Đổi mới quản lý thị trường chứng khoán Việt Nam góp phần hoàn thiện thể chế cho phát triển bền vững

pdf 18 trang Gia Huy 23/05/2022 800
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới quản lý thị trường chứng khoán Việt Nam góp phần hoàn thiện thể chế cho phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdoi_moi_quan_ly_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_gop_phan_hoa.pdf

Nội dung text: Đổi mới quản lý thị trường chứng khoán Việt Nam góp phần hoàn thiện thể chế cho phát triển bền vững

  1. ĐỔI MỚI QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM GÓP PHẦN HOÀN THIỆN THỂ CHẾ CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG PGS.TS. Trần Đăng Khâm1 PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Huệ Viện Ngân hàng Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức hoạt động gần 17 năm. Mặc dù có tốc độ phát triển khá tốt, song TTCK Việt Nam vẫn chưa ph t triển theo đúng kỳ vọng. Theo xếp hạng của Công ty Morgan Stanley Capital International (MSCI), TTCK Việt Nam được xếp vào nhóm c c thị trường sơ khai cùng với c c nước như Argentina, Sri Lanka, Bangladesh 2 Một trong những nguy n nhân quan trọng hạn chế sự ph t triển của TTCK Việt Nam là do hoạt động quản lý thị trường chưa hoàn thiện: Địa vị ph p lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chưa được x c lập đúng đắn; Công t c quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn chưa theo kịp mức độ ph t triển của thị trường; Việt Nam vẫn chưa có c c tổ chức tự quản theo đúng nghĩa; v.v Đây là một trong những nội dung trong nhiều vấn đề cần nỗ lực khắc phục để thị trường Việt Nam đ p ứng được c c ti u chí nâng hạng l n thị trường mới nổi. Từ khóa: Quản lý thị trường chứng khoán 1. Thị trƣờng hiệu quả Thị trường chứng khoán là một trong những kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế. Một thị trường tài chính hiệu quả thúc đẩy sự ổn định và phát triển của hệ thống tài chính và nền kinh tế thông qua khả năng tích tụ và tập trung vốn lớn và phân phối có hiệu quả. Các nghiên cứu về hiệu quả thị trường tài chính đi theo ba hướng chính để phân chia khái niệm hiệu quả. Thứ nhất, hiệu quả thường được phân chia thành: hiệu quả phân bổ, hiệu quả giao dịch và hiệu quả thông tin. Thứ hai, hiệu quả được xem xét dưới ba góc độ: kỹ thuật, thể chế và thông tin (Loistl, 1990). Thứ ba, hiệu quả bao gồm: 1 Email của tác giả chính: trandangkham@yahoo.com 2 Các thị trường chứng khoán toàn cầu được MSCI xếp hạng theo 4 nhóm gồm: thị trường phát triển (developed market), thị trường mới nổi (emerging market), thị trường sơ khai (frontier market) và thị trường đơn lập (standalone market). 9
  2. hiệu quả trao đổi, hiệu quả sản xuất và hiệu quả thông tin (Stiglitz, 1981). Một điểm chung của ba cách phân loại trên là hiệu quả thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của thị thường tài chính. Tuy nhiên để phân tích hiệu quả hướng tới sự phát triển của thị trường thì quan điểm thứ nhất là phù hợp nhất. Cụ thể: Hiệu quả thông tin là sự minh bạch và công khai thông tin để ra quyết định đầu tư. Một thị trường đạt hiệu quả về thông tin khi các thành viên tham gia thị trường có thông tin liên quan đến các cơ hội và rủi ro đầu tư như nhau. Diễn biến giá các công cụ tài chính là ngẫu nhiên và các dữ liệu giá trong quá khứ không giúp dự báo cho giá cả tương lai. Tùy thuộc vào mức độ phản ánh thông tin của giá thì có thể phân chia thành ba cấp độ hiệu quả: Yếu, Trung bình và Mạnh. Hiệu quả giao dịch có thể được ước lượng bằng chi phí giao dịch thực tế dựa trên dữ liệu về tỷ suất sinh lời hàng ngày của danh mục cổ phiếu. Chi phí giao dịch thấp là kết quả của một thị trường tài chính cạnh tranh, hệ thống giao dịch hoạt động tốt; từ đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Thước đo thanh khoản của thị trường cũng đại diện cho hiệu quả giao dịch. Thị trường thanh khoản cao thúc đẩy giao dịch, điều này ngược lại thu hút một số lượng lớn các nhà đầu tư và tạo nên vòng tuần hoàn của thị trường càng thanh khoản và càng hiệu quả. (Kenedy 2004). Hiệu quả phân bổ nguồn vốn có nghĩa là, nguồn vốn được đầu tư vào các dự án sinh lời tốt và dịch chuyển ra khỏi khu vực kém hiệu quả. Wurgler (2000) dựa trên dữ liệu mảng của 65 quốc gia, 28 ngành công nghiệp trong 33 năm đã chỉ ra rằng việc phân bổ vốn có thể được cải thiện thông qua ít nhất ba cơ chế. Thứ nhất, các quốc gia có thị trường cổ phiếu mà giá cả phản ánh thông tin đặc trưng thì có hiệu quả phân bổ vốn tốt hơn. Điều này đồng nghĩa với hiệu quả thông tin sẽ giúp các nhà đầu tư và nhà quản lý phân biệt các khoản đầu tư tốt, xấu thông qua đo lường chính xác Q. Thứ hai, phân bổ nguồn vốn được cải thiện khi tỷ lệ sở hữu nhà nước giảm. Các quốc gia với sở hữu nhà nước chiếm ưu thế sẽ không gia tăng đầu tư nhiều vào các ngành công nghiệp phát triển và không giảm đầu tư vào các ngành kém hiệu quả do ảnh hưởng của yếu tố chính trị hơn là mục đích tối đa hóa giá trị. Hơn thế nữa 10
  3. các ràng buộc ngân sách và quản lý lỏng lẻo không tạo áp lực về hiệu quả. Thứ ba, việc quyền lợi của nhà đầu tư nhỏ lẻ được bảo đảm hay không gắn chặt với hiệu quả phân bổ vốn đặc biệt là tại các quốc gia có nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ nhỏ. Từ các khái niệm về hiệu quả trên đây cho thấy, minh bạch thị trường là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm một thị trường chứng khoán hiệu quả. Các nhà nghiên cứu thường xem xét tính minh bạch ở hai cấp độ: minh bạch ở cấp vĩ mô (cấp thị trường) và minh bạch ở cấp vi mô (tổ chức, giao dịch). Minh bạch thị trường chứng khoán dựa trên ba nguyên tắc: Công khai, Rõ ràng và Chính xác. Trong đó, công khai được đánh giá dựa vào lượng thông tin được đưa ra và mức độ sẵn có của các thông tin cho các bên quan tâm. Nguyên tắc chính xác là mức độ nguyên gốc của thông tin được truyền đi chính xác so với các thông tin nhận được của người truyền tin. Minh bạch không đánh giá thông tin có đúng so với thực tế không mà quan tâm đến các thông tin được truyền đi có “chính xác” so với thông tin được truyền đến. Thứ ba là nguyên tắc rõ ràng: đây là nguyên tắc rất khó để đánh giá, phụ thuộc vào khả năng nắm bắt thông tin và diễn đạt thông tin của người nhận tin. Nguyên tắc “rõ ràng” chịu ảnh hưởng bởi yếu tố hoàn cảnh, ngôn ngữ và trình bày. Mức độ minh bạch của thị trường phụ thuộc vào khả năng đáp ứng ba nguyên tắc trên, trong đó công tác kế toán và kiểm toán đóng vai trò quan trọng. Thông tin có thể chính xác và rõ ràng nhưng không được công khai như các thông tin tài chính nội bộ; hoặc việc công khai rõ ràng các thông tin không chính xác như chỉnh sửa, làm đẹp báo cáo tài chính; hoặc công khai các thông tin chính xác nhưng được đưa ra không rõ ràng như các chính sách, quy định pháp luật đều ảnh hưởng đến tính minh bạch của thị trường. Rõ ràng, để tạo một thị trường chứng khoán minh bạch và hiệu quả, quản lý thị trường có vai trò hết sức quan trọng. Ở một cách tiếp cạnh khác, thị trường hiệu quả được xác lập khi đó là một thị trường hoàn hảo. Ở thị trường này, trước hết, thông tin phải là hoàn hảo. Thông tin phải được truyền tải tới các nhà đầu tư là như nhau và không ai có lợi thế hơn từ việc thu thập và xử lý thông tin. Thứ hai, cạnh tranh trên thị trường là hoàn hảo, có nghĩa là số lượng nhà đầu tư phải đủ lớn, không có rào cản cho việc gia nhập và rút khỏi thị 11
  4. trường. Thứ ba, sự can thiệp của nhà nước ở mức độ phù hợp. Thị trường chứng khoán được xem là biểu tượng của kinh tế thị trường. Trong thị trường này, quá trình phân phối vốn không bị chi phối bởi nhà nước và hoàn toàn vận động theo quy luật kinh tế thị trường. Để bảo đảm các điều kiện này, vai trò quản lý thị trường là rất quan trọng. 2. Quản lý thị trƣờng chứng khoán Hoạt động quản lý thị trường chứng khoán được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và của tổ chức tự quản (SROs). 2.1. Quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán Hoạt động quản lý Nhà nước về lĩnh vực chứng khoán tập trung ở hai nội dung: Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật; Tổ chức, điều hành và giám sát TTCK. Cơ quan quản lý TTCK là Ủy ban chứng khoán quốc gia. Địa vị pháp lý của Ủy ban chứng khoán quốc gia ở mỗi nước khác nhau, phụ thuộc mô hình quản lý tài chính khác nhau và được quy định rõ trong các văn bản pháp luật của mỗi nước. Có thể nói, mỗi quốc gia khác nhau xác định các mục tiêu quản lý khác nhau đối với hệ thống tài chính (HTTC) với các nội dung quản lý được quy định rõ trong các văn bản pháp luật của mỗi nước. Nhìn chung, những mục tiêu cơ bản của quản lý HTTC bao gồm: (1) Duy trì sự ổn định và phát triển lành mạnh cho HTTC; (2) Bảo đảm môi trường phát triển ổn định và lành mạnh cho mỗi thành viên tham gia thị trường, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, các nhà đầu tư và các khách hàng khác liên quan đến các trung gian tài chính (TGTC); (3) Bảo đảm sự hội nhập hiệu quả của thị trường tài chính (TTTC) trong nước vào TTTC quốc tế. Bên cạnh các mục tiêu chung, ở mỗi thời kỳ khác nhau, với mỗi chủ thể quản lý khác nhau có thể xác định cho mình những mục tiêu bổ trợ, như giám sát chống hiện tượng rửa tiền, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp công, v.v Để thực hiện mục tiêu quản lý, các chủ thể quản lý cần có đầy đủ các chức năng điều tra, giám sát và cưỡng chế thực thi. Có ba mô hình quản lý cơ bản: (1) Mô hình quản lý theo thể chế: Theo cách tiếp cận này, ba mảng ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán sẽ do ba cơ quan tách biệt quản lý, giám sát, thường gọi là mô hình 3 cực (three pillars). Theo mô hình này, các chủ thể quản lý làm cả nhiệm vụ giám sát an toàn và 12
  5. giám sát hoạt động đối với các TGTC thuộc đối tượng giám sát. (2) Mô hình giám sát tài chính hợp nhất: Trong mô hình giám sát này, một chủ thể giám sát tổng hợp làm nhiệm vụ tạo điều kiện an toàn cho HTTC, đồng thời, điều tiết hoạt động đối với tất cả các TGTC. Trong trường hợp này, chức năng giám sát an toàn và hoạt động đối với các TGTC không thuộc các bộ chủ quản truyền thống: NHTW, Bộ Tài chính và Ủy ban chứng khoán quốc gia. Mức độ hợp nhất có thể khác nhau đối với các quốc gia, tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế và thể chế chính trị. Có thể được chia mức độ hợp nhất làm hai loại: (i) Hợp nhất hoàn toàn: Các hoạt động kinh doanh tài chính và giám sát an toàn được điều tiết bởi một chủ thể giám sát duy nhất. (ii) Hợp nhất một phần: Chỉ hợp nhất hai trong ba lĩnh vực kinh doanh tài chính gồm ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. (3) Mô hình GSTC hai đỉnh song song: theo mô hình này, hệ thống giám sát được hình thành theo đối tượng giám sát và chia thành hai chủ thể giám sát với hai đối tượng riêng biệt: (i) giám sát thận trọng và an toàn; (ii) giám sát hoạt động. Thông thường, cơ quan quản lý Nhà nước đối với TTCK là Ủy ban chứng khoán quốc gia (UBCKQG). Địa vị pháp lý của UBCKQG ở mỗi nước cũng khác nhau: Có khi UBCKQG là cơ quan Bộ trong Chính phủ; Có nước, UBCKQG nằm trong Bộ Tài chính; có nước, UBCKQG là cơ quan trực thuộc Ngân hàng Trung ương. Nhìn chung UBCKQG chỉ thực hiện các chức năng quản lý chung chứ không trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh các hoạt động trên thị trường chứng khoán tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình. UBCKQG là cơ quan quản lý chuyên ngành của nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán, với các chức năng sau: (1) Thực hiện các quy định, quy chế về quản lý ngành chứng khoán và phối hợp với các tổ chức liên quan để điều hành và giám sát có hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán. (2) Kiểm soát và giám sát các hoạt động trên thị trường như đăng ký, lưu ký chứng khoán, giám sát các công ty niêm yết, và phát hiện, xử lý các trường hợp gian lận trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. (3) Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát hoạt động của các tổ chức này, xử lý các vi phạm nếu các tổ 13
  6. chức tự quản không tự xử lý được. (4) Thanh tra đối với các cá nhân hay tổ chức để bảo vệ lợi ích chung của công chúng trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật. Bên cạnh UBCKQG, một số bộ, ngành cũng có chức năng tham gia quản lý một số lĩnh vực có liên quan tới thị trường chứng khoán. Ví dụ: Bộ Tài chính quản lý các vấn đề về kế toán, kiểm toán phục vụ phát hành và công khai thông tin công ty, phát hành trái phiếu quốc tế, ; Ngân hàng Trung ương quản lý các ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh chứng khoán, đề ra các nguyên tắc để phân tách nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và kinh doanh chứng khoán; Bộ Tư pháp có liên quan tới việc xử lý các trường hợp gian lận trên thị trường chứng khoán; v.v 2.2. Quản lý của các tổ chức tự quản Một tổ chức tự quản hoạt động dựa trên 2 nguyên tắc: (1) Các quyết định điều hành đưa ra phải đúng đắn, phù hợp hoàn cảnh thực tế, hoạt động giám sát thị trường phải có hiệu quả. (2) Chi phí điều hành, giám sát thị trường phải thu được từ các hoạt động trên thị trường chứ không phải do ngân sách cấp. Hoạt động điều hành và giám sát thị trường chứng khoán của các tổ chức tự quản bao gồm ba bộ phận: Quản lý và giám sát các hoạt động giao dịch (bao gồm cả việc phát hành); quản lý và giám sát công ty chứng khoán; giải quyết các tranh chấp và tiến hành xử lý các trường hợp vi phạm. Các tổ chức tự quản trên thị trường chứng khoán bao gồm Sở Giao dịch chứng khoán (SGDCK) và Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán. 2.2.1. Quản lý của Sở giao dịch chứng khoán SGDCK hoạt động theo mô hình tổ chức tự quản, nghĩa là chủ sở hữu của SGDCK đồng thời là các thành viên, tự thiết lập các quy chế điều chỉnh hoạt động của các thành viên cũng như của SGDCK. SGDCK có thẩm quyền quyết định việc kết nạp thành viên, cơ chế niêm yết và giao dịch chứng khoán tại SGDCK, cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm của các thành viên liên quan tới hoạt động giao dịch tại SGDCK. Theo Liên đoàn các SGDCK Thế giới (WFE), hiện nay trên thế giới đang tồn tại 4 mô hình tổ chức SGDCK phổ biến. Mỗi mô hình có những ưu điểm và nhược điểm nhất định, được các nước áp dụng tuỳ theo từng giai đoạn phát triển nhất định của thị trường, bao gồm: 14
  7. (1) SGDCK tổ chức dưới hình thức công ty tr ch nhiệm hữu hạn được sở hữu bởi c c thành vi n (còn gọi là mô hình thành vi n). Theo mô hình này, SGDCK do các thành viên là các công ty chứng khoán (CTCK) sở hữu. Thành viên vừa là người tham gia giao dịch vừa là người quản lý SGDCK, nên có thể phát huy tối ưu vai trò tự quản, nâng cao tính hiệu quả và nhanh nhạy trong việc xử lý các vấn đề phát sinh của thị trường. SGDCK theo mô hình thành viên thường hoạt động với mục tiêu phi lợi nhuận, chủ yếu là mang tính chất phục vụ cho hoạt động giao dịch cho chính các thành viên tại SGDCK. Nguồn thu từ phí giao dịch, phí niêm yết hàng năm và phí đóng góp của các công ty chứng khoán thành viên được dùng để phát triển cơ sở hạ tầng cho TTCK. Những lợi ích kinh tế gắn bó với tư cách thành viên được phân chia một cách công bằng hoặc trên cơ sở phần đóng góp của thành viên vào SGDCK. Hiện nay có tới 16,3% SGDCK áp dụng mô hình này như: Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Sri Lanka, v.v (2) SGDCK tổ chức theo mô hình công ty cổ phần hữu hạn. Trong khoảng hơn một thập kỷ gần đây, các SGDCK được tổ chức theo mô hình thành viên đã dần đi theo xu hướng tư nhân hóa để chuyển đổi hình thức tổ chức dưới dạng các công ty cổ phần hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Hiện nay có khoảng 26,5% SGDCK trên thế giới áp dụng mô hình này, như: SGDCK Stockholm; SGDCK Helsinki; SGDCK Copenhagen; SGDCK Amsterdam; SGDCK Australia; SGDCK Toronto; SGDCK Frankfurt; SGDCK Singapore; SGDCK Hongkong; SGDCK London; SGDCK Paris; SGDCK Tokyo; SGDCK New York; v.v Việc tư nhân hóa các SGDCK sẽ giúp các tổ chức này có thêm khả năng tài chính để hiện đại hóa sàn giao dịch và cạnh tranh với các đối thủ cả về phương diện công nghệ lẫn phương diện tài chính, tăng khả năng đương đầu với những thách thức của quá trình toàn cầu hóa thị trường chứng khoán. (3) SGDCK tổ chức theo mô hình công ty cổ phần ni m yết. Theo mô hình này, SGDCK thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết SGDCK. Hiện nay có khoảng 26,5% SGDCK trên thế giới áp dụng mô hình này, như: SGDCK Phillipines, Malaysia, v.v Việc phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết sẽ tăng khả năng tài chính của các SGDCK, từ đó, không chỉ xã hội hóa hoạt động huy động vốn để đầu tư phát triển hệ thống 15
  8. giao dịch mà còn công khai hóa các thông tin, từ đó tăng hiệu quả hoạt động của SGDCK. Tuy nhiên, áp lực lợi nhuận từ phía các cổ đông ngoài thành viên có thể tạo xung đột lợi ích với các thành viên thị trường. (4) Mô hình doanh nghiệp nhà nước. Ở mô hình này, SGDCK là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, hoặc là công ty cổ phần có sự tham gia góp cổ phần ở mức chi phối của nhà nước. Mô hình này có ưu điểm là các chi phí cho giao dịch thấp, đảm bảo được tính định hướng trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán và dung hoà được lợi ích của các chủ thể trên thị trường. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế nhất định là thiếu tính độc lập và khá cứng nhắc, nên hoạt động thường kém hiệu quả. Do nhà nước có quyền lực gần như tuyệt đối nên HĐQT, Ban Kiểm soát, Ban Giám đốc do cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm. Các thành viên giao dịch (CTCK thành viên) sẽ chỉ có vai trò mang tính danh nghĩa trong quá trình sở hữu và điều hành hoạt động của thị trường. Ví lý do đó, tính chất tự quản của SGDCK theo mô hình này bị ảnh hưởng đáng kể. Chính những hạn chế này nên hiện nay có rất ít nước áp dụng mô hình này, như SGDCK Warsava, SGDCK Istanbul, SGDCK Hà Nội và SGDCK Tp Hồ Chí Minh của Việt Nam. 2.2.2. Quản lý của Hiệp hội Hiệp hội c c nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn ngành kinh doanh chứng khoán và đảm bảo các lợi ích chung của thị trường chứng khoán. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường chứng khoán như sau: (1) Điều hành và giám sát thị trường giao dịch phi tập trung. Các công ty muốn tham gia thị trường này phải đăng ký với Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán và phải thực hiện các quy định do hiệp hội đưa ra. (2) Đưa ra các quy định chung cho các công ty chứng khoán thành viên trong các lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và đảm bảo thực hiện các quy định này. (3) Thu nhận các khiếu nại của khách hàng và điều tra các công ty chứng khoán thành viên để tìm ra các vi phạm, sau đó chuyển các kết quả điều tra tới công ty chứng khoán đó để giải quyết. (4) Đại diện cho ngành chứng khoán, hiệp hội đưa ra các đề xuất và gợi ý với những cơ quan quản lý thị trường chứng khoán của Chính phủ về các vấn đề tổng quát trên thị trường chứng khoán. 16
  9. 3. Thực trạng quản lý thị trƣờng chứng khoán Việt Nam Hệ thống GSTC Việt Nam được tổ chức theo mô hình giám sát theo thể chế. Trách nhiệm giám sát hệ thống tài chính trước hết do hai cơ quan bộ là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính thực thi. Bên cạnh đó, Ủy ban GSTC quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi là những tổ chức giám sát độc lập, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện các chức năng giám sát của mình trên TTTC. Mối quan hệ giữa các chủ thể GSTC tại sơ đồ 1. Sơ đồ 1. Hệ thống giám sát tài chính Việt Nam Theo mô hình này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý các tổ chức tín dụng. Chức năng giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng được giao cho Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng. Trong khi đó, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giám sát thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm, trong đó, thị trường bảo hiểm chịu sự giám sát trực tiếp của Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm, thị trường chứng khoán được giám sát bởi UBCKNN, là các đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính. Với trách nhiệm tư vấn cho Chính phủ về điều phối giám sát trên TTTC, UBGSTCQG có quan hệ phối hợp trực tiếp với Bộ Tài chính và NHNNVN nhằm nắm bắt được diễn biến hoạt động giám sát trên cả ba lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán; được yêu cầu hai cơ quan quản lý này cũng như các tổ chức tài chính thuộc thẩm quyền quản lý của NHNNVN và Bộ Tài chính cung cấp thông tin phục vụ công tác giám sát; có trách nhiệm đưa ra những khuyến nghị về xử lý vi phạm đối với tổ chức và cá nhân tham gia cả ba khu vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán3. 3 PGS.TS. Tô Ngọc Hưng Vai trò của các cơ quan GSTC đối với sự phát triển của thị trường tài chính và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam, Học viện Ngân hàng, 2012 17
  10. Do Bộ Tài chính chịu trách nhiệm quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước, Bộ Tài chính có mối quan hệ phối hợp chéo với NHNNVN trong quản lý, giám sát những NHTM có sở hữu vốn Nhà nước. Đồng thời, hai tổ chức này còn có mối quan hệ mật thiết liên quan đến việc phát hành trái phiếu Kho Bạc, cũng như thực hiện các chính sách tài chính công và chính sách tiền tệ có liên quan đến việc sử dụng các trái phiếu này. Tương tự như vậy, do đặc thù của việc kinh doanh bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm là tiền gửi của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, BHTGVN duy trì mối quan hệ đồng thời với Bộ Tài chính và NHNNVN, thể hiện ở sự có mặt của Phó Thống đốc NHNNVN và Thứ trưởng Bộ Tài chính tham gia Hội đồng Quản trị của tổ chức này. Mô hình GSTC theo thể chế được lựa chọn là khá phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh kinh tế chưa phát triển, cơ chế kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang định hướng thị trường, nhân sự và cơ sở vật chất kỹ thuật cho quản lý còn nhiều hạn chế. Chính yếu tố này đã tạo điều kiện cho HTTC Việt Nam phát triển khá tốt, khơi thông được nguồn vốn, bảo đảm được an ninh tài chính và đóng góp quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đây là thành tích quan trọng của cả HTTC Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh không thuận lợi cả ở trong nước và quốc tế như hiện nay. Theo mô hình quản lý, giám sát hệ thống tài chính như vậy, có thể đánh giá hoạt động quản lý thị trường chứng khoán Việt Nam như sau: 3.1. Hoạt động quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ngày 19 tháng 2 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định 66/2004/NĐ chuyển Ủy ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính. Từ thời điểm này, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán theo quy 18
  11. định của pháp luật. Trong hơn 20 năm qua, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cụ thể:4 3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ ph p luật Thành tựu của UBCKNN trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật có thể đánh giá qua 4 giai đoạn: - Trong thời gian chưa đầy 4 năm kể từ ngày thành lập, với nỗ lực rất lớn của UBCKNN, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức hoạt động. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, Nghị định số 22/2000/NĐ-CP, Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg là những văn bản pháp lý quan trọng để khởi động TTCK Việt Nam; - Giai đoạn hoàn thiện và phát triển thị trường (2000 – 2005), UBCKNN tiếp tục trình Chính phủ ban hành hàng loạt văn bản pháp lý quan trọng cho phát triển thị trường. Tiêu biểu như Nghị định 144, Nghị định 161/NĐ-CP, Quyết định 146/2003/QĐ-TTg, Quyết định 238/2005/QĐ-TTg. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng để chuẩn bị cho việc soạn thảo và ban hành Luật chứng khoán; - Giai đoạn phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu (2006 - 2010). Điểm nhấn của giai đoạn này là UBCKNN đã có nỗ lực rất lớn trong xây dựng Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua năm 2006. Đây là văn bản pháp luật quan trọng nhằm tạo bước tiến cho thị trường phát triển theo hướng minh bạch, công khai và hiệu quả. Trên cơ sở Luật, UBCKNN đã xây dựng hàng loạt các văn bản hướng dẫn thực hiện trình Chính phủ và Bộ Tài chính ban hành. Năm 2010, UBCKNN đã tiến hành xây dựng Luật Chứng khoán sửa đổi và được Quốc hội thông qua; - Giai đoạn từ 2011 đến nay. Thành công lớn nhất của UBCKNN trong giai đoạn này chính là, qua thực tiễn phát triển thị trường trong 10 năm, UBCKNN đã phát hiện và trình Chính phủ phương án tái cấu trúc thị trường chứng khoán, tạo điều kiện để thị trường phát triển về chiều sâu. Các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng theo hướng quy định phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao quát hơn, đồng thời, bảo đảm tính thống nhất hơn, giảm bớt sự trùng, chéo, mâu thuẫn. Nhiều quy định mới được ban hành không chỉ hỗ trợ 4 TS. Vũ Bằng, Tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển TTCK Việt nam. 2016 19
  12. cho hoạt động tái cấu trúc thị trường mà còn làm cho hệ thống pháp lý điều chỉnh TTCK Việt Nam tiến gần hơn tới thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi hơn cho các thành viên của thị trường, các doanh nghiệp niêm yết và các nhà đầu tư. Những thành tựu của UBCKNN trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật là rất lớn. Tuy nhiên, công tác này vẫn bộc lộ một số bất cập, cần tháo gỡ. Thứ nhất, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của ngành còn chậm, chưa theo kịp sự phát triển của thị trường. Thứ hai, nội dung một số văn bản pháp luật còn chưa rõ ràng và thiếu chuẩn xác, một số khái niệm chưa được giải thích rõ hoặc chưa thống nhất với các luật có liên quan, chế tài xử phạt các hành vi vi phạm chưa được quy định đầy đủ, hoặc không được thực thi đầy đủ; Thứ ba, sự phối kết hợp với các bộ ngành khác trong soạn thảo các văn bản pháp luật chưa được thực hiện tốt. 3.1.2. Tổ chức, điều hành và gi m s t TTCK Hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát TTCK của UBCKNN được đánh giá qua 4 giai đoạn: - Giai đoạn 1996 – 2000: Trong giai đoạn này, UBCKNN đã lựa chọn và xây dựng được mô hình TTCK Việt Nam, bao gồm mô hình sở giao dịch, hệ thống giao dịch, về hoạt động thanh toán bù trừ, lưu giữ và đăng ký chứng khoán, về các tổ chức tài chính trung gian, về mức độ tham gia của các bên nước ngoài. Đây là những tiền đề quan trọng để thị trường chính thức hoạt động vào tháng 7 năm 2000; - Giai đoạn hoàn thiện và phát triển thị trường (2000 – 2005): tháng 7 năm 2000, Trung tâm GDCK Tp Hồ Chí Minh đã khai trương hoạt động, đánh dấu giai đoạn quan trọng của TTCK Việt Nam. Tháng 8 năm 2005, TTGDCK Hà Nội cũng chính thức hoạt động. Cơ cấu thị trường đã cơ bản hình thành rõ nét, từ thị trường sơ cấp đến thị trường thứ cấp, thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu. Mặc dù quy mô thị trường còn nhỏ, sự tham gia của các nhà đầu tư chưa nhiều, song hoạt động thị trường khá trôi chảy, an toàn và từng bước phát triển, công tác thanh tra, giám sát được thực hiện khá tốt; - Giai đoạn phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu (2006 - 2010). Trong giai đoạn này, thị trường tăng trưởng mạnh về quy mô niêm yết, quy mô vốn hóa, số lượng doanh nghiệp niêm yết, về số lượng nhà đầu tư. Tính thanh khoản thị trường tăng mạnh gấp 55 lần so với giai đoạn trước. UBCKNN đã đưa thị trường UpCom vào giao dịch từ tháng 6 năm 2009. TTCK đã thực sự 20
  13. trở thành kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế, tính minh bạch, công khai được củng cố, thị trường tự do đã từng bước được thu hẹp. Có thể nói, công tác quản lý nhà nước và điều hành thị trường được thực hiện tương đối linh hoạt, bảo đảm thị trường hoạt động vận hành an toàn và phát triển. Năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi được cải thiện đáng kể; - Giai đoạn từ 2011 đến nay: Trong giai đoạn này, UBCKNN tập trung thực hiện các đề án tái cấu trúc thị trường, bao gồm tái cấu trúc về cơ sở hàng hóa, tái cấu trúc các công ty chứng khoán, tái cấu trúc thị trường giao dịch. Với sự quyết liệt của UBCKNN, hoạt động tái cấu trúc được thực hiện mà không gây xáo trộn, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư, không sử dụng vốn ngân sách cho hoạt động tái cấu trúc. Năng lực hoạt động của các trung gian tài chính được cải thiện. Năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi được nâng cao. UBCKNN đã triển khai thanh tra chuyên ngành nhằm bảo đảm đủ quyền lực để thực thi các chức năng quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi theo các tiêu chuẩn của IOSCO. 3.2. Hoạt động quản lý của hai Sở Giao dịch chứng khoán Ngày 11/07/1998, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập TTGDCK Tp Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội. Ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên đã chính thức được tổ chức tại TTGDCK Tp Hồ Chí Minh với 2 mã cổ phiếu và 4 CTCK thành viên, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 08/03/2005, TTGDCK Hà Nội cũng chính thức khai trương. Nhằm đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thị trường, đáp ứng quá trình đổi mới nền kinh tế, tái cơ cấu các doanh nghiệp, ngày 11/05/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 599/QĐ chuyển Trung tâm thành Sở GDCK Tp Hồ Chí Minh (HOSE), hoạt động theo mô hình Công ty TNHH Một thành viên (100% vốn chủ sở hữu thuộc Bộ Tài chính). Tới năm 2009, Sở GDCK Hà Nội được thành lập trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại TTGDCK Hà Nội theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 24/06/2009, Sở GDCK Hà Nội chính thức ra mắt, hoạt động với mô hình Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước (đại diện là Bộ Tài chính) làm chủ sở hữu. Với chức năng là đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức quản lý và điều hành thị trường giao dịch chứng khoán, hai Sở GDCK đã tổ chức hoạt động đấu giá cổ phần, tổ chức đấu thầu trái phiếu Chính phủ, huy động vốn cho ngân sách 21
  14. Nhà nước và vận hành 04 thị trường giao dịch thứ cấp: Thị trường cổ phiếu niêm yết tại Tp Hồ Chí Minh; Thị trường cổ phiếu niêm yết tại Hà Nội; thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt và thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM). Có thể nói, hai Sở GDCK đã hoàn thành tốt mục tiêu tổ chức vận hành thị trường giao dịch chứng khoán minh bạch, công bằng, hiệu quả; phát triển hạ tầng cơ sở và các sản phẩm mới phục vụ cho thị trường, tăng cường thu hút đầu tư trong nước và quốc tế, thể hiện vai trò là kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích cao nhất cho nhà đầu tư và doanh nghiệp tham gia thị trường. 4. Một số bất cập và khuyến nghị nhằm đổi mới quản lý Thị trƣờng chứng khoán Việt Nam Thành tựu của TTCK Việt Nam trong 20 năm qua rất đáng tự hào. Vượt qua bao khó khăn của kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam, qua bao thăng trầm, TTCK Việt Nam vẫn vững bước phát triển. Sau 20 năm, Việt Nam đã xây dựng được một thị trường chứng khoán vận hành suôn sẻ, gồm các Sở GDCK (HSX và HNX), với trên 1.000 doanh nghiệp đại chúng đưa cổ phiếu vào giao dịch tập trung, quy mô vốn hóa cổ phiếu niêm yết trên 70 tỷ USD, thu hút 1,6 triệu nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong suốt hai thập kỷ qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã huy động trên 2 triệu tỷ đồng vốn cho đầu tư phát triển doanh nghiệp và đất nước. Khoảng 4.000 doanh nghiệp đã thực hiện bán đấu giá công khai cổ phần ra công chúng thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam. Thành tựu này có đóng góp rất lớn của hệ thống quản lý thị trường chứng khoán. Những đóng góp của hệ thống quản lý TTCK đối với hệ thống tài chính Việt Nam nói chung và TTCK nói riêng được PGS.TS Tô Ngọc Hưng đánh giá rất cao, đặc biệt trên giác độ giám sát.5 Tuy nhiên, công tác quản lý thị trường chứng khoán còn một số bất cập, cụ thể: Thứ nhất, do Ủy ban chứng khoán là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, do vậy không đủ tầm và lực để quản lý thị trường, khó có thể phát huy được vai trò của Ủy ban trong quản lý và giám sát thị trường. Bộ Tài chính đang nắm quá nhiều vai: là cơ quan quản lý thị trường; nhà phát hành trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc; là nhà đầu tư khi đang quản lý phần vốn góp tại doanh 5 PGS.TS. Tô Ngọc Hưng (2012), sách đã dẫn 22
  15. nghiệp cổ phần hóa; là người tổ chức thị trường khi sở hữu 2 sở giao dịch. Các chức năng này có thể dẫn tới những xung đột lợi ích nhất định, có thể gây tổn hại tới quyền lợi của các nhà đầu tư, các thành viên khác và gây mất lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thậm chí, Bộ Tài chính có thể lợi dụng thị trường trong việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình khi Bộ Tài chính đang thực hiện Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước, thóai vốn nhà nước tại các công ty cổ phần, quản lý tài sản công tại các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa và phát hành trái phiếu Chính phủ. Do địa vị pháp lý chưa xác định đúng nên hạn chế rất nhiều tới năng lực quản lý và giám sát của UBCKNN. Để tháo gỡ bất cập này, cần tách UBCKNN ra khỏi Bộ Tài chính, thành cơ quan Bộ độc lập với Bộ Tài chính. Có như vậy mới đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của cơ quan này đối với một bộ phận quan trọng của TTTC. UBCKNN cũng cần được trao quyền nhiều hơn để đảm bảo khả năng giám sát và cưỡng chế thực thi. Thứ hai, nội dung giám sát còn chưa đầy đủ và toàn diện. Trong hệ thống quản lý, giám sát Việt Nam hiện nay, các cơ quan quản lý chủ yếu đang thực hiện hoạt động quản lý cấp phép, giám sát tuân thủ. Hoạt động giám sát rủi ro và giám sát hoạt động mới được triển khai trong lĩnh vực chứng khoán. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, kiểm soát rủi ro bao gồm rủi ro cá thể và rủi ro tổng thể toàn thị trường và toàn hệ thống tài chính có vai trò rất quan trọng. Để làm tốt nội dung này, UBCKNN cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đồng thời tăng cường phối kết hợp với các cơ quan quản lý, giám sát khác như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia và các cơ quan quản lý, giám sát khác. Bên cạnh giám sát tuân thủ, UBCKNN cần đẩy mạnh nội dung giám sát rủi ro, bao gồm cả nội dung giám sát rủi ro vĩ mô (Cho cả hệ thống) và giám sát rủi ro vi mô (Cho từng TCTC). Các mô hình phân tích, dự báo, kiểm định “độ căng” (stress test) của cả hệ thống và cho từng TCTC cần được lựa chọn và xây dựng phù hợp. Thứ ba, bất cập về mô hình tổ chức của hai Sở Giao dịch chứng khoán. Hiện nay, cả hai sở đều hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trực thuộc Bộ Tài chính. Với mô hình tổ chức này, vai trò của các thành viên khá mờ nhạt, hai Sở Giao dịch chứng khoán ở Việt Nam chưa phải là tổ chức tự quản theo đúng nghĩa. Để khắc phục hiện tượng này, Ngày 23
  16. 6/12/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1826/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm”, trong đó đối với nội dung tái cấu trúc các Sở Giao dịch chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam. Nội dung tái cấu trúc Sở Giao dịch chứng khoán được đặt ra là: Nghiên cứu thành lập Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam theo nguyên tắc thống nhất về bộ máy quản lý và điều hành; thống nhất về nền tảng công nghệ; thống nhất và chuẩn hóa tiêu chí niêm yết, chế độ báo cáo, công bố thông tin, tiêu chuẩn về thành viên và giao dịch, ; phân tách và chuyên biệt hóa thị trường theo hàng hóa giao dịch, bao gồm một sàn giao dịch cổ phiếu và một sàn giao dịch trái phiếu, chứng khoán phái sinh. Nói một cách khác, Việt Nam sẽ tiến hành sáp nhập hai sở thành một sở giao dịch chứng khoán duy nhất và vẫn giữ nguyên hình thức sở hữu nhà nước. Tôi đồng tình với TS. Kiều Hữu Thiện6, việc tái cấu trúc và chuyển đổi sở hữu của SGDCK cần phải được thực hiện trên 3 nguyên tắc: (1) Xử lý tốt bài toán lợi ích và chi phí, tránh những tốn kém, lãng phí không cần thiết; (2) Thông qua tái cấu trúc, cần phân định rõ hoạt động quản lý giám sát của nhà nước với tổ chức tự quản, tạo yếu tố đồng bộ trong hoạt động quản lý, giám sát; (3) Tái cấu trúc phải đặt trong mỗi quan hệ với hiệu quả của toàn thị trường. Theo tôi, trước hết cần cổ phần hóa hai sở theo hướng: Nhà nước không sở hữu sở giao dịch chứng khoán; Cổ đông của hai sở trước hết là các công ty chứng khoán thành viên, các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác. Ban đầu hai sở sẽ hoạt động theo mô hình công ty cổ phần hữu hạn, song với việc cho phép các công ty chứng khoán và các trung gian tài chính khác tham gia đầu tư góp vốn, khả năng huy động vốn của hai sở vẫn bảo đảm. Khi thị trường phát triển lên mức cao hơn sẽ phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết hai sở giao dịch. Việc vẫn để hai sở hoạt động đồng thời vừa giải quyết bài toán lợi ích và chi phí, tránh lãng phí không cấn thiết, đồng thời, hai sở có sự cạnh tranh với nhau, từ đó, tăng chất lượng dịch vụ. Tránh độc quyền, kể cả độc quyền nhà nước để tăng chất lượng là vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong tái cấu trúc Sở GDCK ở Việt Nam. Vấn đề hợp nhất hai sở sẽ do thị trường quyết định, phù hợp với mức độ phát triển của thị trường. 6 TS. Kiều Hữu Thiện, SGDCK Việt Nam – Bài toán về tái cấu trúc và chuyển đổi cơ cấu sở hữu 24
  17. Thứ tư, Hiệp hội kinh doanh chứng khoán chưa được coi là tổ chức tự quản ở Việt Nam. Vấn đề này trái thông lệ quốc tế. Hơn nữa, nhiều vấn đề Hiệp hội sẽ giải quyết tốt hơn là cơ quan quản lý nhà nước hay sở giao dịch quản lý, chẳng hạn vấn đề duy trì đạo đức hành nghề chứng khoán, hoặc tranh chấp quyền lợi giữa các thành viên thị trường. Theo tôi, cần công nhận vai trò tự quản của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán để phù hợp với thông lệ quốc tế. Kết luận Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định yêu cầu: “Để cơ cấu lại TTTC với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, cần đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường vàng và ngoại tệ, khắc phục đô la hóa, kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của DNNN, vay trả nợ nước ngoài, ” Để tạo sự chuyển biến thực sự các lĩnh vực kinh tế xã hội, cải cách quản lý TTCK có vai trò quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn chưa được giải quyết triệt để, vấn đề ổn định hệ thống tài chính nói chung và TTCK lại càng trở nên bức thiết với Việt Nam. Đổi mới thành công quản lý TTCK là cơ sở quan trọng để Việt Nam đạt được các mục tiêu đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập. Tài liệu tham khảo 1. TS. Vũ Bằng (2016), Tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam. 2. TS. Kiều Hữu Thiện (2013), SGDCK Việt Nam – Bài toán về tái cấu trúc và chuyển đổi cơ cấu sở hữu, Học viện Ngân hàng. 3. PGS.TS. Tô Ngọc Hưng (2012), Vai trò của các cơ quan GSTC đối với sự phát triển của thị trường tài chính và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam, Học viện Ngân hàng. 4. Để hoàn thiện công tác quản lý, giám sát thị trường chứng khoán, trao-doi/trao-doi-binh-luan/de- hoan-thien-cong-tac-quan-ly-giam-sat-thi-truong-chung-khoan- 64475.html 25
  18. 5. Tăng cường quản lý, giám sát thị trường chứng khoán, quan-ly-giam-sat-thi-truong-chung-khoan-58980.html 6. Làm tốt công tác quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán, cong-tac-quan-ly-nha-nuoc-ve-thi-truong-chung-khoan-84244.html 7. Vấn đề giám sát rủi ro của cơ quan quản lý nhà nước đối với các công ty chứng khoán, trao-doi/trao- doi-binh-luan/van-de-giam-sat-rui-ro-cua-co-quan-quan-ly-nha-nuoc- doi-voi-cac-cong-ty-chung-khoan-89353.html 8. 7 nhiệm vụ của ngành Chứng khoán trong thời gian tới, cua-nganh-chung-khoan-trong-thoi-gian-toi-89124.html 26