Tiếp tục đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp tục đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tiep_tuc_day_nhanh_qua_trinh_tai_cau_truc_he_thong_ngan_hang.pdf
Nội dung text: Tiếp tục đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập
- TIẾP TỤC ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP GS.TS. Phạm Quang Trung1 TS. Nguyễn Thị Diệu Chi2 Tóm tắt Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài và đầy khó khăn. Sau 4 năm, công cuộc tái cấu trúc đã đem lại cho hệ thống ngân hàng Việt Nam một diện mạo mới, ổn định và bền vững hơn. Đến nay, về cơ bản, Đề án tái cấu trúc và xử lý nợ xấu theo Quyết định 254 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2011 - 2015 đã được triển khai theo đúng mục tiêu, định hướng và lộ trình, đồng thời đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thách thức phía trước còn rất nhiều. Bài viết đề cập tới thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam, nêu bật những thành tựu đạt được từ công cuộc tái cấu trúc, chỉ ra những khó khăn còn phải giải quyết. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số đề xuất, khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Từ khóa: Hệ thống ngân hàng, hội nhập, tái cấu trúc 1. Đề dẫn Tại bất kỳ quốc gia nào, hệ thống ngân hàng luôn được coi là đầu tàu kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế vĩ mô. Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được các chỉ số kinh tế khả quan, trong đó phải kể tới vai trò nền tảng của hệ thống ngân hàng. Cùng với những thành tựu kinh tế vĩ mô, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới với việc đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng hoạt động, đặc biệt phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng dịch vụ cung ứng. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển nhanh đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam bộc lộ nhiều vấn đề như chất lượng tài sản kém, khó khăn về thanh khoản, chất lượng lợi nhuận thấp, yếu kém về quản trị và quản lý rủi ro. Những vấn đề này nếu không được can thiệp và xử lý kịp thời sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ tới nền 1, 2 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Email của tác giả chính: trungpq@neu.edu.vn 238
- kinh tế vĩ mô nói chung và mức độ ổn định của hệ thống tài chính quốc gia nói riêng. Do vậy, công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quản lý và chủ trì trực tiếp, điều này được xác định ngay từ trong đề án được ban hành kèm Quyết định số 254/QÐ-TTG, ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Đề án 254). Đề án này đã đưa ra các mục tiêu chung đến năm 2020 và đưa ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2015, xác định rõ các quan điểm, định hướng, giải pháp và lộ trình thực hiện tái cơ cấu các Tổ chức tín dụng (TCCD) Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015. Đến nay, về cơ bản Đề án 254 đã đạt được một số kết quả nhất định trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Bài viết tập trung nêu thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, những thành tựu đạt được từ công cuộc tái cấu trúc hệ thống giai đoạn 2011 - 2015, chỉ ra những thách thức của hệ thống ngân hàng để ngày càng phù hợp hơn với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc hệ thống, hướng tới một hệ thống ngân hàng là đầu tàu vững mạnh cho nền kinh tế vào năm 2020. 2. Khái quát về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Trong các hoạt động tái cấu trúc của nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là một trong những nội dung quan trọng, góp phần đảm bảo thực hiện thành công công cuộc tái cấu trúc tổng thể đó. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Theo Ngân hàng Thế giới (1998) “Tái cấu trúc ngân hàng bao gồm một loạt các biện pháp, được phối hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh toán quốc gia và khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đồng thời góp phần xử lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống tài chính, là nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng”. Bên cạnh đó, Claudia Dziobek và Ceyla Pazabasioglu (1998) cho rằng “Tái cấu trúc ngân hàng là biện pháp hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao gồm phục hồi khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng để làm tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính, đồng thời góp phần khôi phục lòng tin của công chúng”. Với quan điểm này, thì hoạt động tái cấu trúc ngân hàng sẽ gồm cả hoạt động tái cấu trúc tài chính, tái cấu trúc hoạt động và thực hiện đảm bảo an toàn hệ thống. Trong đó, hoạt động tái cấu trúc tài chính hướng tới phục hồi khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng thông qua các biện pháp như tăng vốn, giảm nợ, hoặc nâng cao giá trị tài sản của các tổ chức tài chính trên thị trường. Tái cấu trúc hoạt động hướng tới mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận của tổ chức tài chính thông qua các chiến lược hoạt động, nâng cao 239
- hiệu quả và năng lực quản trị, đồng thời đảm bảo an toàn cho công tác hoạch toán kế toán, và cải thiện năng lực thẩm định tín dụng. Bên cạnh đó, đảm bảo an toàn hệ thống lại hướng tới vấn đề giám sát và đưa ra các quy tắc thực hiện nhằm cải thiện năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng dưới vai trò là trung gian tài chính. Như vậy, có thể thấy hoạt động tái cấu trúc hệ thống ngân hàng có thể được hiểu theo nghĩa rộng sẽ bao gồm tất cả các biện pháp tái cấu trúc liên quan đến từng ngân hàng và liên quan đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Đây không phải là một hoạt động định kỳ, thường xuyên, mà nó chỉ được tiến hành khi nền kinh tế quốc gia cũng như hoạt động của hệ thống ngân hàng đang có vấn đề cần thay đổi. Từ những quan điểm trên, có thể rút ra Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thực chất là các biện pháp được sử dụng để xử lý những khiếm khuyết vốn có của hệ thống ngân hàng, những khiếm khuyết này có thể là nguyên nhân gây nên sự đổ vỡ của toàn hệ thống, nhằm hướng tới duy trì mức độ ổn định, hiệu quả của các trung gian tài chính, trong đó nhấn mạnh tới công tác đảm bảo chức năng thanh toán, tín dụng, và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. 3. Bức tranh hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn tái cấu trúc Từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới hệ thống ngân hàng từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, đến nay hệ thống ngân hàng đã có những bước tiến phát triển vượt trội cả về số lượng và chất lượng. Quy mô tổng vốn tài sản của các ngân hàng đã tăng lên gấp nhiều lần, bên cạnh đó, trình độ quản trị và công tác điều hành hệ thống cũng được nâng lên, gần hơn với các thông lệ và quy chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được những thành tựu đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải trải qua những giai đoạn tái cấu trúc. Trong thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn 2011 đến 2015, hệ thống ngân hàng đã khẳng định vị thế là đầu tàu của nền kinh tế khi luôn đảm bảo sẵn sàng đáp ứng các nhu vốn, tài chính. Lượng tiền cung ứng từ các ngân hàng thương mại (NHTM) với sự hỗ trợ từ NHNN luôn đảm bảo tích cực ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối, kiểm soát lạm phát, hài hòa các mục tiêu giảm lãi suất, tăng trưởng tín dụng hợp lý, hỗ trợ các TCTD đầu tư trái phiếu chính phủ và xử lý nợ xấu. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đến năm 2016 về cơ bản Việt Nam sẽ không còn ngân hàng yếu kém, đưa nợ xấu ngưỡng dưới 3%. Thực hiện chủ trương này, hơn 4 năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam dưới sự chỉ đạo trực tiếp của NHNN đã triển khai mạnh mẽ và quyết liệt Đề án 254 “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” và đạt được một số thành tựu khả quan. 240
- Về cấu trúc của hệ thống Tính tới 31/3/2016, hệ thống ngân hàng Việt Nam có 34 NHTM, 5 ngân hàng liên doanh và 5 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài. Số lượng các NHTM đã giảm từ con số 42 (2011) xuống còn 34 (2015). Bên cạnh đó cơ cấu sở hữu, và loại hình hoạt động cũng được thay đổi để phù hợp hơn với cơ chế thị trường và tiến trình hội nhập quốc tế. Hiện nay mặc dù ít các ngân hàng hơn nhưng số các ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước sở hữu 100% vốn lại tăng từ 1 ngân hàng (Agribank) lên 4 ngân hàng sau khi NHNN đứng ra mua lại GPBank, VNCB và OceanBank với giá 0 đồng như một hình thức xử lý bắt buộc. Ngoài các ngân hàng yếu kém này, hầu hết các ngân hàng khác đều đã và đang trải qua những cuộc mua bán sáp nhập (M&A) tự nguyện. Ngoài ra, 8 thương hiệu ngân hàng không còn tồn tại gồm: Tín Nghĩa, Đệ Nhất, Habubank, Western Bank, Đại Á, Đại Tín, Phương Nam, MHB, MDBank, PGBank Hiện nay một số NHTM đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, đặc biệt trong kế hoạch cổ phần hóa, đi đầu là Vietcombank, Vietinbank, kế đó là 15 NHTMCP đã có nhà đầu tư chiến lược với các tỷ lệ nắm giữ cổ phần khác nhau. Sự thay đổi cơ cấu sở hữu ngân hàng đã góp phần không nhỏ tạo điều kiện để các ngân hàng tăng vốn tài chính, nâng cao khả năng quản trị rủi ro, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng. Về quy mô vốn Quy mô vốn và năng lực tài chính của toàn hệ thống nhìn chung đã được củng cố và tăng cường đáng kể trong thời gian qua. Biểu đồ 1. Quy mô vốn điều lệ các ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2015 241
- Nguồn: Báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng 2015 Sau khi mua lại bắt buộc và chuyển đổi mô hình, vốn điều lệ của Ngân hàng Xây dựng (CBBank) là 3.000 tỷ đồng - mức tối thiểu theo quy định hiện hành. Vốn điều lệ của Ngân hàng Dầu khí (GP.Bank) là 3.018 tỷ đồng, Ngân hàng Đại Dương (Oceanbank) là 4.000 tỷ đồng. Tới thời điểm này, Vietinbank vẫn là ngân hàng dẫn đầu hệ thống về vốn điều lệ với 37.234 tỷ đồng, kế đó BIDV với 31.481 tỷ đồng, sau khi nhận sáp nhập với MHB. Nếu xét về số vốn điều lệ, có thể chia hệ thống ngân hàng thành làm 3 nhóm: nhóm 1 với 9 ngân hàng có vốn lớn hơn 10.000 tỷ đồng, nhóm 2 gồm 10 ngân hàng có vốn từ 5.000 - 10.000 tỷ đồng và nhóm 3 là còn lại với 15 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 5.000 tỷ đồng. Hiện trong hệ thống có 9 ngân hàng có vốn tròn hoặc nhỉnh hơn 3.000 tỷ đồng bao gồm: BaoVietBank, KienLongBank, NamABank, PGBank, VietcapitalBank, CBBank, NCB, GPBank. Bên cạnh đó năm 2015, hàng loạt ngân hàng tăng vốn thành công như VPBank tăng từ 6.348 (2014) lên 8.056 tỷ đồng (2015). BacABank cũng đã tăng vốn thành công lên 4.400 tỷ đồng. Một số ngân hàng khác cũng đang triển khai tăng vốn như MBBank lên 16.000 tỷ đồng, VietABank lên 4.200 tỷ đồng, và NamABank lên 4.000 tỷ đồng. Về mức tăng trưởng tín dụng Nhìn chung mức tăng trưởng tín dụng năm sau đạt cao hơn năm trước. Tăng trưởng tín dụng cả năm 2015 đạt 18% , cao hơn mức tăng cùng kỳ các năm 2011 - 2014. Bên canh đó, dòng vốn tín dụng tiếp tục được phân bổ hợp lý, hướng tới các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhất là các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ. Trong đó, tín dụng dành cho lĩnh vực công nghệ cao tăng 44,78%, nông nghiệp nông thôn tăng 10,8%. Ngoài ra, các chương trình, chính sách tín dụng ngành, dành cho người nghèo và các đối tượng chính sách vẫn tiếp tục được hệ thống ngân hàng đẩy mạnh triển khai. Biểu đồ 2. Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2011 đến 2015 242
- 25.00% 20.00% 15.00% 10.00% 5.00% 0.00% 2011 2012 2013 2014 2015 E2016 Nguồn: Báo cáo ngành ngân hàng của Công ty chứng khoán Bảo Việt Bên cạnh đó, với sự phục hồi dần của hệ thống ngân hàng, và tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng dần lên, các TCTD Việt Nam trong năm 2016 tiếp tục kỳ vọng về tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn năm 2015, đạt bình quân 21,4%. Kỳ vọng này cho thấy, các TCTD đang rất lạc quan về sự phục hồi của nền kinh tế và khả năng hấp thụ vốn vay cũng như triển vọng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2016. Về tình trạng nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tín dụng của phần đông các TCTD đều được nhận định giảm rõ rệt trong năm 2015 và kỳ vọng tiếp tục giảm trong năm 2016. Tính đến cuối năm 2015, trên 90% TCTD đã hoàn thành mục tiêu đưa nợ xấu về mức dưới 3%, chỉ có một vài TCTD thuộc nhóm các công ty tài chính và cho thuê tài chính nhận định tỷ lệ nợ xấu của đơn vị mình còn ở mức trên 3%. Biểu đồ 3. Nợ xấu toàn hệ thống 2011 đến 2015 140,000 4.08% 120,000 3.61% 3.25% 100,000 3.10% 80,000 2.50% 60,000 40,000 20,000 0 2011 Quy2012 mô nợ xấu2013 2014 2015 Tỷ lệ nợ xấu (%) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Đến 31/12/2015, VAMC đã mua được 107 nghìn tỷ đồng, giá trị trái phiếu 99.180 nghìn tỷ đồng. Lũy kế từ năm 2013 đến hết năm 2015, tổng nợ xấu VAMC đã 243
- mua là 245 nghìn tỷ đồng, dư nợ gốc với số trái phiếu phát hành là 207 nghìn tỷ đồng góp phần đưa tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2015 chỉ còn hơn 2,5%. Bên cạnh đó, đến cuối năm 2015, VAMC đã phát mại tài sản đảm bảo, thu hồi nợ đạt 17.780 nghìn tỷ đồng. Kết quả từ tháng 10/2013 đến hết năm 2015, tổng số nợ thu hồi, xử lý đạt 22.780 nghìn tỷ đồng, đã xử lý được hơn 9% tính trên nợ gốc, còn tính trên trái phiếu đặc biệt đạt trên 10%. Về năng lực quản trị Nhìn chung trong giai đoạn tái cấu trúc vừa qua, năng lực quản trị điều hành của NHTM Việt Nam đã được nâng lên rõ rệt. Nhiều TCTD đã áp dụng mô hình quản trị hiện đại (quản lý rủi ro, quản lý tín dụng, quản lý tài sản nợ), tiến gần hơn đến mô hình quản lý của các ngân hàng trên thế giới. Cơ cấu tổ chức của bộ máy hội đồng quản trị, bộ máy điều hành, các phòng ban tại các ngân hàng cũng có xu hướng được cơ cấu, sắp xếp lại nhằm phân định trách nhiệm rõ ràng và chuyên nghiệp hơn. Do vậy, công tác quản trị, điều hành tổ chức đã bước đầu ảnh hưởng nhất định tới kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong thời gian qua. Như vậy, giai đoạn 1 (2011 - 2015), NHNN đã chọn hướng đi đúng trong việc xử lý các vấn đề tồn tại trong hệ thống ngân hàng. Giai đoạn 2 (2016 - 2020), tiếp tục xử lý những vấn đề còn tồn đọng, củng cố sự ổn định, đồng thời tạo nền tảng để hệ thống bước vào giai đoạn phát triển mới, giai đoạn hậu tái cấu trúc. 3. Thành tựu của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, và trực tiếp là NHNN, công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được một số thành tựu khả quan. Một là, mặt bằng lãi suất thị trường đã được kiểm soát, có xu hướng giảm bền vững. Nhìn chung, lãi suất thị trường đã giảm đáng kể, trong đó, lãi suất huy động giảm mạnh dao động trong khoảng 5 – 7,5%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 25% xuống còn trên 10%/năm. Nhìn lại cả quá trình trong bốn năm qua, trong năm 2011, tình hình lãi suất của hệ thống ngân hàng có lúc tăng lên nhanh chóng, ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề thanh khoản của các NHTM, cũng như tác động tiêu cực tới các hoạt động của nền kinh tế. Do đó, với những giải pháp tái cấu trúc hệ thống quyết liệt của Chính phủ và các cơ quan chức năng, từ tháng 2/2012, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động đã giảm rõ rệt và cơ bản ổn định vào tháng 6/2013. Đối với kỳ hạn 12 tháng của VND, lãi suất bình quân liên ngân hàng năm 2015 phổ biến ở mức 5,4 - 244
- 6,5%/năm, năm 2014 phổ biến ở mức 6,0 - 7,3%/năm, năm 2013 ở mức 9,5 - 11,5%/năm. Đây là những mức thấp so với những năm trước đó (năm 2011 dao động mạnh ở mức 13 - 15% và năm 2012 ở mức 8 - 13%). Hai là, tỷ giá hối đoái được duy trì ổn định, giảm đáng kể mức chênh lệch giữa tỷ giá thị trường chính thức và tỷ giá thị trường chợ đen. Chính sách điều hành tỷ giá thời gian qua được xem là điểm sáng trong việc giữ vững ổn định thị trường ngoại hối của NHNN. Sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chợ đen và thị trường chính thức dần được thu hẹp. Nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân được đáp ứng do các nguồn ngoại tệ được tập trung vào các TCTD. Với chính sách chống đô la hóa của NHNN trong việc giảm lãi suất tiền gửi Đô la Mỹ về mức 0% đối với các tổ chức và cá nhân, đã góp phần thay đổi thói quen và tâm lý nắm giữ đồng Đô la Mỹ của người dân Việt Nam. Qua đó, vị thế của VND được đảm bảo, niềm tin của giới đầu tư nước ngoài cũng như trong nước tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, ngay từ đầu mỗi năm, NHNN cũng chủ động công bố về mục tiêu điều hành tỷ giá trong năm để định hướng thị trường, thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ trên thị trường. Từ quý IV/2011, để kiểm soát kỳ vọng, góp phần ổn định tỷ giá, NHNN thường xuyên chủ động đưa ra các cam kết về việc duy trì ổn định tỷ giá trong từng thời kỳ với mức biến động 1% giai đoạn cuối năm 2011 và 1 - 2%/năm cho các năm từ 2012 - 2015. Tuy có giai đoạn thị trường đã diễn ra những biến động, nhưng những biến động đó đã được NHNN dự báo và vẫn nằm trong kế hoạch và chủ động đề ra ngay từ đầu năm 2013, đó là ổn định tỷ giá trong biên độ tăng không quá 2 - 3%. Vào tháng 8/2015, NHNN cũng đã chủ động thay đổi cách thức điều hành tỷ giá với cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm. Theo đó, tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hằng ngày, có điều chỉnh tăng, giảm và giá niêm yết của các TCTD vẫn theo biên độ dao động +/-3%. Tỷ giá trung tâm do NHNN công bố hằng ngày được điều chỉnh tăng giảm dựa trên 3 cơ số tham chiếu, đó là: diễn biến tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; diễn biến đồng tiền của các nước có quan hệ thương mại và đầu tư lớn đối với Việt Nam; các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ. Với những thay đổi cách thức điều hành tỷ giá này đã thể hiện bước đi rất chủ động, 245
- nắm bắt thực tiễn thị trường để thực hiện chủ trương xuyên suốt của NHNN là ổn định thị trường ngoại tệ, nâng cao vị thế của VND, giảm tình trạng đô la hóa theo hướng chuyển dần quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ. Ba là, vấn đề sở hữu chéo, lũng đoạn thị trường tài chính về cơ bản đã được xử lý Trong giai đoạn 2011 - 2015, Chính phủ, NHNN và các các cơ chức năng đã đưa ra nhiều biện pháp và thực hiện một cách quyết liệt nhằm kiểm soát chặt chẽ quan hệ sở hữu trong hệ thống. Các biện pháp này tập trung vào việc kiểm soát hoạt động cho vay như cho vay giữa những cá nhân, tổ chức liên quan, cho vay với mục đích đầu cơ Bên cạnh đó, với quyết sách gắn trách nhiệm của nhà quản trị ngân hàng, cổ đông với kết quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính đã giúp minh bạch hơn hoạt động tài chính của các tổ chức tài chính ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra, nhiều vụ án hình sự lớn liên quan tới lĩnh vực tài chính ngân hàng đang được điều tra và xử lý đã cho thấy việc Chính phủ và NHNN quyết liệt trong việc loại bỏ sở hữu chéo và lợi dụng ngân hàng để cho vay sân sau ra khỏi hệ thống tài chính. Bốn là, công tác quản trị rủi ro hệ thống đã hướng tới thực hiện theo chuẩn quốc tế. NHNN đã bước đầu xây dựng và triển khai lộ trình áp dụng Basel II, đồng thời với việc chuyển sang thực hiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Theo lộ trình, từ tháng 2/2016, 10 ngân hàng gồm BIDV, VietinBank, Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank, Sacombank và VIB đã chính thức bước vào thực hiện thí điểm phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo Basel II. Mặc dù việc triển khai Basel II, cũng như các chuẩn mực tài chính ngân hàng gặp những thách thức không nhỏ, song đây là xu thế tất yếu và buộc các NHTM Việt Nam phải thực hiện trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thậm chí các NHTM Việt Nam còn phải hướng tới các chuẩn mực của Basel III. Trước mắt, theo lộ trình đến năm 2018, cả 10 ngân hàng trên sẽ cơ bản hoàn thành việc áp dụng Basel II, sau đó sẽ mở rộng với các NHTM khác. Năm là, nhiều ngân hàng yếu kém đã xử lý, góp phần lành mạnh hóa hệ thống, phục hồi niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào hệ thống tài chính. Ngay từ cuối năm 2011, các ngân hàng yếu kém có nguy cơ khủng hoảng thanh khoản và đổ vỡ đã được NHNN giám sát chặt chẽ và cũng như có những giải pháp xử lý phù hợp. Một trong những biện pháp đó là sử dụng công cụ mua bán và sáp nhập 246
- (M&A). Bảng 1. Thương vụ M&A trong hệ thống ngân hàng 2011 đến 2015 Năm Hình thức Trước M&A Sau M&A Thực M&A hiện NHTMCP Đệ Nhất, NHTMCP Sài Gòn, 2011 NHTMCP Sài Gòn Hợp nhất NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa NHTMCP Nhà Hà Nội, NHTMCP Sài Gòn - 2012 NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội Sáp nhập Hà Nội NHTMCP Đại Á, NHTMCP Phát triển TP. NHTMCP 2013 Sáp nhập HCM Phát triển TP. HCM NHTMCP Phương Tây, Tổng Công ty Tài 2013 NHTMCP Đại chúng Việt Nam Hợp nhất chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam NHTMCP Nhà Đồng bằng sông Cửu Long, NHTMCP Đầu tư và Phát triển 2015 Sáp nhập NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Việt Nam NHTMCP Công thương Việt Nam, NHTMCP NHTMCP Công thương 2015 Sáp nhập Xăng dầu Petrolimex Việt Nam NHTMCP Phương Nam, NHTMCP Sài Gòn 2015 NHTMCP Sài Gòn Thương Tín Sáp nhập Thương Tín NHTMCP Phát triển Mê Kông, NHTMCP 2015 NHTMCP Hàng Hải Sáp nhập Hàng Hải Ngân hàng Xây Dựng Trở thành các Ngân hàng Mua lại 0 2015 Ngân hàng Đại Dương Ngân hàng Dầu khí TNHH Một thành viên thuộc đồng Toàn cầu sở hữu 100% vốn Nhà nước Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Đối với tái cấu trúc ngân hàng, việc sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng yếu kém là rất quan trọng. Giai đoạn 2012 - 2013 có 8 trong số 9 ngân hàng yếu kém (SCB, Đệ 247
- Nhất, Tín Nghĩa, Habubank, Tienphongbank, Navibank, TrustBank và Western Bank) đã được tái cấu trúc thông qua hoạt động M&A. Năm 2015, tiếp tục có thêm những thương vụ hợp nhất giữa ngân hàng nhỏ, yếu kém vào ngân hàng lớn trên cơ sở tự nguyện và đúng luật, điển hình là sáp nhập giữa BIDV - MHB, MSB - MDB hay VietinBank - PGBank. Chính kết quả thực hiện thành công việc mua lại các ngân hàng thương mại cổ phần với giá 0 đồng đã góp phần phục hồi niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào các quyết sách của Chính phủ trong việc quyết tâm tái cấu trúc hệ thống tài chính, cũng như nền kinh tế. Điều này góp phần đảm bảo quyền lợi của người dân, không gây nên sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng, gắn quyền lợi và trách nhiệm trực tiếp của các thành viên hội đồng quản trị và cổ đông ngân hàng với việc quản lý và quản trị ngân hàng. Sáu là, vấn đề xử lý nợ xấu đã đạt được một số kết quả bước đầu khi đưa mức nợ xấu từ ngưỡng 4,08% (năm 2012) về dưới ngưỡng 2,5% (năm 2015).(Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, 2016) Theo báo cáo báo cáo tài chính của các TCTD năm 2015, hầu hết nợ xấu đều giảm so với năm 2014, xét về tỷ lệ. Đặc biệt, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng BIDV là 1,62%, MB là 1,6%, ACB là 1,32%, VietinBank là 0,91%, Eximbank là 1,85%, SHB là 1,72%, Techcombank là 1,66%, Vietcombank là 2%, và TPBank là 0,4%. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng có sự cải thiện nhất định, nợ quá hạn là 179.501 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn là 4,4% (năm 2014 là 5,3%). Nợ xấu là 119.660 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ 2,5% (năm 2014 là 3,25%). Số nợ xấu được giải quyết chủ yếu thông qua bán cho VAMC. Số nợ bán cho VAMC đến năm 2015 là 243.000 tỷ đồng, tăng so với mức 133.000 tỷ đồng của năm 2014. Có thể thấy, với việc NHNN xác định rõ ràng, đưa ra các giải pháp xử lý nợ xấu kịp thời là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện thành công Đề án 254 về tái cấu trúc hệ thống TCTD thời gian qua. 4. Một số vấn đề đặt ra và đề xuất nhằm tiếp tục thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập Với những nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng, mục tiêu thực hiện thành công Đề án 254, ngành ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015 đã đạt được những thành tựu khả quan. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục xử lý. 248
- Một là, đối với vấn đề nợ xấu Thứ nhất, tốc độ xử lý nợ xấu còn chậm. Trong giai đoạn 2012 - 2015, tổng số nợ xấu TCTD Việt Nam là trên 400 nghìn tỷ đồng. Trong đó 45% được xử lý qua VAMC, 28% xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro, 27% qua các hình thức khác. Tuy nhiên, sau 4 năm hoạt động VAMC mới thu hồi được 8.000 tỷ đồng nợ xấu, trong khi đã mua lại 45% nợ xấu của toàn hệ thống. Qua số liệu nợ xấu và thực trạng xử lý nợ xấu cho thấy, tốc độ xử lý nợ xấu còn chậm, kết quả bán nợ, cũng như tài sản đảm bảo còn khiêm tốn. Nguyên nhân chính của những khó khăn này có thể kể tới là việc VAMC khi không thể tự tiến hành cơ cấu nợ cho khách hàng khi bản thân các TCTD chưa thống nhất. Bên cạnh đó, các TCTD khi thực hiện trong thu giữ tài sản đối với các khoản nợ xấu cũng gặp khó khăn khi chủ tài sản không hợp tác trong việc giao tài sản Ngoài ra, khi tài sản được phát mại cũng mất khá nhiều thời gian về các thủ tục hành chính. Thứ hai, khung pháp lý xử lý tài sản đảm bảo còn thiếu và yếu. Hiện nhiều vấn đề liên quan tới thủ tục tố tụng, thi hành án đối với các khoản nợ xấu còn gặp nhiều khó khăn do hệ thống quy định pháp lý còn nhiều bất cập. Hệ thống văn bản pháp lý chưa quy định đầy đủ về quyền và trách nhiệm giữa các bên trong xử lý nợ. Thêm vào đó, công tác định giá khoản nợ cũng chưa có quy định cụ thể để làm cơ sở xác định giá trị tài sản nợ. Do vậy, việc đấu giá, phát mại một tài sản thường mất rất nhiều thời gian. Tuy nhiên, sâu xa vấn đề ở đây, chính là thị trường mua, bán nợ của Việt Nam chưa phát triển, chưa có cơ chế định giá nhanh, chưa có thị trường mua bán nợ thứ cấp, do đó chưa tận dụng được nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hai là, đối với vấn đề thanh khoản của hệ thống. Nhìn chung, nguy cơ thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn có khả năng xuất hiện trở lại. Sau giai đoạn hoàn thành cơ bản nhiệm vụ tái cấu trúc ngành ngân hàng 2011 - 2015, đến đầu năm 2016 nguy cơ thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Việt Nam lại có dấu hiệu xuất hiện trở lại khi mặt bằng lãi suất tại các NHTM tăng 2% so với mặt bằng 2015. Cuộc đua lãi suất bắt đầu quay trở lại vào cuối năm 2015, nếu như trước đây, cuộc đua lãi suất chỉ ở các ngân hàng nhỏ, thì nay đã có sự tham gia của ngân hàng lớn như BIDV, Vietinbank, VPbank Tại BIDV, lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng lên mức 5,5% so với mức 5,3% trước đó. Với kỳ hạn 9 tháng và kỳ hạn 364 249
- ngày cũng được BIDV điều chỉnh tăng thêm 0,1% lên 5,5% và 6,1%. Vietinbank cũng thực hiện điều chỉnh tăng thêm 0,15%/năm lãi suất tiền gửi tiết kiệm trực tuyến kỳ hạn 3 tháng trở lên so với lãi suất huy động tiền gửi VND thông thường tại quầy. VPBank cũng áp dụng cộng thêm 0,2% lãi suất cho khách hàng gửi tiết kiệm trực tuyến so với lãi suất hiện hành. Nguyên nhân của cuộc đua lãi suất này là xuất phát từ tốc độ tăng trưởng tín dụng cao đạt 18% năm 2015, và tiếp tục được kỳ vọng tăng hơn 21% trong năm 2016. Bên cạnh đó, những ảnh hưởng nhất định của Thông tư 36 về giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn đã buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động, gây những căng thẳng nhất định trên thị trường lãi suất huy động, và tiềm ẩn nguy cơ một cuộc khủng hoảng thanh khoản mới. Để thực hiện thành công tiến trình tái cấu trúc các TCTD, đồng thời góp phần ổn định và phát triển bền vững hệ thống tài chính, cần có sự vào cuộc của tất cả các cơ quan, bộ ngành, các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Thứ nhất, Nhà nước, Chính phủ và các tổ chức cần đẩy mạnh quá trình xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và ngân hàng. Trong đó, các văn bản pháp lý liên quan tới vấn đề tái cấu trúc các tổ chức tín dụng cần bổ sung chi tiết hơn các quy định cụ thể về tái cấu trúc các tổ chức tín dụng như thế nào, tiếp tục xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém ra sao, trong đó cần tiếp tục đề cao thẩm quyền can thiệp của Nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc xử lý các yếu kém còn tồn tại trong hệ thống. Thứ hai, Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại, đặc biệt là hoạt động mua bán sáp nhập tự nguyện giữa các tổ chức. Điều này sẽ góp phần để xử lý tổ chức tín dụng yếu kém, tăng quy mô và nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, tăng cường năng lực tài chính, đảm bảo cho các tổ chức tín dụng có đủ vốn tự có theo chuẩn mực vốn Basel II. Thứ ba, tiếp tục thực hiện cơ cấu lại các NHTM Nhà nước với vai trò là đầu tàu của hệ thống, đảm bảo sự ổn định trên thị trường tiền tệ và an toàn của hệ thống các TCTD. Bên cạnh đó, công tác cổ phần hoá nên được thực hiện nhanh chóng với việc giảm dần tỷ lệ sở hữu vốn của Nhà nước tại một số NHTM cổ phần theo quy định của pháp luật, nới room tỷ lệ sở hữu đối với các cá nhân và tổ chức là người nước ngoài. Thêm vào đó, các NHTM Nhà nước cũng cần được khuyến khích tích cực tham gia sáp nhập, hợp nhất để tăng quy mô và năng lực cạnh tranh. 250
- Cuối cùng, tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp xử lý nợ xấu, kiểm soát, nâng cao chất lượng tín dụng, trong đó đẩy mạnh việc xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường và nợ xấu đã được VAMC mua. Thực hiện trao quyền nhiều hơn cho VAMC kèm theo một nguồn lực tài chính phù hợp. Đối với vấn đề xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu, cần xây dựng cơ chế đặc thù và có văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động định giá tài sản trên cơ sở minh bạch và công khai. Kết hợp với đó là các quy định chi tiết liên quan tới quy trình xử lý tài sản bảo đảm, cũng như vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan. Tái cấu trúc các TCTD là một quá trình phức tạp và nhiều khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các bên liên quan, nhằm đảm bảo thực hiện thành công công cuộc tái cấu trúc hệ thống. Với những nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng thời gian qua, và sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan bộ ngành, đã góp phần bước đầu xử lý nợ xấu, giảm số lượng các TCTD yếu kém, tăng quy mô, tăng năng lực tài chính và nâng cao kỹ năng quản trị ngân hàng. Từ đó, hướng tới một hệ thống ngân hàng phát triển bền vững hơn trong kỷ nguyên hội nhập mới. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng. 2. Claudia Dziobek and Ceyla Pazarbasioglu (1998), Lessons from Systemic Bank Restructuring, International Monetary Fund. 3. Ngô Thị Bích Ngọc (2007), Giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 4. Nguyễn Thị Loan (2011), Hoạt động mua bán, sáp nhập các ngân hàng thương mại Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 5. Nhóm nghiên cứu BVSC (2015), Báo cáo triển vọng ngành ngân hàng, quá trình tái cơ cấu bước đầu thành công nhưng áp lực lợi nhuận tương lai vẫn còn lớn, Công ty chứng khoán Bảo Việt. 6. Stijin Claessens (1999), Systemic Bank and Corporate Restructuring. Experiences and Lessons. 251
- 20154501/Developing%20Countries%20-%20Claessens.pdf 7. Thủ Tướng Chính phủ (2012), Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015, ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012. 8. Trang thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 9. Thời báo kinh tế điện tử Việt Nam, 10. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (2016), Báo cáo ngành ngân hàng, tháng 01/2016. 11. Waxman (1998), A Legal Framework For Systemic Bank Restructuring, BankRestructuring.pdf. 12. Worldbank (1998), A legal framewwork for systemic bank restructuring, BankRestructuring.pdf. 252