Các biện pháp phòng vệ thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với Việt Nam

pdf 13 trang Gia Huy 18/05/2022 2560
Bạn đang xem tài liệu "Các biện pháp phòng vệ thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcac_bien_phap_phong_ve_thuong_mai_trong_cac_hiep_dinh_thuong.pdf

Nội dung text: Các biện pháp phòng vệ thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với Việt Nam

  1. xuất khẩu của hàng hóa có xuất xứ sang thị trường các nước thành viên FTA và tận dụng được cơ chế ưu đãi đặc biệt. Bài viết hy vọng những đề xuất sẽ góp phần cải thiện mức độ tận dụng hiệu quả độ mở của các quy t c xuất xứ ưu đãi, đặc biệt nâng cao hiểu biết c ng như k năng vượt qua hàng rào k thuật của quy t c xuất xứ ưu đãi trong các Hiệp định FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã k kết. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Báo cáo mức độ hài lòng của doanh nghiệp đối với việc thực hiện thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu năm 2018. 2. Patricia Augier, Michael Gasiorek and Charles Lai-Tong, Rules of origin, truy cập ngày 3/6/2016. 3. 4. 5. CÁC BIỆN PHÁP PHÕNG VỆ THƢƠNG MẠI TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM Ths. Phạm Thị Hồng Mỵ Trƣờng Đại học Sài Gòn Tóm lược: Bài viết sẽ phân tích quy định của các biện pháp phòng vệ thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết như CPTPP, EVFTA, VKFTA và những tác động của các biện pháp này đối với Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Phòng vệ thương mại; hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; CPTPP, EVFTA, VKFTA. 1. Đặt vấn đề Để duy trì một môi trường tự do hóa thương mại giữa các quốc gia một cách công bằng thì mỗi một quốc gia đều trang bị công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ nền sản xuất trong nước của mình trước các hành vi làm tổn hại. Các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) đã ra đời để thực hiện nhiệm vụ đó và được chia làm 03 nhóm biện pháp chính là (i) biện pháp chống bán phá giá, (ii) biện pháp chống trợ cấp và (iii) biện pháp tự vệ thương mại. Theo Cục Phòng vệ Thương mại (2019), các biện pháp PVTM hiện nay được xem là một phần quan trọng trong ch nh sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia, bởi mục 157
  2. đ ch áp dụng là bảo vệ hoặc hỗ trợ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại t hàng hoá nhập khẩu. Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp được áp dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không công bằng của hàng hóa nhập khẩu (như bán phá giá hoặc được trợ cấp). Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa trong nước nhằm hạn chế những tác động tiêu cực, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, do hàng hóa nhập khẩu gia tăng đột biến. Các biện pháp này đều được quy định chi tiết tại Điều IV, XVI và XIX của GATT 1994 và các Hiệp định chống bán phá giá, Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng và Hiệp định Tự vệ của WTO. Thêm vào đó, các biện pháp muốn được áp dụng cần phải qua quá trình điều tra, tuân thủ các quy định của các Hiệp định có liên quan của WTO, trong trường hợp bị áp dụng sai so với các quy định của WTO sẽ là đối tượng bị khởi kiện. Các biện pháp PVTM được quy định trên bình diện toàn cầu trong các văn bản của WTO. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) được xây dựng chứa đựng những quy định vượt lên trên khuôn khổ truyền thống điều ch nh hoạt động thương mại toàn cầu như: Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có tiền thân là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương là FTA đươc đàm phán t tháng 3/2010. CPTPP được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên còn lại không bao gồm Hoa Kỳ. Đây được xem là FTA toàn diện với phạm vi điều ch nh rất rộng bao phủ nhiều vấn đề không ch trong lĩnh vực thương mại truyền thống mà còn tới các vấn đề như môi trường, lao động, quyền sở hữu trí tuệ và chống tham nh ng Hiệp định này đã có hiệu lực áp dụng ở Việt Nam t ngày 14 tháng 1 năm 2019. Hiệp định thương mai tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) là một FTA thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên của EU. EVFTA cùng với CPTPP là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam t trước tới nay. Ngày 12 tháng 2 năm 2020, Nghị viện Châu Âu đã ch nh thức phê chuẩn hiệp định này và ch còn nhà nước Việt Nam tiến hành phê chuẩn nữa là hiệp định sẽ có hiệu lực. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) được ký kết ngày 5/5/2015 và chính thức có hiệu lực t ngày 20/12/2015. Đây là FTA mà Việt Nam và Hàn Quốc dành thêm nhiều ưu đãi cho nhau trong cả lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Nội dung của các biện pháp PVTM trong các bản Hiệp định này về cơ bản là áp dụng quy định về các biện pháp PVTM của WTO và bên cạnh đó có bổ sung thêm một số quy định. Cho nên, việc tìm hiểu các biện pháp PVTM trong các FTA c ng như phân t ch những tác động của các biện pháp này đến pháp luật thương mại, vấn đề thực thi và đề xuất khuyến nghị dành cho doanh nghiệp Việt Nam là cần thiết. 2. Nội dung biện pháp phòng vệ thƣơng mại trong các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới 2.1. Các quy định về biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp Trong Hiệp định CPTPP: Các nước thành viên CPTPP phải tuân thủ các quy định nêu trong Hiệp định chống bán phá giá và Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng 158
  3. của WTO. Ngoài ra, các nước thống nhất Phụ lục về thông lệ tốt nhất liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp. Do đó, nội dung của CPTPP không bổ sung thêm bất kỳ quyền lợi và nghĩa vụ nào và sẽ không ảnh hưởng đến các quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của WTO liên quan đến chống bán phá giá và chống trợ cấp (Điều 6.8). CPTPP là Hiệp định tăng cường tính minh bạch và việc thực thi đúng trình tự thủ tục trong các vụ viêc phòng vệ thương mại, điển hình là việc thông báo bằng văn bản cho bên kia khi nhận được đơn yêu cầu áp dụng một biện pháp chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp phải đảm bảo tính minh bạch và đúng trình tự thủ tục, lưu trữ tài liệu công khai và cung cấp các văn bản tài liệu không mật trong hồ sơ hành ch nh, phải cung cấp các dữ liệu ch nh làm căn cứ đưa ra quyết định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp này. Phụ lục 6-A quy định về Thông lệ liên quan đến thủ tục chống bán phá giá và thuế đối kháng. Các quy định này mang mục đ ch nhằm thúc đẩy các mục tiêu minh bạch hóa và quy trình đúng đ n đối với các biện pháp PVTM. Các bên phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: a) Khi nhận được hồ sơ hợp lệ về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá và đối kháng đối với hàng nhập khẩu t một Bên khác, và không quá 7 ngày trước khi khởi xướng điều tra, Bên đó cần đưa ra văn bản thông báo đã nhận được yêu cầu của Bên kia. b) Đối với bất kỳ thủ tục nào khi cơ quan điều tra xác định sẽ tiến hành xác minh trực tiếp thông tin do bên bị điều tra cung cấp và thông tin này liên quan đến việc t nh toán biên độ phá giá hoặc mức độ trợ cấp đối kháng, cơ quan điều tra sẽ thông báo ngay lập tức cho mỗi bên bị điều tra về dự định của họ, và: i. cung cấp cho mỗi bên bị điều tra trong vòng ít nhất 10 ngày làm việc một thông báo trước về thời gian các cơ quan chức năng có định tiến hành xác minh thông tin trực tiếp; ii. ít nhất 5 ngày trước khi tiến hành xác minh trực tiếp, cung cấp cho bên bị điều tra một tài liệu nêu những chủ đề mà bên bị điều tra phải chuẩn bị để giải quyết trong thời gian xác minh và mô tả các loại tài liệu hỗ trợ sẵn có thể rà soát được; và iii. sau khi việc xác minh trực tiếp được hoàn thành, và theo quy định bảo mật thông tin , ban hành một báo cáo bằng văn bản mô tả các phương pháp và thủ tục tiếp theo trong việc thực hiện xác minh và mức độ các thông tin bên bị điều tra cung cấp được hỗ trợ bởi các tài liệu rà soát trong quá trình xác minh. Báo cáo này cần cho các bên quan tâm được biết trong khoảng thời gian phù hợp để bảo vệ lợi ích của họ. c) cơ quan điều tra của một Bên duy trì tài liệu công khai cho mỗi cuộc điều tra và rà soát bao gồm: i. tất cả các tài liệu không bí mật là một phần của hồ sơ điều tra hoặc rà soát; và ii. các bản tóm t t không bí mật về thông tin bí mật có trong hồ sơ của mỗi cuộc điều tra hoặc rà soát ở mức độ không tiết lộ các thông tin bí mật. Nếu các thông tin riêng lẻ không nhạy cảm để tóm t t thì có thể được cơ quan điều tra thu thập. Các tài liệu công khai và danh sách tất cả các tài liệu có trong hồ sơ điều tra hoặc rà soát cần được có sẵn để thẩm tra và sao chép trong giờ làm việc bình thường của cơ quan điều tra hoặc có sẵn bản điện t để tải về . d) Nếu một hành động chống bán phá giá và áp dụng thuế đối kháng liên quan đến hàng hóa nhập khẩu t một Bên khác, cơ quan điều tra của một Bên xác định rằng phản hồi của một Bên đối với một yêu cầu cung cấp thông tin dù kịp thời nhưng lại không phù hợp với 159
  4. yêu cầu của Bên đó, cơ quan điều tra sẽ thông báo cho bên quan tâm nguyên nhân thiếu sót ở mức độ khả thi, trong giới hạn thời gian cho phép đủ để hoàn thành hành động chống bán phá giá và áp dụng thuế đối kháng. Nếu Bên quan tâm đưa thêm thông tin để bổ sung cho thiếu sót đó và cơ quan điều tra nhận thấy vẫn chưa hài lòng với phản hồi này, hoặc phản hồi này được đưa ra quá thời gian giới hạn cho phép, và nếu cơ quan điều tra bác b tất cả hoặc một phần của phản hồi ban đầu hoặc phản hồi tiếp sau đó, cơ quan điều ra phải giải thích rõ trong quyết định hoặc các tài liệu bằng văn bản khác về lý do bác b những thông tin này. (e) Trước khi đưa ra quyết định cuối c ng, cơ quan điều tra thông báo cho tất cả các Bên quan tâm các lập luận quan trọng hình thành cơ sở quyết định liệu có áp dụng biện pháp cuối cùng hay không. Vì các thông tin này cần phải giữ bí mật, cơ quan điều tra có thể s dụng bất kì cách thức hợp l nào để tiết lộ các lập luận cần thiết, bao gồm một báo cáo tổng kết các dữ liệu trong hồ sơ, dự thảo hoặc quyết định sơ bộ để cung cấp cho các Bên quan tâm cơ hội phản hồi đối với việc tiết lộ các lập luận cần thiết. Hiệp định EVFTA: Các bên c ng khẳng định rằng quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh theo quy định của WTO, công nhận rằng, các biện pháp chống bán phá giá và đối kháng có thể bị lạm dụng để cản trở thương mại, th a thuận rằng, các biện pháp phòng vệ thương mại nên được s dụng tuân thủ hoàn toàn theo các yêu cầu tương ứng của WTO và nên dựa trên một hệ thống công bằng và minh bạch; nên cân nh c k lưỡng lợi ích của bên kia nếu một bên đang cân nh c áp dụng những biện pháp này. Các bên phải đảm bảo rằng, ngay sau khi bất kỳ biện pháp tạm thời nào được áp dụng và trong mọi trường hợp trước khi quyết định cuối c ng được ban hành, sẽ công bố một cách đầy đủ và có nghĩa toàn bộ các dữ liệu thực tế chủ yếu và các cân nh c làm cơ sở để đưa ra quyết định áp dụng các biện pháp. Việc công bố này phải được thực hiện bằng văn bản và cho phép các bên liên quan có đủ thời gian để bình luận. Một bên không được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hoặc đối kháng khi dựa trên các thông tin có sẵn trong quá trình điều tra, có thể kết luận rõ ràng rằng việc áp dụng các biện pháp đó sẽ không phù hợp với lợi ích công cộng. Thuế chống bán phá giá hoặc thuế đối kháng áp dụng bởi một bên không được vượt quá biên độ bán phá giá hoặc biên độ trợ cấp đối kháng và bên đó sẽ nỗ lực đảm bảo rằng mức thuế này thấp hơn biên độ đó nếu mức thuế thấp hơn này là đủ để loại b thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước. Một trong điểm nổi bật của Hiệp định này, đó là để đảm bảo công bằng, ngoài các tiêu ch được quy định của WTO cho việc khởi xướng điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá hoặc thuế đối kháng thì EVFTA yêu cầu các bên phải xem xét đến lợi ích công cộng dựa trên: hoàn cảnh của ngành sản xuất trong nước, các nhà nhập khẩu và các hiệp hội đại diện, người s dụng đại diện và các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng. Đối với Hiệp định VKFTA: Các bên th a thuận rằng, tr trường hợp có quy định khác trong hiệp định này, mỗi bên giữ nguyên quyền và nghĩa vụ của mình theo hiệp định WTO về viêc áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng. Tuy nhiên, VKFTA có khá nhiều quy định chi tiết hóa hoặc yêu cầu cao hơn quy định của WTO với mục tiêu minh bạch 160
  5. hóa quy trình, thủ tục điều tra và giảm thiểu sự lạm dụng biện pháp, cụ thể. Theo Ban ch đạo liên ngành Hội nhập quốc tế về kinh tế (2018), nội dung này được thể hiện: - Công bố dữ kiện trọng yếu (Điều 7.6.2): VKFTA quy định ngay sau khi áp dụng biện pháp tạm thời và trong bất cứ trường hợp nào trước khi áp dụng biện pháp cuối c ng, Bên điều tra sẽ phải công bố đầy đủ và có ý nghĩa tất cả các dữ kiện trọng yếu và xem xét làm cơ sở cho việc ra quyết định áp dụng biện pháp AD/CVD. Theo quy định của Hiệp định ADA (Điều 6.9), bên bị điều tra sẽ cung cấp các dữ liệu trọng yếu trước khi ra quyết định cuối c ng. Như vậy, quy định của VKFTA đặt ra yêu cầu cao hơn khi yêu cầu cung cấp đầy đủ và có ý nghĩa tất cả các dữ kiện trọng yếu và xem xét. Ngoài ra, VKFTA c ng yêu cầu ngay sau khi (immediately) ra kết luận sơ bộ và trước khi ra quyết định cuối cùng, cơ quan điều tra phải cung cấp Bản dữ liệu trọng yếu.VKFTA không định nghĩa thế nào là cung cấp “đầy đủ và có nghĩa”, điều này sẽ phụ thuộc vào cách diễn giải của cơ quan điều tra mỗi Bên. Do đó, cơ quan điều tra mỗi Bên cần đảm bảo rằng việc cung cấp các thông tin này là đầy đủ, có nghĩa. - Thông lệ trong việc xác định biên độ phá giá mà các bên cần tuân thủ được nêu trong Điều 7.6.3, cụ thể: + Đoạn (a) quy định khi biên độ phá giá được xác định hoặc rà soát theo Điều 2, 9.3, 9.5 và 11 của Hiệp định ADA, d biên độ phá giá được xác định theo phương pháp so sánh nào trong Điều 2.4.2, tất cả các biên độ phá giá riêng rẽ, d dương hay âm, nên được tính vào biên độ phá giá bình quân. + Đoạn (b) quy định nếu cơ quan điều tra của một Bên ra quyết định áp thuế chống bán phá giá theo Điều 9.1 của Hiệp định ADA, Bên đó có thể áp dụng quy t c “thuế suất thấp hơn” trong việc xác định thuế chống bán phá giá cuối cùng, bằng cách áp dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu mức thuế đó đủ để kh c phục thiệt hại của ngành sản xuất nội địa. + Đoạn (c) quy định khi Bên tiến hành điều tra AD nhận thấy có thiếu sót lớn về thông tin trong bản trả lời câu h i của các nhà xuất khẩu hoặc cần làm rõ thông tin trong đó, Bên điều tra sẽ yêu cầu các thông tin còn thiếu hoặc yêu cầu làm rõ thông tin. Thủ tục này không được s dụng để làm trì hoãn cuộc điều tra hoặc để vượt qua các thời hạn quy định trong pháp luật nội địa của Bên đó. - Nghĩa vụ thông báo và tham vấn (Điều 7.7): + Thông báo sau khi nhận đơn kiện đề nghị điều tra AD: VKFTA yêu cầu sau khi nhận được đơn kiện đề nghị điều tra AD, cơ quan điều tra của một Bên phải thông báo bằng văn bản cho bên kia 15 ngày trước khi khởi xướng điều tra, và có thể tổ chức một cuộc họp hoặc các hình thức tương tự để trao đổi về đơn kiện, phù hợp với nội luật của nước điều tra. Đây là quy định mang t nh WTO+ do Điều 5.5 Hiệp định ADA ch quy định Bên điều tra có nghĩa vụ thông báo về việc nhận được đơn kiện mà không có nghĩa vụ phải tổ chức họp/tham vấn về đơn kiện. Việc tổ chức họp hoặc các hình thức liên quan trước khi khởi xướng là b t buộc. 161
  6. + Thông báo sau khi nhận đơn kiện đề nghị điều tra CVD: VKFTA yêu cầu sau khi nhận được đơn kiện đề nghị điều tra CVD, cơ quan điều tra của một Bên phải thông báo bằng văn bản cho Bên kia trước khi khởi xướng điều tra, và tổ chức tham vấn với Bên bị điều tra về đơn kiện. Điều này phản ánh quy định trong Điều 13.1 Hiệp định SCM. Khác với Hiệp định ADA không quy định phải tham vấn trước khi khởi xướng điều tra, Hiệp định SCM yêu cầu việc tham vấn trước khi khởi xướng điều tra là b t buộc. - Cam kết giá (Điều 7.8): Cam kết giá là thoả thuận giữa t ng nhà sản xuất-xuất khẩu nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu trong đó nhà sản xuất-xuất khẩu tự nguyện cam kết điều ch nh giá hoặc không bán ở mức phá giá để kh c phục thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước của Bên nhập khẩu. Cam kết về giá ch có thể được thực hiện sau khi có kết luận sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại. Điều 7.8 chủ yếu làm rõ quy trình, thủ tục liên quan đến việc thực hiện cam kết giá trong VKFTA. Cụ thể, sau khi một Bên khởi xướng điều tra chống bán phá giá/chống trợ cấp, Bên đó sẽ chuyển cho Đại sứ quán hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bên còn lại thông báo bằng văn bản về quy trình thủ tục để đề nghị cơ quan điều tra xem xét cam kết giá, bao gồm khung thời gian để nhà sản xuất/xuất khẩu đưa ra cam kết và khung thời gian để cơ quan có thẩm quyền của nước điều tra ra kết luận về việc có chấp nhận cam kết giá đó không. - Việc tái điều tra với cùng một sản phẩm sau khi thuế AD trước đó đã chấm dứt do kết quả của một cuộc rà soát (Điều 7.9): quy định này mang tính WTO+, là một quy định tương đối mới, nhằm tránh việc một Bên lạm dụng tái khởi xướng điều tra nhiều lần với cùng một sản phẩm gây ảnh hưởng đến thương mại của Bên bị áp thuế. Cụ thể, trong trường hợp thuế AD trước đó đã chấm dứt do kết quả của một cuộc rà soát thì trong vòng 12 tháng sau đó, nếu có đơn đề nghị điều tra AD với cùng sản phẩm, thì Bên điều tra sẽ xem xét cẩn trọng đơn kiện đó. Nếu việc rà soát trước khi khởi xướng không cho thấy đã có sự thay đổi hoàn cảnh so với lúc chấm dứt biện pháp, thì vụ điều tra sẽ không được tiến hành. - Điều 7.11 VKFTA quy định về việc thành lập Ủy ban PVTM và chức năng nhiệm vụ của Ủy ban này. Ủy ban có chức năng nâng cao kiến thức và hiểu biết về luật, chính sách và thông lệ về PVTM của các nước; giám sát việc thực thi Chương; nâng cao sự hợp tác của cơ quan điều tra hai Bên về PVTM; là diễn đàn để các Bên trao đổi thông tin và thảo luận về các vấn đề quan tâm. 2.1. Quy định về biện pháp tự vệ Hiệp định CPTPP, các thành viên khẳng định lại nguyên t c của Hiệp định về biện pháp tự vệ của WTO. Tuy nhiên, CPTPP lại có những bổ sung về quy trình tự vệ mới bên cạnh quy trình tự vệ của WTO, điển hình là việc các nước có thể duy trì 02 nhóm biện pháp tự vệ là tự vệ toàn cầu (tự vệ theo WTO) và tự vệ trong thời gian chuyển tiếp (tự vệ theo quy định CPTPP). Tự vệ toàn cầu: CPTPP quy định về các biện pháp tự vệ toàn cầu theo hướng quyền và nghĩa vụ được quy định phù hợp với WTO. Nghĩa là, các nước được áp dụng các biện pháp tự vệ khi có một lượng nhập khẩu hàng hóa tăng đột biến gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại 162
  7. nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa. Biện pháp tự vệ này được áp dụng dưới dạng một khoản thuế quan tăng thêm hoặc hạn ngạch thuế quan hoặc là hạn chế lượng nhập khẩu. Biện pháp này được áp dụng đối với tất cả các nước thành viên của WTO mà không loại tr bất cứ nước nào. Bên cạnh đó, CPTPP bổ sung thêm quy định là: khi áp dụng biện pháp tự vệ toàn cầu, một nước thành viên có thể loại tr biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ theo TRQ theo Hiệp định này và được liệt kê tại Phụ lục A trong Biểu Phụ lục 2-D của Bên đó (Các Cam kết Thuế quan), nếu hàng nhập khẩu đó không phải là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Tự vệ trong thời gian chuyển tiếp: CPTPP cho phép một nước thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ chuyển tiếp ch trong giai đoạn chuyển tiếp, nếu kết quả của việc giảm hoặc miễn thuế quan theo Hiệp định này dẫn đến: (a) một hàng hóa có nguồn gốc t một Bên khác được nhập khẩu vào lãnh thổ của Bên đó với số lượng tăng tuyệt đối hoặc tăng tương đối so với hàng hóa sản xuất nội địa của Bên nhập khẩu, và với điều kiện gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước, hoặc (b) một hàng hóa có nguồn gốc t hai hoặc nhiều Bên, cùng lúc được nhập khẩu vào lãnh thổ của Bên kia với số lượng tăng lên một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với ngành sản xuất trong nước, và với điều kiện gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước, Bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp chứng minh được rằng hàng hóa nhập khẩu xuất xứ t Bên khác đã tăng tuyệt đối hoặc tương đối so với ngành sản xuất trong nước kể t khi Hiệp định này có hiệu lực. Một nước thành viên ch được duy trì một biện pháp tự vệ chuyển tiếp trong một khoảng thời gian cần thiết đủ để ngăn chặn hoặc kh c phục thiệt hại nghiêm trọng và nhằm tạo thuận lợi cho việc điều ch nh. Thời hạn này không được vượt quá hai năm, tr trường hợp nếu cơ quan có thẩm quyền của Bên áp dụng biện pháp quyết định rằng, phù hợp với các thủ tục quy định tại Điều 6.5, việc duy trì các biện pháp tự vệ chuyển tiếp là cần thiết để ngăn chặn hoặc kh c phục thiệt hại nghiêm trọng và tạo thuận lợi cho việc điều ch nh thì khoảng thời gian này có thể được kéo dài thêm tối đa một năm. Không nước thành viên nào được duy trì một biện pháp tự vệ chuyển tiếp vượt quá thời hạn của giai đoạn chuyển tiếp. Không nước thành viên nào được áp dụng một biện pháp tự vệ chuyển tiếp nhiều hơn một lần đối với cùng một hàng hóa. Quy định này được xây dựng theo hướng chặt chẽ hơn so với quy định của WTO nhằm hạn chế việc lạm dụng c ng như đảm bảo sự minh bạch thông qua việc cho phép các bên liên quan được tiếp cận các tài liệu cần thiết, đồng thời đây được xem là biện pháp an toàn nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực đến ngành sản xuất trong nước do quá trình tự do hóa thương mại mang lại. CPTPP cho phép một nước thành viên tiến hành điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ ch đối với hàng hóa của một hoặc nhiều nước thành viên CPTPP khác trong thời gian chuyển 163
  8. tiếp nếu việc c t giảm thuế quan đối với hàng hóa đó dẫn đến lượng nhập khẩu gia tăng đột biến và gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Một nước thành viên trong quá trình điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ nước nước đó phải thông báo bằng văn bản cho nước bị điều tra về việc khởi xướng điều tra, đưa ra quyết định về thiệt hại, quyết định áp dụng hoặc gia hạn biện pháp tự vệ, quyết định s a đổi biện pháp tự vệ, cung cấp cho các bên khác bản sao các bản báo cáo công khai của cơ quan có thẩm quyền của mình. Theo yêu cầu của một Bên có hàng hóa thuộc đối tượng của trình tự áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp, Bên thực hiện phải tham vấn với Bên yêu cầu để xem xét thông báo hoặc báo cáo công khai nào do cơ quan điều tra có thẩm quyền đưa ra liên quan đến cuộc điều tra. Nước thành viên áp dụng biện pháp tự vệ phải đền b cho nước bị áp dụng những thiệt hại t việc bị áp dụng biện pháp tự vệ đó. Các bên sẽ thống nhất với nhau về mức đền bù, nếu không th a thuận được thì bên bị áp dụng nhượng bộ tương đương đáng kể đối với thương mại của Bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp. Quy định tự vệ trong Hiệp định EVFTA, các thành viên c ng th a thuận rằng, các quyền và nghĩa vụ của mình tiếp tục được thực hiện theo quy định của WTO. Tuy nhiên, EVFTA có bổ sung thêm một quy trình tự vệ mới – áp dụng biện pháp tự vệ song phương. Theo đó, nếu do kết quả của việc c t giảm hoặc xóa b thuế quan theo hiệp định này bất kỳ một loại hàng hóa nào có xuất xứ t lãnh thổ của một bên được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên kia với lượng gia tăng xét về giá trị tuyệt đối hoặc tương đối so với sản xuất trong nước, và trong tình trạng gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước của hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp, bên nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp tự vệ song phương ch trong giai đoạn chuyển tiếp bằng cách: đình ch mức c t giảm hơn nữa thuế quan đối với hàng hóa liên quan hoặc tăng thuế suất hải quan đối với hàng hóa tới mức không vượt quá mức nh hơn của mức thuế suất áp dụng MFN với hàng hóa có hiệu lực tại thời điểm biện pháp tự vệ được áp dụng hoặc mức thuế cơ sở được xác định trong các biểu thuế. Tuy nhiên để áp dụng biện pháp tự vệ song phương này, cần đáp ứng điều kiện như là: Một Bên ch được áp dụng một biện pháp tự vệ song phương sau khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra tuân thủ Hiệp định Tự vệ; Một Bên phải thông báo bằng văn bản cho Bên kia việc khởi xướng một vụ việc điều tra được mô tả và tham vấn với Bên kia sớm nhất có thể trước khi áp dụng một biện pháp tự vệ song phương nhằm rà soát các thông tin phát sinh t vụ điều tra và trao đổi quan điểm về biện pháp tự vệ. Cuộc điều tra c ng phải chứng minh, dựa trên bằng chứng khách quan, sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả giữa sự gia tăng nhập khẩu và thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng t đó. Cuộc điều tra c ng phải xem xét đến sự tồn tại của tất cả các yếu tố khác ngoài sự gia tăng nhập khẩu mà c ng có thể gây ra thiệt hại tại thời điểm đó. Mỗi Bên phải đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền hoàn tất cuộc điều tra theo khoản 1 trong vòng một năm kể t khi khởi xướng điều tra.Một Bên không được áp dụng một biện pháp tự vệ song phương: (a) ngoại tr với mức độ, và 164
  9. trong khoảng thời gian cần thiết để ngăn ng a hoặc kh c phục thiệt hại nghiêm trọng và để tạo thuận lợi cho việc điều ch nh; (b) trong khoảng thời gian vượt quá hai năm, tr trường hợp giai đoạn này có thể được kéo dài tối đa hai năm nếu cơ quan có thẩm quyền của Bên nhập khẩu xác định, phù hợp với thủ tục, rằng biện pháp tự vệ tiếp tục là cần thiết nhằm ngăn chặn hoặc kh c phục thiệt hại nghiêm trọng và nhằm tạo thuận lợi trong việc điều ch nh và có bằng chứng rằng ngành sản xuất đang điều ch nh, với điều kiện tổng thời gian áp dụng một biện pháp tự vệ, bao gồm giai đoạn áp dụng ban đầu và bất kỳ khoảng thời gian gia hạn nào, không được vượt quá 4 năm; hoặc (c) vượt quá thời hạn của giai đoạn chuyển đổi, tr trường hợp có được sự đồng thuận của Bên kia. Để tạo thuận lợi cho sự điều ch nh trong trường hợp thời gian dự kiến của một biện pháp tự vệ song phương vượt quá hai năm, Bên áp dụng biện pháp tự vệ phải tiến hành tự do hóa dần dần biện pháp tự vệ đó qua t ng giai đoạn đều đặn trong thời gian áp dụng. Khi một Bên chấm dứt một biện pháp tự vệ song phương, mức thuế suất sẽ là mức thuế đáng lẽ có hiệu lực nếu không có biện pháp tự vệ, theo Biểu cam kết của Bên đó. Trong những hoàn cảnh đặc biệt khi sự trì hoãn có thể gây ra tác hại khó có thể kh c phục được, một Bên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ song phương trên cơ sở tạm thời căn cứ theo một quyết định sơ bộ rằng có bằng chứng rõ ràng rằng việc nhập khẩu một hàng hóa có xuất xứ t Bên kia đã tăng do kết quả của việc c t giảm hoặc xóa b thuế quan theo Hiệp định này, và việc nhập khẩu đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng tới ngành sản xuất trong nước. Một Bên áp dụng một biện pháp tự vệ song phương phải tham vấn với Bên kia nhằm thống nhất mức bồi thường tự do hóa thương mại th a đáng dưới hình thức các ưu đãi có tác động thương mại tương ứng một cách đáng kể tới các biện pháp phòng vệ song phương hoặc tương ứng với trị giá các mức thuế bổ sung được dự đoán phát sinh t biện pháp tự vệ. Bên đó phải dành cơ hội để tham vấn không muộn hơn 30 ngày sau khi áp dụng biện pháp tự vệ song phương. Nếu việc tham vấn không đạt được th a thuận về bồi thường tự do hóa thương mại trong vòng 30 ngày sau khi b t đầu tham vấn, Bên có hàng hóa bị áp dụng biện pháp tự vệ song phương có thể đình ch các ưu đãi đối với hàng hóa có xuất xứ t Bên áp dụng biện pháp tự vệ có tác động thương mại tương đương một cách đáng kể với biện pháp tự vệ. Trong hiệp định VKFTA, quy định về biện pháp tự vệ giống với Hiệp định EVFTA ở chỗ, các nước thành viên tuân thủ quy định biện pháp tự vệ toàn cầu và bổ sung thêm quy định áp dụng biện pháp tự vệ song phương. Về điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ song phương trong VKFTA tương đồng với điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ song phương trong EVFTA, và c ng có một số điểm cần lưu về việc sự gia tăng nhập khẩu phải là nguyên nhân quan trọng gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Về hình thức áp dụng biện pháp, có hai hình thức chính gồm ng ng c t giảm thuế quan với hàng hóa theo quy định của Hiệp định hoặc tăng mức thuế hải quan đến một trong các mức thuế MFN tại thời điểm ký hiệp định hoặc mức thuế cơ sở được ch ra trong Lộ trình c t giảm thuế. Về việc áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời hay thủ tục điều tra, tham vấn và bồi thường, VKFTA đều quy định như EVFTA. 165
  10. 3. Tác động của các biện pháp phòng vệ thƣơng mại trong các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới đối với Việt Nam hiện nay Qua việc nghiên cứu quy định biện pháp PVTM trong các FTA trên thì tác động của các biện pháp này một mặt sẽ đem lại nhiều nghĩa, lợi ích và mặt khác mang lại những thách thức trong việc thực thi. Cụ thể: 3.1. Ý nghĩa, lợi ích của các biện pháp PVTM Thứ nhất, việc tham gia các cam kết trong Hiệp định CPTPP, EVFTA, VKFTA giúp Việt Nam hoàn thiện hệ thống thực thi pháp luật về PVTM, cụ thể là chúng ta đã thành lập Cục phòng vệ thương mại – cơ quan tổ chức thực thi pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại theo đúng yêu cầu của các FTA. Mặt khác, các quy định này sẽ là cơ sở để Việt Nam điều tra, áp dụng các biện pháp phù hợp khi hàng hóa nhâp khẩu ngày càng nhiều do sự mở c a của các FTA gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ngành sản xuất trong nước. Thứ hai, với các cam kết mang tính WTO + trong các FTA ở trên giúp hạn chế việc các nước thành viên lạm dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ nhằm bảo hộ ngành sản xuất nội địa, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở c a thị trường, không còn gặp các rào cản t các biện pháp PVTM nữa. Ngoài ra, những quy định về tính minh bạch hóa trong các FTA sẽ đảm bảo cho Việt Nam và các nước thành viên có được cơ chế phòng vệ thương mại hợp l đối với các ngành sản xuất trong nước chịu sự áp lực cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu (Trần Thị Liên Hương, 2019). Thứ ba, các biện pháp PVTM sẽ tăng cường thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu giữa các doanh nghiệp ở các quốc gia một cách thuận lợi, đảm bảo sân chơi công bằng chung. Đối với Việt Nam, các biện pháp này giảm mức độ phụ thuộc vào các mặt hàng nhập khẩu như s t, thép, phân bón góp phần thực hiện chủ trương công nghiệp hóa đất nước. Thứ tư, một điều lợi ích của các biện pháp PVTM mang lại đó là thuế. Đây là một nguồn lợi góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo vệ cho hoạt động sản xuất của các ngành công nghiệp trong nước. 3.2. Thách thức trong việc thực thi các biện pháp PVTM trong các FTA và giải pháp Đối với cơ quan nhà nước Việt Nam: cần cân nh c những vấn đề quy định ở nội dung các bản FTA để có hướng quy định phù hợp, đảm bảo thuận lợi trong việc thực thi FTA như sau: Những tiêu chuẩn thông lệ ở bản Phụ lục 6-A so với Luật quản lý ngoại thương năm 2017 và Nghị định 10/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật quản lý ngoại thương thì những thông lệ này có yêu cầu cụ thể về thủ tục, đòi h i cao hơn, nhằm thực hiện quy trình đúng đ n theo t ng giai đoạn. Trong khi, Luật quản lý ngoại thương năm 2017 và Nghị định 10/2018/NĐ- CP về hướng dẫn Luật quản lý ngoại thương quy định chưa được chi tiết, rõ ràng cụ thể. Cho nên, trong thời gian tới, văn bản hướng dẫn Luật quản lý ngoại thương năm 2017 cần cân nh c vấn đề này để phản ánh một cách phù hợp. 166
  11. Các quy định pháp luật thương mại của Việt Nam đều được quy định tương t ch với quy định trong EVFTA. Tuy nhiên, khi thực hiện Hiệp định này, thì về ph a cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần văn bản hướng dẫn thực thi về quy t c xuất xứ hàng hóa trong khuôn khổ Hiệp định EVFTA để đảm bảo cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu vào thị trường EU được thuận lợi nhằm tránh nguy cơ hàng Việt Nam bị mượn danh để xuất sang thị trường tiềm năng này, gây ra hệ lụy có thể bị EU áp thuế chống bán phá giá. Theo Ban ch đạo liên ngành Hội nhập quốc tế về kinh tế (2018), Khi đối chiếu với quy định của hiệp định VKFTA thì Luật quản lý ngoại thương năm 2017 của Việt Nam vẫn còn 1 số quy định chưa tương th ch, chưa thể hiện hết nội dung yêu cầu như là: (i) Về công bố dữ kiện trọng yếu: Khoản 3 Điều 81 và Khoản 3 Điều 89 quy định: “ sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra công bố kết luận cuối cùng về các nội dung điều tra quy định tại Điều 80 của Luật này. Kết luận cuối cùng của Cơ quan điều tra và các căn cứ chính để ban hành kết luận cuối cùng phải được thông báo bằng phương thức thích hợp cho các bên liên quan trong vụ việc điều tra”. Việc s dụng thuật ngữ “căn cứ chính để ban hành kết luận cuối cùng” chưa thể hiện tinh thần của Điều 7.6.2 của hiệp định VKFTA, bao gồm các căn cứ “đầy đủ và có nghĩa” và thời điểm ban hành căn cứ “ngay sau khi áp dụng biện pháp tạm thời và trước khi ban hành kết luận cuối c ng”. (ii) Về thời điểm tham vấn theo quy định của Điều 7.7 hiệp định VKFTA là sau khi nhận được đơn kiện và trước khi khởi xướng điều tra, nghĩa là không trong quá trình điều tra. Tuy nhiên, Khoản 4 Điều 70 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 và Điều 13 Nghị định 10/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật quản lý ngoại thương lại ch quy định “trong quá trình điều tra” nghĩa là chưa bao hàm được yêu cầu này trong hiệp định VKFTA. (iii) Luật quản lý ngoại thương năm 2017 không quy định về nội dung như Điều 7.9 hiệp định VKFTA - Điều tra sau khi bãi b biện pháp do kết quả của một đợt rà soát, cụ thể: “Các Bên thống nhất kiểm tra, với sự chú trọng đặc biệt, bất kỳ đơn yêu cầu khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với một hàng hóa xuất xứ t bên kia và đối với các biện pháp chống bán phá giá đã hủy b trong 12 tháng trước đó do kết quả của một đợt rà soát. Tr trường hợp việc kiểm tra trước khi khởi xướng cho thấy các tình huống đã thay đổi, việc điều tra sẽ không được tiến hành”. Quy định này của hiệp định VKFTA nhằm tăng cường vai trò của cơ quan điều tra trong việc thực thi. Đối với biện pháp tự vệ được quy định trong các bản FTA đều quy định các nước thành viên áp dụng biện pháp tự vệ toàn cầu trong WTO, bên cạnh đó bổ sung thêm quy trình áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp hay biện pháp tự vệ song phương. Tuy nhiên, khi chúng ta so sánh với Luật quản lý ngoại thương năm 2017 của Việt Nam thì nhận thấy: Trong hiệp định CPTPP và hiệp định VKFTA, đều có quy định khi áp dụng biện pháp tự vệ toàn cầu thì một bên áp dụng biện pháp tự vệ toàn cầu có thể loại tr hàng nhập khẩu có xuất xứ t Bên kia nếu hàng nhập khẩu đó không phải là nguyên nhân trọng yếu gây 167
  12. thiệt hại nghiêm trọng hay đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng. Trong khi đó, Luật quản lý ngoại thương của Việt Nam không quy định về vấn đề này thì trong tương lai khi áp dụng, sẽ không có cơ sở pháp l để áp dụng. Đối với biện pháp tự vệ song phương hay chuyển tiếp trong các FTA, Luật quản lý ngoại thương năm 2017 đã có quy định tại Điều 99 – Tự vệ đặc biệt. “Tự vệ đặc biệt là biện pháp tự vệ được Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định áp dụng trong trường hợp gia tăng quá mức hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam do kết quả của việc giảm thuế theo lộ trình của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”và“Việc điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt phải tuân thủ điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” được xem là quy định tương th ch với các quy định về tự vệ song phương các hiệp định FTA này. Để thực hiện điều này, Thông tư số 19/2019/TT- BCT ngày 30 tháng 9 năm 2019 của Bộ Công Thương hướng dẫn áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã được ban hành. Cho nên, trong tương lai, khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục cần phải ban hành thêm văn bản Thông tư hướng dẫn áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi Hiệp định thương mại tư do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA). Bên cạnh đó, đội ng nhân lực của cơ quan thực thi các biện pháp PVTM còn m ng, vì vậy cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực trong việc thực thi các biện pháp này. Cơ quan nhà nước về lâu dài cần nghiên cứu và ban hành Chiến lược bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước bối cảnh kinh tế hiện nay. Trong đó xác định mục tiêu và những giải pháp cụ thể theo lộ trình giai đoạn để thực hiện; Tăng cường các hoạt động cảnh báo nguy cơ xảy ra các vụ kiện về PVTM cho các doanh nghiệp biết, giúp doanh nghiệp chủ động phòng ng a và ứng phó c ng như đẩy mạnh công tác chống các hành vi gian lận thương mại về xuất xứ hàng hóa trên phạm vi toàn quốc gia; Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về quy định các biện pháp PVTM trong các bản FTA cho các doanh nghiệp như sổ tay về FTA. Về phía các doanh nghiệp Việt Nam: Theo Cục Phòng vệ Thương mại (2019), doanh nghiệp Việt Nam chưa s dụng hoặc ứng phó với các biện pháp PVTM một cách hiệu quả. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn bị động, chưa thực sự nhận thức rõ ràng về nguy cơ xảy ra các vụ việc điều tra PVTM c ng như hệ quả bất lợi của các vụ việc này đối với hoạt động sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp, thậm ch là của cả ngành. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đôi khi c ng chưa chủ động và t ch cực trong việc chuẩn bị, ứng phó với các vụ điều tra PVTM. Nhiều doanh nghiệp còn có tâm l né tránh, sợ kiện tụng, điều tra, không tham gia hoặc tham gia không đầy đủ vào công tác ứng phó khi bị nước thành viên FTA điều tra, áp dụng biện pháp PVTM dẫn tới kết quả bất lợi đối với các doanh nghiệp. 168
  13. Việc các doanh nghiệp thiếu hiểu biết, chưa thực sự chủ động và thực hiện có hiệu quả là rào cản lớn trong việc s dụng các biện pháp PVTM. Các hoạt động trong hiệp hội doanh nghiệp c ng chưa thực sự được đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả phối hợp hành động trong việc áp dụng các biện pháp PVTM. Mặt khác, hiện nay các doanh nghiệp c ng chưa đa dạng các công cụ chiến lược kinh doanh, cần phải thúc đẩy lực lượng nghiên cứu thị trường, tăng cường xuất khẩu vào những thị trường tiềm năng khác. Hiện nay, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đã ban hành rất nhiều ấn phẩm mang tính tuyên truyền phổ biến về các biện pháp PVTM đến các doanh nghiệp và người dân. Cho nên, các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu, nghiên cứu k về các FTA để n m vững những quy định về các biện pháp phòng vệ thương mại này để chủ động và tăng cường trong việc xuất khẩu hàng hóa. Các hiệp hội doanh nghiệp cần có cơ chế phối hợp hành động trong việc khởi xướng các biện pháp PVTM để đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp trước hàng nhập khẩu có hành vi cạnh tranh không lành mạnh gia tăng như hiện nay. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thường xuyên trao đổi, phối hợp với cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp và cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp về PVTM, tăng cường thêm nguồn tài chính phục vụ cho việc thực hiện. 4. Kết luận Cùng với quá trình tự do hóa thương mại thì các biện pháp phòng vệ thương mại được xem là công cụ quan trọng nhằm duy trì trật tự thương mại để đảm bảo sự công bằng, tránh tình trạng lạm dụng một cách quá mức trong việc bảo hộ ngành sản xuất nội địa. Các quy định về biện pháp phòng vệ thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới này được xem là quy định WTO+. Do đó, việc tìm hiểu nội dung các biện pháp phòng vệ thương mại c ng như đánh giá sự tác động của chúng đến pháp luật và vấn đề thực thi là việc làm hết sức quan trọng hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban ch đạo liên ngành Hội nhập quốc tế về kinh tế (2018), Cẩm nang tích hợp các FTA theo từng lĩnh vực Hướng dẫn thực thi các cam kết về phòng vệ thương mại và giải quyết tranh chấp, NXB Hồng Đức. 2. Cục Phòng vệ Thương mại (2019), Biện pháp phòng vệ thương mại trong môi trường thực thi các FTA thế hệ mới, Tạp ch Tài ch nh số tháng 5/2019; 3. Trần Thị Liên Hương (2019), Các biện pháp phòng vệ thương mại trong CPTPP và tác động đối với Việt Nam, Tài liệu Kỷ yếu hội thảo: Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới của Việt Nam: T chiến lược tham gia đến thách thức khi thực thi. 4. Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. 5. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu. 6. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc. 169