chính năng động và đa dạng có thể thúc đẩy tăng trưởng thông qua tăng tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư và thông qua đó thúc đẩy tích lũy tư bản. Phát triển về tài chính cũng thúc đẩy tăng trưởng thông qua tăng cường năng lực cạnh tranh và thúc đẩy các hoạt động giúp cải thiện hiệu quả kinh tế (Mohan, 2006). Khan (2011) khẳng định rằng phổ cập tài chính có thể là một công cụ để cung cấp nguồn lực tiền tệ đối với tăng trưởng kinh tế và là yếu tố tiên quyết để đạt được tăng trưởng toàn diện. Sharma (2015) sử dụng mô hình VAR và kiểm định tác động Granger để kiểm chứng với trò của phổ cập tài chính tới tăng trưởng kinh tế. Ông nhận thấy rằng sự bao phủ của hệ thống ngân hàng, sự sẵn có và việc sử dụng dịch vụ ngân hàng đặc biệt là dịch vụ gửi tiền có thể tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao hơn. Mặc dù vậy, không phải tất cả các nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy sự phát triển của hệ thống tài chính sẽ đem lại mức tăng trưởng cao hơn. Một số nghiên cứu đã cho thấy bằng chứng về hệ thống tài chính lớn thậm chí có thể ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển kinh tế. Arcand (2015) đề xuất các mô hình để xem xét liệu có một giới hạn nào đối với mối quan hệ giữa sự phát triển của hệ thống tài chính và tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu này cho thấy khi hệ thống tài chính phát triển ở mức trung bình, có mối quan hệ chặt chẽ giữa chiều sâu của hệ thống tài chính và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ở mức phát triển cao hơn, hệ thống tài chính phát triển có thể tạo ra ít tăng trưởng hơn. Nhiều học giả nghi ngờ vấn đề này có thể bắt nguồn từ vấn đề bất bình đẳng trong thu nhập. Tuy vậy, nhiều nghiên cứu cũng đã phát hiện mối quan hệ ngược chiều giữa phổ cập tài chính và bất bình đẳng trong thu nhập. Nghiên cứu của Burgess (2005) cho thấy chiến dịch của Chính phủ trong việc mở rộng các chi nhánh ngân hàng ở nông thôn đã giúp giảm nghèo ở Ấn Độ. Nghiên cứu của Park & Mercado (2015) tìm hiểu mối quan hệ giữa phổ cập tài chính và xóa đói giảm nghèo và kết luận rằng phổ cập tài chính đã giúp giảm nghèo đói ở một số quốc gia 459
  3. đang phát triển. Điều này đã giúp thay đổi mối quan hệ giữa bất bình đẳng trong thu nhập và tăng trưởng kinh tế từ ngược chiều sang thuận chiều. Tuy vậy nghiên cứu này mới chỉ sử dụng một khía cạnh của phổ cập tài chính chứ chưa tính toán được một chỉ số toàn diện phản ánh mức độ phổ cập tài chính. Nghiên cứu của Kim (2016) là một trong những nghiên cứu đầu tiên xem xét mối quan hệ giữa phổ cập tài chính và bình đẳng trong thu nhập sử dụng số liệu từ nhiều quốc gia khác nhau trên cơ sở tính toán một chỉ số phổ cập tài chính đa chiều. Tuy nhiên Kim (2016) xem xét mối quan hệ cho 40 quốc gia trên thế giới bao gồm cả những nước phát triển và đang phát triển và không tập trung vào một khu vực cụ thể. Với nghiên cứu này, tác giả sẽ xem xét mối quan hệ giữa phổ cập tài chính và bất bình đẳng trong thu nhập tập trung riêng vào khu vực châu Á với những quốc gia có những điểm tương đồng về văn hóa và kinh tế. 3. Phương pháp nghiên cứu Việc đo lường mức độ phổ cập tài chính đã được thực hiện ở một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia, Phi-li-pin và Thái Lan (ADBI, 2014). Kết quả cho thấy vấn đề phổ cập tài chính ở các quốc gia này còn nhiều vấn đề giải quyết. Những vấn đề này bao gồm sự khác biệt về sử dụng các dịch vụ tài chính và tỷ lệ hộ gia đình được tiếp cận tài khoản ngân hàng chính thức ở các quốc gia khác nhau. Những khác biệt giữa các quốc gia có thể nhận thấy rõ khi xem xét sự tiếp cận đối với dịch vụ tài chính trong các thành phần khác nhau của dân cư và những nhóm người có thu nhập khác nhau. Làm thế nào để đo lường mức độ phổ cập tài chính đang là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm chính sách. Mặc dù đã có sự đồng thuận về định nghĩa về phổ cập tài chính, không có một phương pháp chung được công nhận để đo lường mức độ phổ cập tài chính (Park & Mercado, 2015). Các nghiên cứu trước đây đã tìm cách đo lường mức độ phổ cập tài chính theo nhiều cách khác nhau. Một số nhà nghiên cứu đã sử dụng số liệu ở phía cung để xác định mức độ tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính để xác định mức độ phổ cập tài chính. Honohan (2008) xây dựng các chỉ số bằng cách kết hợp các thông tin về số lượng tài khoản ngân hàng và các tổ chức tín dụng vi mô thông qua dữ liệu thu thập từ các hộ gia đình. Sarma (2008) đề xuất cách tiếp cận sử dụng chỉ số đa chiều về phổ cập tài chính (IFI) để đo lường mức độ phổ cập tài chính. Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu như Demirguc - Kunt & Klapper (2012) lại sử dụng dữ liệu từ phía cầu ở góc độ từng cá nhân và tập trung vào một số chỉ số liên quan đến việc sử dụng dịch vụ tài chính và các rào cản đối với việc sử dụng các dịch vụ này. Trong nghiên cứu này, phổ cập tài chính được đo lường từ phía cung dựa trên định nghĩa của World Bank theo đó mức độ phổ cập tài chính là khả năng các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả phải chăng đáp ứng được nhu cầu của họ trong giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm. Như vậy phổ cập tài chính không chỉ bao gồm sự tiếp cận các dịch vụ cơ bản như gửi tiền tiết kiệm mà còn bao gồm các dịch vụ như tín dụng, bảo hiểm. Do đó cần có một cách tiếp cận toàn diện để bao gồm các khía cạnh này (Sarma, 2015). Vì lý do trên, trong nghiên cứu này tác giả sử dụng phương pháp của Sarma (2008) để tính toán một chỉ số phổ cập tài chính bao hàm các khía cạnh nói trên của phổ cập tài chính, áp dụng phương thức tiếp cận đa chiều. Chỉ số được xây dựng có giá trị từ 0 đến 1 với 0 thể hiện sự hoàn toàn không phổ cập tài chính và 1 thể hiện hoàn toàn phổ cập tài chính. Quy trình tính toán chỉ số gồm 2 bước. Bước đầu tiên là đo lường các khía cạnh của phổ cập tài chính. Giá trị của khía cạnh thứ i, di, được tính toán bằng công thức: Ai mi di = (1) Mi mi Trong đó: Ai = Giá trị thực tế của khía cạnh i; mi= Giá trị tối thiểu của khía cạnh i; Mi= Giá trị tối đa của khía cạnh i Công thức trên đảm bảo rằng 0 ≤ di ≤ 1. Giá trị của di càng cao thể hiện quốc gia đó đạt 460
  4. được mức độ cao hơn ở khía cạnh i. Nếu n khía cạnh về phổ cập tài chính được xem xét, một quốc gia i sẽ được đại diện bằng một điểm Di = (d1, d2, d3, .dn) trên một không gian n chiều. Trong không gian n chiều này, điểm O = (0,0,0, 0) thể hiện trường hợp xấu nhất trong khi đó điểm I = (1,1,1, ,1) thể hiện mức độ đạt được cao nhất ở tất cả các khía cạnh. Bước thứ hai, chỉ số phổ cập tài chính, IFIi cho quốc gia i sẽ được tính bằng khoảng cách được chuẩn hóa từ điểm Di tới điểm tối ưu nhất I= (1,1,1, .1) theo công thức: (1 d )2 ( 1 d ) 2 ( 1 d ) 2 IFI 1 1 2 n (2) i n Việc chuẩn hóa này được thực hiện để đảm bảo giá trị tìm được nằm giữa 0 và 1 đồng thời giá trị cao hơn của IFI thể hiện mức độ phổ cập tài chính cao hơn. Để lượng hóa được chỉ số phổ cập tài chính trong nghiên cứu này, tương tự như Sarma (2008), Allen và cộng sự (2012), Cámara (2014), Sarma (2015), tác giả áp dụng 3 khía cạnh cơ bản của hệ thống tài chính bao gồm mức độ thâm nhập, phổ biến và sử dụng của hoạt động ngân hàng. Việc sử dụng các khía cạnh này dựa trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trước đây và sự sẵn có của số liệu. Với việc đo lường 3 khía cạnh của phổ cập tài chính, công thức (2) trở thành: (1 p )2 ( 1 a ) 2 ( 1 u ) 2 IFI 1 i i i (3) i 3 Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xem xét ảnh hưởng của phổ cập tài chính tới tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. Tác giả sử dụng các mô hình của Kim (2016). Mô hình đầu tiên ước lượng mối quan hệ giữa phổ cập tài chính và tăng trưởng kinh tế có dạng thức như sau: Yt = 0 + 1IFIt 1 + 2 ut + 3 t + 4 nt + 5 GINIt 1 + 6tt 1 + 7ht 1 + t (4) Trong đó: Y: tốc độ tăng trưởng GDP thực tế IFI: chỉ số phổ cập tài chính u: tỷ lệ thất nghiệp : tỷ lệ lạm phát n: tỷ lệ tăng trưởng dân số GINI: chỉ số đo lường sự bất bình đẳng về thu nhập t: tỷ lệ của thuế thu nhập cá nhân trên tổng thuế h: tỷ lệ chi tiêu công dành cho y tế trên GDP Mô hình thứ hai ước lượng môi quan hệ giữa phổ cập tài chính và sự bất bình đẳng về thu nhập. Mô hình này được mô tả như sau: GINIt = 0 + 1IFIt 1 + 2 ut + 3 t + 4 nt + 5 Yt 1 + 6tt 1 + 7ht 1 + t (5) Trong đó: GINI: chỉ số đo lường sự bất bình đẳng về thu nhập IFI: chỉ số phổ cập tài chính u: tỷ lệ thất nghiệp : tỷ lệ lạm phát n: tỷ lệ tăng trưởng dân số Y: tốc độ tăng trưởng GDP thực tế t: tỷ lệ của thuế thu nhập cá nhân trên tổng thuế h: tỷ lệ chi tiêu công dành cho y tế trên GDP 461
  5. Hai mô hình nói trên được tính toán thông qua cấu trúc Arellano - Bond GMM. Lý do để sử dụng giao thức này là số liệu được sử dụng là số liệu mảng có chuỗi thời gian ngắn (12 năm) và số đơn vị lớn (17 quốc gia); biến phụ thuộc GDP có giá trị phụ thuộc vào giá trị trước đó của biến đó; các biến còn lại trong mô hình không hoàn toàn độc lập mà có thể có liên hệ với các giá trị trong quá khứ và phần dư; các hiệu ứng cố định như các tính chất không thay đổi theo thời gian của các quốc gia có thể có tương quan với các biến giải thích và những sự không đồng nhất (heterogeneity) không quan sát được. Các biến trễ của biến phụ thuộc có thể có sự tự tương quan. 4. Dữ liệu Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này được lấy từ các nguồn công bố công khai của các tổ chức quốc tế như IMF và World Bank. Theo đó, số lượng tài khoản tiết kiệm chính thức ở các ngân hàng thương mại trên 1.000 dân được lấy từ Điều tra tiếp cận tài chính (Financial Access Survey) của IMF và số lượng người có tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng trên 1.000 dân được lấy từ cơ sở dữ liệu Global Findex Database của World Bank. Hai chỉ số này được dùng để thể hiện khía cạnh thâm nhập của hoạt động ngân hàng (p). Số lượng chi nhánh ngân hàng thương mại trên 100.000 dân được sử dụng để thể hiện khía cạnh phổ biến của hoạt động ngân hàng (a) và được lấy từ Điều tra tiếp cận tài chính (Financial Access Survey) của IMF. Số liệu về tỷ lệ khối lượng tín dụng và tiết kiệm trên tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của một quốc gia được tính toán dựa trên số liệu của World Development Indicators (WDI) từ World Bank và thể hiện khía cạnh sử dụng của hoạt động ngân hàng (u). Mô tả chi tiết nguồn dữ liệu cho các biến trong mô hình được trình bày trong Bảng 1. Bảng 1: Nguồn dữ liệu của các biến trong mô hình Biến số trong Định nghĩa Nguồn mô hình Tăng trưởng Tỷ lệ tăng trưởng GDP theo giá thị trường tính theo đơn vị tiền World Bank, GDP (% năm) tệ quốc gia theo năm cố định OECD GINI Chỉ số GINI đo lường sự khác biệt của phân bổ thu nhập giữa World Bank các cá nhân hoặc hộ gia đình trong nền kinh tế so với sự phân bổ công bằng hoàn hảo. Chỉ số Gini bằng 0 thể hiện sự công bằng hoàn hảo, chỉ số bằng 1 thể hiện hoàn toàn không công bằng Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp đo lường tỷ lệ lực lượng lao động sẵn sàng ILO làm việc nhưng không có việc làm Lạm phát Lạm phát được đo lường bằng chỉ số giá tiêu dùng và phản ánh IMF sự thay đổi hằng năm của chi phí mà một người tiêu dùng trung bình phải bỏ ra để mua một rổ hàng hóa và dịch vụ Tăng trưởng dân Tăng trưởng dân số cho năm t là tỷ lệ phần trăm tăng trưởng WDI số (% năm) của dân số giữa năm t-1 cho tới năm t, được thể hiện bẳng tỷ lệ %. Tỷ lệ của thuế Thuế đánh vào thu nhập, lợi nhuận và lợi tức được đánh vào IMF thu nhập cá nhân thu nhập ròng của cá nhân, lợi nhuận của công ty và lợi tức của trên tổng thuế các khoản đầu tư vào bất động sản, chứng khoán và các loại tài sản khác Tỷ lệ chi tiêu Chi tiêu công dành cho y tế bao gồm các khoản chi tiêu của WHO công dành cho y Chính phủ trung ương và địa phương, các khoản hỗ trợ từ bên tế trên tổng GDP ngoài và các khoản chi từ quỹ bảo hiểm y tế (Nguồn: Tác giả tổng hợp) Dữ liệu được thu thập cho 17 quốc gia Châu Á trong 12 năm từ 2004 đến 2015 462
  6. 5. Kết quả và thảo luận 5.1. Chỉ số phổ cập tài chính Bảng 2 trình bày trung bình cộng của chỉ số phổ cập tài chính được tính toán cho các quốc gia châu Á được sử dụng trong nghiên cứu. Theo đó, chỉ số phổ cập tài chính IFI trung bình của các quốc gia Châu Á là 0.242 với Nhật Bản là quốc gia có chỉ số IFI cao nhất (0.73) và Kyrgyztan là quốc gia có chỉ số IFI thấp nhất (0.034). Bảng 2: Chỉ số phổ cập tài chính được tính toán cho các quốc gia châu Á Chỉ số phổ cập tài chính Quốc gia Thứ tự cho châu Á (IFI) Nhật Bản 0.730223 1 Korea, Rep. 0.460228 2 Malaysia 0.352947 3 Singapore 0.350934 4 Mông Cổ 0.328281 5 Thổ Nhĩ Kỳ 0.287867 6 Israel 0.272958 7 Thái Lan 0.236654 8 Trung Quốc 0.202124 9 Việt Nam 0.197747 10 Georgia 0.170297 11 Armenia 0.12731 12 Indonesia 0.123006 13 Philippines 0.09194 14 Lào 0.083736 15 Cambodia 0.073977 16 Kyrgyztan 0.034137 17 (Lưu ý: Giá trị tính toán là trung bình cộng của giai đoạn 2004-2015) (Nguồn: Tính toán của tác giả) Bảng 3 trình bày thống kê giá trị của các biến trong mô hình, có tổng số 204 quan sát. Tuy nhiên do sự hạn chế về số liệu nên các biến Tỷ lệ của thuế thu nhập cá nhân trên tổng thuế, tỷ lệ chi tiêu công dành cho y tế trên tổng GDP (%), GINI không có đủ số quan sát cho tất cả các quốc gia. Trung bình, tỷ lệ tăng trưởng GDP cho 17 quốc gia là 5.66%. Tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 6.14% và tỷ lệ lạm phát trung bình là 5%. Tỷ lệ của chi tiêu y tế trên tổng GDP ở mức 2.69% trong khi chỉ số GINI trung bình ở mức khá cao là 37.9%. Bảng 3: Thống kê giá trị của các biến trong mô hình Các biến trong Số Trung bình Min Max Độ lệch chuẩn mô hình quan sát Tăng trưởng GDP (%) 204 5,659691 -14,15 17,29078 3,839625 Tỷ lệ thất nghiệp (%) 204 6,141525 0,1 19 4,646654 Lạm phát (%) 204 5,00138 -1,35284 25,05666 4,442419 Tăng trưởng dân số (%) 204 3,641579 -2,13643 39,17819 5,034215 463
  7. Các biến trong Số Trung bình Min Max Độ lệch chuẩn mô hình quan sát Tỷ lệ của thuế thu nhập cá 195 14,82491 -1,31581 52,85811 17,72822 nhân trên tổng thuế (%) Tỷ lệ chi tiêu công dành cho 187 2,692701 0,734607 8,550082 1,652502 y tế trên tổng GDP (%) GINI 132 0,37969 0,00369 0,491 0,074936 (Nguồn: Tính toán của tác giả) 5.2. Kiểm định mô hình Để kiểm định tính phù hợp của mô hình, tác giả thực hiện kiểm định Sargan và kiểm định Arellano - Bond đối với vấn đề tự tương quan. Kiểm định Sargan trả lời câu hỏi các biến trong mô hình có độc lập hay không. Kết quả của kiểm định Sargan có giá trị p bằng 0.896 cho thấy không có đủ bằng chứng để phủ định giả thuyết rằng các biến trong mô hình không độc lập. Kiểm định Arellano - Bond trả lời câu hỏi có sự tự tương quan trong mô hình hay không. Kết quả của kiểm định AR(1) và AR(2) cho kết quả 0.852 và 0.589. Điều này cho thấy không có đủ bằng chứng để phủ định giả thuyết các biến trong mô hình không tự tương quan. Do vậy việc sử dụng kết quả hồi quy GMM là phù hợp. 5.3. Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu Kết quả hồi quy theo phương pháp GMM được trình bày trong Bảng 4. Bảng 4: Kết quả mô hình tác động tới bất bình đẳng thu nhập Phương pháp GMM Số quan sát 68 áp dụng Biến phụ thuộc GINI Số nhóm 13 28.54 Hệ số Beta Sai số chuẩn Giá trị p -0.2281353 0.0661664 0.001 -0.0016048 0.0015731 0.312 0.0007084 0.0006087 0.249 -0.0008486 0.0004389 0.058 -0.0003075 0.0003706 0.410 0.001576 0.001309 0.233 -0.0023437 0.0055589 0.675 (Nguồn: Tính toán của tác giả) Kết quả cho thấy chỉ số phổ cập tài chính và sự bất bình đẳng thu nhập có ảnh hưởng ngược chiều với giá trị p bằng 0.001. Điều này giúp loại bỏ giả thiết “phổ cập tài chính không ảnh hưởng đến bất bình đẳng trong thu nhập”. Hệ số của biến IFI là -0.228, có nghĩa rằng nếu chỉ số phổ cập tài chính của một quốc gia tăng thêm 1% vào năm trước sẽ giúp giảm sự bất bình đẳng trong thu nhập 0.228% trong năm tiếp theo. Tương tự, biến tăng trưởng dân số có hệ số -0.00084 và giá trị p bằng 0.058 (có ý nghĩa thống kê ở mức độ 10%) cho thấy tăng trưởng dân số có tác động ngược chiều tới sự bất bình đẳng thu nhập. Các biến số độc lập khác như tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ của thuế thu nhập trên tổng thuế có mối quan hệ thuận chiều với GINI trong khi các biến còn lại có mối quan hệ ngược chiều với GINI. Tuy nhiên hệ số thu được từ các biến này không có ý nghĩa về mặt thống kê. 464
  8. 6. Kết luận và hàm ý chính sách Kết quả của mô hình cho thấy đối với các quốc gia châu Á, phổ cập tài chính có ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc giảm bất bình đẳng về thu nhập. Nghiên cứu này tương đồng với các kết quả của Park & Mercado (2015) và Kim (2016) và khẳng định vai trò của phổ cập tài chính. Chính vì vậy việc tăng cường phổ cập tài chính bằng cách triển khai rộng rãi các dịch vụ tài chính chính thức cho người dân ở khu vực này mang nhiều ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng toàn diện được nhấn mạnh như một phương châm phát triển của các quốc gia trong khu vực. Tài chính toàn diện sẽ giúp các cá nhân yếu thế và dễ bị tổn thương không bị bỏ lại phía sau. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ADBI. (2014). Financial inclusion in Asia - Country surveys. Tokyo: Asian Development Bank Institute. 2. AFI. (2015). National Financial Inclusion Strategy: Current State of Practice. Alliance for Financial Inclusion. 3. Allen, F., Demirguc-Kunt, A., Klapper, L., & Peria, M. S. (2012). The Foundations of Financial Inclusion: Understanding Ownership and Use of Formal Accounts. World Bank. 4. Arcand, E. B. (2015). Too much finance? Springer. 5. Bhowmik, S. K., & Saha, D. (2013). Financial Inclusion of the Marginalised. Springer. 6. Burgess, R. a. (2005). Do Rural Banks Matter? Evidence from the Indian Social Banking Experiment. 7. Cámara, N. (2014). Measuring Financial Inclusion: A Multidimensional Index. Madrid: BBVA. 8. Demirguc-Kunt, A., & Klapper, L. (2012). Measuring Financial Inclusion: The Global Findex Database. New York: World Bank. 9. Honohan, P. (2008). Cross-country variation in household access to fnancial services. Journal of Banking and Finance. Elsevier. 10. Kim, J.-H. (2016). A Study on the Effect of Financial Inclusion on the Relationship Between Income Inequality and Economic Growth. 11. Klapper, L., & Demirguc-Kunt, A. (2011). Measuring financial inclusion The Global Financial Inclusion Index (Global Findex). World Bank. 12. Khan, H. (2011). Financial inclusion and financial stability: Are they two sides of the same coin? Indian Bankers Association and Indian Overseas Bank. Chennai. 13. Mohan, R. (2006). Economic growth, financial deepening and financial inclusion. Annual Bankers' Conference. Hyderabad. 14. Park, C.-Y., & Mercado, V. R. (2015). Financial Inclusion, Poverty, and Income Inequality in Developing Asia. Tokyo: ADB. 15. Sarma, M. (2008). Index of Financial Inclusion. India: Indian Council for Research on International Economic Relations. 16. Sarma, M. (2015). Measuring Financial Inclusion. Economics Bulletin, 35(1), 604-611. 17. Sharma, D. (2015). Nexus between fnancial inclusion and economic growth Evidence from the emerging Indian economy. 18. World Bank. (2014). Global Financial Development Report 2014. Washington DC: International Bank for Reconstruction and Development / The World Bank. 19. World Bank. (2017). Overview: National Financial Inclusion Strategies. World Bank. 465