Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai

pdf 33 trang Gia Huy 23/05/2022 1790
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfviet_nam_phat_trien_mot_he_thong_bao_hiem_xa_hoi_hien_dai_nh.pdf

Nội dung text: Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai

  1. Việt nam: Public Disclosure Authorized Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Public Disclosure Authorized Public Disclosure Authorized Public Disclosure Authorized
  2. Ten muc Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai 6/2012 Tóm tắt1 Với tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ tăng lên, dân số Việt Nam được dự đoán là sẽ già đi một cách nhanh chóng, làm cho việc xây dựng một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại tại Việt Nam trở thành một ưu tiên hết sức cấp bách. Hệ thống bảo hiểm xã hội hiện tại đang gặp phải một số thách thức như tỷ lệ bao phủ thấp trong cả khu vực chính thức và phi chính thức, bất bình đẳng giữa các nhóm tham gia đóng bảo hiểm, thiếu sự bền vững về tài chính, và năng lực quản lý và thực hiện các chương trình bảo hiểm yếu. Cần thiết phải đổi mới để mở rộng độ bao phủ, khuyến khích bình đẳng, tăng cường tính bền vững về tài chính, và hiện đại hóa công tác quản lý bảo hiểm xã hội để đảm bảo an sinh thu nhập cho lượng dân số già của Việt Nam trong những thập kỷ tới đây. Đề cương này nhằm đóng góp cho những thảo luận chính sách xung quanh việc sửa đổi Luật Bảo hiểm Xã hội sẽ diễn ra vào năm 2013 thông qua phần phân tích những thách thức và các lựa chọn cải cách có thể thực hiện. 1 Đề cương do Nguyễn Nguyệt Nga phác thảo, dựa chủ yếu trên phần nghiên cứu của Paulette Castel. Minna Hahn Tong hiệu đính tiếng Anh của bản đề cương. 1
  3. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Các từ viết tắt CPi Chỉ số giá tiêu dùng GSo Tổng cục thống kê ICT Công nghệ thông tin và truyền thông IT Công nghệ thông tin MOF Bộ Tài chính MOLISA Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội NDC Tài khoản đóng góp cá nhân tượng trưng SAA Phân phối tài sản chiến lược SME Doanh nghiệp vừa và nhỏ SOCB Ngân hàng thương mại Nhà nước UN Liên Hợp Quốc VASS Viện Khoa học Xã hội Việt Nam BHXHVN Bảo hiểm Xã hội Việt Nam 2
  4. I Giới thiệu Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp xã hội và các chương trình việc làm. Bảo hiểm xã hội bao gồm lương hưu và trợ cấp ngắn hạn (bao gồm thai sản và hỗ trợ cho sự thay đổi thu nhập trong trường hợp sinh con2, nghỉ ốm, thất nghiệp, tai nạn lao động, người già, người tàn tật và đủ sống). Với việc ban hành Nghị quyết năm 2012 của Đảng về Bảo hiểm Xã hội, Việt Nam đang trong quá trình chuyển dịch mới hướng tới một hệ thống an sinh xã hội hiện đại Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam cùng với những chuyển đổi nhân khẩu học trọng đại đã và đang tạo ra những thách thức mới. Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong hai thập kỷ qua – tự chuyển đổi trong một khoảng thời gian rất ngắn từ một xã hội nông nghiệp nghèo thành một đất nước sôi động và cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, những tiến bộ để đạt được vị thế của một quốc gia thu nhập trung bình đã mang lại những thách thức mới cho Việt Nam, bao gồm sự cần thiết phải đánh giá lại chương trình bảo hiểm xã hội để đáp ứng những nhu cầu đang thay đổi nhanh chóng của người dân. Việt Nam sẽ phải trải qua những thay đổi quan trọng bao gồm (i) sự chuyển đổi xã hội từ các gia đình mở rộng, đa thế hệ thành những gia đình hạt nhân; (ii) quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông thôn sang một nền kinh tế đô thị hoá nhiều hơn; và (iii) quá trình chuyển đổi nhân khẩu học từ một dân số trẻ sang một dân số già hơn. Hình1: Dân số Việt Nam đang già đi nhanh chóng Sự năng động của dân số Việt Nam 1970-2050 80 70 60 50 40 Phần trăm trăm Phần 30 20 10 0 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010 2015 2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050 15-24 15-64 65 or over Nguồn: Triển vọng Dân số Thế giới 2010World Population Prospects 2010, thay đổi trung vị 2 Và những can thiệp kế hoạch hóa gia đình. 3
  5. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Một viễn cảnh khá ảm đạm là Việt Nam sẽ già trước khi trở nên giàu có. Với khả năng sinh sản suy giảm và tuổi thọ tăng, dân số Việt Nam dự kiến sẽ già đi nhanh chóng. Hình 1 trình bày các dự báo dân số của Liên Hợp Quốc cho Việt Nam.Việt Nam đang đối mặt với một thách thức đáng kể: Sự lão hóa dân số vẫn đang ở phía trước, với tỷ lệ dân số tuổi từ 60 trở lên sẽ tăng từ dưới 10% như hiện nay lên tới gần 35% vào năm 2050. Trong khi đó, tỷ lệ dân số trẻ sẽ bị thu nhỏ lại. Do đó cần phải thiết kế một hệ thống vững mạnh về mặt tài chính và với chiến lược tài trợ dài hạn và những sắp xếp thể chế cho quản trị và điều hành tốt. Với các xu hướng này thì xây dựng một hệ thống bảo hiểm hiện đại là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Việt Nam đã áp dụng một hệ thống đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động khu vực chính thức kể từ năm 1995. Luật Bảo hiểm Xã hội được ban hành năm 2006 đã mang đến những thay đổi đáng kể về việc tính toán quyền lợi hưu trí được hưởng trong khu vực tư nhân, điều chỉnh lương hưu, và tỷ lệ đóng góp. Luật cũng xác định các quy định cho việc triển khai một hệ thống bảo hiểm tự nguyện và một chương trình bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, dù đã đạt được những tiến bộ này, độ phủ bảo hiểm của dân số vẫn bị hạn chế, và có những quan ngại về sự bền vững tài chính của hệ thống và công bằng. Việc cung cấp bảo hiểm xã hội cũng cần phải được hiện đại hóa. Để đối phó với những thách thức này các nhà hoạch định chính sách sẽ cần phải có dữ liệu đầu vào dựa trên bằng chứng và những tranh luận chính sách đòi hỏi cần có hệ thống thông tin và quản lý tài chính tốt. Việc quản lý hệ thống tài chính và thông tin hiện đại của một hệ thống Bảo hiểm xã hội vận hành tốt là quan trọng không chỉ cho quản trị và điều hành thích đáng mà còn cho chính bản thân quá trình đổi mới. Bản báo cáo thảo luận một số thách thức chủ yếu trong chính sách hưu trí ở Việt Nam và trình bày những lựa chọn chính sách để giải quyết các thách thức này. Bản báo cáo bắt đầu với phần đánh giá tổng quan hệ thống hưu trí hiện tại, mô tả những đặc điểm chính của hệ thống. Tiếp theo báo cáo sẽ đưa ra những thách thức chủ yếu và đề xuất những biện pháp có thể thực hiện để tăng cường và củng cố hệ thống hưu trí trong thời gian tới. Bản báo cáo được đúc kết từ những nghiên cứu và phân tích cơ bản đã được thực hiện cho công việc này và những nghiên cứu khác trong thời gian gần đây về hệ thống hưu trí của Việt Nam. Báo cáo cũng chỉ ra những lựa chọn/quyết định chính sách tiềm năng sẽ cần phải tiếp tục nghiên cứu trong vài năm tới. 4
  6. II Tổng quan Hệ thống Hưu trí Hiện tại Hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt Nam được xác định lợi ích và hoạt động trên cơ sở đóng góp trong quá trình lao động. Hiện nay hệ thống đang được trang trải bởi mức đóng góp 24%3, trong đó người sử dụng lao động chi trả 17% và người lao động chi trả 7%. Trong tổng số tiền thu, 3% phân cho trợ cấp ngắn hạn và 1% cho tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, 20% cho người già, tàn tật và lương hưu đủ sống. Ngoài ra mức đóng góp 22% áp dụng cho bảo hiểm xã hội, mức đóng góp 3% được áp dụng cho bảo hiểm thất nghiệp (chia đều giữa người sử dụng lao động, người lao động, và Chính phủ, bằng cách sử dụng các nguồn thu chung), và mức đóng góp 4,5% được áp dụng cho bảo hiểm y tế (trong đó 3% do người thuê lao động trả và 1,5% do người lao động trả. Đặc biệt đối với hệ thống lương hưu, Luật năm 2006 đã đưa ra những thay đổi quan trọng về tỷ lệ đóng góp và điều chỉnh lương hưu. Luật đã tăng tỷ lệ đóng góp vào lương hưu, thiết lập mức tăng là 2% (+1% trên mỗi mức đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động) trong mỗi hai năm kể từ năm 2010 đến năm 2014, từ 18% đến 22% (14% cho người thuê lao động và 8% cho người lao động. Những điều chỉnh lương hưu được áp dụng cho toàn bộ số lương hưu, và luật đã thấy trước được Chính phủ quyết định điều chỉnh dựa trên xu hướng chung về kinh tế và lạm phát. Tuy nhiên, kể từ khi luật được thông qua, Chính phủ vẫn tiếp tục chính sách trước đây về tăng lương hưu cùng với tăng lương tối thiểu. Đáng ghi nhận là lương hưu tối thiểu bằng với mức lương tối thiểu được đảm bảo cho người lao động khi về hưu từ hệ thống bảo hiểm bắt buộc. Một bộ các qui định khác nhau xác định quyền lợi hưu trí cho những người làm việc trong khu vực công và khu vực tư. Thời gian đóng góp 20 năm là cần thiết để được hưởng thu nhập lương hưu tháng bằng 55% lương trung bình của người đóng bảo hiểm.4 Mỗi năm đóng góp bất kỳ trên 15 năm sẽ được hưởng thêm một mức thay thế là 2% đối với nam giới và 3% đối với phụ nữ. Mức thay thế tổng cộng không được vượt quá 75%. Đối với những năm làm việc trong khu vực công, mức lương trung bình được tính trên tiền lương báo cáo trong 10 năm cuối cùng. Đối với những năm làm việc trong khu vực tư nhân, mức lương trung bình được tính là mức trung bình của tất cả các tiền lương báo cáo. Một sự khác biệt nữa trong việc tính lương trung bình cho lương hưu, tiền lương trong khu vực tư nhân được điều chỉnh theo 3 Trong năm 2012, tổng số tiền sẽ được nâng từ 22% lên đến 24% (với sự gia tăng được chia đều giữa người sử dụng lao động và người lao động). Vào năm 2014, tổng số tiền sẽ được nâng lên một lần nữa, lần này từ 24% lên đến 26% (số gia tăng cũng được chia đều giữa người sử dụng lao động và người lao động). 4 Khi đủ tuổi nghỉ hưu, người nghỉ hưu có dưới 20 năm đóng góp bảo hiểm xã hội sẽ được hưởng một khoản trọn gói bằng 1,5 lần lương tháng trung bình nhân với tổng số năm đóng góp bảo hiểm. Những người hưu trí có từ 20 năm đóng góp bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu hàng tháng, cộng với một khoản trọn gói nếu thời gian đóng bảo hiểm lớn hơn 30 năm đối với nam giới và 25 năm đối với nữ giới 5
  7. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai sự tăng trưởng của chỉ số giá cả tiêu dùng kể từ khi chúng được báo cáo, trong khi lương của khu vực công được điều chỉnh theo tiền lương tối thiểu. Hệ thống hưu trí tự nguyện thực hiện từ năm 2008 được thiết kế tương tự như hệ thống hưu trí bắt buộc cho những người lao động khu vực tư nhân. Hệ thống tự nguyện được xác định lợi ích và hoạt động trên cơ sở đóng góp trong quá trình lao động. Tuy nhiên, khác với hệ thống bắt buộc, hệ thống tự nguyện không có lợi ích ngắn hạn, không đảm bảo lương hưu tối thiểu, và không có khả năng nghỉ hưu sớm. Tuổi nghỉ hưu theo tiêu chuẩn là 55 đối với nữ và 60 đối với nam. Tuy nhiên, những người làm việc trong khu vực tư nhân và những người tham gia hệ thống tự nguyện có thể hoãn tuổi về hưu tới 5 năm (60 đối với nữ và 65 đối với nam). Trong hệ thống bắt buộc, với khả năng nghỉ hưu 5 hoặc 10 năm sớm hơn trong những điều kiện nhất định – ví dụ như làm việc trong môi trường làm việc nguy hiểm và khó khăn ít nhất 15 năm, lao động bị dôi dư do việc tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, hoặc mất khả năng lao động. Công thức tính lương hưu cho nghỉ hưu sớm tương tự như công thức lương hưu tiêu chuẩn, trừ trường hợp mất sức lao động thì mức thay thế bị trừ đi 1% cho mỗi năm nghỉ hưu sớm. Đáng chú ý là lương hưu cho các cá nhân nghỉ hưu trước năm 1995 được thanh toán từ ngân sách nhà nước đang tạo ra hai hệ thống chồng chéo. Cho đến tháng 7 năm 1995, khi hệ thống đóng góp hiện tại dựa trên cơ sở đóng góp trong quá trình lao động được đưa ra, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (MOLISA) vẫn trả lương hưu cho các cán bộ, công chức, viên chức, quân đội và các thành viên của các tổ chức của Đảng. Các đối tượng này đã được tích hợp vào hệ thống mới, nhưng Chính phủ ghi nhận rằng các quyền lợi lương hưu có trước năm 1995 vẫn nên do Nhà nước chi trả để chi phí không đánh vào những người đóng góp hiện tại. Do đó, tình hình hiện tại là kết quả hoạt động của 2 hệ thống chồng chéo và vướng víu.5 Ngân sách nhà nước trang trải khoảng một nửa gánh nặng tài chính của chi phí lương hưu hiện nay. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và Bộ Tài chính đang làm việc về tính toán chuyển giao ngân sách từ Chính phủ để trang trải các chi phí lợi ích hưu trí của người lao động nghỉ hưu hiện nay dựa trên thời gian đã làm việc trước năm 1995. Quĩ dự trữ của hệ thống là 5,78 tỷ đô la Mỹ, tương đương với 5 % GDP hoặc 7 năm chi trả lương hưu hiện tại, với thực tế hiện nay khoảng một nửa chi trả lương hưu cho những người nghỉ hưu trước năm 1995. Từ tháng 5/2012, dưới sự hướng dẫn của Nghị quyết Đảng Cộng sản Việt Nam về Bảo hiểm Xã hội mới được ban hành, Việt Nam đang thực hiện những sáng kiến đổi mới. Trong lĩnh vực lương hưu, sáng kiến mới nhằm tăng cường khả năng bền vững tài chính trong dài hạn của hệ thống, giảm khoảng cách lợi ích giữa khu vực công và khu vực tư, và tăng độ bao phủ. Với mục tiêu tăng độ bao phủ bảo hiểm xã hội từ 19% lên 50% vào năm 2020, có nghĩa là hưu trí xã hội không phải là giải pháp duy nhất để giảm khoảng trống bao phủ, và Chính phủ sẽ phải tìm cách tăng độ bao phủ thông qua việc ủng hộ tham gia tự nguyện. Hơn nữa, tăng cường năng lực hành chính của cơ quan Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (BHXHVN) dường như là một lộ trình không thể tránh được nhằm mục đích mở đường cho những cải cách chính sách phát huy hiệu quả. 5 Hai hệ thống vướng víu nhau vì Luật bảo hiểm xã hội áp dụng cho tất cả mọi người tham gia vào BHXHVN.Công thức và qui tắc điều chỉnh lại không phân biệt giữa quyền được hưởng trước và sau năm 1995.Kết quả là, mức lợi ích lương hưu hiện tại – bao gồm những người được nhận trước năm 1995 (điều chỉnh lương hưu) – cũng liên quan tới những qui định đang thực hiện trong hệ thống hiện hành. 6
  8. III Những thách thức chính A. Sự bền vững tài chính Thoạt nhìn qua thì việc BHXH Việt Nam tích lũy được dự trữ khá lớn làm cho hệ thống tưởng khá vững mạnh về mặt tài chính. Năm 2010, BHXHVN tích lũy được khoản dự trữ là 5,78 tỷ đô la Mỹ, tương đương với 5% GDP. Số lượng dự trữ lớn là kết quả của số người hưởng lợi còn khá nhỏ so với số người đóng góp. Điều này là do (i) Chương trình mới chỉ được thành lập vào năm 1995, (ii) Phần lớn lực lượng lao động của Việt Nam còn rất trẻ, và (iii) yêu cầu cần có 20 năm làm việc để được hưởng lương hưu làm giảm số lượng người được hưởng trợ cấp trong số những người già hiện nay. BHXHVN nhận tiền từ ngân sách chung để hỗ trợ cho việc chi trả trợ cấp cho những người làm việc trong khu vực công đã nghỉ hưu trước năm 1995. Tuy nhiên, mặc dù có lượng dự trữ lớn hệ thống hưu trí của Việt Nam không bền vững về mặt tài chính trong dài hạn. Giá trị hiện tại của các tài sản của BHXH Việt Nam là thấp hơn giá trị hiện tại của nghĩa vụ thanh toán của BHXH Việt Nam. Điều này là do: (i) Sự suy giảm nhanh chóng khả năng sinh sản và dự báo dân số già đi của Việt Nam sẽ làm gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ phụ thuộc của hệ thống - được định nghĩa là số lượng người hưởng lợi tính trên mỗi người đóng góp - từ giá trị hiện tại của nó là 0,11 (không kể số người về hưu trước 1995) lên tới khoảng 0,50 vào năm 2050, (ii) độ tuổi nghỉ hưu thấp (trung bình 54,3 tuổi) so với tuổi thọ, và (iii) trợ cấp thu nhập tương đối cao phản ánh các tỷ lệ lợi ích cao tích lũy được từ mỗi năm làm việc, đặc biệt là cho phụ nữ và lao động khu vực công. Hơn nữa, lãi suất của quĩ BHXHVN thấp hơn tỷ lệ lạm phát.Vấn đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn ở phần dưới 7
  9. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Hệ thống được dự báo sẽ rơi vào thâm hụt trong tương lai gần, và ngày mà lượng dự trữ sẽ cạn kiệt phụ thuộc vào số lợi nhuận mà BHXHVN sẽ thu được từ tài sản của mình.Các mô phỏng dài hạn (ILSSA, 2009) cho thấy vào khoảng năm 2030, hệ thống sẽ bắt đầu phát sinh thâm hụt và sẽ ngừng tích lũy dự trữ (Hình 2 trình bày xu hướng dự trữ kỳ vọng được tính theo %GDP). Các dự báo gồm rất nhiều giả thuyết, do đó dự báo ngày mà BHXHVN bắt đầu thâm hụt là không chính xác. Tuy nhiên, dự báo chỉ ra xu thế dài hạn của hệ thống.6 Biểu đồ bên dưới trình bày xu hướng kỳ vọng của thu nhập và chi tiêu của bảo hiểm hưu trí. Hình2: Quĩ hưu trí không bền vững về tài chính trong dài hạn Hệ thống hưu trí Cân đối tài chính hàng năm của quỹ hưu trí Việt Nam Tình huống cơ bản 0.8% 12.00% 0.6% 10.00% 0.4% 8.00% 0.2% P 0.0% 6.00% của GD của GDP của -0.2% % % 4.00% -0.4% 2.00% -0.6% -0.8% 0.00% 8 0 2 4 8 8 0 2 4 8 9 0 2 4 8 0 2 4 8 8 0 200 201 201 201 201 201 202 202 202 202 202 203 203 203 203 204 204 204 204 204 205 -1.0% 8 Tổng thu từ phần đóng góp trong năm Chi phí trong năm (trừ những người về hưu trước năm 1995) 200 2012 2016 2020 2024 2028 2032 Thu nhập trừ chi tiêu trong năm, ngoại trừ Nguồn : ILSSA, 2009 6 Dự báo bao gồm nhiều giả thiết liên quan tới xu hướng việc làm trong khu vưc chính thức, mức trợ cấp hưu trí, tuổi nghỉ hưu, tuổi thọ, v.v Những giả thiết chính là: khu vực chính thức đang mở rộng và sẽ bao gồm 50% số người đang trong tuổi lao động vào năm 2050, tỷ lệ lao động trong khu vực tư nhân đến tuổi về hưu và có quyền hưởng lương hưu sẽ tăng từ 20% năm 2015 lên 80% năm 2027, GDP và tỷ lệ tăng lương là 12%/năm, và lạm phát là 5%. Tuy nhiên trong tương lai mức độ của những biến số này là không xác định được. Do đó, dự đoán không thể đưa ra qui mô thặng dư và thâm hụt của quĩ hưu trí BHXHVN tại một thời điểm xác định 8
  10. NHỮNG THÁCH THỨC CHÍNH Tuổi nghỉ hưu trung bình thấp Người lao động Việt Nam nghỉ hưu sớm so với tuổi thọ. Vì người Việt Nam sống lâu hơn nên thời gian họ có thể được hưởng lương hưu sẽ tương đối dài hơn so với các nước châu Á khác. Mặc dù tuổi nghỉ hưu của phụ nữ là 55 và của nam giới là 60, thấp hơn so với các nước khác, nhưng nghỉ hưu sớm lại khá phổ biến trong khu vực công, bình quân phụ nữ nghỉ hưu ở độ tuổi 51 và nam giới là 54 (Hình 3). Kết quả là thời gian trả lương hưu dài hơn tạo nên áp lực cho hệ thống. Trong nửa bên phải của Hình 3, Việt Nam được xếp hạng sau Trung Quốc, về khoảng cách giữa tuổi thọ và tuổi nghỉ hưu. Khoảng cách cho Việt Nam thậm chí còn lớn hơn nữa nếu xem xét tuổi nghỉ hưu trung bình thực tế. Hình 3: Lao động Việt Nam nghỉ hưu sớm, và có khoảng cách lớn giữa tuổi thọ và tuổi nghỉ hưu Tuổi nghỉ hưu trung bình theo quan sát ở Việt Nam So sánh quốc tế về khoảng cách giữa ) tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ 60 90 80 58 70 60 56 50 40 54 30 52 20 10 50 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 -pin -xi-a ga-po y-xi-a Thái Lan iệt Nam Nam giới Phụ nữ năm (trong thọ tuổi và hưu nghỉ Tuổi Phi-líp Hàn Quốc V Hồng kôngSing- Ma-la rung Quốc In-đô-nê T Tuổi nghỉ hưu (luật hiện nay) Tuổi thọ Nguồn: Tuổi nghỉ hưu của phụ nữ ở Việt Nam – Bình đẳng giới và Sự bền vững của Quĩ Bảo hiểm Xã hội, NHTG, 2009 9
  11. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Chi trả lương hưu tăng lên Trong một đất nước khi thu nhập của người lao động đang tăng nhanh, việc điều chỉnh thu nhập lương hưu theo tỷ lệ tăng của lương tối thiểu (lương của khu vực công) đang gây áp lực lớn tới việc chi trả và khả năng chi trả trong tương lai của hệ thống. Xu hướng này càng rõ hơn khi gần đây đã có sự cố gắng thống nhất lương tối thiểu giữa khu vực trong nước và khu vực đầu tư nước ngoài, theo như yêu cầu của việc gia nhập WTO. Tuy nhiên kịch bản bi quan và kết quả thể hiện trong Hình 4 bên dưới có thể trì hoãn lại nếu một số thay đổi chính sách được đưa ra. Một ví dụ của thay đổi chính sách là thay đổi lương hưu với tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ tăng lương (tức là dựa vào chỉ số giá hàng tiêu dùng như trình bày trong Hình 4 bên dưới). Hình 4.Vị trí của quĩ hưu trí của Việt Nam nếu lương hưu được điều chỉnh dựa trên CPI Hệ thống hưu trí Tình huống cơ bản 7.00% 6.00% 5.00% P 4.00% của GD của % 3.00% 2.00% 1.00% 0.00% 2008 2010 2012 2014 2016 2018 2020 2022 2024 2026 2028 2030 2032 2034 2036 2038 2040 2042 2044 2046 2048 2045 Tổng thu từ phần đóng góp trong nămChi phí trong năm (trừ những người về hưu trước những năm 1995) Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả dựa trên số liệu của ILSSA, 2009 Mức lương hưu cao so với tiền lương của người đóng bảo hiểm Tỷ lệ trợ cấp lương hưu tối đa đến 75% mức lương đóng bảo hiểm xã hội hiện nay ở Việt Nam là không thể chi trả được theo tiêu chuẩn quốc tế. Nam giới về hưu sau 30 năm công tác và phụ nữ về hưu sau 25 năm công tác sẽ nhận mức trợ cấp tới 75% mức lương được sử dụng để tính trợ cấp. Vì trong việc tính toán tiền lương của khu vực công được thể hiện tương ứng với lương tối thiểu, do đó trợ cấp hưu trí gần với mức lương cuối cùng trước khi nghỉ hưu. Như đường liền mạch màu xanh trong Hình 4 cho thấy đối với những người lao động đóng bảo hiểm trên 20 năm sẽ được hưởng mức lương hưu hào phóng hơn so với đóng góp của họ. Hàm ý quan trọng là trừ khi lợi nhuận từ đầu tư của quỹ lương hưu cao hơn lãi suất tiết kiệm, thì hệ thống lương hưu hiện nay đang mất cân đối về tài chính. Tuy nhiên, lợi nhuận của đầu tư từ quĩ lương hưu không và sẽ không đủ cao (hoặc trong trường hợp khác chúng sẽ quá mạo hiểm vì lợi nhuận mong đợi cao có mối quan hệ dương với độ mạo hiểm cao) để chi trả cho mức lợi ích đó. 10
  12. NHỮNG THÁCH THỨTenC CHÍNH muc Tương tự, việc qui định mức trợ cấp hưu trí tối thiểu phải bằng mức lương tối thiểu sẽ gây ra vấn đề cho bền vững tài chính. Những người đóng góp bảo hiểm dựa trên mức lương tối thiểu nhưng lại được trợ cấp hưu trí bằng với mức lương tối thiểu cao hơn so với trợ cấp hưu trí tính theo công thức. Ví dụ, người lao động đã đóng bảo hiểm theo mức lương tối thiểu trong 20 năm sẽ nhận được 55% (hoặc 60% đối với phụ nữ) mức lương tối thiểu khi họ đến tuổi về hưu. Theo luật họ được đảm bảo mức trợ cấp hưu trí tương đương với 100% mức lương tối thiểu. Thực tế việc báo cáo tiền lương không đầy đủ sẽ mang tới kết quả là con số quá lớn người hưởng lương hưu tối thiểu và trong tương lai sẽ gây nên vấn đề bền vững tài chính. Thiếu chiến lược đầu tư và chi trả dài hạn của BHXHVN Lợi nhuận đầu tư hiện tại của BHXHVN thấp phản ánh chiến lược đầu tư quá mạo hiểm. Như đã trình bày ở trên, Việt Nam tích lũy được quĩ dự trữ hưu trí đáng kể, tổng số lên tới gần 5,78 tỷ đô la Mỹ năm 2010. Hiện nay, quản lý quĩ BHXHVN không đa dạng và danh mục đầu tư chỉ bao gồm những tài sản có lợi tức cố định. Chiến lược đầu tư này chịu ít mạo hiểm nhưng lại mang đến tỷ lệ lợi nhuận thấp, đôi khi thấp hơn lạm phát như thấy ở Hình 5. Hình 5: Lợi nhuận đầu tư của BHXHVN vẫn còn thấp và thấp hơn tăng trưởng GDP và lạm phát Lợi nhuận của Quỹ đầu tư của BHXHVN, 2003-2010 30.0 CPI Chỉ số tiêu dùng 25.0 GDP Tăng trưởng (danh nghĩa) 20.0 Tỷ suất lợi tức (%) 15.0 10.0 5.0 0.0 2003 2004 2005 2006 2007 2008 20092010 Năm Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả dựa trên số liệu của BHXHVN Hơn nữa, năng lực đầu tư quĩ tại BHXHVN còn hạn chế. Dường như quĩ sẽ không đáp ứng được nhiệm vụ/khả năng trong tương lai nếu mục tiêu đầu tư của BHXHVN không được đặt ra một cách rõ ràng và nếu quá trình đầu tư không được tiến hành. Mặc dù Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 cho phép quản lý quĩ BHXHVN nhiều quyền tự chủ và linh hoạt hơn trong việc xây dựng chính sách đầu tư và mở rộng danh mục đầu tư, quĩ BHXHVN cần phải có định hướng thay đổi rõ ràng và năng lực quản lý đầu tư mạnh hơn để cải thiện việc thực hiện quản lý quĩ. 11
  13. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Chưa chỉ rõ ai là người chủ thực sự của tài sản quĩ, như được phản ánh trong trách nhiệm báo cáo. BHXHVN chịu sự giám sát của Hội đồng Quản lý, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Cấu trúc này thừa nhận Nhà nước cuối cùng là người đảm bảo quyền hưu trí. Tuy nhiên, việc tạo ra cơ chế này vẫn không giải quyết được xung đột lợi ích đang tồn tại giữa BHXHVN và Chính phủ. Với tư cách là người quản lý khoản đóng góp của người tham gia bảo hiểm, BHXHVN cần phải tìm cách thực hiện chiến lược đầu tư có thể mang lại lợi nhuận cao nhất. Ngược lại, sự quan tâm của Chính phủ lại là thu được quĩ với chi phí thấp nhất. Từ quan điểm này, thặng dư của đóng góp bảo hiểm là khoản thuế cung cấp cho nguồn ngân sách và có thể duy trì tăng trưởng. Những người đóng bảo hiểm ở Việt Nam cho rằng họ chắc chắn được Chính phủ đảm bảo lương hưu tương lai của họ nên họ thấy không cần phải bận tâm và không có nhu cầu cần được cung cấp thông tin về hoạt động của BHXHVN. Việc không rõ ràng về ai là người chủ thực sự của quĩ và khả năng chi trả trong tương lai có lẽ là lý do tại sao quĩ BHXHVN chỉ có trách nhiệm báo cáo cho Ban Quản lý và một số cơ quan Chính phủ (Bộ Tài chính, Bộ Lao động, thương binh và xã hội hàng năm; và Quốc hội và Thanh tra Chính phủ nếu có yêu cầu), mà không báo cáo cho chính các thành viên của nó, những người đóng góp vào quĩ (Hình 6). Hình 6: Mối quan hệ báo cáo hiện tại cho thấy trách nhiệm giải trình của BHXHVN là cho Chính phủ chứ không phải là cho người đóng bảo hiểm Cơ quan điều tiết: Cơ quan quản lý Cơ quan lập pháp: � BỘ LĐTB&XH Hội đồng quản lý - Quốc Hội � BỘ Y TẾ Bộ trưởng Bộ Tài chính - Thanh tra Chính phủ ̣ ̣ Điều hành BHXHVN Báo cáo Dòng tiền Quỹ lương hưu Thành viên của quỹ Người đóng góp Người hưởng lợi B. Công bằng Có bất bình đẳng giữa các nhóm tham gia và hệ thống hưu trí Việt Nam còn cách xa tiêu chuẩn bảo hiểm. Trong một hệ thống hưu trí công bằng theo tiền đóng bảo hiểm, những lợi ích hưu trí của người tham gia sẽ gắn kết chặt chẽ với thời gian và số tiền đóng góp và tuổi thọ trung bình của người đóng bảo hiểm vào thời điểm họ nghỉ hưu.7 Nguyên tắc này 7 So sánh hệ thống lương hưu với hệ thống tiết kiệm bảo hiểm công bằng sẽ giúp hiểu được cá nhân nào có đặc quyền trong hệ thống đó. Hệ thống đóng tiền bảo hiểm được sử dụng cho sự so sánh này là một hệ thống giả thuyết trong đó giá trị hiện tại của tổng phí bảo hiểm đóng góp cộng với lãi suất phải bằng với giá trị hiện tại của tổng số tiền lương 12 hưu mà người nghỉ hưu kỳ vọng nhận được trong tương lai.
  14. NHỮNG THÁCH THỨTenC CHÍNH muc được áp dụng không kể giới tính và/hoặc khu vực (công và tư) nơi người tham gia bảo hiểm làm việc. Tuy nhiên, tại Việt Nam, trợ cấp hưu trí là khác nhau theo giới tính và khu vực ở một vài điểm sẽ được thảo luận dưới đây. Người lao động trong khu vực công có lợi ích hưu trí tốt hơn so với các đồng nghiệp trong khu vực tư nhân. Như đã đề cập ở trên, các nguyên tắc khác nhau được áp dụng để tính lương hưu, trung bình tiền lương 10 năm cuối cùng cho khu vực công, so với mức lương trung bình cả đời của khu vực tư nhân. Đối với người lao động khu vực tư nhân, tiền lương lịch sử được tính giá trị bằng cách sử dụng các thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng. Đối với người lao động khu vực công, tiền lương lịch sử được biểu thị tương đối so với mức lương tối thiểu cho mục đích tính toán lợi ích tại thời điểm được hưởng lợi. Nhìn vào Hình 7 ta thấy trợ cấp của hệ thống khác biệt rất lớn giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, bỏ xa đường chuẩn thị trường hoặc trường hợp đóng tiền bảo hiểm cao. Hình 7. So với đường chuẩn thống kê bảo hiểm, trợ cấp của hệ thống là rất không công bằng 60% 60% 55% 55% 50% 50% 45% 45% 40% 40% 35% 35% 30% 30% 25% 25% 20% 20% 15% 15% 10% 10% 10 18 26 34 10 18 26 34 Số năm đóng góp Số năm đóng góp Trường hợp đóng bảo hiểm cao Công Tư Trường hợp đóng bảo hiểm cao Công Tư Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam 2007. Chú thích: So sánh giữa Phụ nữ (Hình trái) và Nam giới (Hình phải), trục y là tỷ lệ thay thế trong % tiền lương cuối cùng. Có sự khác biệt về giới, lao động nữ có lợi ích tốt hơn so với các đồng nghiệp nam giới. Như đã thảo luận ở trên, phụ nữ nhận được 3% lương mỗi năm sau 15 năm phục vụ, so với 2% đối với nam giới. Hơn nữa, phụ nữ được hưởng chế độ hưu trí sớm hơn nam giới 5 năm . Vì tuổi thọ trung bình của phụ nữ cao hơn nam giới, do vậy họ trung bình sẽ được hưởng lợi từ hệ thống lương hưu cho khoảng thời gian dài hơn nam giới. Mức độ và các tiêu chí được hưởng lương hưu tàn tật ít mang lại sự bảo trợ. Quyền hưởng lương hưu tàn tật rất hạn chế và trợ cấp hưu trí thấp hơn so với phần trợ cấp hưu trí cho những người tham gia có thể nghỉ hưu sớm. Chỉ phụ nữ 45 tuổi trở lên và nam giới 50 13
  15. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai tuổi trở lên có thời gian đóng phí bảo hiểm 20 năm8 được quyền hưởng lương hưu tàn tật nếu họ mất 61% hoặc hơn khả năng làm việc. Trợ cấp hưu trí được tính giống như trợ cấp hưu trí khác nhưng mức lương hưu tính theo phần trăm lương trung bình của người nghỉ hưu bị giảm 1% cho mỗi năm nghỉ hưu trước năm nghỉ hưu chuẩn. Những người tàn tật có nguy cơ nghèo đói cao, và đòi hỏi được giúp đỡ và chăm sóc y tế nhiều hơn so với người khác. Giảm trợ cấp hưu trí và hạn chế lương hưu tàn tật cho người già đi ngược với nhiệm vụ nhà nước đề ra cho an sinh xã hội là bảo vệ người lao động khỏi những cú sốc thu nhập và rơi vào tình trạng nghèo đói. C. Phạm vi bảo hiểm Số liệu thống kê phạm vi bảo hiểm cơ bản Hình 8: Phạm vi bảo hiểm của Việt Nam bị hạn chế (những năm gần đây) 100.0% 90.0% 80.0% Nga 70.0% U-crai-na Ăc-mê-ni-a 60.0% Mô-đô-va Brazil 50.0% Romania An-ba-ni Serbia Ma-xê-đô-ni-a 40.0% Cộng hoà Kyrgyz Bô-sni-a Gioc-gi-a AzerbaidanKa-dac-tan 30.0% Mê-hi-cô 20.0% Trung Quốc Việt Nam 10.0% Ấn Độ 0.0% Độ bao phủ (thành viên đóng phí/lực lượng lao động) 5,000 15,000 20,000 Thu nhập theo đầu người (PPP) nguồn : TBC Mặc dù hệ thống hưu trí được phát triển nhanh chóng trong hai thập kỷ qua, nhưng chỉ có một phần nhỏ dân số đang làm việc tham gia đóng bảo hiểm. Phân tích số liệu của Tổng điều tra Doanh nghiệp cho thấy năm 2005 lao động trong khu vực chính thức có khoảng 6,2 triệu người (không bao gồm khối hành chính công và quân đội); 3,7 triệu (60%) tham gia bảo hiểm, 1,2 triệu (19%) làm việc theo hợp đồng ngắn hạn và không tham gia bảo hiểm, và 1,3 triệu (21%) làm việc trong các doanh nghiệp trốn đóng tiền bảo hiểm xã hội. Với sự phát triển liên tục của khu vực tư nhân kể từ năm 2000 trở lại đây, phạm vi bảo hiểm cũng tăng đều. Năm 2010 khoảng 9,4 triệu người đăng ký trong BHXHVN (bao gồm cả khối hành 8 15 năm nếu người lao động làm việc trong điều kiện làm việc khó khăn và nguy hiểm 14
  16. NHỮNG THÁCH THỨTenC CHÍNH muc chính công và quân đội). Số này chỉ chiếm có 21,8% dân số đang làm việc, với phạm vi bảo hiểm giới hạn chủ yếu trong khu vực kinh tế chính thức mà lực lượng lao động hiện tại của Việt Nam là 43 triệu người. Như đã chỉ ra ở Hình 8 bên trên, mức độ bao phủ này không phải là thấp so với mức thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam, nhưng tương đối thấp so với các nước khác ở Đông Á và có lẽ là thấp với thách thức về tuổi của dân số. Điều này cũng cho thấy thách thức cơ bản mà Chính phủ phải đối mặt là đạt được mục tiêu mở rộng phạm vi bảo hiểm 50% lực lượng lao động vào năm 2020. Số liệu từ Điều tra mức sống dân cư cho thấy khoảng 10% người già (trên 60 tuổi) nhận lương hưu. Người nghèo trong số người già chiếm 18% năm 2010, thấp hơn trung bình ở Việt Nam (20,75 % dựa vào chuẩn đường nghèo chi tiêu của Tổng cục Thống kê-Ngân hàng Thế giới), nhưng với sự thay đổi về kinh tế, xã hội và nhân khẩu (bao gồm di cư, số lượng gia đình nhỏ tăng lên, chi phí y tế tăng, vv.) điều kiện sống khó khăn của người già đang là vấn đề rất đáng quan tâm cho xã hội Việt Nam trong những năm tới. Tham gia Mức tham gia vào hệ thống bảo hiểm bắt buộc thấp, một phần là do sự kết hợp của việc trốn tránh, thiết kế chính sách, và thiếu nhận thức, và muốn có thu nhập trong ngắn hạn. Phạm vi tham gia thấp này không chỉ do sự trốn tránh diễn ra khá phổ biến, giống như ở nhiều nước có thu nhập thấp-trung bình, mà còn do những qui định của chương trình. Nông dân và những người tự kinh doanh – đối tượng không bắt buộc phải tham gia bảo hiểm – vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động Việt Nam. Năm 2008, Việt Nam có 11,3 triệu người lao động không có thu nhập tính theo lương định kỳ, chiếm 1/5 dân số lao động. 9 Hơn nữa, doanh nghiệp có ít hơn 10 công nhân không có nhiệm vụ pháp lý đăng ký với cơ quan thuế và có thể có quan điểm sai lầm khi nghĩ rằng họ cũng được miễn đăng ký số người lao động trong doanh nghiệp của họ với BHXHVN.10 Việc sử dụng rộng rãi hợp đồng lao động ngắn hạn cũng hạn chế độ bao phủ của hệ thống bắt buộc. Phân tích dữ liệu Tổng điều tra Hộ gia đình và Doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê cho thấy trong năm 2006, khoảng 30% công nhân viên của doanh nghiệp hoặc 3 triệu cá nhân đã được tuyển dụng theo hợp đồng ngắn hạn hoặc thông qua các trung gian (VASS CAF, 2009). Tuy nhiên, điều chưa rõ là, việc sử dụng rộng rãi các hợp đồng ngắn hạn là nhằm đáp ứng nhu cầu cho sự linh hoạt của doanh nghiệp hay là cho ý định của doanh nghiệp để tránh phải chi trả các khoản đóng góp xã hội. Tương tự như vậy, 7,7 triệu lao động đang làm việc trong các đơn vị kinh doanh nhỏ, rất nhiều người trong số họ không có hợp đồng lao động. Tiền lương báo cáo thấp, điều có thể xảy ra do kẽ hở của các qui định, là yếu tố khác giúp cho các doanh nghiệp trốn đóng góp bảo hiểm và trả lương thực tế cao hơn. Tiền lương báo cáo trong hợp đồng lao động có thể thấp hơn nhiều so với tiền lương thực tế chi 9 Những người lao động không có lương bao gồm 3 nhóm: tự làm việc và chủ lao động trong các doanh nghiệp phi nông nghiệp; nông dân và các cá nhân làm việc trong các doanh nghiệp lâm nghiệp và ngư nghiệp; và những lao động trong một số loại doanh nghiệp trong hoặc ngoài nông nghiệp. 10 Doanh nghiệp nhỏ - dưới 10 lao động – được qui định theo Nghị định 88/2006/ND-CP, 29/8/2006. 15
  17. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai trả tùy thuộc vào cách thanh toán đã được thiết lập nhằm giảm thiểu sự đóng góp của người sử dụng lao động cho bảo hiểm xã hội. Hơn nữa, tiền lương báo cáo trong hợp đồng lao động đầu tiên thường không thay đổi theo thời gian, mặc dù tiền lương thực tế tăng lên. Theo nghiên cứu của Viện KHXH Việt Nam, đây là thực tế khá phổ biến được các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng để đưa ra mức lương hiện tại cao hơn cho người lao động nhằm thu hút thêm nhân công. Nghiên cứu cho thấy chi phí đóng góp bảo hiểm được trả vào lương tính trung bình thấp hơn một nửa (42,7%) lương thực tế. Hơn nữa, ít hơn 10% doanh nghiệp trả phí đóng góp bảo hiểm cho tiền lương hiện tại của người lao động (VASS, 2009). Để đổi lấy mức lương hiện tại cao hơn, người lao động không quan tâm tới việc yêu cầu nhà tuyển dụng lao động trả phí bảo hiểm xã hội dựa trên tiền lương thực tế. Điều này sẽ dẫn đến mức thay thế thu nhập hiệu quả thấp khi họ đến tuổi nghỉ hưu và hưởng lương hưu. Phạm vi bảo hiểm của hệ thống tự nguyện vẫn còn rất thấp, chủ yếu do không đủ hấp dẫn đối với người mới tham gia. Tỷ lệ tham gia chương trình bảo hiểm tự nguyện vẫn thấp trong hai năm 2009 và 2010, với số người tham gia chủ yếu là các cá nhân chuyển ra khỏi khu vực chính thức và muốn hoàn thành thời gian đóng phí bảo hiểm tối thiểu cần thiết để được hưởng lương hưu khi tới tuổi nghỉ hưu. Cách thiết kế chính sách của chương trình bảo hiểm hiện nay có thể không khuyến khích tham gia: những người tham gia cần có đóng góp ít nhất 20 năm để được hưởng chế độ hưu trí, và nếu không đủ 20 năm họ sẽ được trả lợi ích trọn gói một lần cho tuổi già. Như đã đề cập ở trên, số tiền nhận một lần cho thời gian đóng phí bảo hiểm ngắn tương đương với 1,5 tháng của tiền lương báo cáo trung bình của người nghỉ hưu một năm đóng góp, đây thực sự là khoản trợ cấp nhỏ. Những phụ nữ ở độ tuổi đầu 40 và những người đàn ông ở độ tuổi giữa 40 sẽ có ít động cơ để tham gia. Tỷ lệ tham gia của lao động trẻ cũng rất thấp, có lẽ một phần vì thiếu sự nhận thức của công chúng về chương trình và có thể là thiếu sự đảm bảo lương hưu tối thiểu, có thể gây ra nhận thức chung rằng các quy định của chương trình tự nguyện là kém thu hút và kém lôi cuốn hơn so với các quy định của chương trình bắt buộc. Trợ cấp hưu trí ở Việt Nam được coi là khá rộng rãi cho lao động khu vực nhà nước so với khu vực tư nhân. Một số lý do giải thích cho vấn đề này. Đầu tiên, định nghĩa về tiền lương trung bình làm cơ sở để tính lương hưu đã tạo ra khoảng cách lớn giữa hai khu vực. Như đã đề cập ở trên, trong khi tiền lương khu vực nhà nước được điều chỉnh theo tốc độ tăng của lương tối thiểu, thì tiền lương của khu vực tư nhân lại dựa vào chỉ số giá tiêu dùng. Tuy nhiên, điều quan trọng là dựa trên cơ sở thống kê bảo hiểm, trợ cấp hưu trí trả cho người nghỉ hưu trong khu vực nhà nước cao hơn nhiều so với mức mà những người tham gia này có thể có được từ số tiền tiết kiệm tương đương đầu tư trong khu vực tài chính. Thứ hai, lương hưu tỷ lệ với số năm làm việc. Lao động trong khu vực tư nhân không ổn định như trong khu vực nhà nước và lao động trong khu vực tư nhân thường có ít năm làm việc khi đến tuổi về hưu hơn so với lao động trong khu vực nhà nước. Trên cơ sở thống kê bảo hiểm, trợ cấp hưu trí trả cho người đến tuổi nghỉ hưu có dưới 20 năm làm việc là rất thấp. Thứ ba, tình trạng tiền lương báo cáo thấp là rất phổ biến trong khu vực tư nhân. Điều này có nghĩa là trợ cấp hưu trí chiếm phần nhỏ trong phần thu nhập của người lao động. 16
  18. NHỮNG THÁCH THỨTenC CHÍNH muc Các kết cục chắc chắn sẽ xảy ra nếu không có cải cách Vì phần lớn lực lượng lao động thuộc khu vực phi chính thức, nên sẽ có ít hơn một nửa người già có thể nhận được lương hưu vào năm 2050. Như chỉ ra trong Hình 9, dự báo chỉ một số lượng nhỏ người già nghỉ hưu theo chương trình tự nguyện. Nếu như khuyến khích tham gia chương trình tự nguyện vẫn thấp, thì đến năm 2050 sẽ có ít hơn một nửa số người già được hưởng lương hưu. Phụ nữ trong độ tuổi đầu 40 và nam giới giữa độ tuổi 40 vẫn có ít động lực tham gia. Hình 9. Người nghỉ hưu và người già không có lương hưu Người hưởng lương hưu và người cao tuổi không có lương hưu 30.0 Người hưởng lương hưu về hưu 25.0 tự nguyện người cao tuổi không có 20.0 lương hưu Người hưởng lương hưu về hưu trước năm 1995 15.0 iệu nghìn Tr 10.0 Người hưởng lương hưu về hưu từ khu vực tư nhân 5.0 Người hưởng lương hưu về hưu từ khu vực nhà nước 0.0 2008 2013 2018 2023 2028 2033 2038 2043 2048 Nguồn: Castel, 2011. Tính toán dựa trên mô hình lương hưu của Điều tra mức sống dân cư 2006 và ILSSA, 2009 17
  19. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Đáng chú ý, một tỷ lệ lớn người lao động thu nhập thấp không thể chi trả để tham gia vào hệ thống hưu trí. Người lao động thu nhập thấp bao gồm tất cả những người có thu nhập thấp hơn lương tối thiểu (tính theo năm). Theo điều tra mức sống hộ gia đình của Tổng cục thống kê năm 2008, Việt Nam có 13,1 triệu người lao động thu nhập thấp năm 2008. Mặc dù tất cả những người này không nhất thiết là nghèo, nhưng tác động nghèo đói vào nhóm này thường là cao: như chỉ ra trong Bảng 1, 38,2% nhóm người này là nghèo hoặc cận nghèo trong năm 2008.11 Những người này không thể chi trả để tham gia hệ thống an sinh xã hội, vấn đề có liên quan tới phạm vi tham gia bảo hiểm cũng như nghèo đói trong nhóm người già. Bảng 1 Tình trạng việc làm và nghèo đói của dân số đang làm việc và người già Không Nghèo và Tổng số nghèo cận nghèo * Người có tiền lương 89,3 10,7 100 Những người đăng ký trong BHXHVN 94,0 6,0 100 Những người có hợp đồng ngắn hạn hoặc trong 91,6 8,4 100 những doanh nghiệp không đăng ký trong BHXHVN Những người trong các doanh nghiệp rất nhỏ không 83,4 16,6 100 đăng ký trong BHXHVN Người không có tiền lương định kỳ 88,4 11,6 100 Tự làm việc trong khu vực nông nghiệp, làm chủ 95,2 4,8 100 Nông dân 82,6 17,4 100 Những người làm nông nghiệp và phi nông nghiệp 86,5 13,5 100 Người thu nhập thấp 61,8 38,2 100 Người nghỉ hưu và không hoạt động 87,9 12,1 100 Người nghỉ hưu sớm 92,8 7,2 100 Những người không làm việc 87,8 12,2 100 Tổng dân số trong độ tuổi lao động 82,2 17,8 100 11 Cận nghèo được định nghĩa là hộ gia đình có tiêu dùng bình quân đầu người bằng 130% những người trong nhóm ngũ phân vị thứ nhất Chú ý: * được định nghĩa như là sống trong hộ gia định với tiêu dùng đầu người là bằng 130% của những người trong nhóm ngũ phân vị đầu tiên. Nguồn: Đề cương chính sách của Castel 6, 2011. 18
  20. NHỮNG THÁCH THỨTenC CHÍNH muc Một tỷ lệ lớn dân số có thể không được hưởng lương hưu. Việc phân loại dân số đang làm việc dưới tuổi nghỉ hưu năm 2008 theo nghề nghiệp và tình trạng bảo hiểm xã hội giúp phân chia thành 3 nhóm khác nhau: (i) những người tham gia đóng bảo hiểm dưới 20 năm và sẽ được trợ cấp một lần (15%), (ii) những người đóng phí bảo hiểm ít hơn 20 năm sẽ được trợ cấp một lần vào tuổi nghỉ hưu và là người nghèo (11,6%), và (iii) những người tham gia có thể được hưởng trợ cấp một lần vào tuổi nghỉ hưu nếu họ tiếp tục đóng phí bảo hiểm xã hội ( 0,8%). Hình 10. Phạm vi trợ cấp hưu trí tại tuổi nghỉ hưu Được hưởng lương hưu khi nghỉ hưu: phân chia (theo %) của dân số lao động 15,0 Không được hưởng lương hưu, chỉ được nhận trợ cấp một lần nếu có đóng góp – Cho những người không thuộc diện nghèo Không được hưởng lương hưu, chỉ được nhận trợ cấp một lần nếu có đóng góp – 11,6 Cho những người thuộc diện nghèo 57,3 Được hưởng lương hưu và được nhận lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu Được hưởng lương hưu nhưng chỉ nhận 15,4 được trợ cấp một lần khi đến tuổi nghỉ hưu Không được hưởng lương hưu và chỉ được nhận lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu nếu 0,8 có đóng góp Nguồn: Paulette (2011) D. Thực thi và Quản lý Mặc dù đang tiến hành những nỗ lực cải cách đáng kể, quản lý an sinh xã hội vẫn đang đối mặt với một số thách thức cơ bản. Những thách thức này bao gồm sự tuân thủ chính sách thấp của khu vực phi chính phủ chính thức, phạm vi tham gia bảo hiểm thấp của người nghèo, nhóm mục tiêu, và nhóm tổn thương về ổn định tài chính. Hơn nữa, mặc dù cam kết của Chính phủ về cải cách quản lý an sinh xã hội là rất mạnh mẽ, nhưng năng lực hoạt động của BHXHVN trong việc thực hiện những nhiệm vụ phức tạp này vẫn cần phải có sự quan tâm. Ngoài bảo hiểm xã hội và thất nghiệp, BHXHVN còn phải quản lý cả chương trình bảo hiểm y tế. Công tác quản lý an sinh xã hội ở Việt Nam không theo kịp với nhu cầu thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế đang hiện đại và chuẩn hóa và dân số đang già. BHXHVN đang bị phân tán, không có sự phối hợp và hệ thống xử lý dữ liệu bằng tay với tính tuân thủ và phạm vi bao phủ thấp. Quá trình kinh doanh của nó yêu cầu có tầm nhìn chiến lược và tái cơ cấu để hợp lý hóa hoạt động và làm cho nó hoạt động có hiệu quả đáp ứng được nhu cầu đang phát triển. Những thách thức bao gồm hệ thống xử lý phân cấp, với hầu hết các hoạt động kinh doanh được giao cho cấp tỉnh và huyện mà không có sự kết nối với cấp trung ương và không có cơ sở 19
  21. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai dữ liệu trung tâm; việc tính toán và tính toán lại phí bảo hiểm đóng góp lấy từ người sử dụng lao động đang làm gia tăng gánh nặng cho BHXHVN; thiếu sự liên kết với Cơ quan quản lý thuế dẫn tới thu không đủ phí đóng bảo hiểm; thiếu cơ sở dữ liệu và thông tin tổng hợp cho công việc giám sát và đánh giá, đặc biệt là hồ sơ của những người đóng phí bảo hiểm và kết quả lương hưu và những thách thức quản lý cơ bản do phải thực hiện Luật Bảo hiểm Y tế, điều này sẽ mang đến sự gia tăng đáng kể số lượng người tham gia và chương trình bảo hiểm y tế. Một vấn đề khác cần đặt ra là việc cấp số nhận dạng cá nhân. Tất cả mọi người đăng ký vào hệ thống bảo hiểm quốc gia cần phải có Số Bảo hiểm Xã hội của riêng mình cho các mục đích nhận diện. Số này cần phải được duy trì suốt thời gian tham gia bảo hiểm của họ mà không phụ thuộc vào huyện và tỉnh nơi họ định cư. Hiện nay các cơ quan BHXHVN cấp tỉnh cấp số nhận dạng theo địa phương mà không phối hợp hoặc kiểm tra chéo với cấp quốc gia để đảm bảo số này là duy nhất. Việc không có số duy nhất cho từng cá nhân có thể dẫn tới sai sót của hệ thống và phức tạp trong việc xử lý số liệu điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Việc cấp số cá nhân thậm chí phức tạp hơn trong hệ thống bảo hiểm y tế khi các cá nhân bắt buộc phải đăng ký lại và có số mới mỗi khi họ chuyển tới một địa điểm mới. BHXHVN còn yếu về qui hoạch hệ thống công nghệ thông tin và năng lực hỗ trợ. Cần phải có một kế hoạch về công nghệ thông tin đồng bộ để phát triển môi trường thông tin chung cho những nhiệm vụ chuẩn như thu phí bảo hiểm, tính toán trợ cấp hưu trí, chi trả trợ cấp hưu trí, kế hoạch ngân sách, và kế toán ngân sách. Tuy nhiên, chưa có được khuôn khổ tổng hợp hoặc kế hoạch để hướng dẫn việc xây dựng và vận hành hệ thống công nghệ thông tin trong bảo hiểm xã hội. Hơn nữa, hệ thống còn chưa có mạng thông tin viễn thông tốc độ cao trên toàn quốc và sự kết nối giữa các cơ quan trung ương, tỉnh và huyện, do đó làm cản trở tốc độ truyền tin và hạn chế việc thu thập và thẩm định thông tin cần thiết. Quá trình thanh toán còn phức tạp và yêu cầu nhiều giấy tờ. Chưa có giải pháp cụ thể thống nhất được xây dựng cho nhận dạng cá nhân, cơ sở phần cứng, cơ sở hệ thống phần mềm, tái tạo dữ liệu, bảo mật dữ liệu, v.v Phòng công nghệ thông tin của BHXHVN trung ương đang tìm kiếm các giải pháp công nghệ thông tin đồng thời một số tỉnh cũng có phòng công nghệ thông tin và tự phát triển các phần mềm ứng dụng có thể làm giảm tính kết nối và bảo mật của dữ liệu. 20
  22. Ten muc IV Những lựa chọn cho tiếp tục cải cách Phân tích ở trên đã chỉ ra những vấn đề quan trọng cần phải đổi mới để phát triển một hệ thống hưu trí hiện đại cho Việt Nam. Cần nhiều cố gắng hơn nữa để mở rộng độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm bắt buộc và của khu vực tự kinh doanh/phi chính thức, tăng cường công bằng, đảm bảo bền vững tài chính, và củng cố công tác thực thi và quản lý. Những cải cách tiềm năng trong từng lĩnh vực này sẽ được trình bày dưới đây. A. Đảm bảo bền vững tài chính Đổi mới chính sách hưu trí Để tăng cường bền vững tài chính, mức đóng phí và quyền lợi về trợ cấp hưu trí phải được dựa vào lương thực trả. Thuyết phục doanh nghiệp và người lao động chi trả phí đóng góp theo tổng tiền lương sẽ giúp làm tăng nguồn cho BHXHVN. Cần phải lưu ý là tuy những thay đổi này sẽ làm chậm lại thời điểm hệ thống bị thâm hụt, nhưng sẽ không giải quyết được vấn đề thâm hụt trong dài hạn vì công thức tính trợ cấp hưu trí quá hào phóng so với xu thế nhân khẩu học, việc làm và chế độ về hưu hiện nay ở Việt Nam. Sự cộng tác chặt chẽ với thanh tra Thuế có thể giúp giải quyết vấn đề này vì doanh nghiệp sẽ có lợi khi báo cáo tổng chi phí lao động cho cơ quan Thuế để giảm thuế doanh thu. Người lao động thích mức lương ròng cao hơn và những khó khăn của doanh nghiệp trong việc giữ người lao động cho thấy để thoát ra khỏi tình trạng hiện tại cần phải có một chiến lược tổng thể. Việc thực thi chính sách trả phí đóng góp dựa trên tổng số tiền lương có thể không khả thi nếu không có các biện pháp bổ sung. Chính sách yêu cầu người lao động phải sẵn sàng nộp trước một phần tiền lương hiện tại của họ cho lợi ích hưu trí tương lai. Để đạt được mục tiêu, cải cách cần bao gồm một số can thiệp chính sách mang lại thay đổi nhận thức của người lao động trong khu vực tư nhân là “đóng góp phí bảo hiểm xã hội giống như thuế hơn là tiết kiệm”. Những can thiệp chính sách này bao gồm các biện pháp gia tăng quyền và lợi ích hưu trí cho những người sẽ nghỉ hưu trong thập kỷ tới thuộc khu vực tư nhân. Những biện pháp này không được thay đổi công thức tính lương hưu vì trong trung hạn, nếu phí đóng góp được trả dựa trên lương thực tế, lương hưu sẽ tăng. Vấn đề không chỉ đòi hỏi thay đổi thái độ của người lao động về an sinh xã hội thông qua các chiến dịch truyền thông mà cần có những cải cách làm cho hệ thống công bằng hơn và hoạt động của BHXHVN hiệu quả hơn. Mở rộng độ bao phủ là động lực mạnh mẽ cho bền vững tài chính trong dài hạn. Mặc dù không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, việc đầu tư nguồn lực vào hỗ trợ sự tham gia và mở rộng độ bao phủ cho người lao động sẽ mở rộng phần đóng phí của BHXHVN và mang lại lợi nhuận tài chính dương. Những đầu tư như vậy sẽ mang lại lợi ích tài chính cho hệ thống. 21
  23. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Kiểm soát tăng trưởng chi tiêu lương hưu Với nguồn lực kỳ vọng của hệ thống, những nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc sự đánh đổi giữa những người được quyền hưởng lương hưu (hầu hết đến tuổi nghỉ hưu) và mức lương hưu. Việc thay đổi công thức tính lương hưu và tuổi nghỉ hưu cần sớm được đưa ra để tạo ra sự thay đổi từ từ. Công thức tính lương hưu có thể được điều chỉnh bằng cách sử dụng đổi mới tham số (từng bước tăng tuổi về hưu, điều chỉnh chỉ số CPI, điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí tối thiểu, v.v ) hoặc sử dụng tài khoản đóng góp cá nhân tượng trưng như đã đề cập ở trên. Người lao động có thể chống lại sự thay đổi công thức tính vì lợi ích của họ bị ảnh hưởng. Có thể nói việc thay đổi càng sớm thì càng dễ dàng vì chỉ số ít người lao động hiện nay có số tiền tiết kiệm đáng kể. Nếu như cải cách sớm được thực hiện thì những thay đổi cần thiết sẽ dần được đưa ra và những người tham gia bảo hiểm và gia đình họ sẽ điều chỉnh theo các giai đoạn của hệ thống mới và khi đất nước phát triển. Nếu cải cách đợi đến khi hệ thống hưu trí bị thâm hụt thì số lượng người về hưu và người đóng bảo hiểm sẽ rất lớn và hệ thống sẽ không đủ nguồn lực để làm giảm nhẹ ảnh hưởng của cải cách tới những người thụ hưởng và những người tham gia đóng bảo hiểm. Trì hoãn cải cách sẽ mang đến nhiều khó khăn và tốn kém hơn cho toàn xã hội. Để giảm áp lực tài chính cho quĩ hưu trí, những chính sách xã hội khác cần phải được cấp vốn từ các nguồn khác. Các khoản này bao gồm nghỉ hưu sớm hoặc tiền bồi thường cho những lao động dôi dư do cải cách doanh nghiệp nhà nước, nghỉ hưu sớm của những người lao động thuộc ngành/công việc đặc biệt (như quân đội, công an, thợ mỏ, và công việc tại các vùng xa xôi hẻo lánh). Vì đây là thành phần của chính sách xã hội, chi phí (thấp hơn trợ cấp hưu trí) của những chương trình này cần phải được đưa ra rõ ràng và BHXHVN có thể xem xét lựa chọn yêu cầu Chính phủ cấp vốn để thực hiện các chính sách xã hội đó. Ví dụ, Chính phủ trả tiền cho những năm nghỉ hưu sớm, trong khi quĩ lương hưu trả tiền kể từ tuổi nghỉ hưu chuẩn và sau đó. Tăng cường năng lực quản lý đầu tư quĩ hưu trí Để tăng cường năng lực quản lý đầu tư quĩ hưu trí, cần tạo ra môi trường và cơ cấu quản lý điều hành tự chủ. Công việc này bao gồm thành lập một Ủy ban Đầu tư dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành để nâng cao năng lực giải quyết những vấn đề quản lý đầu tư chuyên sâu. Điều này giúp tạo ra cơ cấu điều hành quản lý ba cấp của BHXHVN, trong đó Ban điều hành sẽ chịu trách nhiệm và giữ trọng trách đối với những quyết định cấp cao liên quan tới chính sách đầu tư, mức độ mạo hiểm và nhân sự; Hội đồng đầu tư báo cáo và hoạt động trong phạm vi được Ban điều hành cho phép sẽ có trách nhiệm cơ bản về xây dựng chính sách đầu tư, phân bổ tài sản chiến lược và giám sát hoạt động đầu tư; cán bộ quản lý đầu tư phải có trách nhiệm thường xuyên với hoạt động đầu tư. Việc quản trị của Ban Điều hành cần lưu ý đến việc ngoài việc đưa ra những hướng dẫn chiến lược về chính sách đầu tư, có thể sẽ cần phải đối phó với một vài xung đột lợi ích. Vấn đề thứ nhất như đã đề cập ở trên là Chính phủ sẵn sàng hơn trong việc làm giảm quĩ BHXHVN với chi phí thấp. Thứ hai, thực hiện trợ cấp như các chính sách gợi ý ở trên có thể tạo ra lợi nhuận thấp hơn (số tiền đóng phí cao hơn) so với chiến lược đầu tư tài chính thuần túy. Cơ cấu của Ban Điều hành, trách nhiệm của mỗi thành viên và chiến lược giám sát/đánh giá/truyền thông cần phải được lần lượt xác định. 22
  24. NHỮNG LỰA CHỌN CHO TIẾP TỤC CTenẢI C mucÁCH Nguồn nhân lực và đào tạo cũng sẽ là những nền tảng căn bản để xây dựng năng lực quản lý đầu tư. Cần phải thành lập ngay Đơn vị Quản lý Đầu tư với nòng cốt là đội ngũ quản lý đầu tư chuyên nghiệp và tận tâm có kinh nghiệm quản lý đầu tư chuyên sâu. Áp dụng khung phân bổ tài sản chiến lược chính thức (SAA) có thể mang lại điểm tựa trong các quyết định đầu tư của BHXHVN. Khung SAA có thể cho phép quĩ xác định và áp dụng có hệ thống việc phân bổ tài sản dựa trên các tiêu thức mục tiêu của quĩ, mức độ mạo hiểm (bao gồm thời hạn đầu tư hợp lý) và những cân nhắc dựa trên thực tế của thị trường. Đối với trường hợp quản lý quĩ trợ cấp hưu trí của BHXHVN, không những kết quả quản lý quĩ là quan trọng mà còn là các tài sản này có mối quan hệ ra sao với việc hoàn thành các trách nhiệm của quĩ. Chính vì lý do này việc cập nhật thông tin kịp thời về trách nhiệm dự kiến là rất quan trọng trước khi SAA được thành lập. Thậm chí trước khi chấp nhận khung SAA, nên tiến hành đa dạng hóa phân bổ tài sản. Việc phân bổ tài sản hiện tại dựa chủ yếu vào chứng khoán có thu nhập danh nghĩa cố định có thể làm quĩ tổn thương trong trường hợp lạm phát duy trì ở mức cao và/hoặc lương thực tế tăng. Điều này sẽ làm cho danh mục đầu tư – được cơ cấu như hiện nay – có kết quả hoạt động thấp hơn mức tăng của các trách nhiệm chi trả, và có khuynh hướng làm quĩ không có khả năng chi trả trợ cấp mà các trợ cấp này có mức tăng giống như lương thực tế. Trong bối cảnh này cần phải đa dạng hóa việc phân bố tài sản trong SAA, kể cả việc phân bổ cho cổ phiếu. Thậm chí trước khi áp dụng và triển khai khung SAA, BHXHVN nên cân nhắc những bước đi trong việc tăng phần đầu tư vào trái phiếu thương mại, trái phiếu đang được trao đổi và bán so với việc đầu tư vào những khoản vay thương thuyết riêng với ngân sách nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước (SOCBs). Điều trở nên ngày càng quan trọng là BHXHVN phải phát triển và xây dựng năng lực quản lý rủi ro dựa trên sự đánh giá giá thị trường định kỳ của danh mục đầu tư. Hiện nay BHXHVN không có bất kỳ một cơ sở hạ tầng quản lý rủi ro nào.Việc xây dựng năng lực quản lý rủi ro là một tiền đề rất quan trọng trước khi BHXHVN có thể bắt đầu cân nhắc việc mở rộng phạm vi đầu tư. Những biện pháp cải thiện công tác kế toán, báo cáo và sử dụng các biện pháp đo lường và tiêu chuẩn kết quả hoạt động có thể thúc đẩy quản lý đầu tư vững mạnh. Báo cáo về quản lý và kết quả đầu tư của Ban điều hành nên được hoàn thiện để có những chi tiết về kết cấu danh mục đầu tư, ngày đến hạn thanh toán, cơ cấu lãi suất của danh mục đầu tư hiện có, cũng như kết quả của các loại đầu tư về cả con số tuyệt đối và số so sánh với tiêu chuẩn. Nên khai thác khả năng đo lường và báo cáo tài sản và công nợ hàng năm. Điều quan trọng là việc tính toán và phân loại thực hiện đầu tư nên dựa vào loại hình đầu tư, để cung cấp thông tin về hiệu quả tương đối của các loại hình đầu tư khác nhau và giúp cho quá trình ra quyết định hiện hành. Nên xây dựng hệ thống tiêu chuẩn để đánh giá kết quả đầu tư cho từng loại đầu tư và danh mục đầu tư tổng hợp, cũng như để theo dõi và đánh giá chi phí quản lý đầu tư và các chi phí khác. B. Tăng cường sự công bằng Đối xử bình đẳng giữa người lao động khu vực công và khu vực tư, và bình đẳng giới không những đảm bảo sự công bằng của hệ thống trợ cấp hưu trí mà còn giúp củng cố sự 23
  25. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai bền vững của hệ thống trong dài hạn. Về mặt bình đẳng giữa các khu vực, phương thức thay đổi từng bước cũng nên áp dụng hợp nhất công thức tính trợ cấp hưu trí hướng tới công thức sử dụng cho lao động thuộc khu vực tư nhân. Cải cách được tiến hành càng sớm thì càng dễ đưa ra những thay đổi với ít chi phí hơn. Về mặt bình đẳng giới, những khác biệt về tuổi nghỉ hưu và công thức tính lương hưu cần được loại bỏ. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra phương thức thay đổi từng bước là cần thiết – ví dụ tuổi về hưu hiện nay của phụ nữ sẽ được tăng 4 tháng hàng năm cho tới khi đạt tới tuổi về hưu chung giống như nam giới. Tương tự, công thức tính trợ cấp hưu trí của phụ nữ sẽ dần từng bước giống với công thức tính trợ cấp hưu trí của nam giới. Lựa chọn chuyển đổi hệ thống NDC cần phải được xem xét trong tầm nhìn dài hạn hơn và hết sức cẩn trọng. Lợi thế của tài khoản NDC là phỏng theo mô hình tài khoản tiết kiệm nên thể hiện rõ giá trị của bất kỳ trợ cấp chéo nào. Hệ thống NDC ghi lại phí đóng góp của người lao động, không phải tiền lương của họ. Thay vì tính phần lương hưu nhận được dựa trên tiền lương trung bình của người lao động và số năm đóng phí bảo hiểm, hệ thống NDC tính tiền lương hưu dựa trên số tiền – phí đóng góp cộng với lãi suất qui định – mà người đóng góp tiết kiệm được trong hệ thống cho đến độ tuổi sẽ được lĩnh lương hưu. Công thức tính lương hưu dường như phức tạp hơn, nhưng hệ thống NDC tăng cường mối quan hệ giữa phí đóng góp và trợ cấp hưu trí và giảm bất bình đẳng cho người tham gia, nên sẽ minh bạch hơn và dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, chuyển hệ thống NDC cũng có nghĩa là thay đổi đáng kể về trợ cấp mà không được mong chờ về mặt chính trị (tăng tuổi nghỉ hưu ngay lập tức thay vì tăng dần tuổi nghỉ hưu như đã thảo luận, lương hưu thấp hơn, v.v). Hơn nữa, hệ thống NDC yêu cầu hệ thống quản lý hành chính mạnh mẽ hơn nhiều so với hệ thống BHXHVN hiện tại. C. Mở rộng độ bao phủ Cần xem xét một số biện pháp để mở rộng độ bao phủ của kế hoạch hưu trí. Các biện pháp có thể bao gồm: • Mở rộng sự tham gia bắt buộc cho tất cả người lao động có hợp đồng lao động. Một cách lý tưởng, hệ thống hưu trí cần phải thực hiện cho tất cả người ăn lương bao gồm cả những người tự tạo thu nhập. Tuy nhiên, trên thực tế lại có vấn đề về thực thi (trên bất kỳ cơ sở pháp lý nào), đặc biệt với năng lực quản lý hiện tại của BHXHVN. Với lý do đó, việc tham gia bắt buộc rộng rãi là không dễ và giải pháp có thể làm được tại thời điểm này (đó cũng là thách thức với việc mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế). Loại trừ những kẽ hở luật pháp, tăng cường hợp tác với cơ quan thuế, nâng cao năng lực thực thi của BHXHVN là rất quan trọng để tăng độ bao phủ. Tuy nhiên, lao động phi chính thức trong doanh nghiệp và trong khu vực phi chính thức là đáng ngại và dường như rất khó giải quyết nếu không thay đổi thể chế. • Khuyến khích tham gia bảo hiểm tự nguyện. Vì vậy để thực hiện mục tiêu tham vọng về độ bao phủ do Nghị quyết Đảng đề ra, cần nghiên cứu thận trọng các giải pháp thay thế nhằm khuyến khích tham gia bảo hiểm tự nguyện (thông qua cung cấp phần thưởng, và/hoặc trợ cấp một phần) và giải quyết vấn đề nghèo đói trong tương lai (thông qua cung cấp trợ cấp hưu trí xã hội cho những người không đóng phí bảo hiểm, người già nghèo khó không có thu nhập). Trong bất kỳ trường hợp nào, việc phân tích tác động của ngân sách và nghèo đói cần phải được tiến hành để đánh giá tính khả thi của chính sách.  • Các biện pháp bổ sung khác cần phải được phân tích hơn nữa như nâng cao nhận thức của người lao động về cơ hội của họ kiếm được lương hưu có ý nghĩa thông 24
  26. NHỮNG LỰA CHỌN CHO TIẾP TỤC TenCẢI C mucÁCH qua việc tham gia đóng bảo hiểm trong suốt cuộc đời làm việc lúc trước của họ. Đối với những người tham gia đóng bảo hiểm đã tương đối già muốn nhận một cục tiền tại thời điểm nghỉ hưu, cơ hội cho họ có được thu nhập lương hưu khi tới tuổi nghỉ hưu (thông qua đóng bảo hiểm bù vào những năm chưa đóng) cần phải được xem xét và cần phải tiến hành phân tích ảnh hưởng ngân sách để đánh giá tính khả thi của chính sách. Trợ cấp đóng phí bảo hiểm cho người nghèo, cận nghèo và lao động thu nhập thấp là có thể chi trả được. Bảng 2 bên dưới trình bày một số tính toán tạm thời về trợ cấp phí đóng bảo hiểm của Nhà nước cho (1) người nghèo, cận nghèo và thu nhập thấp không có khả năng tham gia đóng bảo hiểm xã hội và, (2) thanh niên để họ làm quen với bảo hiểm xã hội và tăng cơ hội đóng phí của họ trong 20 năm làm việc. Lưu ý rằng mức đóng phí tối thiểu bằng 18% mức lương tối thiểu trong năm 2011, trợ cấp một năm đóng phí bảo hiểm sẽ mất khoản tiền là 1,8 triệu đồng/người. Trong năm 2012 và 2014, việc tăng tỷ lệ phí đóng bảo hiểm sẽ làm tăng chi phí này lần lượt lên tới 2 và 2,2 triệu đồng (theo giá năm 2011). Từ Bảng 2, trợ cấp tham gia đóng phí bảo hiểm có thể chiếm 0,07% GDP cho người nghèo và cận nghèo và 0,07% GDP nữa cho người lao động thu nhập thấp. Chi phí trợ cấp tham gia bảo hiểm cho lao động trẻ có thể mất khoảng 0,02% GDP. Tác động ngân sách của chính sách này trong 20 năm tới là tương đối thấp. Vì BHXHVN đang thặng dư, tất cả các khoản thu nhập thêm từ việc thu phí đóng bảo hiểm có thể được chuyển sang ngân sách Nhà nước thông qua việc bán trái phiếu của Chính phủ cho BHXHVN. Trợ cấp phí đóng bảo hiểm có thể chỉ làm tăng nợ trong tương lai của Nhà nước đối với BHXHVN và hệ thống lương hưu. Bảng 2: Chi phí của trợ cấp tham gia bảo hiểm xã hội (giá năm 2011) Chi phí cho Số lượng một người Tổng chi phí người hưởng hưởng lợi lợi Triệu đồng/ Triệu đồng/ T ỷ lệ phần trăm của năm năm GDP năm 2010/năm Nhóm nghèo và cận 8.092.514 1,8 1.450,8 0,07 nghèo Người lao động thu 11.900.000 1,8 1.456,1 0,07 nhập thấp Người tham gia trẻ 1.424.817 1,8 370,7 0,02 tuổi Nguồn: Đề cương chính sách của Castel 6, 2011. Thay vì giảm bớt các qui định về đóng phí bảo hiểm để khuyến khích tham gia, cách hay hơn là tăng cơ hội cho người lao động nhận được lương hưu. Mặc dù việc yêu cầu 20 năm đóng phí bảo hiểm để có được lương hưu là rào cản chính đối với việc tham gia bảo hiểm, việc giảm bớt yêu cầu này dường như không phải là lựa chọn chính sách tốt nhất, ít nhất là cho tới khi việc đóng bắt buộc đóng bảo hiểm có hiệu lực.12 Thay vì giảm thời gian yêu cầu 12 Về nguyên tắc, những người nghỉ hưu mới đóng góp phí bảo hiểm được vài năm chỉ được hưởng mức lương hưu thấp. Tuy nhiên, chi trả lương hưu thấp cho người nghỉ hưu mang lại sự không ổn định về mặt xã hội, đặc biệt nếu người nhận lương hưu là những người thu nhập thấp và, hậu quả là hệ thống hưu trí và Chính phủ phải chịu áp lực tăng lương hưu. Trợ cấp cao hơn sẽ làm tăng động lực chỉ đóng phí bảo hiểm trong thời gian ngắn. Những người tham gia đóng phí bảo hiểm cao hơn hoặc nhiều năm hơn cho hệ thống hưu trí – nhận được khoản cho không (lương hưu cao hơn mà không cần phải trả phí bảo hiểm tương ứng). Với lý do này bất kỳ một cải cách nào làm giảm yêu cầu về thời gian đóng phí bảo hiểm 20 năm đều khó thực hiện cũng như việc bắt buộc tham gia chưa có hiệu lực. 25
  27. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai đóng bảo hiểm là 20 năm, quyền hưởng lương hưu có thể thay đổi linh hoạt cho khoảng thời gian chuyển đổi nào đó cho các cá nhân đã gần tới tuổi nghỉ hưu hiện nay. Những người này có thể được cho cơ hội mua phí đóng bảo hiểm cho những năm chưa đóng để hoàn thành yêu cầu quyền được nhận lương hưu. Trợ cấp của Nhà nước hoặc BHXHVN giúp giảm chi phí cho các nhóm người dễ bị tổn thương. Một cách khác nữa là cho phép người lao động có cơ hội mua phí bảo hiểm những năm chưa đóng phí. Các lựa chọn mua những năm chưa đóng phí và chi phí liên quan được trình bày trong Bảng 3. Mô phỏng từ những số liệu này được tiến hành với giả thiết là hệ thống cung cấp trợ cấp lương hưu bằng 60% mức lương tối thiểu 13 tại thời điểm nghỉ hưu và thay đổi theo sự tăng giá hàng tiêu dùng trong thời kỳ nghỉ hưu; BHXHVN có thể kiếm được 5,4% cao hơn lạm phát trên quĩ thu được và tuổi thọ trung bình kết hợp của những người về hưu ở tuổi 60 cho nữ và 65 cho nam là 20 năm (xem Phụ lục 1). Phí đóng bảo hiểm do người về hưu trả khi họ còn làm việc được chuyển sang quyền hưởng lương hưu có giá trị với cách tiếp cận tương tự. Giá trị của những năm chưa đóng phí tương đương với khoảng cách giữa giá trị của lượng lương hưu này và số lượng tiền cần phải chi trả trợ cấp lương hưu trong thời kỳ nghỉ hưu. Bảng 2 trình bày chi phí phát sinh của những năm chưa đóng phí theo giá năm 2011. BHXHVN yêu cầu chi trợ cấp hưu trí bằng 60% lương tối thiểu tại thời điểm nghỉ hưu (và thay đổi theo giá tiêu dùng trong thời kỳ nghỉ hưu) ước tính là 75,8 triệu đồng hoặc 3.678 đô la năm 2011. Bảng 3: Chi phí mua phí bảo hiểm cho năm chưa mua Năm chưa mua Triệu đồng US đô la Mỹ Năm chưa mua Triệu đồng US đô la Mỹ 1 năm 6,0 290 11 năm 51,2 2485 2 năm 11,6 565 12 năm 54,5 2647 3 năm 17,0 826 13 năm 57,7 2801 4 năm 22,1 1074 14 năm 60,7 2947 5 năm 27,0 1309 15 năm 63,6 3085 6 năm 31,5 1531 16 năm 66,3 3217 7 năm 35,9 1743 17 năm 68,8 3341 8 năm 40,0 1943 18 năm 71,3 3460 9 năm 43,9 2133 19 năm 73,6 3572 10 năm 47,7 2314 Nguồn: Đề cương chính sách của Castel 6, 2011. Tính toán dựa trên số liệu của BHXHVN và GSO Tương tự, việc mở rộng trợ cấp hưu trí xã hội không đóng phí cho người già không có thu nhập lương hưu cần phải được xem xét cẩn trọng. Mức trợ cấp xã hội 180.000 đồng/ tháng hiện nay được áp dụng cho người già trên 80 tuổi không có lương hưu và trợ cấp xã hội khác.14 Có một số thảo luận về việc mở rộng chính sách này cho tất cả những người già không có lương hưu, nhưng có hai lý do quan trọng cần phải cân nhắc khi thực hiện việc này. Thứ nhất, mở rộng lương hưu xã hội có thể không khuyến khích tham gia chương trình đóng phí bảo hiểm hưu trí. Thứ hai, tính toán chỉ ra giải pháp đó có thể là tốn kém trong dài hạn. Ví dụ, cung cấp trợ cấp xã hội tương ứng với 55% (bằng lương tối thiểu do quĩ hưu trí tự nguyện cung cấp) cho tất cả những người trên 75 tuổi và toàn bộ khu vực nông thôn sẽ tốn khoảng 1% GDP 13 Khoảng 40,3 đô la/tháng năm 2011 14 Nghị định số 13/2010/NĐ-CP 26
  28. NHỮNG LỰA CHỌN CHO TIẾP TỤC CTenẢI C mucÁCH trong năm 2030. Cung cấp trợ cấp xã hội 180.000 đồng hoặc 25% lương tối thiểu cho tất cả những người già trên tuổi về hưu chuẩn ở khu vực nông thôn sẽ tốn khoảng 0,5% GDP trong năm 2030. Việc hướng trợ cấp xã hội tới những đối tượng dễ tổn thương và người già nghèo khó trong các chương trình trợ cấp xã hội và giảm nghèo sẽ làm giảm chi phí và tăng hiệu quả của chương trình. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng tạo điều kiện thuận lợi tham gia bảo hiểm tự nguyện (với những khuyến khích và/hoặc trợ cấp một phần) không phải luôn thành công. Hầu hết các chương trình tự nguyện đều thất bại trong việc thu hút nhiều người tham gia bảo hiểm tự nguyện trong số những người lương thấp và người lao động trong khu vực phi chính thức, thậm chí với mức trợ cấp tương đối hào phóng. Cần nghiên cứu thêm để mô phỏng những lựa chọn theo cả hai hướng (trợ cấp tham gia đóng phí và lương hưu xã hội không đóng phí) cung cấp tài liệu có căn cứ cho các nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định về việc họ muốn mở rộng độ bao phủ hưu trí như thế nào. Điều này cũng sẽ thông tin cho những người tham gia bảo hiểm tiềm năng về khả năng đánh đổi giữa việc có được mức lương hưu hợp lý trong tương lai và lương hưu xã hội được thiết kế để chống nghèo đói cho nhóm người già. D. Hiện đại hóa hệ thống hành chính của BHXHVN và tăng cường hoạt động Trong bối cảnh có nhiều chuyển đổi quan trọng diễn ra ở Việt Nam trong thập kỷ tới đây, việc phát triển một nền hành chính an sinh xã hội hiện đại là ưu tiên hàng đầu. Không chỉ yêu cầu tăng cường quản lý an sinh xã hội để thu phí bảo hiểm từ các doanh nghiệp tư nhân đang lớn nhanh về mặt số lượng, và những người lao động thuộc khu vực phi chính thức cần có quản lý bảo hiểm xã hội chất lượng cao để nâng cao môi trường đầu tư, phát triển doanh nghiệp tư nhân, và đảm bảo hệ thống hưu trí hiệu quả. Hệ thống cần phải khuyến khích sự thay đổi lao động và tối thiểu hóa sự bóp méo động lực làm việc. Trong giai đoạn đầu, BHXHVN cần phải có chiến lược cải cách rõ ràng cho 10 năm tới để tăng cường hiệu quả, hoạt động và trách nhiệm giải trình của quản lý bảo hiểm xã hội. Chiến lược cải cách BHXHVN cần đưa ra tầm nhìn về hệ thống hành chính an sinh xã hội hiện đại cho thập kỷ tới, cùng những kế hoạch thực hiện tiếp theo để phát triển một hệ thống phù hợp tiêu chuẩn quốc tế tốt nhất. Chiến lược cũng cần phải dự báo nhu cầu về năng lực nguồn nhân lực và vật lực cần thiết cho việc phát triển hiệu quả và triển khai một hệ thống quản lý hiện đại. Hơn nữa, chiến lược cũng nên thúc đẩy sự điều phối/hài hòa hóa tốt hơn giữa cơ quan thuế và quản lý của BHXHVN trong thu phí và lồng ghép trong dài hạn. Tăng cường hiệu quả hoạt động và năng lực của BHXHVN đòi hỏi những nỗ lực nhiều mặt. Cần chú trọng hoàn thiện các qui trình tác nghiệp và quản lý thông tin, tăng cường dịch vụ cho khách hàng và tính minh bạch. Một biện pháp quan trọng trong vấn đề này là xây dựng số công nghệ thông tin thống nhất cho những người thụ hưởng của BHXHVN và xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu đáng tin cậy bao gồm cả hồ sơ đóng phí bảo hiểm. Điều này sẽ giúp BHXHVN hợp nhất và làm sạch các số liệu thu nhập và tình hình đóng bảo hiểm của các cá nhân, và cũng đồng thời giúp thực hiện chiến lược nhận dạng thống nhất để đảm bảo tính nhất quán và tin cậy của việc lưu giữ số liệu trong tổ chức với nhiều chương trình khác nhau (trợ cấp hưu trí, thất nghiệp, bảo hiểm y tế). 27
  29. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Đẩy mạnh điều phối tốt hơn giữa các cơ quan Chính phủ liên quan sẽ rất quan trọng để cải thiện cung cấp dịch vụ an sinh xã hội. Việc phân chia công việc hiện tại – với Bộ Y tế, Bộ Lao động thương binh và xã hội và Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về ban hành chính sách, trong khi BHXHVN thực hiện chính sách – là một trong những điểm mạnh của hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, ví dụ như tránh được xung đột lợi ích có thể xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, một số chức năng chồng chéo và điều phối yếu kém giữa các tổ chức này có thể tạo rủi ro cho việc hiện đại hóa công tác quản lý an sinh xã hội. Những dữ liệu phù hợp của BHXHVN phải được cung cấp kịp thời cho các cơ quan khác để phân tích và đưa ra chính sách, điều này sẽ giúp BHXHVN dễ dàng thực hiện những công việc của mình. Hợp tác/hài hòa/lồng ghép tốt hơn trong một số chức năng chính giúp nâng cao hiệu quả cũng như cho phép BHXHVN tập trung vào tăng cường chức năng quản lý của mình và cải thiện dịch vụ. Một ưu tiên liên quan là phát triển cơ sở dữ liệu trung tâm cho hệ thống an sinh xã hội. Để nâng cao năng lực kiểm soát dữ liệu của BHXHVN và duy trì chức năng hệ thống tài khoản bảo hiểm cá nhân có hiệu quả, tất cả các ghi chép về cá nhân được bảo hiểm, người nghỉ hưu, và người lao động cần phải được lưu trữ và xử lý tại máy chủ trung tâm của BHXHVN. Cơ sở dữ liệu trung tâm cũng cần phải bao gồm những thông tin như qui tắc quản lý, tiêu chuẩn kiểm soát và các báo cáo. Hệ thống cơ sở dữ liệu trung tâm cho phép cán bộ của BHXHVN theo dõi quá trình đóng phí bảo hiểm/việc làm của cá nhân và dễ dàng tính toán và ấn định trợ cấp hưu trí. Thông tin có thể được các phòng ban có liên quan của BHXHVN sử dụng cũng như cung cấp cho các cá nhân tham gia bảo hiểm thông qua internet hoặc chi nhánh tại địa phương để thông báo về các hoạt động của BHXHVN và cho phép cá nhân xem được bảng đóng phí bảo hiểm hiện tại của họ. Việc thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu trung tâm sẽ giúp tăng cường tính minh bạch, đơn giản công tác quản lý, và hỗ trợ cho việc thu thập thông tin cần thiết cho việc đưa ra chính sách hợp lý về an sinh xã hội. Cần thừa nhận rằng cải thiện các vấn đề liên quan tới công nghệ thông tin và các cải cách khác phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt, làm cho quá trình cải cách trở nên phức tạp hơn. Sự hỗ trợ về công nghệ thông tin và phát triển nguồn nhân lực phụ thuộc vào tiến bộ đạt được trong chính sách an sinh xã hội cũng như tái thiết qui trình hoạt động. Đồng thời, qui trình hành chính an sinh xã hội chủ chốt chỉ có thể hoạt động chính xác với sự hỗ trợ hiệu quả của công nghệ thông tin và năng lực của nhân viên. Do vậy, việc kết nối bên trong của hệ thống công nghệ thông tin của dự án, tái thiết qui trình hoạt động và hoạt động nhân sự phải được thiết kế và triển khai một cách cẩn trọng. 28
  30. Ten muc V Kết luận và đề xuất hỗ trợ kỹ thuật tiếp theo Cải cách an sinh xã hội ở Việt Nam đòi hỏi sự thận trọng trong việc cân đối và phân chia giai đoạn. Cần có một “gói giải pháp” liên kết các cải cách, cân đối các điều chỉnh có tham số khó khăn về mặt chính trị đối với nguồn quĩ bắt buộc với những giải pháp làm cho hệ thống lương hưu hấp dẫn hơn. Đồng thời, những cải cách chính sách như vậy cần gắn kết với nỗ lực tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ của BHXHVN và hệ thống quản lý. Như đã thảo luận ở trên, đưa ra cải cách sớm hơn sẽ cho phép những cải cách nhạy cảm rút lui dần từng bước để ít tác động tới xã hội và ít rủi ro hơn do không nhận được sự ủng hộ hoặc không khích lệ sự tham gia. Cần lưu ý một số cải cách chính sách hiện đang được đề xuất tại Việt Nam có thể có tác động ngược. Ví dụ, việc gia tăng tỷ lệ đóng phí đang được thực hiện theo Luật Bảo hiểm xã hội để giải quyết áp lực về chi phí cuối cùng có thể tác động xấu tới việc tạo thêm việc làm và gia tăng việc trốn tránh đóng phí bảo hiểm xã hội, hoặc tác động tiêu cực tới tiền lương. Tại Đức, Chính phủ đã thử một số biện pháp để tránh việc tăng tỷ lệ đóng góp quá 20%. Do đó, những cải cách đang được đề xuất tại Việt Nam cần phải được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo là chúng có lợi cho hệ thống an sinh xã hội và dân số đang già đi trong dài hạn. Việt Nam thiếu khung chính sách xã hội chung để có sự nhất quán về chính sách cho các chương trình khác nhau, rất nhiều chương trình thiếu sự kết nối với nhau. Không có phương hướng rõ ràng trong việc làm thế nào để áp dụng sự tiếp cận một cách có hệ thống trong xây dựng chính sách xã hội. Cách tiếp cận này nên nhấn mạnh vào tầm quan trọng của : • Khai thác sự tương tác giữa các chương trình để (i) loại bỏ khoảng trống của độ bao phủ (ví dụ những người lao động nghèo ở Việt Nam), (ii) tăng cường khích lệ bằng cả việc không khuyến khích những hành vi bất lợi và xây dựng những chính sách liên kết để củng cố hành vi mong muốn (có sự quan tâm cụ thể về tác động của những sáng kiến về bảo trợ xã hội tới động lực hình thành thị trường lao động ở Việt Nam). • Chia sẻ nguồn lực giữa các chương trình để (i) cân bằng giữa tính kinh tế nhờ qui mô và phạm vi (ví dụ dùng chung các hệ thống quản lý và công nghệ thông tin để hỗ trợ cho nhiều chương trình hoặc dùng chung đội ngũ nhân viên hay cơ cấu điều hành để quản lý, theo dõi và đánh giá chương trình khác nhau), và (ii) giảm sự méo mó trong thị trường lao động do những thỏa thuận tài chính riêng rẽ tạo ra. 29
  31. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai Công việc tiếp theo: Phạm vi cho nghiên cứu phân tích tiếp theo và đối thoại kỹ thuật Bản đề cương này chỉ ra những vấn đề cải cách chính sách mà trong đó những tài liệu kỹ thuật chi tiết hơn cần phải có trước khi các lựa chọn/quyết định chính sách được chấp nhận và đưa vào luật bảo hiểm xã hội đang sửa đổi và những qui định dưới luật tiếp theo. Công việc tiếp theo có thể là đóng góp ý kiến kỹ thuật và tổ chức hội thảo để trao đổi kiến thức và tạo sự đồng thuận. Đặc biệt, đóng góp ý kiến kỹ thuật có thể bao gồm, nhưng không hạn chế: • Phân tích tác động và hậu quả tiềm năng của các phương án cải cách (tức là chuyển sang hệ thống NDC so với cải cách tham số; trợ cấp lương hưu đóng phí bảo hiểm so với lương hưu xã hội không đóng phí bảo hiểm, hợp nhất công thức tính lương hưu theo hướng lao động trong khu vực tư nhân, tác động tới ngân sách và nghèo đói, v.v), nhận biết người được lợi và người chịu thiệt trong từng trường hợp, và đánh giá chiến lược chi trả tương ứng; • Nghiên cứu các tham số theo cách có lợi cho việc phân tích cải cách lương hưu (tuổi thọ của những người nghỉ hưu hiện tại, hồ sơ làm việc của những người đang đóng phí bảo hiểm, số người tham gia không đủ tư cách nhận lương hưu khi nghỉ hưu, số lượng trợ cấp chéo liên quan tới nghỉ hưu sớm, v.v.). • Khảo sát các cơ hội để hỗ trợ kỹ thuật hơn nữa cho BHXHVN xây dựng chiến lược hiện đại hóa hệ thống quản lý an sinh xã hội. 30
  32. Ten muc Tài liệu tham khảo ILSSA, 2009, Tuổi về hưu của phụ nữ tại Việt Nam – Bình đẳng giới và Sự bền vững của Quĩ An sinh Xã hội, Báo cáo chính sách của NHTG; VASS-CAF, 2009, Việt Nam: tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được cho là thích hợp, Đánh giá Nghèo đói, Chương Bảo trợ xã hội số 3; World Bank (2009), Tuổi về hưu của phụ nữ tại Việt Nam – Bình đẳng giới và Sự bền vững của Quĩ An sinh Xã hội. Triển vọng Dân số Thế giới 2010; Paulette Castel, 2011, Đề cương Chính sách 1: Hệ thống hưu trí tại Việt Nam – khung pháp lý; Paulette Castel, 2011, , Đề cương Chính sách 2: Những vấn đề liên quan tới phạm vi tham gia bảo hiểm và nhận lương hưu; Paulette Castel, 2011, Đề cương Chính sách 3: Những vấn đề liên quan tới thu nhập hưu trí; Paulette Castel, 2011, Đề cương Chính sách 4: Những vấn đề liên quan tới bình đẳng; Paulette Castel, 2011, Đề cương Chính sách 5: Những vấn đề liên quan tới khả năng bền vững về tài chính trong dài hạn; Paulette Castel, 2011, Đề cương Chính sách 6: Chi phí chính sách bảo hiểm xã hội – Cái nhìn toàn diện tất cả các nhóm dân số. 31
  33. Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai 63 Phố Lý Thái Tổ, Hà Nội Tel: (04) 3934 6600 Fax: (04) 3935 6597 Website: www.worldbank.org.vn