Giáo trình Chính trị học - Bùi Thanh Quang

doc 101 trang Hùng Dũng 02/01/2024 3360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chính trị học - Bùi Thanh Quang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_chinh_tri_hoc_bui_thanh_quang.doc

Nội dung text: Giáo trình Chính trị học - Bùi Thanh Quang

  1. GIÁO TRÌNH CHÍNH TRỊ HỌC TS. Bùi Thanh Quang MỤC LỤC
  2. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG 8 NHIỆM VỤ MÔN HỌC CHÍNH TRỊ 8 1. Đối tượng nghiên cứu, học tập 8 2. Chức năng, nhiệm vụ 8 3. Phương pháp và ý nghĩa học tập 9 Bài 1 11 KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH 11 VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 11 I. C. MÁC, PH. ĂNGGHEN SÁNG LẬP HỌC THUYẾT 11 1. Các tiền đề hình thành 11 2. Sự ra đời và phát triển học thuyết Mác (1848-1895) 12 II. V. I. Lênin phát triển học thuyết Mác (1895-1924) 14 1. Sự phát triển của V. I. Lênin về lý luận cách mạng 14 Cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, nghiên cứu sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V. I. Lênin đã tổng kết, nêu ra 5 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền; tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính; xuất khẩu tư bản; sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền; sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc 14 Chủ nghĩa Lênin chính là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. 15 2. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực 15 III VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN. 17 1. Vận dụng và phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội (1924-1991) 17 2. Đổi mới lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 199120 Câu hỏi ôn tập bài 1 22 Bài 2 23 NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN 23 CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG 23 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 2
  3. I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC 23 1. Phương thức tồn tại của vật chất 23 1.1. Bản chất của thế giới 23 1.2. Phương thức tồn tại của vật chất 24 1.3. Không gian và thời gian 25 1.4. Tính thống nhất của thế giới 26 2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức 26 2.1. Nguồn gốc của ý thức 26 2.2. Bản chất của ý thức 27 2.3. Quan hệ giữa vật chất và ý thức 28 II. NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 29 1. Những nguyên lý tổng quát 29 1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 29 1.2. Nguyên lý về sự phát triển 30 2. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật 32 2.1. Nhận thức chung về quy luật 32 2.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu thuẫn) 33 2.3. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng chất) 35 2.4. Quy luật phủ định của phủ định 36 III. NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN 38 1. Lý luận nhận thức 38 1.1. Bản chất của nhận thức 38 Các giai đoạn của nhận thức 38 2. Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức. 41 Vai trò của thực tiễn 41 Chân lý 42 Câu hỏi ôn tập bài 2 43 BÀI 3 45 NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN 45 VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 45 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 3
  4. I. SẢN XUẤT VÀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT 45 1. Vai trò của sản xuất và phương thức sản xuất 45 1.1. Vai trò của sản xuất 45 1.2. Vai trò của phương thức sản xuất 45 2. Những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội. 47 2.1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vời tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 47 2.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 49 II. Đấu tranh giai cấp, nhà nước và dân tộc, gia đình và xã hội 51 1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp 51 1.1. Khái niệm giai cấp 51 1.2. Đấu tranh giai cấp 52 2. Nhà nước và dân tộc 53 2.1. Bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước 53 2.2. Dân tộc, tính giai cấp của vấn đề dân tộc và dân tộc Việt Nam 55 III. Ý THỨC XÃ HỘI 56 1. Tính chất của ý thức xã hội 56 2. Một số hình thái ý thức xã hội 58 Câu hỏi ôn tập bài 3 60 Bài 4 62 BẢN CHẤT CÁC GIAI ĐOẠN 62 PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 62 I. SỰ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 62 1. Những tiền đề hình thành và vai trò của chủ nghĩa tư bản 62 1.1. Những tiền đề hình thành của chủ nghĩa tư bản 62 1.2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản 64 2. Giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản 66 2.1. Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa 66 2.2. Tích lũy tư bản 67 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 4
  5. 2.3. Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh 67 II. GIAI ĐOẠN ĐỘC QUYỀN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 68 1. Bản chất của chủ nghĩa đế quốc 68 1.1. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền 68 1.2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 71 2. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản 72 2.1. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế 72 2.2. Chủ nghĩa tư bản đã gây ra những hậu quả nặng nề cho nhân loại 73 Câu hỏi ôn tập bài 4 73 Bài 5 75 CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ QUÁ ĐỘ 75 LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 75 I. Chủ nghĩa xã hội 75 1. Tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội 75 1.1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội 75 1.2. Bản chất của chủ nghĩa xã hội 76 2. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội 77 2.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 77 2.2. Hai giai đoạn chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản 78 II. Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 78 1. Cơ sở khách quan của thời kỳ quá độ ở việt Nam 78 2. Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 80 2.1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) 80 2.2. Nội dung con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta 83 Câu hỏi ôn tập bài 5 86 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 5
  6. Bài 6 87 TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC 87 CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM 87 I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM 88 1. Sự hình thành dân tộc Việt Nam 88 2. Dân tộc Việt Nam trong tiến trình lịch sử 90 II. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM 93 1. Cơ sở hình thành truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam 93 2. Biểu hiện nổi bật của truyền thống yêu nước Việt Nam 94 2.1. Truyền thống lao động cần cù và sáng tạo 95 2.2. Truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa 96 2.3. Truyền thống độc lập tự chủ, tự cường 96 2.4. Truyền thống đánh giặc giữ nước 98 Câu hỏi ôn tập bài 6 99 LỜI NÓI ĐẦU TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 6
  7. Chính trị là môn học bắt buộc trong đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và là một môn học thi tốt nghiệp. Môn học nhằm mục đích: Cung cấp một số hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống quý báu của dân tộc và của giai cấp công nhân Việt Nam. Môn học góp phần đào tạo người lao động bổ sung vào đội ngũ giai cấp công nhân, tham gia công đoàn Việt Nam, giúp người học có ý thức rèn luyện, học tập đáp ứng yêu cầu về tri thức và phẩm chất chính trị phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Yêu cầu về kiến thức: SV nắm được kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng CSVN. Hiểu biết cơ bản về truyền thống quý báu của dân tộc, của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Yêu cầu về kỹ năng: vận dụng kiến thức đã học để rèn luyện trở thành người lao động mới có phẩm chất chính trị, có đạo đức tốt và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu về thái độ: có ý thức trách nhiệm thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Giáo trình (GT) “Chính trị” do Bộ Lao động-Thương binh xã hội xuất bản năm 2008 là căn cứ pháp lý cho việc dạy và học. Tập bài giảng (BG) này dùng tham khảo nội bộ cho sinh viên các lớp Cao đẳng nghề của trường. So với giáo trình, BG này đã thay đổi hình thức trình bày một số đoạn để dễ nhận thức cho sinh viên, nhưng về cơ bản không thay đổi từ ngữ để đảm bảo nội dung chính theo GT. Một số nội dung BG đã được điều chỉnh lại theo văn kiện ĐH XI năm 2011 của Đảng mà GT chưa điều chỉnh. Điều khó khăn với SV là tìm ví dụ và liên hệ thực tế. BG đã sưu tầm nhiều ví dụ, tư liệu và liên hệ thực tế, nhiều bảng, biểu, đồ thị từ các giáo trình và các nguồn khác. BG có hơn 100 câu hỏi trắc nghiệm trong bộ 350 câu hỏi trắc nghiệm. Các câu hỏi phục vụ cho nhận thức nội dung, phát triển tư duy và nâng cao trình độ và 6 lần kiểm tra định kỳ. SV cần bám sát nội dung GT, hoặc tập BG này, nghiên cứu để hiểu nội dung chung, từ đó tự mình lập luận để tìm đáp án đúng (GV không giải đáp án). SV không đánh dấu vào khả năng đúng trong câu hỏi, để mỗi lần ôn tập phát huy khả năng phân tích, ghi nhớ tích cực. Thi hết môn sẽ hướng tới thi kết hợp thi trắc nghiệm với tự luận. BG chia thành hai tập: tập 1 gồm 7 bài, tập 2 có 8 bài. BG không tránh khỏi sai sót, rất mong sự góp ý của mọi người. TS. Bùi Thanh Quang Email: thanhquangnb@gmail.com TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 7
  8. Bài mở đầu ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ MÔN HỌC CHÍNH TRỊ 1. Đối tượng nghiên cứu, học tập Chính trị là một bộ phận của kiến thức thượng tầng và xã hội gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước liên quan đến giai cấp, tổ chức, đảng phái, dân tộc các tầng lớp xã hội mà cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, lãnh đạo tổ chức và xác định nội dung hoạt động của nhà nước. Chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp dựa trên cơ sở kinh tế là biểu hiện tập trung nhất của kinh tế, đồng thời chính trị có vị trí độc lập và có tác dụng to lớn đối với kinh tế. Môn học chính trị nghiên cứu những quy luật chung nhất của hoạt động chính trị, cơ chế tác động, những phương thức sử dụng hiện thực hoá những quy luật chung đó, nghiên cứu hoạt động của Đảng phái và chính quyền, các tổ chức chính trị, giai cấp và các mối quan hệ về chính trị giữa các lực lượng đó của các chế độ xã hội. Mục đích của môn học Chính trị là trang bị cho người học nhận thức cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối lãnh đạo của Đảng, làm rõ những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, của giai cấp công nhân Việt Nam, góp phần bồi dưỡng nhận thức tư tưởng, giáo dục niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và định hướng trong quá trình học tập, rèn luyện cho người học. 2. Chức năng, nhiệm vụ Môn học Chính trị góp phần đào tạo người lao động bổ sung vào đội ngũ giai cấp công nhân, tham gia công đoàn Việt Nam, giúp người học nghề tự ý thức rèn luyện, học tập đáp ứng yêu cầu về tri thức và phẩm chất chính trị phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Môn học Chính trị có hai chức năng: - Chức năng nhận thức giúp người học hiểu biết hệ thống tri thức về nền tảng tư tưởng của Đảng và của cách mạng, nội dung họat động lãnh đạo, quản lý và xây dựng của Đảng, Nhà nước ta. Nắm vững chức năng này là hiểu biết cơ bản đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, những kiến thức về các quy luật phát triển của xã hội Việt Nam. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 8
  9. - Chức năng giáo dục tư tưởng chính trị giúp cho người học tham gia vào việc giải quyết nhiệm vụ hiện tại, giáo dục niềm tin vào sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Nó có tác dụng quan trọng với người học trong việc trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, có quyết tâm phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng. Nhiệm vụ của môn học Chính trị ở Việt Nam là: nghiên cứu các hoạt động của hệ thống Chính trị ở nước ta, nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng nước ta, cung cấp những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, hiểu biết về truyền thống quý báu của dân tộc, của giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam. Về kỹ năng sau khi học, người học cần biết vận dụng kiến thức đã học để rèn luyện trở thành người lao động mới có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức tốt và năng lực công tác, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước. Có tư tưởng tốt, tình cảm tốt đẹp, có ý thức trách nhiệm thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Yêu cầu cụ thể đối với thầy giáo và học sinh, sinh viên khi nghiên cứu môn Chính trị phải chú ý sử dụng kiến thức cơ bản đã biết từ các môn học khác nhau và nắm bắt hoạt động thực tiễn của đất nước, địa phương, của trường đào tạo nghề cho mình, của ngành nghề tương lai của mình, doanh nghiệp mình sẽ làm việc để liên hệ, vận dụng và giải quyết công việc trong quá trình học tập và công tác. 3. Phương pháp và ý nghĩa học tập Phát huy tính chủ động của thầy và tính tích cực của trò, gắn lý luận với thực tiễn, thảo luận tích cực, người học tích cực tự nghiên cứu để nắm vững các tri thức trong quá trình học tập. Thầy và trò cần đổi mới mạnh mẽ, áp dụng các phương pháp giảng dạy và học tập tích cực, làm cho quá trình dạy, học sinh động, thiết thực và có hiệu quả. Gíao viên cần được bồi dưỡng, cập nhật những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, các trường cần có tổ bộ môn Chính trị trực tiếp chỉ đạo việc quản lí, giảng dạy. Để môn Chính trị đạt hiệu quả cao, giáo viên cần áp dụng Phương pháp dạy học tích cực, kết hợp giảng dạy môn Chính trị với học tập Nghị Quyết của Đảng, phổ biến pháp luật của TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 9
  10. Nhà nước, các phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, của địa phương và các hoạt động của ngành chủ quản, gắn lí luận với thực tiễn để định hướng nhận thức và rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho người học nghề. Trong quá trình học tập môn Chính trị, có thể tổ chức cho sinh viên thảo luận xem băng hình, phim tư liệu lịch sử, chuyên đề thời sự hoặc tổ chức đi tham quan nghiên cứu các điển hình sản xuất công nghiệp, các di tích văn hoá ở địa phương. Môn Chính trị là một trong những nội dung quan trọng của đào tạo nghề nhằm thực hiện mục tiêu nâng cấp trình độ giác ngộ và giáo dục toàn diện, góp phần khắc phục những sai lầm, khuyết điểm cho người lao động. Vì vậy, nó là môn học bắt buộc trong tất cả các trương trình dạy nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và là một trong những môn học tham gia vào các môn thi tốt nghiệp của học sinh trước khi ra trường. Nghiên cứu, học tập, nắm vững tri thức chính trị có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, tính kiên định cách mạng trước tình hình chính trị phức tạp ở trong nước và quốc tế, giáo dục về truyền thống cách mạng, về chủ nghĩa yêu nước và lòng tự hào đối với Đảng và đối với dân tộc Việt Nam, bồi dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng, có ý chí biết noi gương những người đi trước, học tập và lao động thông minh, sáng tạo, có kỹ thuật, có kỷ luật và năng xuất cao, phát triển những thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 10
  11. Bài 1 KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tổng kết: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Thực hiện tốt điều đó, hơn hai mười năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử. Trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cần phải lý giải đúng đắn về lý luận và thực tiễn. Nhận thức đúng giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta là yêu cầu cần thiết và quan trọng. I. C. MÁC, PH. ĂNGGHEN SÁNG LẬP HỌC THUYẾT 1. Các tiền đề hình thành Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết lôi cuốn đông đảo quần chúng trên thế giới nhận thức và cải tạo xã hội phát triển, được hình thành từ những tiền đề: Tiền đề kinh tế-xã hội: Từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển mạnh ở nhiều nước châu Âu. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát triển nhưng tình cảnh của họ rất khổ cực. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng phát triển gay gắt và đã bùng nổ các cuộc đấu tranh tự phát. Tiêu biểu nhất là các cuộc khởi nghĩa quy mô lớn của công nhân dệt thành phố Lyông ở Pháp (1831-1834), phong trào hiến chương của công nhân Anh (1838-1848), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Xilêdi nước Đức (1844), các cuộc khởi nghĩa tự phát bộc lộ nhiều hạn chế và đều thất bại. Tuy vậy, các cuộc đấu tranh đó đã mở đầu thời kỳ đấu tranh độc lập của giai cấp công nhân đặt ra những yêu cầu giải đáp về lý luận mới có thể dẫn đường cho nó đi tới thắng lợi. Những điều kiện kinh tế xã hội trong lòng xã hội tư bản và sự phát triển lớn mạnh của phong trào công nhân là “mảnh đất hiện thực” đòi hỏi cho sự hình thành và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác- Ăngghen. Những tiền đề về lý luận và khoa học: Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XIX ở Châu Âu đã xuất hiện những đỉnh cao về tư tưởng lí luận TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 11
  12. mà tiêu biểu là trào lưu triết học cổ điển Đức (Hêghen, Phơbách), các học thuyết kinh tế tiến bộ ở Anh (Adam Xmít, Đavít Ricácđô) chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán Pháp (H. Xanhximông, C. Phuriê, R. Ôoen), C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển các đỉnh cao tư tưởng lý luận đương thời để xây dựng học thuyết mới. Thế kỷ XIX đã xuất hiện nhiều học thuyết khoa học mới trên nhiều lĩnh vực. Tiêu biểu là học thuyết về sự tiến hoá các loài của Đacuyn, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Lômôxốp, học thuyết về sự phát triển của tế bào Ph.Ăngghen của Svác và Slayđen và các thành tựu khoa học khác nhau về hoá học, cơ học Sự phát minh và ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học đã củng cố lý luận của Mác-Ăngghen. Vai trò nhân tố chủ quan của C.Mác-Ăngghen. Các Mác (1818-1883), Phiđich Ăngghen (1820-1895) có kiến thức thiên tài trên nhiều lĩnh vực khoa học, như triết học, kinh tế chính trị học, toán học, quân sự. Đặc biệt, họ là những người hoạt động gắn bó và hiểu biết sâu sắc phong trào công nhân và nhân dân lao động. Họ có điểm giống nhau là tìm thấy sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân hiện đại và quần chúng nhân dân lao động. Từ tháng 8-1844 C.Mác và Ph.Ăngghen gặp nhau và nhanh chóng nhất trí về tư tưởng. Hai ông bắt đầu cộng tác với nhau trên nhiều lĩnh vực và chuyển biến từ lập trường duy tâm sang duy vật, tích cực hoạt động trong phong trào công nhân. Qua nghiên cứu sâu sắc, kế thừa, phát triển những đỉnh cao lý luận đương thời, với tư duy khoa học và hiểu biết sâu sắc thực tiễn vận động của phong trào công nhân quốc tế, hai ông đã đưa chủ nghĩa Các Mác xã hội không tưởng trở thành học thuyết khoa học. Triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học là ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác. 2. Sự ra đời và phát triển học thuyết Mác (1848-1895) Sự ra đời và đặt nền móng phát triển của học thuyết Mác gắn liền với tên tuổi của Mác, Ăngghen. Đại hội II của Đồng minh những người cộng sản (12-1847) đã yêu cầu Mác-Ăngghen dự thảo Tuyên ngôn ra đời của Đồng minh, vừa có tính chất lý luận và là cương lĩnh TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 12
  13. hoạt động của tổ chức này. Cuối tháng 2-1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã được thông qua và công bố ở Luânđôn, đặt dấu mốc ra đời chủ nghĩa Mác. Kế thừa và phát triển rực rỡ những tinh hoa trí tụê của nhân loại, qua nắm bắt thực tiễn trong phong trào công nhân những năm 1848- 1849 ở Pháp và một số nước Châu Âu, nghiên cứu những kinh nghịêm thất bại của công xã Pari (1871), Mác-Ăngghen đã viết nhiều tác phẩm như “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Nội chiến Pháp”, bộ “Tư bản”. Các tác phẩm của Mác-Ăngghen đã đề cập rất toàn diện về những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa tư bản, về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Hai ông đã tổng kết phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và đề ra những vấn đề cơ bản có tính chất nguyên lý về cách mạng vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giá trị lý luận tiêu biểu mà Mác-Ăngghen là đã sáng tạo và cống hiến cho nhân loại trước hết là về triết học. Triết học Mác không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng con đường cách mạng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Nó đòi hỏi khi xem xét mỗi sự vật hiện tượng phải theo quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển. Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử mà cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội là một thành tựu vĩ đại của triết học Mác. Việc chuyển biến từ hình thái này sang hình thái kinh tế-xã hội khác là do sự tri phối của các quy luật khách quan và phải thông qua quá trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt. Với quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về lý luận hình thái kinh tế-xã hội, lý luận về đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, chủ nghĩa Mác đã đem lại cơ sở khoa học cho việc nhận thức về các quy luật của xã hội và hoạt động tự giác của giai cấp công nhân cùng những người cách mạng trên thế giới. Học thuyết giá trị thăng dư của Mác đã vạch ra quy luật kinh tế cơ bản của xã hội tư bản, từ đó cho ta thấy rõ bản chất của giai cấp tư sản, vai trò địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong sự phát triển của nhân loại. Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác chỉ rõ giai cấp công nhân là người lãnh đạo cuộc đấu TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 13
  14. tranh để xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng thành công xã hội mới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu để thay thế chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kì quá độ để cải biến cách mạng xã hội toàn diện xã hội cũ, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng nhất, có tính kỷ luật chặt chẽ, có khối đại đoàn kết liên minh công - nông, có tinh thần quốc tế nên có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng vô sản thắng lợi. Cùng với sáng tạo ra học thuyết lý luận, C.Mác, Ph.Ăngghen đã tích cực hoạt động trong phong trào công nhân. Hai ông là lãnh tụ, tổ chức vận động thành lập quốc tế I (1863-1876), là tổ chức lãnh đạo của phong trào công nhân Quốc tế. Sau 12 năm hoạt động, Quốc tế I có vai trò rất to lớn, đã xây dựng nền móng cho sự lớn mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Năm 1889, Ph.Ăngghen tổ chức thành lập quốc tế II để tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân quốc tế, mở ra thời kỳ phát triển theo bề rộng của phong trào công nhân ở hầu khắp các nước trên thê giới. Hàng loạt các đảng vô sản của giai cấp công nhân trên thế giới đã được thành lập. Sau khi Ph.Ăngghen mất (1895), Quốc tế II dần dần mất hết tính chất cách mạng và rơi vào chủ nghĩa cơ hội và phản động. II. V. I. Lênin phát triển học thuyết Mác (1895-1924) 1. Sự phát triển của V. I. Lênin về lý luận cách mạng Cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, nghiên cứu sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V. I. Lênin đã tổng kết, nêu ra 5 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền; tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính; xuất khẩu tư bản; sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền; sự phân chia thế giới về V. I. Lênin lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc. Tính đến năm 1914, tất cả các nước Á, Phi đã trở thành thuộc địa của Phương Tây, chủ nghĩa tư bản ở Nga bắt đầu phát triển, phong trào công nhân Nga phát triển rất nhanh. Nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng thế giới. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 14
  15. Kế thừa lý luận của Mác, Ăngghen và qua thực tiễn hoạt động cách mạng ở Nga, Vơlađimia Ilích Lênin (1870-1924) đã phát triển lý luận mới trên nhiều lĩnh vực. Sau khi phân tích đặc điểm và địa vị của chủ nghĩa đế quốc. Người chỉ rõ, cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí một nước. Nơi yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Người nêu ra khẩu hiệu nổi tiếng “Vô sản giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Theo V.I.Lênin, phong trào công nhân phát triển tự phát thì chỉ đến công đoàn chủ nghĩa. Lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác, khi đã thâm nhập vào trong phong trào công nhân sẽ trở thành sức mạnh vật chất, làm cho phong trào công nhân trở thành tự giác. Chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân sẽ tất yếu hình thành Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân được xây dựng theo những nguyên tắc của một Đảng kiểu mới. Đảng đã lấy lý luận chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, có Điều lệ với các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt chặt chẽ, các mối quan hệ mật thiết với quần chúng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội mọi hình thức. Lênin đưa ra lý luận mới về chiến tranh và hòa bình; nhà nước và cách mạng. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, Người kêu gọi những nhà cách mạng Nga hãy tích cực hoạt động, “biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”. Dưới sự lãnh đạo của V. L Lênin, Đảng Cộng sản (B) Nga đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga tiến hành cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công. Chủ nghĩa Lênin chính là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. 2. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Lý luận về chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực trên đất nước Nga. Tháng 3-1919, Quốc tế cộng sản (Quốc tế III) ra đời. Các sự kiện đó tác động mạnh mẽ làm cho cách mạng thế giới phát triển thành cao trào lớn mạnh. Hàng loạt các Đảng Cộng sản ở các nước được thành lập. Sau thời kỳ khôi phục kinh tế, chống thù trong giặc ngoài (1917 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 15
  16. -1920), nước Nga, sau đó là Liên Xô (12-1922) bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, V. I. Lênin đã phát triển lý luận về chiến tranh, hòa bình và cách mạng; về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã tiếp tục phát triển lý luận của mình trên một loạt vấn đề mới. Người chỉ rõ lý luận về những nhiệm vụ của của chính quyền Xô Viết, về dân chủ và chuyên chính vô sản; thực hành chính sách kinh tế mới; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa, những nhiệm vụ kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản; tiến hành công nghiệp hóa, tập thể hóa , thực hành cách mạng tư tưởng văn hóa; phát triển các đoàn thể dưới chủ nghĩa xã hội; chống quan liêu trong bộ máy nhà nước. Người nêu rõ các nguyên tắc về xây dựng đảng vô sản kiểu mới và xây dựng Quốc tế Cộng sản. Đảng phải đoàn kết, thống nhất, lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng, tiến hành cách mạng vô sản phải theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có kỷ luật, tự giác và nghiêm minh, lấy phê bình, tự phê bình làm động lực phát triển. Đảng phải hoạt động ở bất cứ nơi nào có quần chúng và phải luôn đề phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, V. I. Lênin qua đời. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã trở thành học thuyết soi đường cho phong trào cộng sản, công nhân, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới tiếp tục đấu tranh cách mạng đến thắng lợi. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết có giá trị to lớn và bền vững vì nó đưa ra mục tiêu cao đẹp, có nội dung khoa học, có phương pháp thực hiện đúng đắn và được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm, đã thúc đẩy lịch sử nhân loại tiến lên. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu và con đường, lực lượng, phương pháp để đạt được mục tiêu là giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người; đưa con người và các dân tộc trên toàn thế giới phát triển toàn diện, bình đẳng, tự do, ấm no và hạnh phúc. Mục tiêu đó của Chủ nghĩa Mác- Lênin vừa có giá trị nhân văn cao cả, phù hợp với khát vọng tự nhiên của con người, đem lại hạnh phúc cho cộng đồng tất cả con người, vì vậy về cơ bản nó không bị lỗi thời. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng. Nó mang bản chất khoa học vì ra đời trên cơ sở chín TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 16
  17. muồi của các tiền đề kinh tế, xã hội; nó kế thừa và phát triển những tinh hoa trí tuệ tư tưởng lý luận và khoa học của nhân loại; nó được sáng lập bởi những lãnh tụ thiên tài và hiểu sâu sắc phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ nghĩa Mác-Lênin cung cấp cho ta thế giới quan và phương pháp luận để nhìn nhận đúng đắn những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nhận thức của con người. Học thuyết này không chỉ để hiểu và giải thích thế giới mà vấn đề căn bản là cải tạo và phát triển thế giới. Nó luôn đòi hỏi phải phát hiện quy luật vận động của thực tiễn xã hội với tinh thần cách mạng. Nó có khả năng tự phê phán, thường xuyên đổi mới và phát triển. Chủ nghĩa Mác-Lênin, với lập trường duy vật luôn gắn bó và cải tạo thực tiễn; lấy thực tiễn là thước đo kiểm nghiệm, là tiêu chuẩn của chân lý. Nó là một học thuyết mở, năng động với vai trò là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam định hướng hành động, nó đòi luôn hỏi bổ sung, phát triển năng động sáng tạo. Không có học thuyết nào có mục tiêu cao đẹp hơn mục tiêu đã nói trên của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, khi nghiên cứu, vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi người cần độc lập tự chủ, nắm lấy bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết để vận dụng sáng tạo vào tình hình cụ thể, khắc phục cả hai khuynh hướng tư tưởng xét lại hoặc giáo điều, máy móc. III VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN. 1. Vận dụng và phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội (1924-1991) Từ 1924 đến nay, Chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản trên thế giới trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời nó đã được vận dụng sáng tạo vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh cách mạng trong điều kiện cụ thể của từng nước để đề ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng nước mình, bổ sung, làm phong phú và phát triển lý luận. Đó là biểu hiện sáng tạo và sức sống mới về mặt thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Qua 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941), Liên Xô đã đạt được những thành tựu kinh tế, xã hội hết sức to lớn và trở thành một cường quốc trên thế giới. Các cơ sở dẫn đến bóc lột đã bị thủ tiêu; xã hội về cơ bản chỉ còn công nhân, nông dân và trí thức. Trình TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 17
  18. độ văn hóa, sự giác ngộ của người dân Liên Xô đã ở mức tiên tiến. Liên Xô có lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đứng hàng đầu thế giới. Đất nước không còn kẻ áp bức bóc lột, không còn người đói khổ. Đời sống nhân dân không ngừng tăng lên. Niềm tin của nhân dân Liên xô vào chủ nghĩa xã hội không ngừng tăng lên. Nền quốc phòng Liên Xô vững mạnh, uy tín quốc tế không ngừng tăng lên, quan hệ ngoại giao ngày càng mở rộng. Những thắng lợi đó làm cho Liên Xô trở thành một cường quốc, văn hóa, khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh là trụ cột của các lực lượng cách mạng và là thành trì của hòa bình thế giới. Liên Xô giữ vai trò quyết định đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939-1945). Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, lý luận và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội được vận dụng ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới phát triển mạnh. Phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân ở các nước tư bản trở thành ba dòng thác cách mạng của thời đại, là thành trì của hòa bình thế giới, đẩy chủ nghĩa tư bản ngày càng lún sâu vào thời kỳ khủng hoảng. Cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa rất quyết liệt, nhất là ở những tiêu điểm như các nước: Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, các thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở Phi châu và Mỹ La tinh Tác động mạnh mẽ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới góp phần vào thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh những năm 60 và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam năm 1975. Đây là bằng chứng hùng hồn sự phát triển và ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa Mác- Lênin, của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng. Từ cuối năm 1989, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lần lượt sụp đổ và đến tháng 12-1991, Liên Xô sụp đổ hoàn toàn. Từ 12-1978 cho đến năm 1991, công cuộc cải cách xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc của Trung Quốc đã liên tiếp giành những thắng lợi quan trọng. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 18
  19. Điều phải khẳng định là: “Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” 1. Tuy nhiên, trong quá trình đó, các nước nêu trên đã mắc không ít sai lầm về quan niệm giản đơn, phiến diện về mô hình chủ nghĩa xã hội; khuynh hướng sai lầm là chủ quan, duy ý chí; tệ quan liêu và tình trạng mất dân chủ, xa rời quần chúng và những sai lầm trong duy trì quản lý kinh tế tập trung quan liêu, kế hoach hóa cao độ kéo dài. Điều cơ bản là những sai lầm đó chậm được phát hiện, chậm được sửa chữa và việc khắc phục, sửa chữa không đúng nguyên tắc đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước nói trên. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của các nước trên2: - Do sự suy thoái, biến chất của một số lãnh đạo cao cấp nhất trong Trung ương Đảng. Họ đã từng bước xa rời và phản bội những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. - Do sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc bằng “diễn biến hòa bình”. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất không gì bù đắp nổi cho phong trào cách mạng thế giới và Việt Nam. Sự đổ vỡ đó tác động to lớn, làm thay đổi trật tự thế giới. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào; hòa bình thế giới mất trụ cột; các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới mất một chỗ dựa vững chắc. Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng cơ hội đó chống phá quyết liệt hơn. Một bộ phận quần chúng nhân dân lo lắng, băn khoăn về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, từ trong sự sụp đổ đó Đảng ta rút ra nhiều bài học quý, đó chính là mâu thuẫn, là bài học của quá trình trưởng thành. Nhìn toàn diện lại lịch sử, từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từ thành tựu của công cuộc cải cách ở Trung Quốc, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được bổ sung và có những phát triển mới. 1 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Nxb. CTQG. HN. 3-2011, trg. 67-68 2 Hai nguyên nhân là viết theo giáo trình quốc gia: Những nguyên lý cơ bản của CN M-LN. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 19
  20. Cải tổ, đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan. Bài học rút ra là Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của đất nước để vận dụng với tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo. Đảng lãnh đạo đổi mới phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chăm lo xây dựng Đảng, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng. Đảng phải có mô hình chủ nghĩa xã hội và phương hướng đúng, có bước đi và cách thực hiện thích hợp trong công cuộc đổi mới. Đảng luôn mở rộng dân chủ trong Đảng và toàn xã hội; gắn bó chặt chẽ với nhân dân trong quá trình đổi mới. Đảng luôn chống khuynh hướng cực đoan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, kiên quyết chống đa nguyên chính trị, đa Đảng đối lập; chống “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. 2. Đổi mới lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1991 Sau khi Liên Xô và chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu sụp đổ, các loại kẻ thù tập trung chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa cơ hội nhiều màu sắc cũng tìm cách vào hùa với chủ nghĩa đế quốc xuyên tạc, vu cáo bôi nhọ lịch sử, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin là lỗi thời, lạc hậu, đồng nhất sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu với sự sụp đổ chủ nghĩa Mác-Lênin, kích động nhằm làm giao động tư tưởng, kêu gọi từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Cần thấy rõ, kẻ thù đã chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin ngay từ khi nó mới ra đời, và ngày nay chúng vẫn tiếp tục chống phá cũng không có gì lạ. Điểm mới cần nhận rõ là sự chống phá của chúng ngày nay quyết liệt và nguy hiểm hơn. Chúng lợi dụng chủ nghĩa xã hội đang lâm vào thoái trào để cho là chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, khoét sâu, thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm của chủ nghĩa xã hội để tiến công. Chúng dùng chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng rêu rao vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để tổ chức các hoạt động gây rối chính trị, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Đây là một trong những nguy cơ của cách mạng nước ta. Ngày nay, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiếp tục đổi mới dành nhiều thắng lợi. Các Đảng cộng sản và xu hướng cách mạng tả khuynh trong phong trào cách mạng thế giới đang tiếp tục bổ sung, phát triển phong phú lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới, làm cho học thuyết này có thêm sức sống mới, thực chất và năng động hơn, đi sâu vào thực tiễn cách mạng thế giới. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 20
  21. Bảo vệ, đổi mới và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin là yêu cầu khách quan, bắt nguồn từ bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết. Đảng cộng sản Việt Nam với tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo, bổ sung và làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện cụ thể của nước mình. Nguyễn Ái Quốc, người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ thành công, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi. Ngày nay Đảng đang tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới giành những thắng lợi quan trọng. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tập trung bảo vệ và phát triển những vấn đề cơ bản, có vị trí trung tâm và quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội, học thuyết về giá trị thặng dư, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận về thời đại ngày nay và tiến trình cách mạng thế giới. Những nội dung đó vừa có ý nghĩa quan trọng về tư tưởng, lý luận, vừa định hướng chỉ đạo cách mạng nước ta. Đó cũng là những nội dung mà chúng ta thường có nhận thức tư tưởng lệch lạc, dễ có sai lầm trong vận dụng và tổ chức thực hiện. Đảng ta đã tổng kết lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới và đề ra mô hình về về chủ nghĩa xã hội, nội dung, phương hướng cơ bản và cách thức thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng (6–1991) được Đại hội XI khẳng định lại và bổ sung, phát triển: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”3. Từ đó đến nay, Đảng ta đã đạt nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu, tuyên truyền và giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo dục lý luận chính trị trong Đảng và trong xã hội được đẩy mạnh, mở rộng phạm vi và đối tượng, có nhiều cố gắng đổi mới 3 Cương lĩnh xây dựng đất nước ĐH XI, Sđd. trg. 88 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 21
  22. nội dung, phương pháp giáo dục những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chương trình giáo dục chính trị được đưa vào hệ thống giáo dục Đảng, các trường chính trị, trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề, trong hệ thống giáo dục quốc dân với trình độ khác nhau. Đội ngũ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị được củng cố, bổ sung, phát triển. Tuy nhiên, trong việc vân dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin chúng ta phải nắm vững bản chất từng nguyên lý, không nên giáo điều, trích dẫn máy móc mà không rõ thực chất của nó. Phải luôn nghiên cứu, tổng kết, lấy thực tiễn đất nước, xem xét kỹ bối cảnh quốc tế để phát triển lý luận, nêu cao tinh thần độc lập sáng tạo, luôn đề phòng và khắc phục khuynh hướng giáo điều và xét lại, kịp thời bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận mới. Phải luôn đấu tranh chống lại các luận điểm và thủ đoạn chống phá chủ nghĩa Mác- Lênin của các loại kẻ thù. Mỗi cán bộ, đảng viên cần ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nêu cao ý thức học tập, năng lực suy nghĩ độc lập sáng tạo, năng lực vận dụng vào thực tiễn để bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Câu hỏi ôn tập bài 1 1. Phân tích quá trình ra đời và sự phát triển bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin. Liên hệ so sánh với một số học thuyết khác mà Anh (Chị) đã biết. 2. Phân tích bản chất khoa học và cách của chủ nghĩa Mác- Lênin. Mỗi người cần nhận thức và hoạt động thực tiễn như thế nào để phát huy bản chất đó ? 3. Vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin với cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Liên hệ nhận thức và thực tiễn của mỗi người để phát huy vai trò đó. 4. Phân tích sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin từ sau năm 1991 đến nay. Anh (Chị) rút ra kết luận gì về quá trình đó. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 22
  23. Bài 2 NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC 1. Phương thức tồn tại của vật chất 1.1. Bản chất của thế giới Quan điểm duy tâm cho rằng bản chất thế giới là ý thức, ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý thức quy định vật chất. Quan điểm duy vật khẳng định bản chất của thế giới là vật chất. Vật chất có trước, ý thức là có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức chỉ là sự phản ánh một phần thế giới vật chất vào đầu óc con người. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và biểu hiện ra qua các dạng cụ thể của nó. V.I. Lênin định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”3. Là một phạm trù triết học, vật chất thể hiện sự tồn tại qua các dạng cụ thể, nhưng không đồng nhất vật chất với các dạng tồn tại cụ thể của nó mà ta thường gọi là vật thể. Vật thể là những cái có hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Còn vật chất là vô cùng, vô tận. Thuộc tính chung nhất của vật chất là thuộc tính tồn tại khách quan, tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, không lệ thuộc vào cảm giác, dù con người có nhận thức được nó hay không. Vật chất không phải tồn tại trừu tượng mà tồn tại qua các sự vật cụ thể, được cảm giác con người ghi lại, sao chụp lại. Điều đó chứng tỏ con người có thể nhận thức được thế giới. Ý nghĩa: Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường duy vật biện chứng, mở đường cho các ngành khoa học cụ thể đi sâu nghiên cứu thế giới, tìm thêm những dạng mới của vật chất, đem lại niềm tin cho con người trong việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 23
  24. 1.2. Phương thức tồn tại của vật chất “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, nên thông qua vận động mà vật chất biểu hiện ra các dạng cụ thể của mình. Sự vận động của vật chất là vĩnh viễn. Nguồn gốc vận động của vật chất là sự vận động tự thân, do mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật quyết định, do tác động qua lại giữa các yếu tố trong cùng một sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Ph.Ăng-ghen đã chia vận động thành 5 hình thức cơ bản là vận động cơ học, lý học, hóa học, sinh học và vận động xã hội. (Đọc thêm: Vận động cơ giới, là sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. Vận động vật lý, là sự vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện Vận động hoá học, là sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong các quá trình hoá hợp, phân giải các chất. Vận động sinh học, là sự biến đổi của các cơ thể sống theo môi trường, biến thái cấu trúc gen v.v Vận động xã hội, là sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, v.v của đời sống xã hội, của các hình thái kinh tế - xã hội). Các hình thức vận động đó khác nhau về chất. Không được quy gộp hay đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức. Các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, hình thức vận động cao ra đời từ hình thức vận động thấp. Các hình thức vận động có chuyển hóa cho nhau và chúng luôn được bảo toàn. Sự vận động xã hội là hình thức vận động cao nhất, vì nó là sự vận động các chế độ xã hội thông qua con người. Vận động xã hội bao hàm mọi hình thức vận động khác. Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối là một trong những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vận động là tuyệt đối vì vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không ở đâu, không lúc nào có vật chất mà lại không có sự vận động. Đứng im, cân bằng là một hiện tượng tương đối, là một trạng thái đặc biệt của vận động - vận động trong cân bằng, vận động chưa làm thay đổi về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 24
  25. - Đứng im, cân bằng chỉ xảy ra với một hình thức vận động, chứ không phải với mọi hình thức vận động. (VD: con tàu đứng im là về hình thức vận động cơ học, còn các hình thức vận động vật lý, cơ học vẫn diễn ra trong bản thân nó). - Đứng im là tương đối, tạm thời trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. (VD: con tàu đứng im là trong quan hệ với bến cảng, còn so với mặt trời thì nó vận động theo sự vận động của quả đất). Không có đứng im tương đối thì không thể có những sự vật cụ thể, xác định và con người không thể nhận thức được bất cứ cái gì. 1.3. Không gian và thời gian Không gian là các hình thức tồn tại của các dạng cụ thể của vật chất. Đó là sự tồn tại ở một ví trí nhất định, có một quảng tính nhất định (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) và tồn tại trong mối tương quan nhất định với các vật thể khác (trước hay sau, bên phải hay bên trái, bên trên hay bên dưới v.v). Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là độ dài diễn biến của các quá trình, sự kế tiếp nhau trong vận động phát triển. Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó gắn liền với vật chất vận động. Vật chất vận động là vận động trong không gian và thời gian. Ph. Ăng-ghen nói: “Các hình thức tồn tại cơ bản của vật chất là không gian và thời gian. Và vật chất tồn tại ngoài thời gian cũng hoàn toàn vô lý như tồn tại ngoài không gian”5. Không gian và thời gian là thuộc tính vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, nên không gian, thời gian cũng tồn tại khách quan và có tính khách quan. Vật chất là vô tận, vô hạn nên không gian, thời gian gắn liền với vật chất cũng là vô tận, vô hạn. Tính vô tận của không gian được xác định từ sự có hạn của các sự vật riêng lẻ. Tính vô hạn của thời gian được xác định từ sự có hạn của các quá trình riêng lẻ. Không gian xã hội là hoạt động sống của con người trong các chế độ xã hội. Thời gian xã hội là thước đo về sự biến đổi của các quá trình xã hội. Nó có đặc điểm là các xã hội trải qua không đều vì tùy thuộc vào tính chất tiến bộ hay lạc hậu của chế độ xã hội. Lý luận trên cho ta ý nghĩa là muốn nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng nhất thiết phải có quan điểm lịch sử cụ thể, xem xét nó TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 25
  26. trong không gian, thời gian nhất định. Tức là khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng, một vấn đề nào đó phải xem nó tại địa điểm, tại thời gian cụ thể, gắn với những điều kiện, hoàn cảnh khách quan mà nó đã ra đời, tồn tại và phát triển. Nếu không có quan điểm lịch sử cụ thể ta sẽ xem xét, đánh giá không đúng về sự vật, hiện tượng. 1.4. Tính thống nhất của thế giới Ph. Ăng-ghen viết: “Tính thống nhất chân chính của thế giới là ở 6 tính vật chất của nó” . Biểu hiện sự thống nhất đó là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức. Thế giới vật chất là vô tận. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài quá trình vật chất vận động, chuyển hóa lẫn nhau. Tất cả đều là vật chất, đều là nguyên nhân và là kết quả của nhau. Mỗi lĩnh vực của thế giới tự nhiên hay xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất. Dù hình thức vật chất có khác nhau thì chúng đều có nguồn gốc, quan hệ kết cấu và đều chịu chi phối bởi những quy luật khách quan của thế giới vật chất. Ý nghĩa: Sự thống nhất của thế giới ở tính vật chất không chỉ thể hiện trong tự nhiên mà cả trong xã hội. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, mỗi người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, lấy đó làm cơ sở, tiền đề và điều kiện cho hoạt động của mình. Trước khi rút ra kết luận cần thiết về một sự vật, hiện tượng nào đó thì phải từ bản thân sự vật mà phân tích, xem xét, không được chủ quan, tùy tiện. 2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức 2.1. Nguồn gốc của ý thức Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nói cách khác ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan được chuyển vào đầu óc con người và cải biến đi. Tuy xuất phát từ thế giới khách quan, nhưng do tâm sinh lý, mục đích, yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh chủ quan của con người phản ánh nên cùng một đối tượng nhưng kết quả phản ánh có thể khác nhau. Ý thức ra đời từ hai nguồn gốc. - Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là phải có bộ óc người và phải có thế giới khách quan. Do quá trình vận động, phát triển lâu dài của giới tự nhiên làm xuất hiện con người với bộ não phát triển cao, từ đó ra đời ý thức. Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải là thuộc tính của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 26
  27. dạng vật chất đặc biệt, được tổ chức cao là bộ óc con người. Mặt khác phải có thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội) tồn tại bên ngoài con người, là đối tượng của ý thức. Không có thế giới khách quan thì không có gì để ý thức phản ánh. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự tương tác giữa thế giới khách quan và bộ óc con người. - Nguồn gốc xã hội của ý thức là do lao động và ngôn ngữ. Lao động làm thay đổi cấu trúc cơ thể, phát triển khí quan, phát triển bộ não, v.v của con người. Nhờ có lao động, mà những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của tự nhiên tác động vào bộ óc người, hình thành dần những tri thức và ý thức. Do lao động mà ngôn ngữ ra đời vì trong lao động mà con người cần trao đổi, quan hệ, liên hệ với nhau. Ngôn ngữ không chỉ trao đổi thông tin, tình cảm mà còn là công cụ của tư duy, diễn đạt hiểu biết của con người, trở thành tín hiệu vật chất của ý thức. Trong hai nguồn gốc trên của ý thức thì nguồn gốc xã hội có ý nghĩa quyết định sự ra đời của ý thức. Nguồn gốc trực tiếp cho sự ra đời của ý thức là thực tiễn hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội, thực nghiệm khoa học. 2.2. Bản chất của ý thức Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Điều đó xuất phát từ lý luận phản ánh và đặc trưng các dạng phản ánh. Phản ánh là thuộc tính của mọi dạng vật chất thông qua những liên hệ, quan hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng. Đặc trưng của phản ánh dạng vô cơ có tính chất cơ, lý, hóa là thụ động, giản đơn, không có sự lựa chọn. Phản ánh dạng động vật có hệ thần kinh thông qua hệ thống phản xạ. Phản xạ không điều kiện là phản xạ bản năng với môi trường, tự phát, không thông qua rèn luyện. Phản xạ có điều kiện là phản xạ được hình thành thông qua rèn luyện. Phản ảnh dạng động vật cấp cao là dạng phản ánh có yếu tố tâm lý vui buồn, lo sợ trong các mối quan hệ. Tất cả những dạng phản ánh trên, tuy mức độ, trình độ có sự khác nhau, đều là phản ánh của các dạng vật chất. Phản ánh của bộ óc người với hiện thực khách quan là sự phản ánh đặc biệt của ý thức. Nó thể hiện: TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 27
  28. Một là, phản ánh có quy trình theo trình tự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng, có chọn lọc và định hướng, mô hình hóa đối tượng tư duy, hiện thực hoá đối tượng qua hoạt động thực tiễn. Hai là, phản ánh mang tính chủ động, tích cực, sáng tạo, không phản ánh y nguyên như chụp, chép, mà có chọn lọc theo mục đích, yêu cầu lợi ích của con người, có dự báo những khía cạnh mới, thuộc tính mới. Phản ánh này có sự kết hợp cả cảm giác lẫn tư duy, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, cả hiện tại lẫn quá khứ và tương lai, phản ánh vừa có tính cụ thể hóa, vừa có tính khái quát hóa. Với những đặc trưng trên về sự phản ánh, ý thức không những có khả năng phản ánh đúng hiện thực, đúng bản chất sự vật, mà còn có khả năng vạch ra những quy luật vận động phát triển và có thể dự báo được tương lai của hiện thực. 2.3. Quan hệ giữa vật chất và ý thức Triết học Mác-Lênin khẳng định vật chất quyết định ý thức và ý thức có tác động trở lại vật chất. Ý thức dù có năng động đến đâu, dù có vai trò to lớn đến đâu, xét đến cùng bao giờ nó cũng bị yếu tố vật chất quyết định. Vật chất quyết định ý thức: Vật chất là tiền đề, là cơ sở và nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Khi cơ sở vật chất, điều kiện vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo. Vật chất quyết định ý thức là quyết định cả nội dung, bản chất và khuynh hướng vận động phát triển của ý thức. Cơ sở và điều kiện vật chất là thực tiễn, là nơi hình thành công cụ và phương tiện kiểm nghiệm nhận thức thế giới của con người đúng hay sai. Ý thức tác động trở lại vật chất: Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng ý thức có tác động to lớn đối với vật chất qua hoạt động thực tiễn của con người: Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào con người, giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động phát triển của sự vật hiện tượng để hình thành phương hướng, mục tiêu và những phương pháp, cách thức thực hiện phương hướng, mục tiêu đó. Ý thức làm cho con người hoạt động đúng hay sai, hiệu quả hay không. Nhờ có ý thức, con người biết lựa chọn những khả năng phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 28
  29. Ý thức, tinh thần có vai trò quyết định đối với hoạt động thực tiễn chỉ đúng trong một giới hạn hẹp, ở một trạng thái, một tình huống, một thời điểm nhất định. Hơn nữa, yếu tố ý thức, tinh thần đó không thể vượt ra khỏi hoàn cảnh khách quan quy định, không thay thế được yếu tố vật chất khách quan. Nó chỉ là sự phát hiện và sử dụng có hiệu quả yếu tố vật chất. Ý nghĩa của quan hệ giữa vật chất và ý thức là, nhận thức của con người phải luôn luôn xuất phát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan. Mọi sự chủ quan, nôn nóng, lấy ý kiến của mình làm căn cứ cho lý luận dễ dẫn đến sai lầm và thất bại trong thực tiễn. Bài học mà Đảng ta nêu ra là mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Trong bỗi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất, đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng ta chủ trương “phát triển kinh tế là trung tâm”4, “làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”5. “Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” 6, không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, phát huy đầy đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận thức, cải tạo và phát triển xã hội. II. NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1. Những nguyên lý tổng quát Chúng ta chỉ nghiên cứu một số nguyên lý tổng quát của phép biện chứng duy vật của triết học Mác- Lênin. 1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Thế giới có vô vàn các sự vật, hiện tượng nhưng chúng thống nhất với nhau ở tính vật chất nên chúng luôn có mối liên hệ lẫn nhau. 4 Văn kiện đại hội XI, Sđd. trg. 73. 5 Văn kiện đại hội XI, Sđd. Trg.74. 6 Văn kiện đại hội XI, Sđd. trg. 181 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 29
  30. Mối liên hệ chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ phổ biến: chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng. Các mối liên hệ đó có tính khách quan vì chúng là cái vốn có của các sự vật, hiện tượng; các mối liên hệ tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người. Các mối liên hệ có tính phổ biến vì giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng có liên hệ với nhau; giữa các quá trình trong sự vận động phát triển của thế giới cũng liên hệ với nhau. Trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng có liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hay một hệ thống. Có mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa vật này với vật kia, hệ thống này với hệ thống kia. Có mối liên hệ chung, lại có mối liên hệ riêng biệt. Có mối liên hệ trực tiếp không thông qua khâu trung gian lại có mối liên hệ gián tiếp, thông qua khâu trung gian. Có mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản Ý nghĩa: Lý luận trên là cơ sở lý luận cho quan điểm toàn diện. Nghĩa là khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng thì phải xem xét các mặt, các mối liên hệ bản chất, bên trong của nó; phải biết đâu là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu thì mới nắm được bản chất sự vật, hiện tượng. Không nên xem xét qua loa một vài mối liên hệ đã vội đánh giá sự vật một cách chủ quan. Không nên đánh giá các mối liên hệ là như nhau. Không nên dựa vào một vài mối liên hệ không cơ bản, không chủ yếu để biện minh một cách chủ quan theo ý mình. 1.2. Nguyên lý về sự phát triển Mọi sự vật hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới. Vận động và phát triển không đồng nghĩa với nhau. Vận động có thể diễn ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau như khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; có khuynh hướng vận động thụt lùi, đi xuống; có khuynh hướng vận động theo vòng tròn khép kín. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 30
  31. Phát triển là một khuynh hướng của vận động, đó là khuynh hướng vận động đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Vận động phát triển cũng bao hàm sự thụt lùi, đi xuống nhưng với nghĩa đó chỉ là một giai đoạn tạm thời trong khuynh hướng chung của sự vận động đi lên, vận động phát triển cúa sự vật. Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới và nó có tính phổ biến, được thể hiện trên mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong tự nhiên, có phát triển của giới vô sinh và tự nhiên hữu sinh. Trong xã hội, có phát triển của tiến trình lịch sử xã hội loài người. Xã hội loài người ở thời đại sau bao giờ cũng phát triển cao hơn, tiến bộ hơn xã hội ở thời đại trước về kinh tế, chính trị, văn hoá Phát triển trong tư duy là con người ngày càng nhận thức sâu vào thế giới vô cùng nhỏ bé, vô cùng lớn, với nhiều khoa học mới mẻ, tinh vi hơn, khám phá ra nhiều điều bí ẩn của thế giới. Nhận thức từng người là có hạn, nhận thức của con người là vô hạn. Nhận thức của thế hệ sau bao giờ cũng kế thừa, biểu hiện cao hơn thế hệ trước. Sự phát triển của kinh tế tri thức ngày nay đã chứng minh điều đó. Nguyên nhân của sự phát triển là do sự liên hệ và tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố bên trong của sự vật, hiện tượng, không phải do bên ngoài áp đặt, càng không phải do ý muốn chủ quan của con người quy định. Con người chỉ có thể nhận thức và thúc đẩy nó phát triển nhanh hoặc chậm lại mà thôi. Ý nghĩa. Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi con người xem xét sự vật, hiện tượng theo hướng vận động đi lên, phát triển. Trong hoạt động nhận thức của con người không được định kiến, bảo thủ; không nên chỉ nhìn phiến diện một mặt, một công việc, một thời điểm khi xem xét con người và phong trào quần chúng. Mỗi khi thành công hay thất bại cũng đòi hỏi có sự khách quan, chín chắn, bình tĩnh đánh giá mọi mặt, mọi khía cạnh của vấn đề để lạc quan, tin tưởng tìm hướng giải quyết, phát triển. Phải nhận thức xu hướng đi lên, nhưng phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi, vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 31
  32. 2. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật 2.1. Nhận thức chung về quy luật Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong, có tính phổ biến và được lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng, hay giữa các sự vật hiện tượng. Trong thế giới khách quan có nhiều quy luật khác nhau. Có những quy luật chung, phổ biến tác động trong cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Có những quy luật riêng, quy luật đặc thù chỉ tác động trong một hay một số mặt trong một lĩnh vực nào đó. Các quy luật đều có tính khách quan, là quy luật vốn có của thế giới vật chất. Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự phát, thông qua sự tác động của các lực lượng tự nhiên, không cần sự tham gia của con người. Quy luật của xã hội được hình thành và tác động thông qua hoạt động của con người. Quy luật xã hội thường biểu hiện ra như một xu hướng, không biểu hiện ra theo quan hệ trực tiếp, có tính xác định với từng việc, từng người. Các sự kiện trong đời sống xã hội nếu xảy ra trong thời gian càng dài, không gian càng rộng, lặp đi, lặp lại thì tính quy luật của nó biểu hiện càng rõ. Kết quả tác động của quy luật xã hội phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng của con người. Con người là chủ thể của xã hội, của lịch sử. Không có con người thì không có xã hội, không có quy luật xã hội. Quy luật của xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả hoạt động của con người. Tính khách quan vốn có của quy luật do những mối liên hệ bản chất tất nhiên bên trong của nó quyết định. Con người không thể sáng tạo hay xoá bỏ quy luật theo ý muốn chủ quan của mình, nhưng con người có thể chủ động phát hiện, nhận thức và vận dụng tạo ra những điều kiện thuận lợi, hoặc hạn chế tác hại của quy luật nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của mình. Khi con người chưa nhận thức được quy luật hoặc hành động tuỳ tiện bất chấp quy luật thì sẽ tất yếu bị quy luật đáp trả và thất bại. Khi con người nhận thức được quy luật và chủ động, tự giác hành động, tác động theo quy luật một cách tích cực, sáng tạo thì con người trở thành tự do. Tự do không có nghĩa là hoạt động tuỳ tiện, bất chấp quy luật, mà tự do chính là nhận thức được tất yếu. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 32
  33. 2.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu thuẫn) Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó vạch ra nguồn gốc động lực của sự phát triển và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Mặt đối lập là những mặt trái ngược nhau, tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng. Sự vật, hiện tượng nào cũng là thể thống nhất của các mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng làm điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. (Ví dụ: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong nhận thức có sự “đấu tranh” giữa nhu cầu cần hiểu biết với khả năng hiểu biết; giữa hiểu biết đúng với hiểu biết sai v.v ). Từ mặt đối lập mà hình thành mâu thuẫn bao hàm sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Nội dung quy luật: - Sự vật, hiện tượng nào cũng là thể thống nhất của các mặt đối lập. Đó là thống nhất của những mâu thuẫn với nhau trong chính bản thân mọi sự vật. - Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất lại vừa đấu tranh tác động, bài trừ phủ định nhau. Sự đấu tranh đó đưa đến sự chuyển hoá làm thay đổi mỗi mặt đối lập hoặc cả hai mặt đối lập, chuyển lên trình độ cao hơn hoặc cả hai mặt đối lập cũ mất đi, hình thành hai mặt đối lập mới. (VD: “không biết” đối lập với “biết” thì “không biết” chuyển hoá thành “biết”; có thể hai mặt được chuyển hoá lên thành hình thức cao hơn như “chưa biết” và “biết ít” chuyển hoá thành “biết ít” và “biết nhiều”) - Sự vật, hiện tượng mới ra đời. Các mặt đối lập lại vừa thống nhất lại vừa đấu tranh tác động, bài trừ phủ định nhau. Quá trình trên diễn ra liên tục làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động. (VD: sự chuyển hoá giữa biết về hiện tượng với từng bước nâng cao biết về bản chất sự vật, hiện tượng ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn làm cho khả năng hoạt động tác động vào sự vật, hiện tượng ngày càng có hiệu quả cao hơn v.v). Đấu tranh các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển mọi sự vật, hiện tượng. Sự thống nhất các mặt đối lập là tương đối. Bất cứ sự thống nhất nào cũng là sự thống nhất có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, gắn với đứng im tương đối của sự vật. Đứng im là thời điểm các mặt đối lập có sự phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau. Đây là trạng thái cân bằng giữa các mặt đối lập. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 33
  34. Đấu tranh là tuyệt đối vì nó diễn ra liên tục không bao giờ ngừng, trong suốt quá trình tồn tại các mặt đối lập, từ đầu đến cuối. Trong thống nhất có đấu tranh. Đấu tranh gắn liền với vận động mà vận động của vật chất là tuyệt đối nên đấu tranh cũng là tuyệt đối. Bản thân sự vật hiện tượng có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt, những bộ phận bên trong của sự vật, là mâu thuẫn tự thân, có vị trí vai trò quyết định đối với sự vận động phát triển của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật này với sự vật kia. Mỗi sự vật tồn tại, không tách rời sự vật khác, nên mâu thuãn bên trong không tách rời mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong. Trong nhận thức và thực tiễn, con người không được xem nhẹ mâu thuẫn bên ngoài và không tuyệt đối hoá mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại trong suốt quá trình sự vật tồn tại, nó quyết định bản chất và quá trình phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không giữ vị trí vai trò quyết định bản chất sự vật và nó phụ thuộc vào mâu thuẫn cơ bản. Bản chất của sự vật chỉ thay đổi khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết. Con người muốn thay đổi bản chất của sự vật, phải phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản và tìm cách giải quyết nó. Đây là cơ sở khách quan để xác định đúng phương hướng, mục tiêu, chiến lược cách mạng. Mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện mâu thuẫn cơ bản nổi lên hàng đầu trong mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển của sự vật, có ảnh hưởng quyết định đối với các mâu thuẫn khác nhau trong thời điểm đó. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là theo từng bước đi đến giải quyết mâu thuẫn cơ bản của sự vật. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không giữ vai trò quyết định tính chất đặc điểm của sự vật trong thời kỳ, giai đoạn nhất định. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích căn bản đối lập nhau, không thể điều hoà. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng là mâu thuẫn đặc thù của xã hội có giai cấp đối kháng. Phân biệt và xác định mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng là việc làm quan trọng là cơ sở xác định đúng đắn bạn và thù, đối tượng liên minh và đối tượng đấu tranh; để có TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 34
  35. biện pháp giải quyết cho phù hợp bằng bạo lực cách mạng hay bằng con đường hoà bình, bằng tổ chức, giáo dục, thuyết phục. 2.3. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng chất) Để hiểu quy luật phải hiểu: Chất, lượng, độ, điểm nút, nhảy vọt. Mỗi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng. Chất của sự vật là tổng hợp các những thuộc tính khách quan vốn có của nó nói lên nó là cái gì, để phân biệt nó với cái khác. Lượng của sự vật chỉ nói lên con số của những thuộc tính cấu thành nó như về độ to, nhỏ, quy mô lớn, bé, trình độ cao thấp, tốc độ nhanh chậm .Lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Sự vật, hiện tượng bao giờ cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất. Lượng nào chất ấy, chất nào lượng ấy. Không có chất lượng tồn tại rách rời nhau. Phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối. Trong mối quan hệ này nó là lượng, trong mối quan hệ khác nó là chất. (Ví dụ: số lượng sinh viên học giỏi của một lớp là 25% thì lớp đó được gọi là lớp giỏi. Như vậy số lượng trên là biểu thị chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật). Sự thống nhất giữa lượng và chất, được thể hiện trong giới hạn nhất định gọi là độ. Độ là giới hạn trong đó có sự thống nhất giữa lượng và chất. Ở đó đã có sự biến đổi về lượng nhưng chưa có sự thay đổi về chất; sự vật còn là nó, chưa là cái khác. (Ví dụ: với điều kiện là áp suất bình thường (atmotphe) của không khí, sự tăng hoặc sự giảm (lượng) nhiệt độ trong giới hạn từ 0 0C đến 1000C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Như vậy giới hạn từ 0 0C đến 1000C gọi là độ. Khi lượng nhiệt độ được tích luỹ vượt quá giới hạn, nhỏ hơn 00C hoặc trên 1000C , thì nước sẽ biến thành thể rắn hoặc thể lỏng - chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ). Sự vật biến đổi khi chất lượng biến đổi. Nhưng chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt biến động hơn. Lượng biến đổi trong giới hạn độ thì sự vật chưa biến đổi. Nhưng khi lượng biến đổi vượt độ thì nhất định gây nên chất biến đổi. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định, sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Điểm giới hạn đó (như 00C và 1000C ở thí dụ sau đây), gọi là điểm nút. Ví dụ: sự tăng hoặc sự giảm (lượng) nhiệt độ trong khoảng giới hạn từ 0 0C đến 100 0C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Nếu TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 35
  36. (lượng) nhiệt độ của nước giảm xuống dưới điểm 0 0C, nước thể lỏng chuyển thành thể rắn và duy trì nhiệt độ đó, (lượng) từ điểm 100 0C trở lên, nước nguyên chất thể lỏng chuyển dần sang trạng thái hơi. Khi chất biến đổi thì sự vật biến đổi. Tại thời điểm chất biến đổi gọi là nhảy vọt. Nhảy vọt xảy ra tại điểm nút. Nhảy vọt là bước ngoặt của sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Quy luật từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là thể hiện quan hệ biện chứng giữa hai mặt lượng và chất trong sự vật. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi làm phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm lượng. Quá trình này cứ thế tiếp diễn tạo nên cách thức hoạt động phát triển thống nhất giữa tính liên tục và tính đứt đoạn trong sự vận động và phát triển của sự vật. Thế giới muôn vẻ và đa dạng nên sự nhảy vọt cũng rất phong phú. Bước nhảy trong tự nhiên có tính tự phát, không qua hoạt động của con người. Khi lượng đổi đạt tới điểm nút thì bước nhảy vọt xảy ra. Trong xã hội, bước nhảy được thực hiện thông qua hoạt động của con người nên tùy điều kiện chuẩn bị chủ quan, khách quan, tình thế, thời cơ mà bước nhảy có thể diễn ra nhanh chóng hay chậm chạp. Nắm vững những quy luật của phép biện chứng duy vật giúp con người nhận thức và hoạt động thực tiễn, khắc phục được khuynh hướng tả khuynh. Mọi biểu hiện không chú ý tích lũy về lượng, chủ quan nôn nóng, duy ý chí chỉ muốn các bước nhảy tiếp tục sẽ dẫn tới thất bại. Mặt khác, cần khắc phục tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, ngại khổ, lo sợ không dám thực hiện những bước nhảy vọt khi có đủ điều kiện. Trong hoạt động thực tiễn, cần khắc phục những xu hướng xu hướng tả khuynh bảo thủ, dung hòa. Phải tích cực chuẩn bị kỹ mọi điều kiện khách quan và chủ quan. Mỗi khi có tình thế, thời cơ thì kiên quyết tổ chức thực hiện bước nhảy để giành thắng lợi quyết định. 2.4. Quy luật phủ định của phủ định Quy luật này vạch ra khuynh hướng cơ bản, phổ biến của sự vận động, phát triển của mọi sự vận động và phát triển diễn ra trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Thế giới vẫn tồn tại, vận động phát TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 36
  37. triển không ngừng. Sự vật hiện tượng nào đó xuất hiện, mất đi, thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay thế đó gọi là phủ định. Phủ định siêu hình là phủ định làm cho sự vật vận động thụt lùi, đi xuống, tan rã. Phủ định biện chứng là phủ định gắn liền với sự vận động phát triển. Phủ định biện chứng có đặc trưng cơ bản: - Là sự tự phủ định do mâu thuẫn bên trong, vốn có của sự vật. - Là phủ định có sự kế thừa yếu tố tích cực của sự vật cũ và được cải biến đi cho phù hợp với cái mới. Đó là kế thừa có chọn lọc. - Là sự phủ định vô tận. Cái mới phủ định cái cũ, nhưng cái mới không mới mãi, nó sẽ bị cái mới khác phủ định. Không có lần phủ định nào là lần phủ định cuối cùng. Phủ định biện chứng gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; mỗi loại sự vật có phương thức phủ định riêng. Phủ định trong tự nhiên khác với phủ định trong xã hội, và cũng khác với phủ định trong tư duy. Phủ định biện chứng có ý nghĩa quan trọng. Nó đòi hỏi phải tôn trọng tính khách quan chống phủ định sạch trơn, kế thừa tất cả, không có chọn lọc. Sự vật nào vận động cũng có tính chu kỳ. Sự vật khác nhau thì chu kỳ, nhịp điệu vận động phát triển dài, ngắn khác nhau. Tính chu kỳ của sự phát triển là: từ một điểm xuất phát, trải qua một số lần phủ định, sự vật dường như quay trở lại điểm xuất phát trên cơ sở cao hơn. Số lần phủ định đối với mỗi chu kỳ của từng sự vật cụ thể, có thể khác nhau nhưng cơ bản chỉ có hai lần phủ định trái ngược nhau. Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật trở thành cái đối lập với chính nó. Phủ định lần thứ hai làm cho sự vật mới ra đời, đối lập với cái đối lập, nên sự vật dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Phép biện chứng duy vật khẳng định vận động phát triển đi lên, là xu hướng chung của thế giới, nhưng không diễn ra theo đường thẳng, mà diễn ra theo đường xoắn ốc quanh co phức tạp. Trong điều kiện nhất định, cái cũ tuy đã cũ, nhưng còn có những yếu tố vẫn mạnh hơn cái mới. Cái mới còn non nớt chưa có khả năng thắng ngay cái cũ. Có thể lúc đó, có nơi cái mới hợp với quy luật của sự phát triển, nhưng vẫn bị cái cũ gây khó khăn, cản bước phát triển. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 37
  38. Lý luận trên cho ta ý nghĩa: khi xem xét sự vận động phát triển của sự vật, phải xem xét nó trong quan hệ cái mới ra đời từ cái cũ, cái tiến bộ ra đời từ cái lạc hậu. Cần bênh vực, ủng hộ cái mới, tin tưởng cái mới nhất định chiến thắng. Khi có những bước thụt lùi hoặc thoái trào, cần xem xét kỹ lưỡng, phân tích nguyên nhân, tìm cách khắc phục để từ đó có niềm tin vào thắng lợi của cái mới. III. NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN 1. Lý luận nhận thức 1.1. Bản chất của nhận thức Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định bản chất của nhận thức là sự phản ánh chủ động, tích cực, sáng tạo thế giới vào trong đầu óc của con người. Con người có hai mặt tự nhiên và xã hội. Bản chất người của con người là mặt xã hội (?). Chủ thể nhận thức là con người nên kết quả phản ánh thường bị chi phối bởi điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa; đặc điểm tâm sinh lý, đặc biệt là năng lực nhận thức, tư duy của chủ thể. Khách thể nhận thức là hiện thực khách quan trong phạm vi hoạt động của con người. Đó là thế giới vật chất hoặc thế giới tinh thần đã được khách thể hóa. Nhận thức là sự phản ánh của chủ thể đối với khách thể. Không có sự vật hiện tượng nào trong thế giới khách quan mà con người không thể biết được. Con người hoặc đã biết hoặc chưa biết. Những cái chưa biết thì sẽ biết trong tương lai. Những tri thức của con người về thế giới được thực tiễn kiểm nghiệm là những tri thức xác thực, tin cậy vì nó phản ánh đúng hiện thực khách quan. Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, nhưng nó không phải là sự phản ánh thụ động, mà là phản ánh chủ động, tích cực, có sáng tạo; từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ hiện tượng đến bản chất. Nhận thức không chỉ phản ánh những cái đã và đang tồn tại mà còn phản ánh những cái sẽ tồn tại. Với ý nghĩa đó, nhân thức có thể dự báo tương lai. Nhận thức không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới. Nhận thức và thực tiễn về bản chất là gắn bó với nhau. Các giai đoạn của nhận thức Quá trình nhận thức của con người qua hai giai đoạn, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 38
  39. + Trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính, đó là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan bằng các giác quan qua các hình thức cơ bản, kế tiếp nhau là cảm giác, tri giác, biểu tượng. Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực, là kết quả sự tác động của sự vật vào các giác quan của con người. Nó chỉ phản ánh được những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của sự vật như: nóng, lạnh, màu sắc, mùi vị Cảm giác có vai trò to lớn trong nhận thức và thay đổi khi rèn luyện. Từ cảm giác, nhận thức cảm tính chuyển sang hình thức cao hơn là tri giác. Tri giác là sự phản ánh đối tượng trong tính toàn vẹn, trực tiếp tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của sự vật do cảm giác đem lại. Từ tri giác, nhận thức cảm tính chuyển lên hình thức cao hơn là biểu tượng. Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được tái hiện lại trong đầu một cách khái quát, khi không còn tri giác trực tiếp với sự vật. Nó chỉ giữ lại những nét chung bên ngoài của sự vật. Biểu tượng cũng như cảm giác, tri giác, đều là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng biểu tượng phản ánh sự vật một cách gián tiếp và có thể sáng tạo ra một biểu tượng khác tương tự. Đặc điểm chung của giai đoạn nhận thức cảm tính là phản ánh có tính chất hiện thực, trực tiếp, không thông qua khâu trung gian. Sự phản ánh đó tuy phong phú, sinh động, nhưng chỉ phản ánh bề ngoài, hiện tượng của sự vật. + Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở tài liệu do trực quan sinh động đưa lại. Chỉ giai đoạn này, nhận thức mới nắm được bản chất, quy luật của hiện thực. Tư duy trừu tượng được biểu hiện dưới các hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy lý. - Khái niệm là hình thức của tư duy trừu tượng phản ánh cái chung, bản chất, tất yếu của sự vật. Khái niệm được hình thành từ hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Khái niệm được diễn đạt bằng ngôn ngữ và từ ngữ, đó là vật liệu đầu tiên để xây dựng nên những tri thức khoa học. Khi vận dụng, phải linh hoạt, mềm dẻo cho phù hợp. - Phán đoán là một hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên sự liên kết, vận dụng những khái niệm đã có, nhằm khẳng định hay phủ TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 39
  40. định, một hay nhiều thuộc tính của sự vật. Mỗi phán đoán được biểu đạt bằng một “mệnh đề” nhất định. Phán đoán cũng không ngừng hoạt động, phát triển từ đơn giản đến phức tạp, gắn liền với quá trình phát triển của thực tiễn, nhận thức, nên nó là hình thức để biểu đạt quy luật khách quan của sự vật, hiện tượng. Phán đoán có nhiều loại như phán đoán khẳng định, phủ định, đơn nhất, đặc thù. Suy lý là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Nếu như phán đoán dựa trên sự liên kết các khái niệm, thì suy lý dựa trên cơ sở những phán đoán đã được xác lập, và những mối liên hệ có tính quy luật của những phán đoán đó, để đi đến những phán đoán mới có tính chất kết luận. Suy lý không chỉ cho phép ta biết được những cái đã, đang xảy ra, mà còn cho biết cả những cái sẽ xảy ra. Nếu có sự phân tích sâu sắc, toàn diện, nắm chắc được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì có thể dự báo được tương lai của chúng. Giai đoạn nhận thức lý tính tuy không phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan, nhưng phản ánh trừu tượng, khái quát, vạch ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là nhận thức đáng tin cậy, gần với chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy chúng có sự khác nhau về vị trí, mức độ và phạm vi phản ánh, nhưng có liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi giai đoạn đều có mặt tích cực và mặt hạn chế. Giai đoạn nhận thức cảm tính, tuy nhận thức hiện thực trực tiếp thế giới khách quan, nhưng đó chỉ là nhận thức những hiện tượng bề ngoài, giản đơn, nông cạn. Còn nhận thức lý tính, tuy không phản ánh trực tiếp phản ánh trực tiếp sự vật hiện tượng, nhưng vạch ra những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong, vạch ra quy luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng, nội dung phản ánh. Giữa chúng có liên hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện gì hết nếu thiếu tài liệu của nhận thức cảm tính đưa lại. Ngược lại, nhận thức lý tính sau khi đã hình thành thì tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó nhận thức nhạy bén hơn, chính TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 40
  41. xác hơn trong quá trình phản ánh hiện thực. Tư duy trừu tượng phản ánh gián tiếp hiện thực nên dễ có nguy cơ phản ánh sai lạc. Do vậy, nhận thức của tư duy trừu tượng phải quay về thực tiễn, để thực tiễn kiểm nghiệm, từ đó mà phân biệt giữa nhận thức đúng với nhận thức sai. Như vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn, là con đường biện chứng của nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Kết thúc vòng khâu này là điểm khởi đầu của vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình vô tận, liên tục của sự nhận thức chân lý khách quan. 2. Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức. Vai trò của thực tiễn Triết học Mác-Lênin khẳng định thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo thế giới khách quan. Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người tác động vào thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội) nhằm biến đổi nó theo nhu cầu, lợi ích của con người. Hoạt động thực tiễn rất phong phú nhưng có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức. Mọi nhận thức của con người, xét đến cùng đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp những tài liệu hiện thực, khách quan, làm cơ sở để con người nhận thức. Trong thực tiễn con người trực tiếp tác động vào thế giới khách quan, bắt đối tượng bộc lộ những đặc trưng, thuộc tính, những quy luật vận động để con người nhận thức ngày càng cao hơn. Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức. Thực tiễn thường xuyên vận động, phát triển nên nó luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới cho nhận thức. Hoạt động của con người, bao giờ cũng có mục đích, yêu cầu và tổ chức thực hiện mà không phải lúc nào cung có sẵn trong đầu óc. Nếu mục đích, yêu cầu, cách thức thực hiện đúng thì hoạt động thực tiễn thành công. Mục đích nhận thức của con người không chỉ để giải thích thế giới mà là TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 41
  42. để cải tạo thế giới theo nhu cầu và lợi ích của mình. Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức, lý luận. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó vừa có là hiện thực phong phú, vừa có tính phổ biến là hoạt động vật chất khách quan, có tính lịch sử - xã hội. Hiện thực lịch sử xảy ra một lần nhưng nhiều người nhận thức và nhận thức nhiều lần khác nhau. Người ta không thể lấy nhận thức để kiểm tra nhận thức được, không thể lấy nhận thức này làm chuẩn để kiểm tra nhận thức kia được vì chính bản thân nhận thức được dùng làm tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức khác chưa chắc đã là nhận thức đúng. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn thật sự, duy nhất của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối là ở chỗ thực tiễn là cái duy nhất làm tiêu chuẩn của chân lý, ngoài nó ra không có cái nào khác có thể làm tiêu chuẩn cho chân lý được. Còn tính tương đối của nó là ở chỗ, thực tiễn ngay một lúc, không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ được cái sai, một cách ngay lập tức. Hơn nữa, bản thân thực tiễn cũng có tính biện chứng, thực tiễn hôm qua khác thực tiễn hôm nay. Thực tiễn nơi này khác thực tiễn nơi khác. Vì vậy, lý luận trên không cho phép con người biến một hiểu biết bất kỳ thành chân lý vĩnh viễn, bất biến mọi lúc, mọi nơi. Chân lý Chân lý là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách quan, đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân lý là kết quả quá trình con người nhận thức thế giới khách quan. Song thế giới khách quan của các sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển không ngừng nên nhận thức được chân lý phải là một quá trình chưa biết đến biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết chưa sâu sắc đến biết sâu sắc. Chân lý có tinh khách quan. Chân lý tuy là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó chính là hiện thực khách quan, không lệ thuộc vào con người. Người theo chủ nghĩa duy vật đương nhiên phải thừa nhận điều đó, không thể đem suy nghĩ chủ quan của mình làm căn cứ cho lý luận. Chân lý có tính cụ thể. Không có chân lý chung chung trừu tượng đúng cho mọi hoàn cảnh, mà chỉ có chân lý cụ thể, xác định, gắn với điều kiện, hoàn cảnh, gắn với không gian, thời gian cụ thể. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 42
  43. Trong một giới hạn nhất định nếu thoát ly không gian, thời gian thì chân lý có thể biến thành sai lầm và ngược lại. Chân lý có tính tương đối và tính tuyệt đối. Chân lý tương đối là tri thức của con người phản ánh đúng hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, chưa bao quát hết thảy mọi mặt của hiện thực khách quan và còn bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử. Chân lý tuyệt đối là tri thức của con người về thế giới khách quan nhưng đạt được sự hoàn toàn đúng đắn, đầy đủ và chính xác về mọi phương diện. Chân lý tuyệt đối là tri thức của nhiều thế hệ kế tiếp nhau, diễn ra trong thời gian vô tận. Nhận thức đúng đi đến chân lý tuyệt đối phải thông qua vô hạn chân lý tương đối. Còn chân lý tương đối chỉ là những nấc thang trên con đường đi đến chân lý tuyệt đối. Ranh giới giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối là tương đối. Ý nghĩa thực tiễn. Từ lý luận nêu trên, qua thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ “đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam”7. Đó là cơ sở để chúng ta tin rằng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, xây dựng đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” nhất định thành công. Câu hỏi ôn tập bài 2 1. Phân tích định nghĩa vật chất của V. L. Lênin. Làm rõ các phương thức tồn tại và tính thống nhất của vật chất. 2. Trình bày nguồn gốc và bản chất của ý thức. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất, ý thức và ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ đó. 3. Phân tích những nguyên lý của phép biện chứng duy vật và liên hệ ý nghĩa thực tiễn của những nguyên lý đó. 4. Phân thích những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và liên hệ ý nghĩa thực tiễn của quy luật đó. 5. Phân tích mối quan hệ giữa nhận thức và hoạt động thực tiễn. Từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ này. 7 Văn kiện đại hội XI, Sđd. trg 186. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 43
  44. Câu hỏi trắc nghiệm Chương 2 Câu 1. Vật chất tồn tại khách quan, độc A) Tồn tại xã hội. lập với ý thức và biểu hiện ra qua: B) Quy luật khách quan. A) Hiện vật. C) Các dạng cụ thể. C) Ý chí của con người. B) Thực tế. D) Xã hội. D) Điều kiện xã hội. Câu 2. Vật chất không tồn tại trừu tượng Câu 9. Đòi hỏi con người khi nghiên cứu mà tồn tại qua các sự vật cụ thể, được sự vật, hiện tượng thì phải xem xét kỹ cảm giác con người: các mặt, các mối liên hệ bản chất, bên A) Nắm bắt được. C) Sao chụp lại. trong của nó là quan điểm gì (?) B) Nhận thức lại. D) Ghi nhớ. A) Toàn diện. C) Lịch sử. Câu 3. Ý thức là hình ảnh chủ quan của: B) Cụ thể. D) Phát triển. A) Thế giới khách quan. Câu 10. Nguyên nhân của sự phát triển B) Con người. là do sự liên hệ và tác động qua lại giữa C) Loài người. các mặt, các yếu tố thế nào của sự vật, D) Mỗi người. hiện tượng? Câu 4. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là A) Tích cực. C) Bên trong. phải có bộ óc người và phải có: B) Tác động. D) Quan trọng. A) Tồn tại xã hội. Câu 11. Kết quả tác động của quy luật xã B) Con người. hội phụ thuộc vào yếu tố nào của con C) Thế giới khách quan. người? D) Thiên nhiên. A) Nhận thức, vận dụng. Câu 5. Trong hai nguồn gốc của ý thức B) Sự thông minh. thì nguồn gốc nào có ý nghĩa quyết định C) Trình độ văn hoá. với sự ra đời của ý thức? D) Tính quyết đoán. A) Xã hội. C) Lao động. Câu 12. Quy luật thống nhất và đấu tranh B) Tự nhiên. D) Ngôn ngữ. của các mặt đối lập vạch ra yếu tố nào Câu 6. Vai trò của ý thức đối với vật của sự phát triển? chất, thực chất là vai trò hoạt động gì của A) Mâu thuẫn. con người? B) Khuynh hướng. A) Sản xuất. C) Thực tiễn. C) Nguồn gốc, động lực. B) Lao động. D) Tích cực. D) Nội dung. Câu 7. Nhận thức của con người phải Câu 13. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn luôn luôn xuất phát thực tiễn, tôn trọng: tồn tại trong suốt quá trình sự vật tồn tại, A) Quy luật khách quan. nó quyết định quá trình phát triển và yếu B) Khách quan. tố nào của sự vật? C) Hiện thực. A) Bản chất. B) Xu hướng. D) Thực tế. C) Tính chất. D) Nội dung. Câu 8. Các mối liên hệ phổ biến có tính Câu 14. Chất là mặt tương đối ổn định, khách quan vì chúng là cái vốn có của lượng là mặt thường xuyên: các sự vật, hiện tượng; các mối liên hệ A) Biến đổi. C) Vận động. tồn tại độc lập không phụ thuộc vào: B) Ổn định. D) Năng động. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 44
  45. Câu 15. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động B) Phát triển đất nước. vật chất có tính chất lịch sử - xã hội của C) Phục vụ sản xuất. con người nhằm: D) Nâng cao năng suất. A) Cải tạo thế giới. BÀI 3 NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI I. SẢN XUẤT VÀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT 1. Vai trò của sản xuất và phương thức sản xuất 1.1. Vai trò của sản xuất Con người sáng tạo ra lịch sử và là chủ thể của lịch sử. Để tồn tại và phát triển, trước tiên con người phải ăn uống, ở và mặc trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo Muốn vậy, họ phải lao động sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan, là cơ sở của sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội; từ đó mới hình thành các quan điểm tư tưởng, quan hệ xã hội và các thiết chế xã hội khác nhau. Sản xuất vật chất là cơ sở của mọi sự tiến bộ xã hội. Trong các yếu tố hợp thành hình thái kinh tế-xã hội thì lực lượng sản xuất là yếu tố năng động và cách mạng nhất, luôn phát triển một cách khách quan. Lực lượng sản xuất phát triển tất yếu dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất; từ đó kéo theo sự thay đổi của các quan hệ xã hội khác làm cho xã hội phát triển. Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ nguyên nhân và động lực của sự phát triển xã hội chính là do sự phát triển của sản xuất vật chất. Sản xuất ra của cải vật chất là yêu cầu khách quan và phát triển xã hội. 1.2. Vai trò của phương thức sản xuất Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất vật chất trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất gồm hai mặt cấu thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất, luôn đổi mới theo tiến trình phát triển của sản xuất vật chất. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 45
  46. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất, quan hệ của họ trong quá trình tổ chức, quản lý và phân công lao động; quan hệ của họ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu của người lao động đối với tư iệu sản xuất là mặt quyết định các mối quan hệ khác. Phương thức sản xuất quyết định tính chất của xã hội. Xã hội là do những con người với các hoạt động của mình tạo ra nhưng con người không thể tùy ý lựa chọn các chế độ xã hội cho mình. Những vĩ nhân hay nhà nước, những tư tưởng, học thuyết khoa học không thể áp đặt được chế độ xã hội. Sự ra đời của một chế độ trong lịch sử do yếu tố hoàn toàn khách quan là phương thức sản xuất quyết định. Phương thức sản xuất phong kiến quyết định tính chất của xã hội phong kiến. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định tính chất của chế độ xã hội TBCN Phương thức sản xuất quyết định tổ chức kết cấu của xã hội. Tổ chức kết cấu của xã hội bao gồm các tổ chức kinh tế, quan điểm tư tưởng, giai cấp, đảng phái, nhà nước, thiết chế xã hội và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Tổ chức kết cấu ấy không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà do phương thức sản xuất quyết định. Mỗi phương thức sản xuất khác nhau sinh ra một kiểu tổ chức kết cấu xã hội khác nhau. Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển của sản xuất, thực chất là sự phát triển của các phương thức sản xuất. Khi phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thì chế độ xã hội cũ sẽ mất theo và chế độ xã hội mới sẽ ra đời. Loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất, tương ứng với nó là năm chế độ xã hội là chế độ cộng sản nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ TBCN và cuối cùng là chế độ cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn thấp của nó là CNXH) Lý luận trên cho ta ý nghĩa: khi nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội phải đi tìm nguồn gốc phát sinh từ phương thức sản xuất, từ tất yếu kinh tế. Nhận thức đúng vai trò của phương thức sản xuất trong thời kì đổi mới, Đảng ta đã chủ trương phát triển kinh tế là nhiệm vụ TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 46
  47. trọng tâm, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. 2. Những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội. 2.1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vời tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Tính chất của lực lượng sản xuất Việc sử dụng tư liệu lao động, chủ yếu là công cụ lao động quyết định tính chất cá nhân hay tính chất xã hội của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động thủ công, chỉ cần một người sử dụng như: cái cày, cái cuốc, con dao . mà sản xuất được thì sản xuất đó có tính chất cá nhân. Nếu công cụ lao động là những dây chuyền máy móc, cần nhiều người lao động, mỗi người làm trong một bộ phận hay trong một công đoạn của sản phẩm thì lực lượng sản xuất đó có tính chất xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển khoa học và công nghệ, công cụ lao động, phân công lao động và người lao động. Ngoài yếu tố con người là quyết định nhất thì trình độ của công cụ lao động, trình độ chuyên môn hóa sản xuất là tiêu chí đánh giá sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ví dụ: Có trình độ lực lượng sản xuất thủ công, lực lượng sản xuất cơ khí và tự động hóa - Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau. Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ nội dung và hình thức của quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất: - Lực lượng sản xuất như thế nào về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất phải phù hợp như thế ấy. Trình độ của lực lượng sản xuất thủ công, với công cụ thô sơ có tính chất cá nhân thì phù hợp với nó là quan hệ sản xuất cá nhân. - Khi lực lượng sản xuất thay đổi tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Do con người luôn tích lũy sáng kiến và kinh nghiệm, luôn cải tiến công cụ và phương thức sản xuất nên lực lượng sản xuất luôn phát triển. Ngày nay khoa học và công nghệ phát triển đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Lực lượng sản xuất phát triển đến TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 47
  48. mức độ nào đó mà quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa nó sẽ cản trở lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất cũ mất đi, lực lượng sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất cũ cũng mất đi, quan hệ sản xuất mới được xây dựng. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này ngày càng gay gắt đòi hỏi phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. - Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất không phù hợp thì nó kìm hãm, thậm chí phá vỡ lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản xuất (người lao động, công cụ, đối tượng lao động) kết hợp với nhau một cách hài hòa để sản xuất phát triển và đưa lại năng xuất lao động cao. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không phải chỉ thực hiện một lần là xong mà phải là quá trình. Mỗi khi sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất bị phá vỡ là mỗi lần điều chỉnh, thay bằng sự phù hợp khác cao hơn. Ý nghĩa của lí luận này là ở đâu có đối tượng lao động thì ở đó cần có người lao động và công cụ lao động phải tương ứng với trình độ, kĩ năng của người lao động. Vận dụng quy luật này, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: - Phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. - Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 48
  49. Một trong tám đặc trưng của CNXH ở nước ta là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”8. 2.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 2.1.1. Khái niệm về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất còn lại của hình thái kinh tế- xã hội trước và quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế-xã hội tương lai. Trong ba loại quan hệ sản xuất đó thì quan hệ sản xuất thống trị là chủ đạo và chi phối các quan hệ sản xuất khác và là đặc trưng của cơ sở hạ tầng đó. Cơ sở hạ tầng có tính giai cấp. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học và những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức quần chúng ., được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định và phản ánh cơ sở hạ tầng đó. Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng cùng nảy sinh từ cơ sở hạ tầng có đặc trưng, quy luật vận động và mối liên hệ riêng với cơ sở hạ tầng và giữa chúng có sự liên hệ tác động lẫn nhau. Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì nhà nước là bộ phận có quyền lực mạnh nhất, nhờ nó mà giai cấp thống trị có thể áp đặt tư tưởng thống trị của giai cấp mình cho toàn xã hội. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng có tính chất đối kháng. 2.2.2. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng thể hiện: - Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng xây dựng trên đó phải như thế ấy. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì sẽ tạo ra một kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng với quan hệ sản xuất đó; giai cấp nào thống trị về kinh tế thì giai cấp đó thống trị về tư tưởng; mâu thuẫn kinh tế quyết định mâu thuẫn tư tưởng. - Khi cơ sở hạ tầng biến đổi đòi hỏi kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo. Những biến đổi cơ sở hạ tầng sớm muộn cũng dẫn tới sự biến đổi kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng ở giai đoạn đế 8 Văn kiện đại hội XI, Sđd. Trg. 70. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 49