Technical and financial efficiency of whiteleg shrimp (Litopenaues vannamie) in the intensive plastic lining pond model in the Mekong Delta

pdf 8 trang Gia Huy 20/05/2022 1330
Bạn đang xem tài liệu "Technical and financial efficiency of whiteleg shrimp (Litopenaues vannamie) in the intensive plastic lining pond model in the Mekong Delta", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftechnical_and_financial_efficiency_of_whiteleg_shrimp_litope.pdf

Nội dung text: Technical and financial efficiency of whiteleg shrimp (Litopenaues vannamie) in the intensive plastic lining pond model in the Mekong Delta

  1. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 Technical and nancial eciency of whiteleg shrimp (Litopenaues vannamie) in the intensive plastic lining pond model in the Mekong Delta Huynh Van Hien, Dang i Phuong, Nguyen i Kim Quyen Abstract e study was targeted to describe current situation of technical and nancial indicators of whiteleg shrimp farming model in plastic lining ponds in the Mekong Delta. e study was conducted in 2020 through face-to-face interviewing of 178 farmers culturing shrimp in plastic lining pond in the key whiteleg shrimp farming provinces in the Mekong Delta. Descriptive statistics were applied to describe the current situation of technical and nancial aspects of the farming model. e results showed that the farming area ranged from 0.9 - 3.4 ha/household with average stocking density of 157.1 ind./m2. Aer culturing of 90 - 100 days/crop, the productivity reached 15.9 tons/ha/crop. e total cost of shrimp farming was 1.3 billion VND/ha/crop, corresponding to production cost/kg of 81.1 thousand VND. With an average selling price of 116.7 thousand VND/kg, the net prot was 35.6 thousand VND/kg and the margin prot was 44%. Keywords: Whiteleg shrimp, model, plastic lining pond, technical and nancial eciency Ngày nhận bài: 02/4/2021 Người phản biện: TS. Phạm ái Giang Ngày phản biện: 18/5/2021 Ngày duyệt đăng: 04/6/2021 HIỆN TRẠNG NUÔI TÔM CÀNG XANH TRONG MÔ HÌNH XEN CANH VỚI LÚA Ở VÙNG NƯỚC LỢ TỈNH CÀ MAU Võ Hoàng Liêm Đức Tâm1, Dương Nhựt Long1, Nguyễn ị Ngọc Anh1, Trần Ngọc Hải1 và Lam Mỹ Lan1 TÓM TẮT Hộ nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa ở huyện ới Bình, tỉnh Cà Mau đã được phỏng vấn nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi tôm càng xanh, làm cơ sở cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả của mô hình. Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa năm 2019 đã có nhiều cải tiến so với năm 2017; mực nước trên trảng tăng từ 0,37 m lên 0,44 m; mật độ thả nuôi tăng từ 1,6 ± 0,7 con/m2 lên 1,9 ± 0,8 con/m2; số hộ cho tôm ăn hoặc bổ sung thức ăn ban đầu từ 23,3% lên 56,7%; số lần thay nước tăng từ 2,5 lần/vụ lên 5,1 lần/vụ. Kết quả cho thấy, khối lượng, tỷ lệ sống, năng suất và tỷ suất lợi nhuận từ nuôi tôm càng xanh đã được cải thiện. Cho tôm ăn và mật độ nuôi là hai nhân tố ảnh hưởng chính đến năng suất và hiệu quả tài chính mô hình nuôi tôm càng xanh. Độ mặn nước kênh cấp cho ruộng nuôi vào cuối vụ tăng cao ảnh hưởng đến thời gian nuôi tôm càng xanh. Từ khóa: Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii), xen canh, vùng nước lợ, tỉnh Cà Mau I. ĐẶT VẤN ĐỀ (tôm - lúa) giúp cải thiện độ phì nhiêu của đất và eo Tổng cục ủy sản (2014), diện tích nuôi thúc đẩy quản lý dịch hại tổng hợp tốt hơn (Ahmed tôm càng xanh (TCX) là 12.851 ha, sản lượng nuôi et al., 2014). Hệ thống tôm - lúa tại ĐBSCL được đánh giá là mô hình nuôi trồng có hiệu quả kinh tế, đạt 6.695 tấn, trong đó tập trung nuôi chủ yếu tại phù hợp với điều kiện môi trường các vùng ruộng các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm lúa có ảnh hưởng mặn và thích hợp với khả năng 98,8% diện tích. Hình thức nuôi cũng rất phong phú đầu tư còn rất hạn chế của đa số nông hộ trong như: nuôi thâm canh, bán thâm canh trong ao đất, vùng, được các cấp chính quyền và người dân xem nuôi trong mương vườn dừa, nuôi trong ruộng lúa. là mô hình thân thiện với môi trường, mong muốn eo New (2002), nuôi tôm trong ruộng lúa không duy trì và phát triển (Phạm Anh Tuấn và ctv., 2016). những không làm giảm năng suất lúa mà lợi nhuận Do đó, mô hình nuôi TCX xen canh với lúa có tiềm từ việc nuôi tôm - lúa có thể tăng gấp hai hay ba năng rất lớn trong việc góp phần tăng cường an ninh lần so với trồng lúa đơn canh. Hệ thống kết hợp lương thực, cải thiện kinh tế địa phương, tăng tính 1 Khoa ủy sản, Trường Đại học Cần ơ 114
  2. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 bền vững kinh tế, xã hội và môi trường. eo Huỳnh 2.1.2. Phương pháp xử lý số liệu Kim Hường (2016), nghề nuôi TCX hiện nay đang Số liệu được mã hóa và xử lý dựa vào phần mềm được mở rộng nhanh chóng ở các tỉnh ven biển Bến Excel 2013 và SPSS 20.0 như tính giá trị trung bình, Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau với diện tích nuôi độ lệch chuẩn, thống kê mô tả, xác định mối tương rất lớn, chiếm 83,7 - 90,9% tổng diện tích nuôi, và quan đa biến giữa các biến kỹ thuật với năng suất và có xu hướng tăng dần, mô hình áp dụng phổ biến là lợi nhuận của mô hình. So sánh các yếu tố kỹ thuật nuôi TCX trong mùa mưa kết hợp trồng lúa. Trong và tài chính giữa 2 đợt khảo sát dựa vào T-Test ở đó, Cà Mau là tỉnh có diện tích phát triển mô hình mức ý nghĩa p 0,05). 115
  3. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 3.2. Các khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi tôm tăng trưởng và năng suất tôm nuôi trong mô hình càng xanh xen canh với lúa (Dương Nhựt Long và ctv., 2016). Một mô hình nuôi Các số liệu về đặc điểm mô hình nuôi TCX xen tôm tốt, hiệu quả, mương bao quanh ruộng phải đủ canh với lúa ở huyện ới Bình, Cà Mau đều xu rộng và sâu, không bị che phủ và giàu dinh dưỡng hướng gia tăng trong năm 2019 so với năm 2017 để cung cấp thức ăn và là nơi trú ẩn cho tôm, vì vậy (Bảng 2). Diện tích ruộng nuôi tôm, tỷ lệ diện tích với mực nước ruộng nuôi thấp, ảnh hưởng rất lớn mương, mực nước ao ương, tỷ lệ diện tích ương, đến sinh trưởng và phát triển của tôm (Dương Nhựt không có sự khác biệt lớn (p > 0,05). Tuy nhiên, mực Long và ctv., 2016). Diện tích ao ương tùy thuộc vào nước trên trảng, mực nước mương bao và diện tích quy mô, mật độ và thời gian ương tôm của từng hộ. ao ương cao hơn có ý nghĩa thống kê (p 0,05). Trong cải tạo ao ương và ruộng nuôi, vôi được eo kết quả điều tra, có đến 68,4% lượng TCX sử dụng với liều lượng 9,7 - 10,4 kg/100 m2. Dây giống thả nuôi ở Cà Mau được nhập từ các tỉnh khác thuốc cá được sử dụng để diệt cá tạp với liều lượng như An Giang, Đồng áp, Cần ơ, Sóc Trăng và 1,05 - 1,07 kg/100 m2, không có sự khác biệt (p > 0,05) cả nguồn tôm giống nhập về từ Trung Quốc và ái giữa 2 đợt khảo sát. Các hộ không sử dụng thuốc, Lan, số còn lại chiếm 31,5% số giống thả nuôi được hoá chất trong suốt quá trình nuôi, do đó tôm lúc sản xuất trong tỉnh. Kết quả này có sự khác biệt với thu hoạch là sản phẩm sạch và an toàn cho người nghiên cứu của Hồ anh ái (2011), tại Bạc Liêu sử dụng. Mật độ thả nuôi TCX trung bình tăng từ (nguồn giống trong tỉnh chiếm 83,3% và ngoài tỉnh 1,6 ± 0,7 con/m2 lên 1,9 ± 0,8 con/m2, trong khi là 16,7%). Nhìn chung, nguồn giống tôm rất đa kích cỡ tôm giống giảm từ 1,8 cm/con xuống còn dạng nhưng hiện nay rất khó kiểm soát được chất 1,3 cm/con, mật độ và kích cỡ con giống đều khác lượng. Do vậy, việc khuyến cáo người nuôi chọn biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nguồn gốc, chất con giống chất lượng, qua kiểm dịch để nuôi là rất lượng con giống thả nuôi là một trong những yếu quan trọng. tố ảnh hưởng lớn đến kết quả của mô hình lúa tôm. 116
  4. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 Bảng 3. Các khía cạnh kỹ thuật không thay nước, số lần thay nước trung bình từ nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa 2,5 - 5,1 lần/vụ nuôi. ời gian nuôi TCX trung bình ông tin Đơn vị 5,3 - 5,8 tháng. Kích cỡ tôm thu hoạch, tỷ lệ sống và Năm 2017 Năm 2019 kỹ thuật tính năng suất tôm nuôi tăng lên đáng kể (p 0,05). so với năm 2017, do mức độ đầu tư thức ăn cho tôm, nhiên liệu và chi phí khác tăng. Người nuôi trong Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ số hộ cho tôm ăn vùng đã đầu tư thức ăn cho tôm nhiều hơn (Hình 1) khi nuôi được cải thiện đáng kể (p 0,05) 117
  5. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 so với năm 2017, do chi phí đầu tư thức ăn và các bình 8,8 ± 6,1 triệu đồng/ha, tỷ suất lợi nhuận 111% khoản chi phí khác tăng, đồng thời giá bán tôm và kết quả nghiên cứu của Phạm Minh Tứ (2015), thương phẩm giảm so với năm 2017, từ 120.000 - lợi nhuận bình quân là 7,78 ± 1,8 triệu đồng/ha, tỷ 140.000 đồng/kg xuống còn 90.000 - 110.000 đồng/kg. suất lợi nhuận 63%. Nhìn chung, mô hình nuôi chi Điều đó làm cho tỷ suất lợi nhuận mang lại từ mô phí đầu tư thấp, sản phẩm mang lại từ mô hình này hình tăng không đáng kể, mặc dù năng suất nuôi tuy chưa cao, nhưng đã phần nào đáp ứng được yêu tăng mạnh. Kết quả này tương đương kết quả khảo cầu về chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn về vệ sinh sát của Dương Nhựt Long và cộng tác viên (2016), an toàn thực phẩm, do hộ dân không sử dụng thuốc trong điều kiện ở tỉnh Bạc Liêu, lợi nhuận trung hóa chất trong quá trình nuôi. Năm 2017 Năm 2019 Hình 1. Tỷ lệ (%) các chi phí của mô hình nuôi 2 Bảng 4. Hiệu quả tài chính của tôm càng xanh nuôi Y2 = 9,0 + 85,1X1 + 31,1X2 (R = 0,847) trong mô hình xen canh với lúa Trong đó: Y2: Năng suất tôm nuôi 2019 (kg/ha); Nội dung Đơn vị tính Năm 2017 Năm 2019 X1: ức ăn (0: không cho ăn; 1: cho ăn); X2: Mật độ. Tổng chi triệu đồng/ha 6,9 ± 1,8a 9,3 ± 1,6b Kết quả thể hiện ở phương trình Y1 và Y2 cho Tổng thu triệu đồng/ha 13,5 ± 5,0a 19,1 ± 8,8b thấy, trong các yếu tố như diện tích nuôi, tuổi lao Lợi nhuận triệu đồng/ha 6,6 ± 3,7a 9,9 ± 7,6a động, kinh nghiệm nuôi, mức nước trên ruộng, Tỷ suất mật độ, thức ăn, ương dưỡng và thời gian nuôi thì % 91,3 ± 41,9a 99,1 ± 72,4a lợi nhuận yếu tố mực nước trong ruộng nuôi, cho ăn và ương Ghi chú: Số liệu trong cùng một hàng theo sau bởi các dưỡng tôm trước khi đưa ra ruộng nuôi là các nhân chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống tố ảnh hưởng chính đến năng suất tôm nuôi. Trong kê (p > 0,05). điều kiện khảo sát, giả định rằng khi các yếu tố khác không thay đổi, việc gia tăng mức nước lên 0,1 m 3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và hiệu giúp năng suất tăng lên tương ứng 16,4 kg/ha. Đồng quả tài chính mô hình nuôi tôm càng xanh xen thời tôm được bổ sung thức ăn trong quá trình nuôi canh với lúa giúp năng suất tăng lên 25,3 - 85,1 kg/ha so với nuôi 3.4.1. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất không cho ăn. Bên cạnh đó, việc ương dưỡng tôm mô hình nuôi tôm càng xanh trong ao trước khi thả ra ruộng giúp năng suất tăng Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nuôi TCX lên 26,1 kg/ha so với không ương tôm. Năm 2019, do trong mô hình được thể hiện qua phương trình Y1 mức nước trên trảng ruộng và điều kiện ương dưỡng và Y2: tôm của các hộ nuôi được cải thiện so với năm 2017 2 Y1 = 1,5 + 16,4X1 + 25,3X2 + 26,1X3 (R = 0,902) (Bảng 3) nên mức nước và ương giống không còn ảnh hưởng nhiều đến năng suất, tuy nhiên mật độ Trong đó: Y1: Năng suất tôm nuôi năm 2017 (kg/ha); thả nuôi gia tăng nên mật độ trở thành nhân tố ảnh X1: Mức nước (m); X2: Thức ăn (0: không cho ăn; 1: cho ăn); X3: Ương (0: không ương; 1: ương). hưởng chính đến năng suất mô hình. 118
  6. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 3.4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả 3.5. Những thuận lợi và khó khăn tài chính mô hình Hầu hết hộ nuôi cho rằng thuận lợi của mô hình Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nuôi TCX nuôi TCX là có diện tích mặt nước lớn (Hình 2). trong mô hình được thể hiện qua phương trình Y3 Bên cạnh đó, có 83 - 87% số hộ cho rằng ruộng nuôi và Y4: được thiết kế đơn giản, ruộng nuôi được sử dụng từ 2 ruộng nuôi tôm sú, khá phù hợp cho hoạt động của Y3 = 3,1X1 + 2,2X2 – 2,2 (R = 0,909) mô hình nuôi TCX xen canh lúa trong mùa mưa và Trong đó: Y3: Lợi nhuận năm 2017 (triệu đồng/ha); X : ức ăn (0: không cho ăn; 1: cho ăn); X : Ương nuôi tôm sú trong mùa khô, có thể tận dụng được 1 2 diện tích mặt nước và thức ăn tự nhiên sẵn có trong (0: không ương; 1: ương). ruộng lúa để phát triển mô hình theo hướng bền Y = 8,6X – 9,2 (R2 = 0,783) 4 vững. Có 80 - 87% số hộ nhận định kỹ thuật sản xuất Trong đó: Y4: Lợi nhuận năm 2019 (triệu đồng/ha); của mô hình tương đối đơn giản, dễ áp dụng. Ngoài X: ức ăn (0: không cho ăn; 1: cho ăn). ra, 70 - 77 hộ nuôi cho biết khi nuôi TCX không xuất Kết quả từ phương trình (Y3) cho thấy, thời điểm hiện bệnh trong suốt quá trình nuôi, 27 - 30% số năm 2017 việc bổ sung thức ăn trong quá trình nuôi hộ còn lại chưa nắm được quy trình phòng và trị và ương dưỡng tôm trong ao trước khi thả ra ruộng bệnh cho tôm, chủ yếu là đóng rong và đen mang. là hai nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của mô Tuy nhiên, mô hình cũng gặp không ít khó khăn nhất hình, việc bổ sung thức ăn cho tôm tăng lợi nhuận là vấn đề về đầu ra của sản phẩm, thường bị thương lên 3,1 triệu đồng/ha so với nuôi không cho ăn. Bên lái ép giá (chiếm 77%), số lượng và chất lượng tôm cạnh đó, việc ương dưỡng tôm trong ao trước khi giống chưa được đảm bảo, trong khi đó nguồn giống thả ra ruộng giúp tăng lợi nhuận 2,2 triệu đồng/ha nhân tạo mua từ tỉnh khác với giá cao (chiếm 73%). so với không ương tôm (giả định rằng khi các yếu tố Bên cạnh đó, có 53 - 60% số nông hộ được khảo sát khác không thay đổi). Phương trình (Y4) cho thấy, cho rằng thu hoạch tôm gặp nhiều khó khăn do chi do các chỉ tiêu kỹ thuật năm 2019 được cải thiện phí lao động tăng và thiếu nhân công lao động thời hơn (Bảng 3) so với năm 2017 nên yếu tố chính ảnh vụ khi thu hoạch. Những thuận lợi và khó khăn của hưởng đến hiệu quả mô hình là việc bổ sung thức mô hình không có nhiều thay đổi ở hai đợt khảo sát ăn cho tôm, khi cho tôm ăn giúp lợi nhuận tăng lên ngoại trừ yếu tố môi trường nước. Năm 2017 môi 8,6 triệu đồng/ha so với không cho ăn, kết quả này trường nước khá thuận lợi cho nuôi TCX với độ tăng so với năm 2017. Kết quả phân tích từ phương mặn dao động từ 0 - 6‰, tuy nhiên năm 2019 độ trình (Y3) và (Y4) cho thấy, việc bổ sung thức ăn mặn tăng cao vào cuối vụ nuôi (nước ở kênh cấp trong quá trình nuôi và ương dưỡng tôm trong ao tăng đến 20‰) gây nhiều khó khăn cho người nuôi trước khi thả ra ruộng là hai nhân tố quyết định đến do không thay nước được cho ruộng nuôi nên phải hiệu quả tài chính mô hình nuôi. thu hoạch sớm. Hình 2. uận lợi và khó khăn trong nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa 119
  7. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ rosenbergii De Man, 1879) nuôi trong môi trường nước lợ. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Cần ơ. 4.1. Kết luận Huỳnh Kim Hường, Lê Quốc Việt, Đỗ ị anh Mô hình nuôi xen canh TCX với lúa năm 2019 Hương và Trần Ngọc Hải, 2016. Phân tích khía cạnh đã có nhiều cải tiến kỹ thuật so với năm 2017, kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm mực nước trên trảng tăng, mật độ thả nuôi tăng từ càng xanh - lúa luân canh với tôm sú ở vùng nước 1,6 ± 0,7 con/m2 lên 1,9 ± 0,8 con/m2, số hộ cho tôm lợ tỉnh Bạc Liêu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học ăn hoặc bổ sung thức ăn ban đầu cho tôm từ 23,3% Cần ơ, (43): 97-105. lên 56,7%, số lần thay nước tăng từ 2,5 lần/vụ lên 5,1 Lý Văn Khánh và Võ Nam Sơn, 2016. Hiện trạng kỹ lần/vụ. Kết quả khối lượng, tỷ lệ sống, năng suất tôm thuật và tài chính của mô hình nuôi tôm càng xanh nuôi tăng lên đáng kể và lợi nhuận cùng tỷ suất lợi ở huyện ới Bình, tỉnh Cà Mau. Trong Kỷ yếu hội nhuận được cải thiện. Cho tôm ăn và mật độ nuôi là nghị Khoa học trẻ thủy sản toàn quốc lần thứ VII, hai nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, 9/2016. của mô hình nuôi TCX xen canh với lúa. Độ mặn TP HCM: 316-324. nước kênh cấp cho ruộng nuôi vào cuối vụ tăng cao Phạm Anh Tuấn, Trần Ngọc Hải, Võ Nam Sơn và Trịnh ảnh hưởng đến thời gian nuôi tôm càng xanh. Quang Tú, 2016. Hiện Trạng Phát Triển Tôm - Lúa Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Báo cáo kết quả 4.2. Đề nghị dự án tăng cường năng lực cộng đồng thích ứng với Cần nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mặn cao biến đổi khí hậu vùng Đồng Bằng Sông MEKONG đến năng suất và hiệu quả tài chính của mô hình (USAID Mekong ARCC): 67 trang. nuôi TCX xen canh với lúa ở vùng nước lợ. Phạm Minh Tứ, 2015. ực nghiệm mô hình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) - lúa luân LỜI CẢM ƠN canh với tôm sú (Penaeus monodon) ở tỉnh Bạc Liêu. Đề tài này được tài trợ bởi Dự án Nâng cấp Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Cần ơ. Trường Đại học Cần ơ VN14-P6 bằng nguồn vốn Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau, vay ODA từ chính phủ Nhật Bản. Xin gửi lời cảm ơn 2018. Báo cáo tình hình phát triển sản xuất nuôi tôm nông hộ ở xã ới Bình, huyện ới Bình, tỉnh Cà thâm canh, siêu thâm canh, nuôi tôm 02 giai đoạn và Mau đã hỗ trợ nhóm tác giả thực hiện đề tài. nhân rộng các mô hình có hiệu quả trên địa bàn tỉnh Cà Mau, ngày truy cập 09/11/2020. Địa chỉ: https:// TÀI LIỆU THAM KHẢO songoaivu.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page= Dương Nhựt Long, Lam Mỹ Lan, Nguyễn Hoàng trangchitiet&urile=wcm%3Apath%3A/camauli- anh, Võ Hoàng Liêm Đức Tâm, Quách Hoàng brary/camauofsite/trangchu/thamluannghiencuu/ Lê Khánh và Nguyễn Văn Lưu, 2018. Phát triển thamluanhoinghitlnc/dryrt887f. và nâng cao hiệu quả mô hình lúa - tôm ở huyện Tổng cục ủy sản, 2014. Hội thảo bàn giải pháp ới Bình, tỉnh Cà Mau. Báo cáo tổng kết dự án: 136 phát triển sản xuất, tiêu thụ cá rô phi và tôm càng trang. xanh. Ngày truy cập 17/10/2018. Địa chỉ: http:// Dương Nhựt Long, Nguyễn Văn Trận, Lam Mỹ Lan, www.agromonitor.vnhoi-thao-ban-giai-phap-phat- Trần Văn Hận, Phan Hải Đăng, Trương Hữu Mến, trien-san-xuat tieu-thu-ca-ro-phi-va-tom-cang- Lê Hoàng Bảo và Võ Văn Khánh, 2016. Xây dựng xanh_2944.html/. thành công mô hình Lúa - Tôm trong ô đê bao khép Ahmed, N., Bunting. W.S., S. Rahman and C.J. kín ở thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Báo cáo tổng kết Garforth, 2014. Community-based climate change dự án: 185 trang. adaptation strategies for integrated prawn-fish-rice Hồ anh ái, 2011. Khảo sát hiện trạng và thực nghiệm farming in Bangladesh to promote social-ecological nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) kết resilience. Reviews in Aquaculture, (6): 20-35. hợp trong ruộng lúa tại huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc New, M.B., 2002. Farming freshwater praw: a manual for Liêu. Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Cần ơ. the culture of the giant river prawn Macrobrachium Huỳnh Kim Hường, 2016. Nghiên cứu hiện trạng và một rosenbergii. FAO Fisheries Techmical Paper 428: số đặc điểm sinh học tôm càng xanh (Macrobrachium 212 pp. 120
  8. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 05(126)/2021 Status of freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii) culture integrated with rice in brackish water area in Ca Mau province Vu Hoàng Liem Duc Tam, Duong Nhut Long, Nguyen i Ngoc Anh, Tran Ngoc Hai, Lam My Lan Abstract Households culturing giant freshwater prawn in the model integrated with rice in oi Binh district, Ca Mau province were interviewed to identify factors aecting the eciency of prawn farming for improving technical and nancial eciency. Techniques for prawn culture in 2019 were improved in comparison to 2017; the water level increased from 0.37 m to 0.44 m; the stocking density increased from 1.6 ± 0.7 to 1.9 ± 0.8 prawns/m2; the number of households feeding shrimp or supplementing feed increased from 23.3% to 56.7%; the number of water changes increased from 2.5 to 5.1 times/season. e result showed that, weight, survival rate, yield and return on investment from freshwater prawn farming were improved. Feeding and stocking density are the two main factors aecting prawn yield and nancial eciency of this farming model. e salinity level of the canal water supplied to the eld at the end of growing season aects the duration of freshwater prawn culture. Keywords: Freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii), integration, brackishwater, Ca Mau province Ngày nhận bài: 21/4/2021 Người phản biện: TS. Đinh ị ủy Ngày phản biện: 15/5/2021 Ngày duyệt đăng: 04/6/2021 HIỆN TRẠNG NUÔI TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii) KẾT HỢP TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei) VÀ TÔM SÚ (Penaeus monodon) TẠI TỈNH KIÊN GIANG Lý Văn Khánh1, Nguyễn ị úy Nga2, Ngô Văn Út3 TÓM TẮT Nghiên cứu hiện trạng nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) kết hợp tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) và tôm sú (Penaeus monodon) tại tỉnh Kiên Giang được thực hiện nhằm chọn một mô hình nuôi tốt nhất ở vùng U Minh ượng, tỉnh Kiên Giang. Nghiên cứu thực hiện từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2020 thông qua phỏng vấn trực tiếp kết quả nuôi năm 2019 của 96 hộ dân nuôi tôm càng xanh kết hợp tôm thẻ chân trắng và tôm sú ở vùng U Minh ượng, tỉnh Kiên Giang. Kết quả cho thấy năng suất đạt cao nhất khi nuôi tôm càng xanh đực cùng với tôm thẻ chân trắng (tổng năng suất là 1,3 tấn/ha/vụ, trong đó năng suất tôm càng xanh đực là 0,7 tấn/ha/vụ và tôm thẻ chân trắng là 0,6 tấn/ha/vụ); năng suất đạt thấp nhất khi nuôi tôm càng xanh thường kết hợp tôm thẻ chân trắng (tổng năng suất là 0,6 tấn/ha/vụ, trong đó năng suất tôm càng xanh thường là 0,3 tấn/ha/vụ và tôm thẻ chân trắng là 0,3 tấn/ha/vụ). Tổng chi phí nuôi cao nhất là tôm càng xanh thường kết hợp tôm thẻ chân trắng và tôm sú với 73,3 triệu đồng/ha/vụ và thấp nhất là tôm càng xanh thường kết hợp tôm thẻ chân trắng với 35,5 triệu đồng/ha/vụ. Tổng thu cao nhất khi nuôi tôm càng xanh đực kết hợp tôm thẻ chân trắng với 160 triệu đồng/ha/vụ và thấp nhất là tôm càng xanh thường kết hợp tôm thẻ chân trắng với 68,6 triệu đồng/ha/vụ. Khi nuôi tôm càng xanh đực kết hợp tôm thẻ chân trắng thì có lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cao nhất (98,4 triệu đồng/ha/vụ, 1,7 lần) và tôm càng xanh đực kết hợp tôm thẻ chân trắng và tôm sú có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất là 1,0 lần. Từ khóa: Tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng, tôm sú, nuôi kết hợp, tỉnh Kiên Giang I. ĐẶT VẤN ĐỀ (Nguyễn anh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều sông, hồ, Ngoài các đối tượng nuôi truyền thống như tôm ruộng, đầm hay cả các thủy vực nước lợ, khu vực sú, tôm thẻ chân trắng, thì tôm càng xanh cũng là cửa sông ven biển được xem là nơi có tiềm năng phát một trong những đối tượng nuôi chủ lực hiện nay, triển rất lớn cho việc nuôi trồng thuỷ sản nước ta tập trung ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Cần 1 Khoa ủy sản, Trường Đại học Cần ơ; 2 Trung tâm khuyến nông Kiên Giang 3 Chi cục thủy sản Kiên Giang 121