Vài nhận xét về các cuộc vận động văn hóa - Xã hội ở Việt Nam trong quá trình “Cận đại hóa”
Bạn đang xem tài liệu "Vài nhận xét về các cuộc vận động văn hóa - Xã hội ở Việt Nam trong quá trình “Cận đại hóa”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- vai_nhan_xet_ve_cac_cuoc_van_dong_van_hoa_xa_hoi_o_viet_nam.pdf
Nội dung text: Vài nhận xét về các cuộc vận động văn hóa - Xã hội ở Việt Nam trong quá trình “Cận đại hóa”
- Khoa học Xã hội và Nhân văn Vài nhận xét về các cuộc vận động văn hóa - xã hội ở Việt Nam trong quá trình “Cận đại hóa” Nguyễn Thị Thanh Thủy* Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Ngày nhận bài 20/9/2018; ngày chuyển phản biện 24/9/2018; ngày nhận phản biện 19/10/2018; ngày chấp nhận đăng 24/10/2018 Tóm tắt: Việt Nam thời cận đại đã diễn ra cuộc đụng độ và tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Đông Tây. Trong sự đụng độ và tiếp xúc đó, đã xuất hiện các cuộc vận động văn hóa - xã hội đi theo hướng “thâu hóa”, tiếp biến các yếu tố mới của văn hóa phương Tây trên cơ sở truyền thống nhằm tạo nên nền văn hóa Việt Nam hiện đại và có tính dân tộc. Với bài viết này, tác giả muốn đặt các cuộc vận động văn hóa - xã hội trong quá trình “Dân tộc hóa”, “Cận đại hóa” ở Việt Nam thời cận đại để phân tích và luận giải. Từ khóa: cận đại hóa, dân tộc hóa, thâu hóa, tiếp biến, vận động văn hóa - xã hội. Chỉ số phân loại: 5.10 Đặt vấn đề Some remarks on social Sự đụng độ và tiếp xúc văn hóa Đông Tây dẫn đến quá and cultural movements trình chuyển biến của văn hóa - xã hội ở Việt Nam là một nội dung lớn trong lịch sử Việt Nam thời cận đại. Khi nhìn in Vietnam in the process nhận các cuộc vận động văn hóa - xã hội tiêu biểu thời cận of early modernization đại, có thể thấy các cuộc vận động này không chỉ nằm trong tiến trình phát triển chung của lịch sử dân tộc mà còn là một Thi Thanh Thuy Nguyen* yếu tố dẫn đến sự thay đổi về chất trong quá trình phát triển Hanoi Metropolitan University của đất nước khi được đặt trong quá trình “Cận đại hóa”. Đồng thời, các cuộc vận động văn hóa - xã hội cũng là một Received 20 September 2018; accepted 24 October 2018 nội dung quan trọng trong quá trình “Dân tộc hóa” của một Abstract: đất nước thuộc địa. Đối với một quốc gia mất chủ quyền, khi chưa đủ điều kiện hoặc thất bại trong cuộc đấu tranh vũ Early-modern Vietnam has encountered clashes trang giành độc lập thì cuộc đấu tranh về văn hóa, xã hội sẽ and contacts between two cultures of Eastern and là chủ đạo trong quá trình “Dân tộc hóa”. Western. Among these clashes and contacts, social and cultural movements have emerged in the direction Do đó, bài viết này nghiên cứu về các cuộc vận động of “consolidating” and adapting the new elements of văn hóa - xã hội khi đặt các cuộc vận động đó trong hệ quy Western culture on the basis of tradition to create the chiếu là quá trình “Dân tộc hóa” và “Cận đại hóa” ở Việt Vietnamese culture with national and modern values. Nam thời cận đại, coi các cuộc vận động này như một yếu With this article, the author wants to analyse and explain tố quan trọng của quá trình “Dân tộc hóa” và “Cận đại hóa” the social and cultural movements under the perspective mà mục tiêu là giải phóng dân tộc và bước theo con đường of “nationalisation” and “early modernization” in the văn minh tiến bộ. early modern Vietnam. Nội dung nghiên cứu Keywords: adapting, consolidating, early modernization, Một số khái niệm nationalize, social and cultural movements. Khi đặt sự phát triển của văn hóa và xã hội ở Việt Nam, Classification number: 5.10 trong đó nổi bật là các cuộc vận động văn hóa - xã hội theo xu hướng cải cách trong quá trình “Dân tộc hóa” và “Cận đại hóa” cần phải xem xét về các khái niệm này. Thời kỳ cận *Email: thanhthuy@daihocthudo.edu.vn 60(11) 11.2018 47
- Khoa học Xã hội và Nhân văn đại ở Việt Nam đã diễn ra quá trình “Cận đại hóa” khi thực “Cận đại hóa” (early-modernization) được coi là quá dân Pháp xâm lược (1858) và kết thúc khi Việt Nam giành trình chuyển đổi từ xã hội tiền công nghiệp sang xã hội công lại được độc lập dân tộc (1945). “Cận đại hóa” có quan hệ nghiệp giai đoạn đầu (với các nước tư bản phương Tây) gần gũi với các nội dung như “công nghiệp hóa”, “tây hóa”, hoặc có yếu tố công nghiệp (đối với các nước thuộc địa), “thực dân hóa” và “dân tộc hóa”. hình thành và du nhập phương thức tư bản chủ nghĩa, định Về “công nghiệp hóa” (industrialization), theo Từ điển hình cơ cấu xã hội, đa dạng hóa hệ thống tinh thần, tư tưởng, tiếng Việt: “Là quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn văn hóa theo hướng hiện đại. Đối với các nước thuộc địa, trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân và đặc biệt trong quá trình “Cận đại hóa” đã xuất hiện trào lưu “Dân tộc trong công nghiệp, dẫn tới sự tăng nhanh trình độ trang bị hóa” bao gồm cả cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và các kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động” [1]. cuộc vận động cải cách văn hóa, xã hội, đổi mới lối sống Thành tựu của công nghiệp hóa dựa vào sự tiến bộ của khoa hoạt động công khai, có cùng một mục tiêu cứu nước. học kỹ thuật và đem đến sự phát triển của quốc gia cả về Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây qua các con kinh tế và xã hội. Công nghiệp hóa chính là một nội dung đường du nhập và các cuộc vận động văn hóa - xã hội quan trọng của quá trình các nước ngoài phương Tây chịu tiêu biểu ảnh hưởng của văn minh phương Tây. Tại Việt Nam thời cận đại, khi đặt các cuộc vận động văn Quá trình các dân tộc ngoài phương Tây chịu ảnh hưởng hóa - xã hội theo hướng đổi mới trong hệ quy chiếu của trào của văn minh phương Tây có thể sử dụng khái niệm Tây hóa lưu “Dân tộc hóa” trong quá trình “Cận đại hóa” kéo dài từ (westernization) được xem là quá trình mà các xã hội ngoài 1858 đến 1945 thì cần xem xét con đường du nhập và tác phương Tây chịu ảnh hưởng và tiếp nhận văn hóa phương động đến văn hóa - xã hội Việt Nam của văn hóa phương Tây như công nghiệp, công nghệ, luật pháp, chính trị, kinh Tây trên cơ sở đa tuyến (các con đường du nhập khác nhau tế, lối sống, ngôn ngữ, tôn giáo, triết học và các giá trị sống. sẽ có tác động khác nhau). Đối với Việt Nam, quá trình Tây hóa diễn ra mạnh nhất từ thế kỷ XIX, khi bị xâm lược và trở thành thuộc địa của thực Con đường du nhập đầu tiên của tư tưởng dân chủ dân Pháp. Quá trình Tây hóa ở Việt Nam diễn ra chủ yếu phương Tây vào Việt Nam là con đường thực dân. Người bằng hình thức cưỡng bức trong chế độ thực dân. “Thực dân tiếp xúc văn hóa phương Tây trực tiếp từ nước Pháp thực hóa” (colonization) là quá trình các nước đã đi xâm lược, dân và có tư tưởng duy tân sớm và toàn diện vào cuối thế thôn tính một nước khác với cộng đồng dân cư bản xứ, lập kỷ XIX chính là Nguyễn Trường Tộ. Với tấm lòng yêu nước làm vùng đất thực dân, coi nước đó là thuộc địa. Việt Nam thiết tha, ông đã viết hàng loạt các bản điều trần có giá trị trong quá trình bị thôn tính bởi nước Pháp đã trở thành một gửi lên triều đình, trong đó phân tích một cách khái quát sức thuộc địa khai thác, trở thành nơi thu lợi và tạo lập quyền mạnh của các nước phương Tây và đề nghị triều đình cải uy, truyền bá văn hóa Pháp. “Thực dân hóa” và phong trào cách, canh tân đất nước trên cơ sở mở cửa giao lưu với bên giải phóng dân tộc trở thành một nội dung trong quá trình ngoài để học hỏi, tiếp thu những yếu tố tiến bộ về khoa học “Cận đại hóa” ở Việt Nam. Trong đó chống lại “Tây hóa” kỹ thuật và tư tưởng của phương Tây. Ông chủ trương:“ (westernization), và “Thực dân hóa” (colonization) chính muốn giữ được nước thì phải làm cho dân giàu nước mạnh, là “Dân tộc hóa” (nationalize). Tại Việt Nam, trong thời kỳ mà phương hướng cơ bản để đi tới dân giàu nước mạnh là cận đại, phong trào giải phóng dân tộc, giành lại chủ quyền phải nâng cao văn hoá dân tộc”[2]. Khái niệm văn hoá mà độc lập do Đảng Cộng sản Đông dương lãnh đạo được coi ông đưa ra được “mở rộng trên nhiều lĩnh vực với ý thức là dòng chảy chính, là yếu tố cốt lõi của quá trình chống canh tân mạnh mẽ, nhằm đưa đất nước lên một tầm văn hoá “Thực dân hóa”. mới, tiếp cận văn hoá hiện đại” [2] nhưng vẫn giữ cốt cách văn hoá dân tộc Việt Nam. Vì nhiều lý do nên tư tưởng cách Phong trào “Dân tộc hóa” (nationalize) là các phong tân của ông không được triều đình chấp nhận và chìm vào trào, các cuộc vận động nhằm chuyển hóa các yếu tố ngoại quên lãng. Tuy nhiên, tư duy cách tân của Nguyễn Trường sinh thành giá trị dân tộc trên các mặt tư tưởng, chính trị, Tộ là đại diện lớn nhất của trào lưu cải cách hướng về văn văn hóa, lối sống, ngôn ngữ, tôn giáo nhằm khẳng định và minh phương Tây trong bước khởi đầu cho các tư tưởng cải phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, ý thức quốc gia - dân tộc, cách thời cận đại của dân tộc Việt Nam. chống nô dịch. Với các nước mất độc lập thì một mục tiêu quan trọng nhất chính là khôi phục lại độc lập dân tộc. Tuy Đầu thế kỷ XX, con đường du nhập các tư tưởng cách vậy, đối với một đất nước thuộc địa như Việt Nam, trào lưu mạng dân chủ tư sản - một nội dung quan trọng của văn hóa “Dân tộc hóa” trong bước đi thường chọn con đường tiến phương Tây giai đoạn đầu đã vào Việt Nam từ Nhật Bản hành bằng các cuộc vận động cải cách văn hóa, ngôn ngữ, và Trung Quốc thông qua con đường Tân thư, Tân văn. Lý cải cách xã hội, phong tục, lối sống nhằm né tránh sự đàn do là ảnh hưởng của Minh trị duy tân, Fukuzawa Yukichi ở áp và kiểm soát của chính quyền thực dân. Nhật Bản, tư tưởng cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải 60(11) 11.2018 48
- Khoa học Xã hội và Nhân văn Siêu (cuối thế kỷ XIX), Tôn Trung Sơn (đầu thế kỷ XX) ở Châu phát động với mục đích sang Nhật Bản học tập để về Trung Quốc đã có tác động sâu sắc đến tầng lớp nho sĩ cấp cứu nước. Phong trào Duy Tân (1904-1908) do Phan Chu tiến như: Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu và được họ tiếp Trinh đề xướng với nội dung “Khai dân trí, chấn dân khí, thu. Dù với con đường gián tiếp nhưng nội dung tư tưởng hậu dân sinh”. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907) do dân chủ tư sản, trong đó khái niệm về dân chủ và dân quyền các nho sĩ tiêu biểu như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền đã đem đến cho những bậc thức giả ở Việt Nam tư duy mới chủ trương xây dựng một mô hình giáo dục theo phương mẻ về chính trị và xã hội, đã tỏ ra tiến bộ và có ý nghĩa tích Tây gồm giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên môn nhằm cực. Khẩu hiệu của Cách mạng tư sản Pháp (1789) “Tự do, “có ích cho mình và cho xã hội” theo tinh thần “thực học, bình đẳng, bác ái” đã trở thành sức hấp dẫn của văn hóa thực dụng, thực nghiệp” với mục đích “học làm người và phương Tây. Các nho sĩ dù được giáo dục theo nho giáo vẫn làm quốc dân” mà một nội dung quan trọng là tuyên truyền cảm thấy ngọn gió phương Tây đã mang đến cho họ luồng nhân dân học chữ Quốc ngữ, coi chữ Quốc ngữ là hồn dân tư tưởng mới. Do lúc đó thực dân Pháp mới tiến hành cuộc tộc. Các phong trào vận động cải cách văn hóa - xã hội khai thác thuộc địa lần thứ nhất chưa lâu nên những yếu tố theo hướng duy tân này đã là một cách thức mới trong con tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế - xã hội của nước Việt đường cứu nước và là nội dung quan trọng của quá trình Nam đương thời còn đang ở trạng thái phôi thai. Vì vậy, nội “Dân tộc hóa”. Đặt các phong trào vận động Đông Du, Duy dung của tư tưởng dân chủ phương Tây khi vào Việt Nam Tân, Đông Kinh nghĩa thục với nội dung cải cách văn hóa, còn chưa có đủ cơ sở về kinh tế - xã hội làm bệ đỡ cho nó để giáo dục, xóa bỏ hủ tục xã hội dựa trên bệ đỡ của tư tưởng có thể biến thành một yếu tố nội sinh thực chất và có chiều yêu nước và trong quá trình “Cận đại hóa” của dân tộc có sâu. Ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, các tầng lớp mới như tư sản thể thấy được đây chính là nội dung của quá trình “Dân tộc hay trí thức Tây học còn quá non trẻ để gánh vác sứ mệnh hóa”. Với các cuộc vận động đổi mới trong văn hóa tư tưởng của mình. Do đó, tư tưởng dân chủ của phương Tây trong và hoạt động xã hội, có thể nói, các nho sĩ duy tân như Phan Tân thư, Tân văn chỉ có thể được đón nhận bởi tầng lớp nho Chu Trinh, Phan Bội Châu đã vạch một hướng đi xa hơn sĩ cấp tiến, bộ phận tiến bộ nhất trong tầng lớp trí thức của cho dân tộc, không chỉ duy tân để cứu nước mà cao hơn, còn xã hội Việt Nam truyền thống, có tinh thần yêu nước, khát là xây dựng một đất nước phú cường, hiện đại để giữ gìn vọng học hỏi và tiếp thu cái mới. Tư tưởng học tập phương một nền độc lập bền vững. Tây, xây dựng chính thể theo mô hình phương Tây, cải cách Trong tiến trình lịch sử, con đường du nhập của văn giáo dục, văn hóa, xã hội, phát triển công thương được hóa phương Tây vào Việt Nam ảnh hưởng trực tiếp từ nước các nhà nho cấp tiến Việt Nam (Phan Chu Trinh, Phan Bội Pháp vẫn tiếp tục sau khi đã đặt được ách cai trị ở Việt Nam. Châu ) tiếp thu từ Tân thư và tiến hành các cuộc vận động Chính quyền thực dân Pháp đã đặt nền kinh tế tư bản chủ xã hội mới. Ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa trùm lên kinh tế phong kiến và xây dựng bộ máy cai nghĩa Tam dân mà nội dung là lật đổ phong kiến, xây dựng trị dựa trên sự hợp tác tay sai của triều Nguyễn và biến Việt chế độ cộng hoà cũng khá rộng rãi ở Việt Nam. Tuy nhiên, Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Qua chế nếu ở Trung Quốc, duy tân là để tự cường thì ở Việt Nam, độ cai trị của người Pháp, ảnh hưởng rõ nét nhất của văn hóa duy tân là để cứu nước trên cơ sở học tập các yếu tố tiến bộ phương Tây đối với văn hóa - xã hội Việt Nam gồm hai lĩnh của văn hóa phương Tây tạo thành một nền văn hóa mới của vực cơ bản là giáo dục và báo chí. dân tộc làm cơ sở cho sự độc lập vững bền. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm Tân thư truyền sang Việt Nam đều là sách Cùng với thiết chế chính trị mới, người Pháp đã thi hành dịch thuật một cách giản lược của các sĩ phu Trung Hoa chứ các chính sách giáo dục mới kiểu phương Tây và du nhập không phải là các nguyên tác của các nhà tư tưởng phương báo chí vào Việt Nam, coi đây là biện pháp quan trọng phục Tây. Vì vậy, tư tưởng dân chủ phương Tây đã bị khúc xạ qua vụ cho công cuộc cai trị. Mục tiêu của nền giáo dục mà lăng kính của các sĩ phu Trung Hoa và đương nhiên các tư người Pháp xây dựng ở Việt Nam là: chinh phục tinh thần tưởng dân chủ phương Tây không còn trọn vẹn như trong người bản xứ, duy trì chế độ cai trị dài lâu, đào tạo tay sai, nguyên tác. Hơn nữa, do thành phần xuất thân và ý thức hệ phục vụ cho công cuộc khai thác, là căn cứ để tuyên truyển giai cấp chi phối, nhận thức về văn hóa, trong đó có tư tưởng “khai hoá văn minh” nhằm tạo dựng hình ảnh tốt đẹp của dân chủ của các nho sĩ cấp tiến Việt Nam vẫn có những hạn người Pháp ở Việt Nam. chế nhất định khi tiếp thu văn hóa phương Tây một cách Một bộ phận quan trọng chịu ảnh hưởng của văn minh gián tiếp do rào cản ngôn ngữ. phương Tây từ nước Pháp là trí thức Tây học Việt Nam nửa Dù vậy, do động cơ yêu nước là bệ đỡ tinh thần, với mục đầu thế kỷ XX, sản phẩm của nền giáo dục Pháp - Việt và tiêu cứu nước giải phóng dân tộc làm nền tảng nên lần đầu có một số lượng ít ỏi các trí thức du học tại Pháp có trình tiên các phong trào do các nho sĩ duy tân phát động đã có độ cao trở về Việt Nam như: Nguyễn An Ninh, Phan Anh, tính dân chủ và chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây. Hoàng Xuân Hãn Dù nền giáo dục Pháp - Việt là nền giáo Tiêu biểu là phong trào Đông Du (1905-1908) do Phan Bội dục thuộc địa mang nặng tính vong bản, có mục tiêu đào tạo 60(11) 11.2018 49
- Khoa học Xã hội và Nhân văn tay sai, nhưng trong thực tế, chỉ có một số ít người cam tâm Phong đã chọn con đường làm báo, làm văn một cách hợp làm tay sai cho Pháp, còn đại bộ phận trí thức Tây học Việt pháp thông qua hợp tác với nhà cầm quyền thực dân. Trong Nam trong nửa đầu thế kỷ XX lại là một lực lượng xã hội hoàn cảnh đất nước đã mất chủ quyền, Nho học đã suy tàn mới đi đầu trong truyền bá văn hoá phương Tây và đóng vai và xuất hiện sự xâm nhập mạnh mẽ của văn minh phương trò chủ thể, lãnh đạo trong các cuộc đấu tranh vì quá trình Tây vào Việt Nam, Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong đã cổ “Dân tộc hóa” ở Việt Nam. Đây là tác động ngoài ý muốn xuý cho việc gây dựng một nền văn hoá mới. Đó là một nền của người Pháp khi họ xây dựng nền giáo dục thuộc địa. văn hoá của dân tộc trên cơ sở “kết hợp Đông Tây”, “thổ Bên cạnh việc giáo dục được coi là một thiết chế quan trọng nạp Âu - Á” bằng việc phát triển tiếng Việt và gây dựng nền trong việc phục vụ mục tiêu cai trị, báo chí và văn học cũng Quốc văn mới. Theo Phạm Quỳnh, văn hoá sẽ là một sức là một công cụ đắc lực mà thực dân Pháp quan tâm với việc mạnh nội lực của dân tộc để phát triển và từ đó có cơ hội phát triển các cơ quan truyền bá văn hoá theo mô hình hiện giành lại chủ quyền đã mất. đại như báo chí, truyền thanh, điện ảnh và văn học để phổ biến rộng rãi các thành tựu của văn hoá Pháp nhằm chinh Không chỉ cổ xuý, mà với tài năng văn học, ngôn ngữ, phục tinh thần người bản xứ. Phạm Quỳnh đã đóng góp cho nền Quốc văn bằng việc phát triển bồi đắp tiếng Việt thông qua dịch thuật, sáng tác, Mặc dù báo chí ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, khảo cứu, nghiên cứu ngôn ngữ, triết học, chính trị, văn đầu thế kỷ XX còn do người Pháp bảo trợ với mục tiêu chương đăng tải trên Nam Phong nhằm mở mang dân tuyên truyền cho chế độ thực dân nhưng đặc thù của báo trí: “Có thể lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu chí đã đem lại một không gian mới cũng như khả năng mới thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây” [4]. Những cho sự tồn tại tương đối độc lập và sự tác động trực tiếp đến cống hiến đó đã chứng tỏ vị trí thích đáng của Phạm Quỳnh thực tiễn xã hội của nhà báo. Với đặc điểm đó, ngay từ cuối và Nam Phong tạp chí trên văn đàn và trong cuộc vận động thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã xuất hiện các thế hệ những văn hóa - xã hội trong quá trình “Dân tộc hóa”. nhà báo đầu tiên, dù làm việc cho các tờ báo chịu sự bảo trợ của người Pháp nhưng đã đi đầu trong các cuộc vận động Nguyễn An Ninh2 đã xuất bản báo La cloche fêlée văn hóa - xã hội với mục tiêu nâng cao dân trí và xây dựng (Chuông rè), tờ báo bằng chữ Pháp (1923-1926). Đây là tờ một nền văn hoá mới tiến bộ cho dân tộc Việt Nam. Có thể báo được Nguyễn An Ninh trao cho sứ mệnh là “cơ quan kể tên một số nhà báo tiêu biểu lúc khởi đầu như: Trương tuyên truyền tư tưởng Pháp” với khẩu hiệu “tự do - bình Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh và nhóm Đông Dương tạp chí, đẳng - bác ái”. Với báo La cloche fêlée, Nguyễn An Ninh đã Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong. Sau Chiến tranh thế giới tuyên bố tầm quan trọng của văn hoá: “Dân tộc nào để cho lần thứ nhất xuất hiện nhà báo Nguyễn An Ninh ở Nam Kỳ một nền văn hoá ngoại bang ngự trị thì không thể có độc lập và vào những năm 1930 là nhóm Tự lực Văn đoàn với báo thực sự. Văn hoá là tâm hồn của một dân tộc” [5]. Từ đó, Phong hóa - Ngày nay, dòng báo phụ nữ mà Phụ nữ Tân Nguyễn An Ninh đã tích cực tuyên truyền cho một nền văn Văn là đại diện hoá tinh thần mới, lấy chủ nghĩa nhân văn Pháp làm cơ sở, Với tư cách là chủ bút nhiều tờ báo cả tiếng Pháp và tiếng học tư tưởng tiến bộ của phương Tây trên nền tảng truyền Việt, trong đó có ảnh hưởng lớn nhất là tờ Đông Dương tạp thống tốt đẹp của phương Đông. chí giai đoạn đầu thế kỷ XX, Nguyễn Văn Vĩnh đã đi tiên Sự tự nhận thức của phụ nữ đối với vấn đề nữ quyền đã phong trong việc xây dựng một nền văn hoá mới của Việt từng bước thay đổi người phụ nữ, thúc đẩy phụ nữ tham gia Nam bằng cách làm báo, phát triển chữ Quốc ngữ và dịch vào các hoạt động xã hội để tự giải phóng thể hiện qua sự thuật, nhằm khai dân trí, mở mang kiến thức cho người dân. xuất hiện các tờ báo dành riêng cho phụ nữ mà đỉnh cao là Nổi bật nhất là việc tuyên truyền, dạy chữ Quốc ngữ trên tờ Phụ nữ Tân văn (1929-1935) với một số lượng đông đảo báo chí với quan điểm: “Nước Nam ta sau này hay hay dở các cây bút nữ như Đạm Phương, Cao Thị Khanh, Nguyễn cũng ở chữ Quốc ngữ”[3]. Thị Kiêm, Huỳnh Lan Cuộc vận động nữ quyền ở Việt Ở Bắc Kỳ, năm 1917, Nam Phong ra đời dưới sự bảo Nam nửa đầu thế kỷ XX đã đóng góp một bản sắc riêng vào trợ của người Pháp nhằm mục đích tuyên truyền văn minh phong trào dân chủ vì mục tiêu giải phóng con người và giải Pháp, cắt đứt ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, là điểm phóng xã hội qua tuyên ngôn của nữ giới về chính mình. tựa tinh thần cho trí thức Việt Nam, tuyên truyền cho “Chủ Nét độc đáo của cuộc vận động nữ quyền Việt Nam là 1 nghĩa Pháp - Việt đề huề”. Phạm Quỳnh được người Pháp tuy tiếp thu tiến bộ phương Tây nhưng không phủ định sạch giao cho làm chủ bút tạp chí này. Ông cùng nhóm Nam trơn những giá trị truyền thống Á Đông tốt đẹp. Tuy phụ nữ phải vươn lên tham gia công tác ngoài xã hội, có “chức 1Phạm Quỳnh (1892-1945) là chủ bút báo Nam Phong (1917-1934), được đánh giá là người am hiểu cả hai nền văn hoá Đông Tây vào đầu thế kỷ XX. Ông là người có công truyền bá văn hoá phương Tây và có đóng góp tích cực 2Nguyễn An Ninh (1900-1943) là nhà yêu nước, nhà báo, chủ bút tờ La cloche cho nền quốc văn mới của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. fêlée (Chuông rè). 60(11) 11.2018 50
- Khoa học Xã hội và Nhân văn nghiệp” nhưng không thể sao nhãng thiên chức làm vợ, làm một nơi có thể gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Không đánh Pháp, mẹ. Bởi lẽ gia đình là một giá trị được coi trọng ở phương không đi theo cách mạng, vẫn có thể làm văn chương. Và Đông và giá trị này có lẽ là bất biến đối với phụ nữ. Để giữ theo họ, làm văn chương có lẽ cũng là một cách để tỏ rõ được hạnh phúc gia đình, phụ nữ vẫn phải có đủ công, dung, lòng yêu nước”[6]. ngôn, hạnh, biết ứng xử có văn hoá, biết “nữ công thực Trong khi đó, trào lưu văn học hiện thực phê phán (xuất nghiệp” để đảm đương vai trò nội tướng. hiện từ những năm 1930) đã góp một tiếng nói có giá trị cho Từ năm 1930, Nguyễn Tường Tam3 và nhóm Tự lực văn cuộc vận động giải phóng con người, giải phóng xã hội bằng đoàn đã tham gia vào phong trào Âu hóa và chọn báo chí việc miêu tả đúng cuộc sống lầm than, bi kịch của người trào phúng làm vũ khí đấu tranh chống lạc hậu, dẫn đường nông dân và các tầng lớp khác trong xã hội thuộc địa để cho xã hội Việt Nam đi theo văn hóa Tây phương mới. Ông khơi gợi tinh thần quật khởi giành tự do. Các nhà văn hiện đã dẫn dắt tờ Phong hóa - Ngày nay trong 8 năm (1932- thực hiểu rằng:”Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa 1940) và đã để lại những dấu ấn thông qua những bài báo dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ chống hủ tục về tinh thần cải cách theo phương Tây trên địa là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than vang hạt báo chí giai đoạn 1930-1945. dội lên mạnh mẽ ” [7]. Các nhà văn với ngòi bút hiện thực đã giúp người nông dân hiểu rõ số phận cay cực của mình Phong hóa - Ngày nay đã sử dụng biện pháp trào phúng trong một xã hội đầy áp bức bất công để giúp họ có thêm như một vũ khí để có thể phá cái cũ, tạo lập cái mới một động lực đứng lên tự giải phóng mình và cộng đồng, hướng cách mềm mỏng, sử dụng hình thức đấu tranh công khai, tới một cuộc sống tự do. phản ánh rõ nét thực tế đời sống khốn cùng của dân quê, để từ đó đả kích bài trừ các phong tục cổ hủ lạc hậu và thói hư Trong sự phát triển của văn hóa và xã hội Việt Nam, tật xấu của dân quê, coi đây là điểm chính yếu để cải tạo xã dưới tác động của sự du nhập văn hóa phương Tây theo con hội theo hướng duy tân. Phong hóa - Ngày nay với những đường thực dân (nhất là từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ bài báo đả phá cái cũ, tuyên truyền tư tưởng mới đã thể hiện nhất) cần đánh giá đúng mức vai trò của tầng lớp trí thức sự quan tâm đến xã hội, đến việc khai dân trí, chấn dân khí, Tây học thời cận đại. Có thể khẳng định họ là yếu tố chủ thể hậu dân sinh như tinh thần của nhà ái quốc Phan Chu Trinh của nền văn hoá mới và các phong trào cải cách xã hội, tuy đã bàn đến hồi đầu thế kỷ XX và gia nhập vào cuộc đấu được đào tạo trong nhà trường thực dân nhưng đã kế thừa di tranh vì tiến bộ xã hội bằng con đường báo chí công khai có sản truyền thống của cha anh là lòng yêu nước và tinh thần sức lan tỏa rộng lớn trong xã hội. dân tộc. Vì vậy, họ đã có ý thức tiếp nhận các thành tựu văn hoá của phương Tây và tái cấu trúc lại để xây dựng một nền Từ những năm 30 của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đã có văn hoá độc lập của dân tộc Việt Nam theo hướng hiện đại. nhiều biến đổi về tư tưởng. Ngoài báo chí đóng vai trò tiên Các cuộc vận động văn hóa, xã hội đã chuyển hóa các yếu phong, giai đoạn này bắt đầu xuất hiện các trào lưu văn học tố ngoại sinh thành giá trị mới của dân tộc để tạo ra hướng mới mà dưới cách nhìn mới, xứng đáng được coi là một hợp đi mới tiến bộ cho văn hóa dân tộc, đóng góp một cách tích phần đặc sắc của những cuộc vận động văn hóa và xã hội với cực vào quá trình “Dân tộc hóa” và “Cận đại hóa”. mục tiêu giải phóng con người và giải phóng xã hội, đóng góp vào quá trình “Dân tộc hóa”, “Cận đại hóa”. Nổi bật là Một vài nhận xét về các cuộc vận động văn hóa - xã hội dòng văn học lãng mạn với phong trào Thơ mới và dòng Thứ nhất, khi quá trình “Cận đại hóa” bắt nguồn từ sự văn học hiện thực phê phán. Dòng văn học lãng mạn được xâm lược, bình định và khai thác thuộc địa của chính quyền hình thành và phát triển năm 1932 với sự ra đời của phong thực dân Pháp và di chuyển từ Nam Kỳ ra Bắc Kỳ thì quá trào Thơ mới. Trên cơ sở quan điểm giải phóng cá nhân, các trình xâm lược và bình định về quân sự của Pháp có ảnh nhà thơ nhà văn lãng mạn đã tuyên ngôn thẳng thắn quan hưởng rõ nét đối với sự phát triển của Việt Nam về kinh tế, điểm về tình yêu nam nữ, đó là con người được giải phóng chính trị (đậm tính thuộc địa). Tuy nhiên sau đó là các cuộc phải là con người được tự do yêu đương, đây là một nhu cầu vận động văn hóa - xã hội đã có sự đóng góp mạnh mẽ vào chính đáng nhất của con người. Lần đầu tiên, các tác giả của trào lưu “Dân tộc hóa” trong quá trình “Cận đại hóa” ở Việt dòng văn học lãng mạn đã mô tả đến tận cùng những nhu Nam. cầu chính đáng vốn thuộc về con người mà bấy lâu nay văn học truyền thống lảng tránh và đưa ra tuyên ngôn ủng hộ Các cuộc vận động văn hóa - xã hội có tính dân chủ, chịu quyền tự do yêu đương vượt qua chế định Nho giáo. Có ý ảnh hưởng của văn minh phương Tây đã diễn ra cuối thế kỷ kiến cho rằng: “Con đường văn chương lúc bấy giờ đối với XIX đầu thế kỷ XX là một giai đoạn đầy biến động trong một số tiểu tư sản trí thức là một lối thoát ly trong sạch, là lịch sử Việt Nam. Đây thực sự là buổi giao thời giữa truyền thống và hiện đại, trong đó xu hướng tiến sang hiện đại là tất 3Nguyễn Tường Tam (1906-1963), chủ bút tuần báo Phong hóa - Ngày nay và yếu của một đất nước tuy có văn minh nhưng đang bị trì trệ là người thành lập Tự Lực Văn đoàn. và lạc hậu lại bị nô dịch bởi một kẻ thù đến từ một nền văn 60(11) 11.2018 51
- Khoa học Xã hội và Nhân văn minh khác giàu có và hiện đại hơn. Những cố gắng để giành sự biến yếu tố ngoại sinh trở thành những yếu tố nội sinh, lại độc lập theo phương thức cũ là đấu tranh vũ trang của nhằm đi theo mục tiêu chung của trào lưu “Dân tộc hóa” là các thế hệ trước dù có anh dũng nhưng cho đến cuối thế kỷ giải phóng dân tộc và phát triển quốc gia theo hướng văn XIX cũng thể hiện rõ sự bế tắc và bất lực. Vì vậy, xu hướng minh, tiến bộ. thức tỉnh với các cuộc vận động văn hóa - xã hội như các Thứ hai, do chủ thể kiếm soát, điều khiển quá trình “Cận phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục theo đại hóa” ở Việt Nam là chính quyền thực dân Pháp nên mục yêu cầu duy tân đổi mới do các nhà Nho cấp tiến phát động tiêu của “Cận đại hóa” là phục vụ cho lợi ích của nước Pháp và lãnh đạo đã trở thành xu hướng thời đại ở Việt Nam đầu chứ không vì sự phát triển và tiến bộ của dân tộc Việt Nam. thế kỷ XX, trong đó chứa đựng yêu cầu độc lập và yêu cầu Trong quá trình “Cận đại hóa” ở Việt Nam, do sự kiểm soát dân chủ, tiến bộ xã hội. chặt chẽ của chính quyền thực dân đối với các phong trào Các cuộc vận động này đã có một tác động thực tiễn to cải cách văn hóa và xã hội vì mục tiêu “Dân tộc hóa” và lớn đối với xã hội Việt Nam lúc đó. Nó đã thổi một luồng mục tiêu khôi phục độc lập nên các phong trào cấp tiến đều không khí mới vào phong trào cách mạng Việt Nam khi bị đàn áp và khống chế, bỏ tù các nhân vật khởi xướng và đang khủng hoảng nặng nề về đường lối, tiếp tục xu hướng lãnh đạo như phong trào như Phan Chu Trinh, Phan Bội đi theo con đường giải phóng với những nấc thang mới. Châu, nhóm Đông Kinh nghĩa thục. Các tờ báo cấp tiến và Người dân Việt Nam cũng lấy lại được niềm tin và tiếp có nhiều tác động tích cực đối với xã hội bị đóng cửa, rút tục khát vọng về một tương lai độc lập và tiến bộ của dân giấy phép xuất bản (La cloche fêlée - Chuông rè, Phong hóa, tộc. Các cuộc vận động Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Ngày nay ). nghĩa thục với mục tiêu học tập bên ngoài để tìm đường Thứ ba, sự kiểm soát và muốn đồng hóa về mặt văn hóa, cứu nước, “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, “thực duy trì ách thống trị vững bền của nhà cầm quyền thực dân, học”, “học để làm người và làm quốc dân” như một yếu tố tức là quá trình “Thực dân hóa” và “Tây hóa” theo hình thức quan trọng của quá trình “Dân tộc hóa” và “Cận đại hóa” mà áp đặt là một trong những nguyên nhân dẫn đến trào lưu mục tiêu là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo “Dân tộc hóa” do truyền thống yêu nước và tinh thần dân con đường hiện đại. tộc. Các tư tưởng văn hóa, xã hội tiến bộ của phương Tây Sau các cuộc vận động về văn hóa - xã hội thành những dù bị chính quyền thuộc địa cấm đoán nhưng trí thức Tây phong trào học tập và thay đổi lối sống là các cuộc vận động học (sản phẩm của giáo dục thuộc địa) đã truyền bá theo trên diễn đàn báo chí. Do khu vực Nam Kỳ được “Tây hóa” cỗ xe văn hóa - nghệ thuật mà nổi bật là diễn đàn báo chí sớm nhất với chế độ “trực trị” nên báo chí phát triển sớm và văn học. Đây là biểu hiện của sự đa dạng hóa hệ thống nhất, sau đó được kích hoạt ra Bắc Kỳ với trung tâm là Hà tinh thần, tư tưởng, phát triển lĩnh vực báo chí để phát triển Nội. Báo chí đã phát triển mạnh ở khu vực Nam Kỳ do được và mở rộng dân chủ trong quá trình “Cận đại hóa” của một người Pháp phổ biến ngay vào cuối thế kỷ XIX, trong đó có nước thuộc địa. Chính sự kiểm soát của chính quyền thực cả hai loại hình: báo chữ Pháp và báo chữ Quốc ngữ. dân trong lĩnh vực báo chí đã dẫn đến một dòng chảy báo chí và văn học yêu nước và cách mạng phát hành bí mật mà Tiếp theo, báo chí và văn học (luôn gắn liền với sự phát nhà báo tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc. Sự đa dạng hóa về tư triển của báo chí) đã khởi phát mạnh mẽ vào những năm tưởng của văn hóa phương Tây xâm nhập vào Việt Nam thời 30 của thế kỷ XX với xu hướng phát triển các dòng báo chí cận đại đã tạo ra sự đa diện, đa màu sắc của các phong trào theo các đề tài khác nhau như chính trị - xã hội, văn học, theo xu hướng “Dân tộc hóa”, trong đó mục tiêu giải phóng khoa học, phụ nữ. Các nội dung và thành tựu của báo chí là dòng chảy xuyên suốt. và văn học đã đóng góp tích cực vào cuộc cải cách xã hội theo xu hướng “Dân tộc hóa”. Báo chí công khai trong thời Kết luận kỳ này dù phải chịu sự kiểm soát của chính quyền thực dân Quá trình “Cận đại hóa” đưa Việt Nam chuyển từ xã hội nhưng đã dũng cảm phát động những phong trào cải cách tiền công nghiệp sang xã hội có yếu tố công nghiệp giai văn hóa - xã hội. Đó là những phong trào tiếp thu những đoạn sớm, từ kinh tế phong kiến sang kinh tế tư bản kiểu nội dung văn hóa Pháp nhưng đã thâu hóa nó và dung nạp thuộc địa, từ giai đoạn đóng cửa sang giai đoạn hội nhập, những yếu tố tinh hoa của truyền thống dân tộc Việt, tạo ra dù hội nhập thông qua nước Pháp. Trong quá trình “Cận một nền văn hóa dân tộc mới. đại hóa’’, thực dân Pháp luôn giữ vai trò kiểm soát mọi lĩnh Tuy ở nhiều cấp độ và màu sắc khác nhau nhưng các vực phát triển của đất nước Việt Nam như kinh tế, chính trị, phong trào trên đều có một nét chung là đặt cơ sở và có văn hóa, xã hội nhưng vẫn có những nội dung của “Cận những đóng góp khác nhau cho cuộc giải phóng con người, đại hóa” vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của chính quyền giải phóng xã hội và trực tiếp hay gián tiếp hướng tới mục thuộc địa. Trong đó nổi bật lên là trong lĩnh vực văn hóa và tiêu giải phóng đất nước. Các cuộc vận động đều dựa trên xã hội tại Việt Nam được phát triển theo trào lưu “Dân tộc 60(11) 11.2018 52
- Khoa học Xã hội và Nhân văn hóa” của một nước thuộc địa du nhập những giá trị văn hóa Nam năm 1945, nhiệm vụ lịch sử của chính quyền là tiếp tục phương Tây trên cơ sở chọn lọc và dung nạp những yếu tố thực hiện những cuộc cải cách về văn hóa - xã hội mà trong tiến bộ ngoại sinh thành giá trị dân tộc để xây dựng một nền thời kỳ cận đại chưa hoàn thành. văn hóa mới có tính độc lập. Sự dịch chuyển về văn hóa và xã hội ở Việt Nam là khá sâu sắc dù dựa vào quá trình “Thực TÀI LIỆU THAM KHẢO dân hóa” của người Pháp nhưng đã vượt qua ý muốn của [1] Hoàng Phê (1996), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng người Pháp. Trong quá trình dịch chuyển theo định hướng và Trung tâm từ điển học, tr.202. “Dân tộc hóa”, chủ thể của các cuộc vận động cải cách văn [2] Hoàng Thanh Đạm (2001), Nguyễn Trường Tộ, thời thế và tư hóa và xã hội là tầng lớp trí thức Nho học và Tây học đã duy cách tân, Nhà xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, tr.120,180. chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây với những hình [3] Truyện Kiều (1942), Editions Alexandre de Rhodes. thức khác nhau nên các phong trào văn hóa và xã hội đã phát triển với nhiều sắc thái đa dạng. Nhưng khi các phong [4] Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, Tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tr.108. trào này được đặt trên một hệ quy chiếu của quá trình “Dân tộc hóa” và “Cận đại hóa” thì có thể khẳng định các phong [5] Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam với Pháp, trào văn hóa, xã hội đều nằm trong một dòng chảy chung là Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, tr.81. hướng tới giải phóng dân tộc và văn minh tiến bộ. Do hoàn [6] Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nhà xuất cảnh lịch sử, các cuộc vận động và cải cách văn hóa - xã hội bản Giáo dục, tr.20. không được thực hiện một cách đầy đủ dù lý tưởng là minh [7] Phong Lê (2003), Nam Cao - Người kết thúc vẻ vang trào lưu triết nên sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tại Việt văn học hiện thực, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.11. 60(11) 11.2018 53