Giáo trình Hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển (Phần 2)

pdf 47 trang cucquyet12 4780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_he_sinh_thai_vung_cua_song_ven_bien_phan_2.pdf

Nội dung text: Giáo trình Hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển (Phần 2)

  1. CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÙNG VEN BỜ Các tác động của con người đến môi trường vùng ven bờ có thể xếp vào 3 loại:  Các tác động vào cấu trúc: bắt nguồn từ việc biến đổi và phá hủy nơi cư trú.  Các tác động vào quá trình: là hậu quả của việc tác động có chủ đích và không chủ đích vào các nhân tố vật lý hóa học và sinh học của môi trường.  Các tác động tiện ích: sự thay đổi môi trường làm giảm cơ hội hiện tại và tương lai đối với việc sử dụng một vùng thiên nhiên bao gồm cả việc sử dụng mà hiện nay không biết trước. Các hoạt động phát triển mang ý nghĩa phục vụ cho lợi ích của xã hội, gia tăng tiện ích cho con người. Tuy nhiên, những hoạt động này cần phải sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác nhau như đất, nước, nguyên nhiên vật liệu, v.v. do vậy có nguy cơ gây hại đến môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên bằng nhiều cách khác nhau. Bảng sau đây nêu ra một vài ví dụ cho thấy mối tương quan giữa các hoạt động phát triển vùng ven biển và mối nguy cho môi trường. Bảng 3.1: Các hoạt động phát triển và nguy cơ cho môi trường Hành động Mục đích của con người Khả năng tác động lên MT Khai hoang Hình thành trang tr ại, c ảng Mất vùng cư trú, m ất cân biển, v.v. bằng sinh thái Khai thác Cung c ấp nguyên v ật li ệu và Cạn ki ệt tài nguyên không tái thực phẩm tạo, và cũng có thể cả tài nguyên tái tạo Xây đ ập nư ớc Cấp đi ện, ch ống l ũ Thay đ ổi dòng ch ảy, ch ặn đường di lưu sinh vật Hình thành khu công nghiệp Sản xuất hàng hóa phục vụ Mất vùng cư trú, nguy cơ ô nhu cầu con người nhiễm chất thải Khu nghỉ mát Phục vụ nhu cầu giải trí, thư Mất vùng cư trú, xáo trộn giãn cuộc sống tự nhiên Nói chung, các tác động phối hợp đối với vùng ven biển trong các đô thị cũng như vùng ven biển nông thôn bao gồm:  Phát triển xây dựng (như các bến du thuyền và các đê chắn sóng) có thể gây nên sự phá hủy nơi cư trú và gây xáo trộn cuộc sống tự nhiên.  Các loại hình công nghiệp khác nhau sẽ mang đến nguy cơ ô nhiễm cho môi trường.  Thay đổi việc sử dụng đất (ví dụ chuyển đổi nông thôn thành thành thị) gây ra sự suy thoái vùng ven bờ, tăng khả năng tác động của thiên tai như lũ lụt.  Cải tạo đất cho bến cảng, kho hàng và phát triển đô thị làm mất diện tích vùng triều và tài nguyên nước.  Hoạt động sản xuất nông nghiệp góp phần vào việc phát tán các chất hóa học và chất dinh dưỡng theo dòng nước làm tăng sự lắng đọng trầm tích do đất bị xói mòn.  Du lịch và giải trí dẫn đến việc thay đổi môi trường ven bờ và sử dụng quá mức tài nguyên. 1. Đô thị hoá Đô thị hóa là quá trình mở rộng các điểm dân cư đô thị và phổ cập lối sống thành thị trên lãnh thổ nhằm phát triển mạng lưới đô thị hoàn chỉnh phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại 39
  2. CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÙNG VEN BỜ Các tác động của con người đến môi trường vùng ven bờ có thể xếp vào 3 loại:  Các tác động vào cấu trúc: bắt nguồn từ việc biến đổi và phá hủy nơi cư trú.  Các tác động vào quá trình: là hậu quả của việc tác động có chủ đích và không chủ đích vào các nhân tố vật lý hóa học và sinh học của môi trường.  Các tác động tiện ích: sự thay đổi môi trường làm giảm cơ hội hiện tại và tương lai đối với việc sử dụng một vùng thiên nhiên bao gồm cả việc sử dụng mà hiện nay không biết trước. Các hoạt động phát triển mang ý nghĩa phục vụ cho lợi ích của xã hội, gia tăng tiện ích cho con người. Tuy nhiên, những hoạt động này cần phải sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác nhau như đất, nước, nguyên nhiên vật liệu, v.v. do vậy có nguy cơ gây hại đến môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên bằng nhiều cách khác nhau. Bảng sau đây nêu ra một vài ví dụ cho thấy mối tương quan giữa các hoạt động phát triển vùng ven biển và mối nguy cho môi trường. Bảng 3.1: Các hoạt động phát triển và nguy cơ cho môi trường Hành động Mục đích của con người Khả năng tác động lên MT Khai hoang Hình thành trang tr ại, c ảng Mất vùng cư trú, m ất cân biển, v.v. bằng sinh thái Khai thác Cung c ấp nguyên v ật li ệu và Cạn ki ệt tài nguyên không tái thực phẩm tạo, và cũng có thể cả tài nguyên tái tạo Xây đ ập nư ớc Cấp đi ện, ch ống l ũ Thay đ ổi dòng ch ảy, ch ặn đường di lưu sinh vật Hình thành khu công nghiệp Sản xuất hàng hóa phục vụ Mất vùng cư trú, nguy cơ ô nhu cầu con người nhiễm chất thải Khu nghỉ mát Phục vụ nhu cầu giải trí, thư Mất vùng cư trú, xáo trộn giãn cuộc sống tự nhiên Nói chung, các tác động phối hợp đối với vùng ven biển trong các đô thị cũng như vùng ven biển nông thôn bao gồm:  Phát triển xây dựng (như các bến du thuyền và các đê chắn sóng) có thể gây nên sự phá hủy nơi cư trú và gây xáo trộn cuộc sống tự nhiên.  Các loại hình công nghiệp khác nhau sẽ mang đến nguy cơ ô nhiễm cho môi trường.  Thay đổi việc sử dụng đất (ví dụ chuyển đổi nông thôn thành thành thị) gây ra sự suy thoái vùng ven bờ, tăng khả năng tác động của thiên tai như lũ lụt.  Cải tạo đất cho bến cảng, kho hàng và phát triển đô thị làm mất diện tích vùng triều và tài nguyên nước.  Hoạt động sản xuất nông nghiệp góp phần vào việc phát tán các chất hóa học và chất dinh dưỡng theo dòng nước làm tăng sự lắng đọng trầm tích do đất bị xói mòn.  Du lịch và giải trí dẫn đến việc thay đổi môi trường ven bờ và sử dụng quá mức tài nguyên. 1. Đô thị hoá Đô thị hóa là quá trình mở rộng các điểm dân cư đô thị và phổ cập lối sống thành thị trên lãnh thổ nhằm phát triển mạng lưới đô thị hoàn chỉnh phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại 39
  3. hóa, đồng thời mở ra những cơ hội đầu tư lớn mạnh về mọi phương diện cho các thành phần kinh tế. Các vùng ven biển là nơi sinh sống thuận lợi của con người từ thời tiền sử. Vùng ven biển thuận lợi vì một loạt lý do, trong đó có sự điều hòa ảnh hưởng đại dương đến các điều kiện khí hậu khắc nghiệt; gần với vùng đất nông nghiệp màu mỡ, dễ dàng tiếp cận với tài nguyên sinh vật biển và dễ dàng vận chuyển bằng đường thủy. Kết quả là khoảng 70% các thành phố lớn trên thế giới có dân số trên 2,5 triệu dân nằm dọc theo bờ biển. Sự gia tăng dân số vùng ven biển đang vượt quá tốc độ gia tăng dân số toàn cầu do hậu quả của sự di cư ra vùng ven biển. Sự di cư này đặc biệt lớn ở các nước đang phát triển nơi mà sự chuyển dịch ra các trung tâm đô thị ven biển có liên quan tới sự tìm kiếm việc làm, giáo dục, y tế và các dịch vụ khác. Hình dưới đây cho thấy các thành phố đông dân trên thế giới đều được đặt ở vùng ven biển. 5 10 triệu Đô thị hóa có những tác động sâu sắc đến các nguồn tài nguyên ven biển. Có thể là việc ô nhiễm vùng nước ven bờ do ảnh hưởng của nước chảy tràn bề mặt và nước thải, đến suy thoái các bãi biển và các môi trường tự nhiên khác do sử dụng không đúng hay quá mức; giảm thiểu diện tích các vùng đất cỏ hoang bụi rậm ven bờ, các vùng đất ngập nước, suy thoái vùng cư trú. Khi các vùng định cư đô thị được thành lập, thường ít có các nghiên cứu về các tác động của đô thị đến môi trường xung quanh. Kết quả là nước chảy tràn bề mặt và các hệ thống chất thải được dẫn trực tiếp vào sông và các nguồn nước mà không chú ý đến ảnh hưởng của các chất thải này đến chất lượng nguồn nước nhận. Thêm vào đó, nhiều khu vực tập trung đông dân số đã khai thác quá mức các hoạt động giải trí. Trong hầu hết các trường hợp, sự phát triển các khu đô thị mới đều gây nên những sự chuyển đổi các nguồn tài nguyên từ dạng này sang dạng khác. Trong một số trường hợp, các mục tiêu bảo tồn cũng bị bỏ qua trong quá trình phát triển, gây ra mất mát các vùng cư trú và suy giảm chất lượng môi trường nói chung. Việc phát triển các đô thị mới mà quá trình quản lý không hiệu quả cũng làm tăng thêm các tác động không mong muốn về các nguồn tài nguyên. Chẳng hạn, đất đai bị thu hẹp, hệ thống giao thông, thủy lợi, các hệ thống phục vụ sinh hoạt 40
  4. tăng lên gây ra những khó khăn về môi trường sinh thái. Tốc độ đô thị hóa càng nhanh thì nguyên nhân gây nên các vấn đề môi trường ở vùng ven bờ càng lớn như là các bãi rác thành phố làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Ngoài ra các bãi đất trống bị xâm chiếm một cách nghiêm trọng. Khi tốc độ đô thị hóa tăng thì dân số tập trung cao, khi đó để phục vụ nhu cầu của con người công nghiệp phải phát triển để đáp ứng việc làm và các nhu cầu khác. Với sự đô thị hóa này nó gây ra áp lực trong quản lý, từ đó nảy sinh những vấn đề ảnh hưởng đến môi trường. Ví dụ như sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp qui mô nhỏ không có các biện pháp xử lý nước thải và chất thải rắn, v.v. Hệ sinh thải thủy vực bị ô nhiễm như tình trạng ô nhiễm đại dương, bờ biển và sông ngòi hiện nay là mối quan tâm của con người. Quá trình đô thị hóa dẫn đến nhu cầu mở rộng đất ở vùng triều và vùng ven bờ tăng nhanh, chủ yếu sử dụng cho nông nghiệp, thủy sản và dùng cho xây dựng nhà ở, xí nghiệp, mở rộng mạng lưới giao thông, bền cảng, Nguồn nước thải sinh hoạt được thải trực tiếp từ các khu dân cư ra vùng ven biển. Chất lượng nước thải chủ yếu là giàu chất hữu cơ, phân rác, cùng với chất thải từ các nhà máy công nghiệp ven biển. Lượng chất thải này được thải trực tiếp vào biển không qua xử lý hoặc thải vào sông rồi qua biển gây ô nhiễm hữu cơ, làm giảm lượng oxy trong nước, mất nơi cư trú của các loài sinh vật biển. Thêm vào đó sự ô nhiễm biển còn do chế phẩm phục vụ nuôi tôm, dư lượng các loại thuốc kích thích, trừ sâu, bảo vệ thực vật, góp phần làm gia tăng tần suất xuất hiện hiện tượng tảo nở hoa mà trong nhiều trường hợp gây thiệt hại nghiêm trọng đến nền kinh tế biển, mất cân bằng sinh thái biển. Do dân cư tập trung đông đúc ở các đô thị ven bờ nên nhu cầu về nước ngọt sử dụng cho công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt tăng lên, dẫn đến việc khai thác nước ngầm ven biển quá mức gây ô nhiễm nước ngầm, gia tăng sụt lún đất ở vùng ven bờ. Quá trình đô thị hóa làm nhiều ao hồ bị san lấp, nhiều sông mương bị thu hẹp, đây là nguyên nhân làm giảm khả năng chứa, giảm dòng chảy từ sông đổ ra biển làm mất cân bằng hệ sinh thái sông và cửa sông. Quá trình xây dựng nhà ở, công trình ven bờ đã gây ra lắng đọng trầm tích, bùn cát làm kìm hãm sự phát triển của san hô và cỏ biển, trong trường hợp nghiêm trọng có thể làm biến mất vĩnh viễn các khu hệ sinh thái giàu có này. Do tăng nhanh dân số, cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp, đô thị, v.v. đòi hỏi phải gia tăng nhu cầu lương thực, thực phẩm, chất đốt, nguyên vật liệu xây dựng, nơi ở, vì vậy nhiều nơi đã phá hủy rừng ngập mặn để lấy đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, xây dựng thành phố mới, bến cảng, Hậu quả là thu hẹp diện tích rừng ngập mặn nhanh chóng, tài nguyên lâm, thủy sản cạn kiệt dần, nạn xói lở bờ sông, bờ biển tăng làm cho môi trường ngày càng xấu đi. Một tác động thứ cấp phát sinh khi là việc sử dụng đất ở các vùng kế cận xảy ra để mở rộng diện tích đô thị. Việc mở rộng này có thể tạo ra những áp lực cho việc cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Ở những vùng ngoại vi này, cư dân cũng sẽ trông chờ vào các dịch vụ và cơ sở hạ tầng như đường sá, cấp nước và giáo dục. Sự trông đợi như vậy thường gây thêm áp lực đối với chính quyền địa phương và các thành phần cung cấp dịch vụ khác, để đáp ứng đầy đủ điều kiện vật chất. 2. Nông nghiệp Cũng như các nơi khác, hoạt động nông nghiệp ở vùng ven bờ cũng chiếm dụng một diện tích đất lớn và gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường vùng ven biển. Vùng ven bờ có các điều kiện khí hậu và đất đai thuận lợi cho nông nghiệp. Ngoài chức năng hết sức rõ ràng là cung cấp lương thực cho cộng đồng ven bờ, nông nghiệp cũng tạo ra nguyên vật liệu cho công 41
  5. nghiệp ở các thành phố cảng. Sản phẩm nông nghiệp có thể tìm thấy trong các thị trường du lịch, mặc dù các sản phẩm này không phải luôn luôn chiếm vị trí ưu thế. Nông nghiệp cũng tạo ra kế sinh nhai cho cộng đồng địa phương và bao gồm cả cư dân ở các thành phố ven bờ. Nông nghiệp vùng ven bờ thường có những lợi ích từ các điều kiện môi trường thuận lợi, từ các vùng đất tốt và sự giao thông liên lạc đường biển cũng như từ sự phát triển của công nghiệp và du lịch ven bờ. Tuy nhiên, hoạt động nông nghiệp ven bờ cũng bị tác động liên quan đến vị trí ở gần biển bao gồm nguy cơ của việc nhiễm mặn đất và nước; chất lượng nước kém và không an toàn xuất phát từ các hoạt động ở vùng thượng lưu; sự cạnh tranh gay gắt về đất ở vùng ven bờ. Ngược lại, lĩnh vực nông nghiệp cũng ảnh hưởng lên các lĩnh vực khác. Các mối tương tác này có thể tích cực nhưng thường là tiêu cực và xoay quanh các vấn đề cạnh tranh về đất, nước, nguồn vốn và lao động. Tác động tiêu cực của nông nghiệp đối với các lĩnh vực khác bao gồm: việc làm ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng trực tiếp lên nghề cá thông qua các hóa chất dùng trong nông nghiệp và làm tăng độ đục gây hại cho các rạn san hô và các cảng do việc xói mòn đất. Hậu quả làm mất vùng cư trú sinh vật và suy giảm đa dạng sinh học vùng ven bờ cũng có thể xảy ra. Nhằm lập kế hoạch thống nhất của nông nghiệp trong việc hoạch định tổng thể của vùng ven bờ, giai đoạn đầu tiên là thu thập các thông tin thích đáng và hữu ích. Các thông tin này bao gồm các đặc điểm môi trường kinh tế xã hội, sinh học, vật lý; mối tương tác giữa các lĩnh vực và sự quản lý, các cơ hội và khả năng lựa chọn trong các lĩnh vực. Giai đoạn tiếp theo là vạch ra kế hoạch liên quan đến các đặc điểm đặc biệt của nền nông nghiệp ven bờ, trong khi vẫn bảo đảm kế hoạch này phù hợp với mục tiêu tổng thể của quốc gia về nông nghiệp. Trong giai đoạn này, các biện pháp giảm thiểu hay tránh các tác động tiêu cực đến các lĩnh vực khác phải được trình bày. Điều đó có thể phải rà xét lại kinh phí, việc đánh thuế và các qui định trong khi trình bày các dịch vụ hổ trợ và xem lại cơ cấu hành chính. Kết quả có thể thay đổi về mô hình sản xuất và phương pháp canh tác. Trong quá trình thực hiện, các người cùng tham gia và các bên liên quan sẽ được thăm dò và cần duy trì mối liên lạc thích đáng với các Bộ, Ngành của các lĩnh vực khác. Các kế hoạch phát triển nông nghiệp vùng ven bờ sẽ trình bày các đặc điểm đặc biệt về nông nghiệp của vùng, mối tương tác với các lĩnh vực khác và tầm quan trọng của các hoạt động bền vững. 3. Du lịch và giải trí Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp không những chứa đựng trong đó những giá trị kinh tế đơn thuần mà cả những giá trị về lịch sử, văn hóa của một vùng miền. Du lịch ở những vùng ven bờ đang là nguồn thu nhập cao cho các nước ven bờ biển. Tại đây, người ta sẽ được thưởng thức những phong cảnh đẹp ở những vùng cửa sông ven biển, những bãi biển tuyệt vời, các đảo đá với đầy hang động, bờ cát mịn, vùng đầm phá, rừng ngập mặn, các rạn san hô, v.v. Vùng ven bờ là điều kiện lý tưởng để phát triển tiềm năng du lịch, nghĩ mát và điều dưỡng, kèm theo đó là các hoạt động dịch vụ phục vụ cho du lịch giải trí như là bơi thuyền thưởng ngoạn, lặn, lướt sóng, câu cá tắm biển, ngắm san hô, v.v. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đem lại, thì du lịch giải trí đang gây ra những tác động ảnh hưởng đến môi trường ven bờ. Các hoạt động của con người trong lĩnh vực này đã góp phần làm cho môi trường ven bờ bị suy thoái. Các tác động tiêu cực của du lịch đến môi trường vùng ven bờ có thể kể là: 42
  6.  Khai thác quá mức và không hợp lý hải sản phục vụ nhu cầu thưởng thức đặc sản biển cho du khách. Trong những năm gần đây, năng suất đánh bắt một số nghề bị giảm sút nghiêm trọng (nhất là các nghề hoạt động ven bờ có độ sâu dưới 30 m), sản lượng khai thác các loại hải sản chưa đến tuổi trưởng thành chiếm khá cao, đặc biệt một số tôm cá, nhuyễn thể, các sinh vật quý hiếm. Việc phá hủy san hô thông qua sử dụng thuốc nổ và lấy san hô làm cạn kiệt nguồn tôm giống và các đàn cá gần bờ.  Buôn bán các hàng mỹ nghệ từ hải sản phục vụ khách du lịch: đây là nguyên nhân dẫn đến cạn kiệt một số loài san hô, trai ốc, tôm hùm và đồi mồi. Việc buôn bán cá cảnh biển phát triển ở một số trung tâm du lịch kéo theo việc đánh bắt cá quá mức trên các rạn san hô. Sự khai thác quá mức và không hợp lý ở vùng biển ven bờ đang là mối đe dọa lớn cho nhiều loài sinh vật biển, đó cũng là nguyên nhân làm mất cân bằng tự nhiên của các quần xã ven bờ.  Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động du lịch giải trí: lợi thế kinh tế trực tiếp cũng được tạo ra bởi các hoạt động du lịch và theo đó đã có sự bùng nổ về du lịch với việc xây dựng hàng loạt khách sạn, nhà nghỉ, cửa hàng ăn uống và các bãi biển nhân tạo dọc bờ biển đã được cảnh báo là mối đe dọa lớn nhất đối với môi trường ven biển thế giới. Các diện tích đất hay mặt nước vùng ven bờ sẽ được dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm giảm dần diện tích đất và mặt nước. Hiện tại các rừng đước che phủ trên 16 triệu ha ven bờ biển nhưng diện tích đang thu hẹp hàng năm với tốc độ 2%. Chỉ trong mấy thập kỷ cuối cùng lại đây, hoạt động đánh bắt và nuôi hải sản của con người (phục vụ cho nhu cầu hàng ngày và du lịch, giải trí, ) đang phá hủy và làm thay đổi tới 50% diện tích các rừng đước trên thế giới. Điều tồi tệ hơn là trong tổng diện tích các rừng đước còn tồn tại hiện nay trên phạm vi toàn cầu chỉ có 1% được bảo vệ.  Hoạt động tham quan, du lịch cũng làm ảnh hưởng đến số lượng, nơi cư trú và sinh sản của một số loài chim sinh sống ở các khu rừng ngập mặn, vùng đất ngập nước ven bờ: các hoạt động du lịch ở rừng ngập mặn như tham quan đi bộ trong rừng, ngắm cảnh, chụp ảnh, săn bắn, khám phá, gây ra tiếng động mạnh hay phá hủy một số nơi cư trú của một số loài động, thực vật ở nơi đây, làm thay đổi tập tính và đời sống của chúng. Việc khai phá và chuyển đổi mục đích sử dụng của các vùng đất ven biển làm mất đi khu hệ cư trú của các loài hoang dã, phá vỡ các nhân tố sinh sản, nuôi dưỡng, làm tuyệt chủng cục bộ, làm chết các cá thể sinh vật.  Môi trường ven bờ cũng đang chịu sự tác động của những nguồn ô nhiễm từ đất liền do chất thải sinh hoạt của du khách vãng lai: các chất thải này có nguy cơ làm thay đổi chất lượng nước, các hệ sinh thái vùng ven bờ. Từ đó dẫn đến mất đa dạng sinh học do ô nhiễm và phá hủy môi trường sống. Sự thay đổi của một số hợp phần tự nhiên hoặc sự mất đi của một số loài sinh vật cấu thành nên hệ sinh thái nào đó dưới tác động của con người sẽ là nguyên nhân làm thay đổi, thậm chí mất đi hệ sinh thái đó và kết quả là tài nguyên sẽ bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau. Các chất thải rắn từ hoạt động du lịch nếu không được quản lý tốt sẽ làm ô nhiễm môi trường vùng ven bờ.  Ô nhiễm không khí ở các khu công nghiệp gần vùng biển hay do hoạt động vận chuyển khách du lịch cũng sẽ tác động đến sự sinh trưởng của nhiều loài sinh vật, làm di chuyển nơi cư trú của một số loài nhạy cảm với môi trường không khí.  Khách du lịch và phương tiện vận chuyển khách du lịch có thể có thể đem đến một số loài sinh vật ngoại lai, ảnh hưởng đến sự phát triển của một số hệ sinh thái ven bờ.  Việc xây dựng các công trình du lịch trên cát cồn cát nhạy cảm thường gây ra xói mòn, thay đổi tính chất bờ biển và dần dần mất đi một số loài sinh vật phát triển trên một số hệ sinh thái cát ven biển. 43
  7.  Chất thải từ các tàu thuyền du lịch, gồm cả máy dầu, tiếng ồn của động cơ sẽ trực tiếp làm ô nhiễm các thủy vực, môi trường biển. Neo đậu tàu thuyền không đúng nơi quy định cũng phá hủy nhiều rạn san hô có giá trị.  Những hành vi thiếu ý thức của khách du lịch khi khám phá các rạn san hô và việc khai thác san hô làm quà lưu niệm của người dân địa phương, ngoài việc phá hủy trực tiếp rạn san hô còn góp phần làm xói mòn nghiêm trọng vùng bờ, làm mất đi lớp bảo vệ bờ biển.  Việc sử dụng nước thiếu tính toán cho nhu cầu du lịch dẫn đến tình trạng thiếu nước cục bộ và làm tăng khả năng bị nhiễm mặn ở khu vực ven biển, làm chết cây cối.  Việc xây dựng các khách sạn, đường sá dẫn đến việc san ủi đất gây ra sự xói mòn và trôi chảy trầm tích gây tác hại đến vùng cửa sông và rạn san hô.  Nước thải từ các nhà hàng và khách sạn chưa được xử lý đầy đủ gây thêm tình trạng ô nhiễm vùng ven bờ cũng như làm ô nhiễm nguồn nước dùng cho sinh hoạt, là nguyên nhân gây bệnh và làm chết rất nhiều loài động vật nước. Tóm lại, tác động của du lịch ở vùng ven bờ có thể gây ra những thảm hoạ đối với môi trường và cộng đồng địa phương. Giải pháp cho các vấn đề này là phát triển du lịch dựa vào các nguyên lý của sự bền vững. Trước khi thực hiện phát triển du lịch ven bờ, cần phải đánh giá và phân loại cẩn thận các khu vực ven bờ cũng như tính nhạy cảm về sinh thái, xã hội và văn hoá của nó. Cần phải có các kế hoạch và mục tiêu quản lý đối với từng vùng. Những vùng có nhạy cảm cao, có đặc thù về mặt môi trường cũng như có ý nghĩa về văn hóa cần phải thường xuyên bảo vệ, đó là các vùng không nên phát triển. Ở những vùng phát triển, cần phải có sự cân đối giữa phát triển du lịch và thiên nhiên. Công nghệ, vật liệu và thiết kế phải ở mức tác động thấp nhất tới sự suy thoái môi trường di sản văn hóa để du lịch học được kinh nghiệm và duy trì với cộng đồng địa phương. 3. Nuôi trồng thuỷ sản Vùng ven bờ là nơi thích hợp cho việc nuôi trồng các loài thủy sản biển cũng như các loài nước ngọt. Việc nuôi trồng thủy sản có ý nghĩa lớn trong việc cung cấp protein và giảm thiểu đói nghèo cho người dân sống vùng ven bờ. Tuy nhiên hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng đem lại nhiều tác hại về mặt môi trường ở đây. Trước hết hoạt động nuôi trồng thủy sản cạnh tranh về không gian với các lĩnh vực khác như du lịch, giải trí và nông nghiệp. Để có thể phát triển, nuôi trồng thuỷ sản cần phải có nước sạch, không có các sinh vật lạ du nhập; xây dựng cơ sở hạ tầng, như xây dựng nhà cửa, kho hàng, đường sá, v.v. Các vùng đất thấp ven bờ như rừng ngập mặn, đất nông nghiệp, các bãi triều đã bị chuyển đổi thành các ao nuôi tôm. Tác động rõ ràng nhất và được quan tâm nhiều nhất là rừng ngập mặn đa bị biến đổi thành các ao nuôi. Sự suy thoái rừng ngập mặn cùng với sự phát triển của nuôi tôm xảy ra ở Châu Á, Trung Mỹ. Có khoảng 11,5 triệu ha rừng ngập mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm trên phạm vi toàn thế giới, trong đó, riêng ở Châu Á, đa có hơn 500.000 ha rừng ngập mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm nước lợ. Việc nuôi tôm mang lại nguồn thu ngoại tệ cho các nước phát triển, nhưng việc mất mát nơi ở nhạy cảm là khó bù đắp. Rừng ngập mặn có vai trò trong việc chống xói mòn, duy trì chất lượng nước ven bờ và là nơi sinh sản của nhiều loài sinh vật. Rừng ngập mặn cung cấp các nguồn tài nguyên tái tạo như gỗ, sợi, than đá, cho cộng đồng người dân địa phương. Chuyển đổi thành ao nuôi tôm, sinh cảnh này bị phá trụi và rất khó để phục hồi. Tiếc rằng các ao nuôi tôm thường chỉ sinh lợi 44
  8. trong thời gian ngắn, vì đó chính là đối tượng dễ bị nhiễm bệnh cũng như thị trường tiêu thụ có giá cả không ổn định. Việc mất rừng ngập mặn sẽ tác động lên nghề khai thác thủy sản truyền thống do diện tích rừng thu hẹp nghĩa là mất đi môi trường nuôi dưỡng, cung cấp nguồn bổ sung thức ăn quan trọng cho các loài thuỷ sản tự nhiên. Một tác động thường gặp của việc nuôi tôm thâm canh đó là sự rò rỉ của nước mặn từ các ao nuôi đến nguồn nước ngầm và các vùng đất nông nghiệp trồng lúa kế cận.Trong một số vùng ở Thái lan, việc sử dụng nước ngầm để bơm cho các ao nuôi tôm đã làm cho nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn. Điều đó có thể dẫn tới những tổn thất về mặt xã hội như giảm việc cung cấp nước cho nông nghiệp và sinh hoạt, cũng như việc chuyển đổi lao động. Một tác động khác đã được báo cáo ở một số vùng ở Châu Á liên quan đến việc sử dụng nước ngầm cho nuôi tôm là làm cho đất bị lún sụt. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, nuôi trồng thủy sản tạo ra các tác động tiêu cực đối với môi trường như việc dư thừa thức ăn nhân tạo trong quá trình nuôi, gây ô nhiễm hữu cơ nguồn nước mặt, làm thay đổi cấu trúc chuỗi thức ăn tự nhiên của môi trường, dẫn đến thay đổi cấu trúc quần xã động vật đáy do một số nhóm ưa các thức ăn dư thừa này hơn một số nhóm khác. Thêm nữa, một số nhóm sinh vật đáy sống cố định có thể bị chết do hàm lượng oxygen trong tầng đáy bị suy giảm do quá trình phân hủy của vi sinh vật đã tiêu hao một lượng lớn oxy hòa tan trong nước. Cùng với thức ăn thừa, một trong những tác động lớn của việc nuôi trồng thâm canh các loài thủy sản đối với môi trường nước xung quanh là hiện tượng phú dưỡng do các chất bài tiết của sinh vật nuôi thải ra môi trường. Điều này làm cho hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước cao hơn mức bình thường gây ra hiện tượng nở hoa của các loài tảo. Sự phát triển quá mức của một số loài tảo giáp có gai có thể cản trở quá trình ăn lọc của một số loài cá. Mặc dù một số loài tảo phát triển tốt khi hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước cao, tuy nhiên một số loài tảo độc hại khi nở hoa gây ra hiện tượng triều đỏ (red tide) có thể gây độc cho các sinh vật khác. Các chất độc của các loài tảo này có thể được tích tụ trong quá trình ăn lọc của các loài hai mảnh vỏ, có thể gây nguy hiểm đối với sức khỏe của con người. Để giảm thiểu các tác động của các chất ô nhiễm từ các ao nuôi đến chất lượng nước ven bờ người ta có thể áp dụng các biện pháp lọc sinh học như dùng rừng ngập mặn như nơi hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa cũng như nơi sa lắng các chất trầm tích. Robertson và Phillips (1995) ước tính để hấp thụ chất dinh dưỡng từ 1 ha ao tôm bán thâm canh thải ra cần 23 ha rừng ngập mặn, nhưng phải cần đến 22 ha rừng để hấp thụ chất dinh dưỡng từ 1 ha ao nuôi tôm thâm canh. Cũng có tác giả cho rằng 0,04 0,12 ha rừng ngập mặn có khả năng loại bỏ hoàn toàn nitơ vô cơ trong (Monoroy, 1999). Alongsi, 1991 và Boto 1992 cũng đồng ý rằng rừng ngập mặn rất có hiệu quả trong việc loại chất thải rắn và các chất dinh dưỡng thải từ ao nuôi. Người ta cũng có thể nuôi ghép các loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ hay rong biển với cá và tôm; sử dụng nước ao tôm để nuôi các loài hàu, vẹm và cỏ biển như những giải pháp tích cực cho môi trường. Tương tự, việc sử dụng nước trong ao tôm để tưới cho các loài cây trồng chịu mặn cũng đã được quan tâm. Glenn 1991 và Brown 1999 đã thấy rằng các loài cây chịu mặn thấp ( Salicornia bigelovii, Atrilplex, Distichlis ) và chịu mặn cao ( Suaeda esteroa ) có khả năng loại nitơ trong nước ao nuôi tôm rất hiệu quả. Cải tiến phương pháp cho ăn hay nâng cao chất lượng thức ăn bằng cách tạo thức ăn cân bằng chất dinh dưỡng cũng là cách giảm tải lượng nitrogen và phosphorus vào môi trường. Thức ăn sống như các loài tảo và Chironomid mặc dù có hàm lượng protein cao nhưng làm giảm việc bài tiết nitrogen do đó ít có tác động xấu tới chất lượng nước so với thức ăn nhân tạo. 45
  9. Chất thải bùn đáy ao nếu không được quản lý tốt cũng có tácđộng rất lớn đến môi trường. Các chất trầm tích sa lắng trên nền đáy ao, khi kết thúc vụ nuôi thường được sên vét và đưa vào môi trường. Lượng bùn này có thể đạt mức 200 tấn/ha/vụ, không qua xử lý và được thải ra ngoài. Lượng bùn đáy này chứa một lượng lớn các chất ô nhiễm, thức ăn dư thừa, các sản phẩm bài tiết của vật nuôi, chúng thường thải ra ngoài môi trường không theo qui hoạch hay thường dùng để bồi đắp các đê bao ao nuôi. Các chất thải trong lượng bùn này sau đó sẽ theo nước mưa đi vào môi trường nước, làm ô nhiễm môi trường nước tự nhiên hay cả nước trong các ao nuôi. Nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đòi hỏi một lượng lớn nước ngọt cần thiết cho các hoạt động sinh hoạt, và vận hành nuôi. Thêm vào đó, ở vùng ven biển miền Trung, nơi có đất cát và nhiệt độ cao, lượng nước bốc hơi bề mặt và thẩm thấu qua đất có thể lên tới 13% thể tích ao nuôi. Phần lớn các ao nuôi cao triều ở vùng ven biển cần phải bổ sung một lượng lớn nước ngọt để điều hòa độ muối thích hợp cho vật nuôi. Theo tính toán của các chuyên gia, cứ 1 ha nuôi tôm trên cát cần từ 16.000 đến 27.000 m 3 nước, nếu chỉ tính mỗi năm nuôi 2 vụ, thì lượng nước ngọt phải sử dụng cho cả hàng ngàn ha ao nuôi tôm trên cát ở khu vực Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung đã lên tới hàng tỷ m3/năm. Vì vậy, một lượng lớn thể tích nước ngầm cần phải được bơm lên để có được môi trường nuôi thích hợp, điều đó đã làm cho mức nước ngầm bị hạ thấp dẫn đến việc nhiễm mặn các vùng đất và các dòng nước kế cận. Ngay cả khi không bơm nước ngọt lên thì việc thải nước thải có nồng độ muối cao có thể làm nhiễm mặn đất nông nghiệp. Việc thiếu nước ngọt, nhiễm mặn không chỉ làm giảm nước cung cấp cho nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nước uống và các nhu cầu khác của người dân và của các hệ sinh thái ven bờ. Tại Ninh Thuận, các nhà khoa học đa ghi nhận được hiện tượng rừng cây phi lao ven biển chết do thiếu nước ngọt. Có nơi rừng phòng hộ bị suy kiệt, gió cát vùi lấp cả ao nuôi tôm. Vì một lý do nào đó, khi ao nuôi bị bỏ hoang cũng gây tổn thất lớn. Tuổi thọ trung bình của một ao nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như chế độ quản lý, chất lượng nước, trầm tích đáy, và thường dao động trong vòng 715 năm. Tại một số vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, do thiếu hệ thống thủy lợi hợp lý hoặc hệ thống xử lý chất thải không đảm bảo làm cho chất lượng nước trong ao nuôi biến đổi theo chiều hướng xấu, dẫn đến hiện tượng nền đáy bị tích lũy quá nhiều dưỡng chất và sau một số năm sử dụng, năng suất nuôi giảm đáng kể, sau đó ao sẽ bị bỏ hoang. Để trả các ao tôm này lại hiện trạng đất tự nhiên ban đầu không phải là chuyện đơn giản, nó tốn chi phí lớn và phức tạp. Phần lớn do điều kiện môi trường gốc ban đầu đã bị thay đổi nghiêm trọng. Hệ thống dòng chảy bị gián đoạn, thay đổi; khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây cối của lớp đất bề mặt đã bị mất đi, v.v. Vì vậy việc chuyển đổi hình thức sử dụng các vùng đất này về mặt môi trường hoàn toàn là một vấn đề nan giải. Ngoài ra, việc du nhập các đối tượng nuôi mới (thường là các loài biến đổi gen) và một số bệnh phát sinh trong quá trình nuôi của các đối tượng này có thể gây bệnh cho các loài địa phương. Mặc dù hầu hết các bệnh từ cá không gây hại cho con người, tuy nhiên một số bệnh cũng như có thể lan truyền cho con người (ví dụ như vi khuẩn Streptococcus). Để hạn chế các tác động bất lợi của nuôi trồng và chế biến thủy sản đối với môi trường, cần thực hiện một số biện pháp sau đây:  Bảo đảm nguyên tắc đánh giá tác động môi trường cần thiết cho các chương trình và dự án mới trong ngành nuôi tôm.  Cấm xây dựng các ao nuôi tôm ở những vùng đước lâu năm. Phát triển cơ chế đồng quản lý rừng đước trên cơ sở cộng đồng. 46
  10.  Xúc tiến chương trình giáo dục cho tất cả các bên liên quan từ cán bộ quản lý đến cá nhân những người nuôi tôm về khái niệm phát triển bền vững và làm thế nào để đạt được điều đó trong nuôi trồng thủy sản.  Quản lý chặt chẻ việc sử dụng thức ăn và thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản.  Đánh giá tác động môi trường của các cơ sở chế biến tôm đồng thời xử lý nghiêm ngặt đối với các cơ sở vi phạm vệ sinh môi trường.  Khẩn trương xây dựng quy hoạch vùng nuôi tôm, nhất là nuôi tôm trên cát, rà soát lại diện tích nuôi trồng để có biện pháp quản lý thích hợp. 5. Khai thác khoáng sản và dầu mỏ Khoáng sản là vật liệu của vỏ trái đất, được hình thành từ quá trình tự nhiên mà con người có thể khai thác, sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp cho các nhu cầu của cuộc sống. Quá trình phát triển văn minh của nhân loại gắn liền với quá trình phát triển khả năng sử dụng nguyên liệu khoáng sản. Sự phân chia các thời đại văn minh đã thể hiện rất rõ vấn đề này ở các thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá mới, đồ đồng, đồ sắt. Đặc biệt trong điều kiện phát triển cao độ của khoa học kỹ thuật trong thời đại ngày nay thì khả năng khai thác khoáng sản ngày một nâng cao. Việc khai thác sử dụng sử dụng tài nguyên khoáng sản đã thúc đẩy sự phát triển của các nền văn minh nhân loại, đem lại sự thịnh vượng cho nhiều lãnh thổ. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên cũng gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Môi trường vùng ven bờ là thành phần chịu nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của việc khai thác khoáng sản đặc biệt là các sự cố do khai thác dầu đem lại. Những tác động của việc khai thác khoáng sản đến môi trường vùng ven bờ có thể kể như sau: Tùy theo từng loại khoáng sản mà con người có phương thức khai thác, chế biến và tàng trữ cho thích hợp để đưa lại hiệu suất cao nhất. Cho dù khai thác khoáng sản bằng công nghệ nào đi nữa thì hậu quả mà môi trường vùng ven bờ phải gánh chịu cũng rất nghiêm trọng. Các tác động đến vùng ven bờ có thể kể là:  Các hợp chất khí CO 2, SO 2, CO, bụi, v.v. được sinh ra do các công đoạn nổ mìn, các phương tiện vận chuyển là rất lớn. Các khí này sẽ tạo nên mưa axít làm ảnh hưởng đến môi trường nước và sinh vật.  Hoạt động chảy tràn đem các chất ô nhiễm trên mặt đất và một số lượng lớn các vật liệu trầm tích vào vùng nước mặt làm suy thoái chất lượng nguồn nước, các chất ô nhiễm theo nước chảy tràn mang theo xăng dầu, nước làm nguội máy của các phương tiện thi công, các hóa chất liên quan đến chất nổ và các chất thải sinh hoạt khác làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt.  Các hoạt động khai khoáng và nấu chảy kim loại đã tạo ra một lượng bùn lớn.  Sự quản lý các phế phẩm và các tồn dư khác từ khai khoáng có thể dẫn tới một loạt các vấn đề ở vùng hạ lưu ven biển do những thay đổi về nơi cư trú, chất lắng đọng và hoá chất.  Việc khai thác nước ngầm ở vùng ven biển đã gây ra một số vấn đề nghiêm trọng và dài hạn, đặc biệt trong điều kiện nước biển dâng lên thể hiện qua việc xâm nhập mặn ở vùng cửa sông và nhiễm mặn nước ngầm.  Khai thác cát sạn ở vùng ven bờ một cách bất hợp lý đã ảnh hưởng đến các hệ sinh thái vùng bờ.  Trong khai thác vàng, người ta đã sử dụng một lượng lớn thủy ngân để trích ly vàng trên cát dòng sông làm cho nước bị ô nhiễm Hb. Thủy ngân rất bền vững trong môi 47
  11. trường do vậy tồn lưu trong đất, nước và sinh vật rất lâu gây hậu quả thứ cấp một cách lâu dài.  Nhiều vùng trên thế giới có các dãi trầm tích lớn về thiếc, crôm và các khoáng chất khác ở ven biển hay kế cận rừng ngập mặn. Việc khai thác các khoáng sản này đã làm mất đi các vùng rừng ngập mặn.  Ở một số nước, việc khai thác san hô để xây dựng và làm đồ trang trí trong các tiểu cảnh đã gây ra các tác hại đáng kể không chỉ nằm trong sự phá hủy san hô mà còn ở việc mất đi khả năng bảo vệ của các rạn san hô đối với vùng bờ. Những tác động của việc khai thác dầu mỏ đến môi trường vùng ven bờ là: Hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo như dầu khí hay các loại khoáng sản khác ở vùng biển thường tạo ra những thay đổi về đặc tính trầm tích, phá hủy các quần xã sinh vật đáy; việc xây dựng các giàn khoan ngoài khơi thường xung đột với các mục đích khác trong khu vực đặc biệt là đánh cá và hàng hải. Tác động tiêu cực của việc khai thác dầu mỏ và khí đốt đã được minh chứng ở các vùng nước nội địa và ven bờ. Các tác động này có thể là những thảm họa từ việc tràn dầu, việc thải các chất dầu mỏ từ việc sản xuất và các hoạt động vận chuyển. Các tác động trực tiếp:  Khi nước bị nhiễm bẩn bởi dầu, giữa mặt thoáng của nước và không khí hình thành một lớp dầu làm thay đổi quá trình trao đổi khí của nước, thay đổi sức căng bề mặt, pH, nhiệt độ, v.v. từ đó ảnh hưởng đến sinh hoạt và sự sống của các quần thể chim biển, các loài cá, giáp xác, thân mềm, hải cẩu, san hô, các loài thực vật của rừng ngập mặn, Lớp dầu ngăn cản không cho ánh sáng mặt trời xuyên thấu vào nước, làm chậm quá trình làm giàu oxy của nước biển, trước hết làm ngừng sự sinh sản hay giết chết các loài sinh vật nổi là nguồn thức ăn quan trọng cho các loài động vật biển.  Đối với các loài chim biển, mặc dù lông của chúng chống được sự thấm nước nhưng không chống được sự thấm dầu làm cho trọng lượng cơ thể của chim tăng lên, làm cho chúng không thể bay lên được nữa để đến nơi khác kiếm ăn. Dầu làm cho da, niêm mạc mắt bị tổn thương cùng cái đói làm cho chim kiệt sức và chết.  Dầu có thể giết chết các rạn san hô ở độ sâu 6 m. Ở những vùng bị ô nhiễm dầu, người ta thấy đến 76% san hô bị hủy diệt.  Dầu bám vào các loài thực vật của rừng ngập mặn làm cho cây ngạt thở và chết thành từng đám làm mất môi trường sống của các loài tảo, hàu, vẹm và các động vật không có xương sống khác sống tập trung ở vùng rễ của sú, vẹt, cuối cùng hủy diệt cả hệ sinh thái rừng ngập mặn.  Dầu ngoài việc làm chết nhiều loài hải sản, nó còn làm mất môi trường sống và xua đuổi các loài hải sản di cư đến những vùng khác, sẽ ảnh hưởng đến nghề cá.  Dầu và các sản phẩm của chúng thải ra trong quá trình khai thác dầu mỏ sẽ tích tụ lại trong cơ thể sinh vật biển, làm cho thịt của chúng có mùi dầu. Khi con người ăn phải các loài hải sản này có thể bị ngộ độc hay bị ung thư do rối loạn các thông tin di truyền.  Ngoài các tác động kể trên, việc ô nhiễm do dầu có thể ảnh hưởng tới khí hậu khu vực do giảm sự bốc hơi nước của đại dương dẫn đến giảm lượng mưa; thu hẹp khả năng dịch vụ trong lĩnh vực du lịch giải trí ven biển; việc đánh đắm các giàn khoan quá hạn, sẽ hủy hoại hệ sinh thái đáy ở khu vực đó và làm thay đổi cấu trúc nền đáy. 48
  12. Tác động gián tiếp: từ các tác động trực tiếp như đã nêu ở trên sẽ dấn đến hàng loạt các tác động gián tiếp như:  Gây xói mòn do giảm diện tích rừng ngập mặn, rạn san hô.  Làm mất nơi cư trú của sinh vật biển.  Giảm khả năng bồi tụ bờ biển, các chất dinh dưỡng trong đất. 6. Nghề cá: Việc khai thác, sử dụng nguồn lợi sinh vật biển ngày càng tăng góp phần tăng trưởng kinh tế quốc gia, nâng cao đời sống, tăng thu nhập và giải quyết công ăn việc làm cho đa phần dân cư ven biển. Song song với sự gia tăng các mối đe dọa do suy thoái chất lượng môi trường ven biển, thì áp lực gia tăng đánh bắt hải sản trên thế giới cũng tăng lên trong thời gian qua. Gia tăng dân số sẽ dẫn tới sự gia tăng nhu cầu về các sản phẩm biển đặc biệt là cá, do đó có thể thấy rằng tốc độ khai thác đánh bắt cá sẽ tăng tới mức mà trữ lượng các đàn cá có thể bị suy giảm hoàn hoàn. Hiện nay, do hậu quả của gia tăng dân số, nhu cầu trên thế giới đã vượt quá sản lượng, gây nên sự tăng giá và giảm nguồn cá, đặc biệt đối với các nước nghèo. Áp lực đánh bắt tăng do sự gia tăng phương tiện và các cải tiến về kỹ thuật đánh bắt. Sự khai thác quá mức đã làm sản lượng của nhiều ngư trường xuống dưới mức tính toán. Vì áp lực đánh bắt tăng lên dẫn tới sự suy giảm kích thước quần thể, tính đa dạng gien và tính thích nghi của đàn cá cũng giảm theo. Hầu hết các đàn cá ăn đáy đã bị đánh bắt và nhiều đàn đang bị suy giảm. Do bị khai thác, đánh bắt quá mức, nên một số đàn cá di cư không còn khả năng phục hồi số lượng quần thể và lâm vào tình trạng bị đe dọa diệt vong. Việc buôn bán cá cảnh biển phát triển mạnh kéo theo việc đánh bắt cá quá mức trên các rạn san hô, các bãi đá ngầm. Như vậy, phương thức thương mại quốc tế đã dẫn đến sự gia tăng sản lượng cá xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển, dẫn đến mức độ không bền vững của việc khai thác tài nguyên, làm mất cân bằng tự nhiên các quần xã sinh vật biển ven bờ. Tính bền vững của các ngành đánh bắt cá quy mô nhỏ phục vụ nhu cầu và nguyện vọng của địa phương còn quan trọng hơn là các ngành đánh bắt quy mô lớn có định hướng xuất khẩu ví nó định hướng phục vụ phát triển đời sống xã hội cho nhóm người nghèo có thu nhập thấp. Việc quản lý nghề cá hiện nay trên thế giới cũng là vấn đề phức tạp liên quan đến phương tiện và kỹ thuật đánh bắt. Một số nơi trên thế giới sử dụng một số ngư cụ có thể có những ảnh hưởng có hại đối với các loài không phải là đối tượng khai thác như các loài rùa biển, các loài chim, các loài thú biển và các loài động vật không xương sống khác. Việc sử dụng các loại nghề, ngư cụ đánh bắt cá có tính hủy diệt hoặc ảnh hưởng lớn đến khả năng phục hồi quần thể còn đang phổ biến ở nhiều nơi như dùng chất nổ, xung điện, hóa chất độc, các nghề te, đăng đáy, lưới với mắc lưới bé, v.v. Bên cạnh mối đe dọa trực tiếp của việc khai thác quá mức các đàn cá, nhiều ngư trường đang gặp rủi ro do sự suy thoái nơi cư trú gây ra bởi ô nhiễm và các can thiệp khác của con người. Mối đe doạ lớn nhất đối với sản lượng nghề cá sẽ nảy sinh khi đánh bắt quá mức và sự suy thoái môi trường cư trú kết hợp nhau. Việc phát triển vùng ven biển và sự hủy hoại nơi cư trú tự nhiên có vai trò là những bãi đẻ, nơi kiếm ăn của nhiều loài sinh vật ngoài khơi cũng là những yếu tố cần phải quan tâm. Các loài cá có các giai đoạn ban đầu trước trưởng thành, 49
  13. sống ở vùng nước ngọt hoặc nước lợ ven bờ, ví dụ rừng ngập mặn hay đầm lầy nước mặn, đặc biệt bị đe dọa bởi việc phát triển không hạn chế vùng ven biển. 7. Vận tải biển. Cùng với sự phát triển của xã hội, giao thông đường thủy không còn bó hẹp trong phạm vi một vùng mà đã phát triển thành hệ thống vận tải biển rộng lớn trên toàn thế giới, đem lại sự thịnh vượng cho mọi vùng đất. Tuy nhiên, cũng như mọi hoạt động khác, vận tải biển cũng có mặt trái của nó, ảnh hưởng trực tiếp lên các hệ sinh thái vùng ven bờ, hệ sinh thái biển và đại dương. Ngày nay vận tải biển được sử dụng nhiều nhất là ở các ngành thương mại, quân sự, và du lịch với chức năng chuyên chở hàng hóa và người từ nơi này sang nơi khác. Để phục vụ cho các chức năng trên, ngành vận tải biển đòi hỏi phải có các cơ sở hạ tầng như các bến cảng, vũng vịnh kín, các xí nghiệp đóng tàu, sửa tàu và các vùng biển. Các tác động của vận tải biển đến môi trường vùng ven bờ có thể kể như sau: Xây dựng các công trình phục vụ vận tải biển: Mất các hệ sinh thái vùng bờ, dẫn đến mất đất, mất đa dạng sinh học và mất các nguồn lợi do các hệ sinh thái này đem lại. Làm thay đổi chế độ phù sa; Việc nạo vét và uốn nắn dòng sông để phục vụ giao thông đã làm phá vỡ dòng chảy, giảm chiều dài sông, tăng tốc độ dòng chảy và hạ thấp mức nước ngầm; Việc mở rộng mạng lưới kênh rạch dẫn đến sự xâm nhập của nước biển vào sâu trong đất liền gây mặn hóa, kết quả là làm suy thoái hệ thực vật thủy sinh nước ngọt. Những tác động do vận tải biển gây ra: Ô nhiễm nhiệt: do việc dùng nước biển để làm mát các thiết bị máy móc. Tác hại của ô nhiễm nhiệt có thể ảnh hưởng đến các loại trứng và ấu trùng của các sinh vật biển; sự tăng cao của nhiệt độ nước biển có thể làm thay đổi sự di cư của các loài động vật biển nhạy cảm với yếu tố nhiệt, làm giảm sản lượng hải sản đánh bắt hay nuôi trồng trong khu vực bị ảnh hưởng. Nước biển nóng lên là điều kiện cho sự phát triển của một số loài sinh vật biển có hại. Ô nhiễm hóa học: xảy ra do các hoạt động rửa tàu thuyền sẽ thải ra rác rưởi, dầu mở và nước thải; quá trình bốc dở hàng hóa và tiếp nhiên liệu cũng gây rơi vãi và thất thoát ra môi trường. Việc sử dụng sơn có chứa kim loại nặng và các loại dung môi trong việc đóng mới và tu sửa tàu thuyền gây nhiễm độc cục bộ đất, nước và các hệ sinh thái. Các sự cố xảy ra trên biển như đắm tàu, tai nạn, sẽ ảnh hưởng đến cả một khu vực rộng lớn. Tác hại của ô nhiễm hóa học bao gồm ô nhiễm do kim loại nặng, các chất hữu cơ dinh dưỡng và ô nhiễm dầu. Ô nhiễm sinh học: bao gồm hai dạng là sự phú dưỡng và sự du nhập các sinh vật ngoại lai. Trong quá trình vận chuyển, một lượng lớn các chất hữu cơ dinh dưỡng có chứa nitơ và phospho (như phân bón, nguyên liệu sản xuất, ) bị thất thoát ra biển. Các chất này gây ô nhiễm biển, gây ra hiện tượng thủy triều đỏ, làm chết các loài sinh vật biển. Một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến vận tải biển là việc kiểm tra nước dùng để dằn tàu. Nước dùng để dằn tàu là đặc điểm cần thiết đối với sự vận hành của các tàu lớn. Việc thải khối nước này sau khi bốc dở hàng ở các bến cảng là một trong những nguyên nhân gây ra sự du nhập của các sinh vật lạ gây hại trên toàn thế giới. Các sinh vật bám gây rỉ thân tàu cũng có khả năng trở thành các sinh vật lạ. Để chống lại sự du nhập của các sinh vật bám này, hoạt động chống rỉ thân tàu có thể gây ra những vấn đề ô nhiễm, qua việc sử dụng các loại sơn chống rỉ. 50
  14. CHƯƠNG 4: QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG VEN BỜ 1. Nhu cầu quản lý tổng hợp vùng ven bờ Vùng ven bờ rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội vì những tài nguyên hiếm có của nó. Vùng ven bờ thực chất là một hệ thống có nhiều loại tài nguyên khác nhau. Nó cho không gian, cung cấp các tài nguyên sinh học và phi sinh học, cho hoạt động của con người và chức năng điều hòa môi trường tự nhiên cũng như nhân tạo. Đồng thời vùng ven bờ cũng là hệ thống được nhiều người sử dụng. Con người sử dụng các nguồn tài nguyên cho sự sống (như nước và thức ăn), cho các hoạt động kinh tế (như không gian, các tài nguyên sinh học và phi sinh học) và cho nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí (các bãi biển, rạn san hô). Quá trình công nghiệp hóa, phát triển thương mại và áp lực của sự gia tăng dân số liên tục ở nhiều nơi đã làm tăng xói mòn, lũ lụt, mất các vùng đất ngập nước, ô nhiễm, gia tăng việc khai thác bừa bãi đất đai và nguồn nước ven bờ. Liên hợp quốc đã xây dựng các chiến lược và biện pháp nhằm đấu tranh chống suy thoái môi trường trong sự phát triển bền vững và lành mạnh đối với môi trường ở tất cả các nước. Các lĩnh vực cụ thể sau:  Bảo vệ bầu khí quyển bằng cách hạn chế sự thay đổi khí hậu, sự suy yếu tầng ozone và ô nhiễm không khí xuyên biên giới;  Bảo vệ và quản lý tài nguyên đất bằng cách đấu tranh chống nạn phá rừng, sa mạc hóa và hạn hán;  Bảo tồn đa dạng sinh học;  Thúc đẩy công nghệ sinh học lành mạnh với môi trường;  Bảo vệ chất lượng và cung cấp nguồn nước ngọt  Bảo vệ đại dương và tất cả các loài sinh vật biển  Quản lý các chất thải, đặc biệt là các chất thải độc hại và các chất độc hóa học, cấm vận chuyển trái phép các sản phẩm và chất thải độc hại giữa các quốc gia. Các quốc gia và chính phủ của họ đã nhất trí về các công ước, về các vấn đề môi trường toàn cầu quan trọng. Áp dụng các biện pháp chương trình quản lý tổng hợp vùng bờ. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ (QLTHVB) đến nay được thừa nhận là quá trình thích hợp nhất để giải quyết các thách thức tại vùng ven bờ hiện tại cũng như lâu dài. QLTHVB tạo cơ hội cho các vùng ven biển hướng tới sự phát triển bền vững, cho phép tính đến các giá trị tài nguyên và lợi ích hiện nay và trong tương lai của vùng bờ. Thông qua việc tính đến các lợi ích ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, QLTHVB có thể kích thích sự phát triển vùng ven biển, phát triển tài nguyên và hạn chế sự suy thoái các hệ thống tự nhiên của chúng. QLTHVB có thể cung cấp khung sườn cho các phản ứng linh hoạt nhằm đối phó với sự không chắc chắn của các dự báo về tương lai, kể cả về thay đổi khí hậu. Tóm lại QLTHVB có thể cung cấp cho các nước ven biển quy trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống. Mục tiêu chính của bất kỳ chương trình QLTHVB nào về cơ bản là khuyến khích sự thay đổi ứng xử của con người để đạt mục tiêu mong muốn. Mục đích của việc quản lý là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển liên quan đến các sản phẩm, dịch vụ và giá trị mong muốn, liên quan đến sản xuất, tiêu thụ hoặc bảo tồn. QLTHVB có thể dự báo và đáp ứng được các nhu cầu của xã hội vùng ven biển. Sự tham gia của công chúng vào việc xây dựng và thực thi QLTHVB, do đó, là rất cần thiết. Để thành công, QLTHVB cần có các yếu tố sau:  Lồng ghép các chương trình và kế hoạch phát triển kinh tế, quản lý chất lượng môi trường và sử dụng đất; 51
  15.  Lồng ghép các chương trình trong các lĩnh vực sản xuất thực phẩm (ngành nông nghiệp và nghề cá), năng lượng, giao thông vận tải, tài nguyên nước, xử lý chất thải và du lịch;  Lồng ghép tất cả các nhiệm vụ quản lý vùng bờ, từ quy hoạch và phân tích, thực thi, điều hành và duy trì, giám sát và đánh giá, được tiến hành liên tục theo thời gian;  Thống nhất các trách nhiệm đối với các nhiệm vụ quản lý khác nhau của các cấp chính quyền: địa phương, khu vực, quốc gia, quốc tế và giữa khu vực nhà nước và tư nhân;  Sử dụng chung các nguồn lực quản lý có sẵn, tức là các nguồn nhân lực, vốn, nguyên vật liệu và trang thiết bị;  Liên kết các ngành, ví dụ các ngành khoa học như Sinh thái học, Sinh học biển, Kinh tế học, Kỹ thuật (Công nghệ), Chính trị và Pháp luật. Phương pháp quản lý nói chung bao gồm một loạt các nhiệm vụ có liên quan nhau, cần được thực hiện để đạt được các mục tiêu đề ra. Các bước cơ bản trong chu trình quản lý là nhận thức vấn đề, phân tích và lập kế hoạch, triển khai thực hiện, điều hành và duy trì, giám sát và đánh giá hiệu quả các biện pháp liên quan đến mục tiêu đề ra. Việc thực hiện quy trình này sẽ phụ thuộc nhiều vào các điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa và do vậy, nó sẽ khác nhau giữa các quốc gia và trong một quốc gia. Thống nhất các hoạt động quản lý vùng ven biển là rất thích hợp trong việc phòng chống sự suy thoái của các hệ sinh thái tại đó (việc suy thoái này kéo theo việc giảm giá trị kinh tế và gia tăng khả năng bị tổn thương của chúng đối với những tác động của sự thay đổi khí hậu). Mặc dù việc quản lý tổng hợp đòi hỏi sự phân tích và lập kế hoạch kỹ lưỡng hơn là quản lý theo ngành, tổng chi phí của nó cuối cùng sẽ thấp hơn nhiều so với phương pháp tổng chi phí theo từng ngành riêng lẻ. Ngoài ra, đẩy mạnh QLTHVB ngay từ giai đoạn đầu sẽ tạo thuận lợi tài chánh về lâu dài. Do thời gian cần thiết để thực hiện các biện pháp đáp ứng thường kéo dài, nên tiến hành các biện pháp phòng ngừa trong QLTHVB (tức là hành động trước để hạn chế các tổn hại không tránh khỏi xảy ra) không chỉ theo quan điểm môi trường mà còn theo quan điểm kinh tế, vì cách tiếp cận này có thể giảm thiểu tổn hại và có thể tối đa hóa các lợi ích đạt được. Những quyết định về quản lý và lập kế hoạch cho việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên có thể đạt được thông qua sự xem xét hài hòa những phương án và nhu cầu phát triển khác nhau của khu vực. Đây là tính thống nhất của QLTHVB. Do vậy, QLTHVB cần được coi là một tiến trình, phù hợp với sự phát triển bền vững, mà theo định nghĩa, có phạm vi lâu dài. 2. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ và phòng chống thiên tai Biện pháp phù hợp nhất đối với việc bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh thái chính là các biện pháp cần cho việc duy trì các hệ thống tự nhiên vốn có chống lại thiên tai (như bão, lũ, nước dâng, xói lở, ). Các hoạt động của con người thường gây ra những thay đổi tại các vùng đất cần được bảo vệ như lấy cát bờ biển, làm suy thoái các rạn san hô, san phẳng các cồn cát, phá hủy rừng ngập mặn, do đó làm giảm khả năng tự bảo vệ của bờ biển. Ví dụ nếu những cồn cát bị mất đi do khai thác cát, hoặc vì một hoạt động gì đó trên biển, thì rủi ro đối với sự phát triển của vùng bờ sau của đụn cát sẽ tăng rất nhanh. Tương tự, rừng ngập mặn đóng vai trò tiêu tán năng lượng sóng, giữ cho những vùng đất phía sau chúng khỏi bị xói mòn khi có bão. Giá trị mà những tài nguyên thiên nhiên này có trong 52
  16. việc ngăn ngừa thiên tai cho thấy cần phải xem xét chúng như những đối tượng quan trọng và phải đưa ra các biện pháp cứng rắn để bảo vệ chúng. Trong thực tế, một chương trình giảm thiểu thiệt hại do thiên tai cần phải triển khai cùng với việc bảo tồn các sinh cảnh ven bờ lá chắn tự nhiên, ngăn cản các tác động của sóng, lũ và xói lở. Nhiều cộng đồng dân cư đã nhận thức được rằng cách tiếp cận quản lý tài nguyên và thiên tai như vậy làm đơn giản hóa quá trình quản lý vùng ven bờ và giúp đưa ra các quyết định mang tính dự báo nhiều hơn về những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững. Ví dụ việc lùi sâu vào trong đất liền để bảo vệ cộng đồng dân cư khỏi sự xói lở bờ biển và gió bão có thể lại bảo tồn được loài rùa biển sinh nở ở vùng đó. Tương tự, những quy định khắt khe trong phân vùng liên quan đến phát triển các đầm ngập mặn không chỉ bảo tồn được các tài nguyên có giá trị về mặt kinh tế, mà còn giúp duy trì các rào cản tự nhiên chống lại sóng bão. Cuối cùng, một bờ biển hoặc một công viên san hô có thể bảo vệ vùng tự nhiên này khỏi tác động của cả thiên tai lẫn sự suy giảm tài nguyên thủy sinh. Như vậy, cách tiếp cận đơn giản và hiệu quả để phòng chống thiên tai là kết hợp mối quan tâm ngăn ngừa thiên tai với quản lý tài nguyên và môi trường. Một số quốc gia đã bắt đầu thử nghiệm cách tiếp cận kết hợp này thông qua các chương trình QLTHVB, đáp ứng cả hai mục tiêu cùng một lúc. 3. QLTHVB và bảo tồn đa dạng sinh học Nhu cầu và các phương pháp triển khai bảo tồn đa dạng sinh học được hình thành từ trên đất liền. Chúng cần được điều chỉnh để phù hợp với các sinh cảnh trên biển và vùng ven bờ. Các vấn đề càng liên quan đến biển nhiều hơn thì các lý thuyết về bảo tồn càng ít hơn. Ví dụ, nhiều loài sinh vật biển thuộc loại bị đe dọa tuyệt chủng do việc phá hủy các sinh cảnh không được ghi nhận nhiều như các loài rùa biển, chim biển. Có 5 khía cạnh quan trọng liên quan đến đa dạng sinh học biển cần phải được bảo tồn bao gồm:  Đa dạng loài động vật biển cao hơn nhiều so với động vật trên cạn;  Hệ động vật biển ít được biết rõ hơn  Hầu hết các loài động vật biển sống phân tán rộng  Hầu hết các quần xã động vật biển rất khác nhau và thay đổi nhiều về thành phần loài  Thời gian để ứng xử với những nhiễu động về môi trường của các động vật biển ngắn hơn Một mục tiêu chiến lược của QLTHVB là bảo tồn các sinh cảnh của các loài được đánh giá là có giá trị đặc biệt và bị đe dọa tuyệt chủng. Do vậy, điều quan trọng trong việc thiết kế vùng sinh thái cho việc bảo tồn đặc biệt là phải bảo vệ các loài. Các mục tiêu khác có thể là bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên với cảnh quan đẹp và có khả năng sinh lợi cao. Đôi khi những điều này được thực hiện nhằm đáp ứng một chương trình quốc tế nào đó, ví dụ như là các chương trình dự trữ sinh quyển của UNESCO hoặc là công ước RAMSAR đối với các vùng đất ngập nước quan trọng, song chúng thường được thực hiện trong khuôn khổ các hoạt động độc lập quốc gia, liên quan đến việc thiết lập các công viên quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên. 4. Tìm kiếm sản lượng bền vững Ủy ban Brundtland của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững, là loại phát triển mà không tổn hại tới tương lai. Tuy nhiên, Ủy ban đã không đưa ra được những hướng dẫn thực tế về việc áp dụng khái niệm này vào trong các kế hoạch/chương trình cụ thể. Nghĩa chung của nó nói lên rằng sử dụng bền vững đòi hỏi phải điều chỉnh mức độ sử dụng các tài nguyên có thể tái tạo được để chúng không bị suy thoái hoặc cạn kiệt. 53
  17. Liên quan đến tính bền vững, các tài nguyên phải được duy trì sao cho khả năng tự phục hồi của chúng không bao giờ bị mất đi. Hình thức quản lý này duy trì các tiềm năng sinh học và củng cố các tiềm năng về kinh tế lâu dài của các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo được. Việc tuân thủ sự phát triển trên cơ sở sử dụng bền vững phải được nhận rõ như một điều kiện cần thiết tuyệt đối để duy trì việc nâng cao sức khỏe, an toàn thực phẩm, nhà ở và các nhu cầu khác của con người. Khai thác bền vững có nghĩa là sử dụng khôn khéo (phát triển) và quản lý chặt chẽ (bảo tồn) các loài sinh vật và hệ sinh thái mà chúng phụ thuộc vào, sao cho lợi ích hiện tại tiềm tàng của chúng đối với con người không bị xâm phạm. Tài nguyên không thể khai thác hoặc sử dụng quá mức, để chúng có thể tái sinh sau một khoảng thời gian nào đó. Thực tế, tài nguyên có thể được xem là một nguồn vốn đầu tư thông qua sản lượng hàng năm; đó chính là sản phẩm để dùng, chứ không phải là nguồn vốn thông thường. Cần nhận thức rằng việc duy trì sản lượng từ một nguồn tài nguyên cụ thể nào đó, khi thiếu mô hình lập kế hoạch và quản lý tổng hợp, sẽ gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, ở nuôi tôm có lợi đến mức mà người ta đã phá phần lớn rừng ngập mặn để làm đầm nuôi tôm. Điều này đã dẫn đến kết quả là phần rừng ngập mặn còn lại không đủ khả năng để tạo ra những nguồn tôm giống để cung cấp cho các đầm nuôi và đa số đầm đã phải ngừng hoạt động vì thiếu con giống. QLTHVB chưa đảm bảo được sản lượng bền vững từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng bờ của bất kỳ quốc gia nào, thì sự thiếu chúng sẽ dẫn đến việc suy giảm các nguồn tài nguyên đó. Rất ít khi lợi ích kinh tế dài hạn lại có được từ sự phát triển với việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên vùng ven bờ. Sự ổn định về kinh tế sẽ có được từ sự phát triển liên quan mật thiết với việc bảo tồn tài nguyên, quy hoạch tổng hợp và các yếu tố quản lý khác của QLTHVB. 5. Các bước của quá trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ Mỗi quốc gia khi tiến hành đánh giá tiềm năng của một chương trình QLTHVB, đều có cách tiếp cận riêng của mình đến việc bảo tồn tài nguyên và sẽ đối mặt với những đặc thù riêng của vùng ven bờ. Tốt nhất là làm sao cho chương trình QLTHVB trở thành nhiệm vụ chính trị của các chính quyền trung ương hoặc địa phương và có được những hoạt động phù hợp trong nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên. Các giai đoạn cụ thể của chương trình QLTHVB phụ thuộc vào các vấn đề cần giải quyết, cho nên chúng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả chúng đều cần một cơ chế điều phối liên ngành và một hệ thống quy định nhằm tăng cường khả năng sử dụng bền vững, đa mục tiêu các nguồn tài nguyên có thể tái tạo được trong vùng ven bờ đã xác định. Như vậy, mặc dù có chương trình QLTHVB của mỗi nước riêng, vẫn có một số bước cơ sở chung trong việc thiết lập chương trình. Có 7 yếu tố cần được thực hiện nhằm đem lại một khuôn khổ qui hoạch và quản lý trong đó có tính đến sự phức tạp của mỗi vùng ven biển và tình trạng qui hoạch. Các qui mô không gian khác nhau về chính trị, thể chế và các lĩnh vực có liên quan đến vùng ven bờ đều có thể đưa vào trong khuôn khổ. Đồng thời khuôn khổ này sẽ cung cấp sự hợp nhất hay phân tích các lợi ích có tính cạnh tranh trong phát triển bền vững của bất kỳ vùng ven biển nào. Điều quan trọng cần biết là quá trình được dự kiến là không tuyến tính, trong đó không có điểm cuối mà tại đó quá trình được coi như là đã kết thúc. Quá trình này là liên tục, lặp đi lặp lại với các đường phản hồi nội tại không những cho phép các thay đổi trong tương lai về điều kiện của vùng ven biển đang quan tâm, mà còn cho phép đánh giá lại và xác định lại các bước hành động cần thiết trong 7 yếu tố của khuôn khổ. 54
  18. 5.1 Xác định vấn đề Có rất nhiều yêu cầu ban đầu trong việc xác định một kế hoạch quản lý vùng ven biển. Trước hết, cần định rõ các mục tiêu phát triển và phạm vi trong đó các mục tiêu này không được thỏa mãn. Cần phải nắm vững các mục tiêu phát triển quốc gia, khi không có những mục tiêu tổng thể như vậy, các mục tiêu cụ thể có thể được đặt ra cho sự phát triển của một vùng ven biển nhất định song những mục tiêu này có thể không liên quan hoặc xung đột với thành tựu cuối cùng của các mục tiêu quốc gia rộng lớn hơn. Đối với các mục tiêu phát triển vùng ven biển cụ thể, điều quan trọng là phải đảm bảo có xem xét tới các ranh giới của vùng qui hoạch trên phương diện các quá trình tự nhiên cũng như nhân văn mà thực tế đã xảy ra trong vùng, và mức độ vượt quá ranh giới vùng qui hoạch của chúng. Thứ hai là phạm vi của hoạt động qui hoạch vùng ven biển cần được quyết định. Phạm vi này cần bao gồm:  Việc xác định các yếu tố ngành như ngư nghiệp, du lịch hay phát triển đô thị cần được quan tâm đến.  Các giới hạn về không gian của vùng ven biển đang xem xét (ví dụ như phát triển cảng, chương trình và kế hoạch quản lý vùng ven biển quốc gia, việc quản lý song phương hay đa phương của một vùng biển và ven biển thường có giới hạn nằm ngoài phạm vi một nước)  Mức độ sẵn có của các nguồn lực, cả về thể chế lẫn tài chính, để giải quyết được mục tiêu qui hoạch đa xác định. 5.2 Xem xét và phân tích Sau khi đã thống nhất về các mục tiêu phát triển và phạm vi qui hoạch, thì tiếp đó cần xác định xem liệu những mục tiêu ban đầu này có thể trở thành hiện thực hay không trong phạm vi vùng qui hoạch đã xác định. Có 3 yếu tố cần bao hàm trong sự xem xét như vậy.  Yếu tố đầu tiên là các nguồn tài nguyên biển và ven biển được phát triển và các điều kiện môi trường mà chúng tồn tại trong đó;  Yếu tố thứ hai là các điều kiện kinh tế xã hội và sự phù hợp của chúng trong phát triển tài nguyên;  Yếu tố thứ ba là bối cảnh luật pháp, thể chế và hành chính mà hoạt động phát triển được tiến hành trong bối cảnh đó. 5.2.1 Các nguồn tài nguyên và môi trường Điều cần thiết là phải xác định được độ phong phú, sự phân bố, sản lượng bền vững của nguồn tài nguyên biển và ven biển được phát triển; mức độ sử dụng của những tài nguyên này; những tác động môi trường của việc sử dụng đó và các tác động của những hoạt động hiện tại cũng như tương lai lên tài nguyên. Ví dụ, việc kéo lưới đánh bắt các sinh vật đáy như tôm chẳng hạn có thể sẽ hủy hoại chính môi trường sống của tôm; đồng thời chất lượng của nước và trầm tích mà tôm phụ thuộc vào cũng sẽ bị suy thoái và trở nên không thích hợp nếu các chất ô nhiễm được đổ vào từ một nguồn ở xa, ngoài nơi cư trú của loài tôm được phát triển. 5.2.2 Các điều kiện kinh tế xã hội Để có được một sự phân tích và đánh giá hoàn thiện tình hình của một vùng ven biển nào đó cần phải xác định và đánh giá những hạn chế hoặc những cơ hội kinh tế xã hội đang tồn tại. Các thí dụ về sự thất bại trong qui hoạch tài nguyên ven biển có liên quan đến khía cạnh xã hội có thể tìm thấy trên khắp thế giới. 55
  19. 5.2.3 Các điều kiện luật pháp, thể chế và hành chính Việc quản lý sự phát triển của các tài nguyên ven biển một cách không thỏa đáng hiện nay là do việc xây dựng luật pháp, các điều lệ và thể chế đều dựa trên nguyên tắc cho rằng các đại dương và nguồn tài nguyên của nó là tài nguyên chung. Nguyên tắc như thế có thể chấp nhận được vào các thế kỷ trước do số người thực hiện cũng như công nghệ lúc đó còn hạn chế. Những thay đổi lớn lao về dân số và công nghệ, đặc biệt trong vòng 100 năm qua đa dẫn đến việc phải đặt lại câu hỏi cho nguyên tắc trên và công nhận rằng, hiện nay việc hạn chế tiếp cận với tài nguyên biển là cần thiết. Đáng tiếc là việc phát triển luật pháp, các pháp chế và thể chế để thi hành các kiểm soát đó là không theo kịp với tốc độ phát triển tài nguyên ven biển. 5.3 Các vấn đề và các khả năng lựa chọn Thông qua các phân tích vừa được mô tả, có thể xác định xem nơi nào sự phát triển các nguồn tài nguyên khác nhau là có thể tương thích. Ví dụ dự kiến phát triển một khu bảo vệ biển có thể được tiến hành tại một vị trí mà không có ảnh hưởng tới sự phát triển đô thị bởi vì chúng được cách xa một khoảng nhất định. Song cũng có thể nhận biết các khu vực có khả năng xung đột. Ví dụ như dự kiến phát triển bến cảng lại tình cờ diễn ra tại một vùng ngập mặn , là khu ươm nuôi tôm cá tự nhiên, và vì thế vùng này có tầm quan trọng về phương diện phát triển kinh tế của các chương trình ngư nghiệp quốc gia. Theo cách tương tự, cả các tác động trực tiếp và gián tiếp của việc sử dụng môi trường biển hiện nay đều có thể được phân tích nhằm xác định những mâu thuẩn và các tương thích. Ví dụ, việc chặt phá rừng ngập mặn để xây dựng các khu nuôi tôm có thể sẽ làm giảm hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước tới mức mà nó sẽ không còn đủ khả năng hổ trợ cho sự phát triển của loài tôm, đó là tác động trực tiếp. Tác động gián tiếp có thể là việc phát hiện ra rằng các cách thải bỏ chất thải tận trong đất liền đã dẫn tới sự ô nhiễm các con sông chảy qua rừng ngập mặn, mà điều này đã dẫn đến sự suy thoái chất lượng nước lợ của hệ rừng ngập mặn. Điều này có thể dẫn đến việc cả sản phẩm tôm cá tự nhiên và nuôi trồng đều không phù hợp với sự tiêu dùng của con người. Trong trường hợp này, việc sử dụng sông và nước lợ của rừng ngập mặn để hấp thụ các chất thải rõ ràng là mâu thuẩn và không tương thích với sự phát triển hơn nữa nghề cá rừng ngập mặn. Ngoài việc xác định các vấn đề hiện tại cần giải quyết, các bước khởi đầu trong quá trình cũng sẽ dẫn đến xác định các khả năng lựa chọn hay các chiến lược thay thế cho sự phát triển nguồn tài nguyên vùng ven biển. Nếu phát triển ngư nghiệp không được ưu tiên trong các mục tiêu phát triển ban đầu song sau đó, trong giai đoạn đánh giá, các đàn cá được xác định là chưa được khai thác đáng kể thì điều này có thể dẫn đến quyết định là bao gồm cả phát triển ngư nghiệp trong các mục tiêu tương lai. 5.4 Trình bàyxây dựng kế hoạch Bước này trong quá trình kéo theo việc tổng hợp dữ liệu, dùng các kết quả của các bước từ 1 đến 3 của quá trình để thống nhất về mặt tổng thể cũng như chi tiết nội dung của các kế hoạch và các chương trình quản lý vùng ven biển. Trong bước này có hai đặc điểm quan trọng: Thứ nhất cần phải có sự phản hồi nội tại giữa các thành phần cơ bản trong trong chương trình qui hoạch. Giả sử một mục tiêu phát triển quốc gia là "phát triển nguồn tôm cá vì lợi ích của tất cả mọi người" song không phát triển du lịch dựa vào nước ngoài bởi vì đánh giá ban đầu đã cho thấy ít có tiềm năng về khía cạnh này; hoặc bởi vì lý do tôn giáo và văn hóa khiến cho du lịch không phải là mối quan tâm lớn. Nếu như sau đó trong các bước phân tích và đánh giá 56
  20. lại lộ ra rằng các bãi cá đã bị khai thác gần tới mức giới hạn và có những bãi biển rất hấp dẫn có thể tạo nên cơ sở cho sự phá triển du lịch, thì quốc gia này có thể quyết định thay đổi hướng hoạt động và đầu tư theo cách mà ngành du lịch có thể phát triển trong chừng mực công chúng có thể chấp nhận được. Như vậy, cơ chế phản hồi (feedback) trở nên quan trọng cho mọi yếu tố trong quá trình. Đặc điểm quan trọng thứ hai của quá trình là động lực của các mối tương tác và sự đồng lòng giữa mọi đối tượng quan tâm đến việc xây dựng các kế hoạch hay chính sách cho vùng ven biển. Những người hưởng lợi cuối cùng của quá trình phát triển phải là công chúng, mặc dù thực tế hiện nay không phải luôn luôn là như vậy. Trong khi đề xuất các chính sách quốc gia, các chương trình và kế hoạch quản lý vùng ven bờ cho các hoạt động phát triển tại một địa điểm nhất định nào đó thì công chúng cần phải là trung tâm của quá trình tư vấn. Vì vậy việc xây dựng sự đồng tâm nhất trí về các mục tiêu chính sách, nội dung của các chương trình và tính thích hợp của các kế hoạch là một phần không thể thiếu trong qui hoạch thành công vùng ven bờ. 5.5 Thông qua kế hoạch Một khi chính sách, chương trình hay kế hoạch đã được soạn thảo, nó thường phải được thông qua bởi một thủ tục có tính chính thức để có thể đưa vào thực hiện. Thủ tục này có thể là sự tán thành chính thức của một số cơ quan chịu trách nhiệm ở cấp quản lý thích hợp; là sự thông qua về mặt luật pháp ở cấp vùng hoặc cấp quốc gia; hoặc trong trường hợp của các kế hoạch đặc thù cho một vùng mà các kế hoạch này đang trong quá trình sơ duyệt thì có thể cần tới sự tán thành hay thông qua của cộng đồng có liên quan. Việc đảm bảo rằng có các cơ chế thích hợp cho phép phản hồi cho giai đoạn đề xuất là rất quan trọng bởi vì trong nhiều trường hợp luật pháp dự kiến là có thể phải sửa đổi lại nếu, giả dụ như nó mâu thuẩn một cách không cần thiết với pháp luật hiện hành. Vì vậy, điều quan trọng là đề ra được một kế hoạch hành động trong đó có đưa ra các hành động cần thực hiện; thời gian thực hiện và một phân tích có tính phê bình để kế hoạch có thể thông qua và thực hiện. 5.6 Thực thi kế hoạch Trong các bước đề ra kế hoạch và thông qua của quá trình, điều quan trọng là lường trước được các chính sách, chương trình hay kế hoạch có thể được thực thi như thế nào trong bối cảnh của tình hình hiện tại. Đặc biệt cần thiết ở những nơi mà thể chế mới được hình thành hoặc thể chế đang tồn tại cần phải có sự chuyển đổi quan trọng. Tượng tự, sự lường trước là quan trọng trong trường hợp có pháp chế mới mà điều này có thể thay thế hoặc làm thay đổi các bộ luật, các tiêu chuẩn môi trường hoặc các đường hướng chỉ đạo hiện hành. Trong cả hai trường hợp, thời gian thực thi là tối quan trọng và có thể được tiến hành với quy mô lớn dần sao cho sự điều chỉnh lại hiện trạng có thể thực hiện song song chứ không phải trở ngại cho sự phát triển. 5.6.1 Chấp hành kế hoạch Để chương trình đi vào hoạt động cần phải chấp hành lịch trình của các kế hoạch. Việc chấp hành lịch trình trong trường hợp này có nghĩa là các tổ chức phải được thực hiện một cách có hiệu quả các kế hoạch trong chương trình.  Tổ chức về cơ quan: thiết lập cấu trúc hành chính để đảm bảo cho việc quản lý thống nhất theo chiều ngang và chiều dọc;  Tổ chức về luật pháp: các bộ luật, công ước, nghị định và các tiêu chuẩn để làm cho việc quản lý có thể thực hiện; 57
  21.  Tổ chức về tài chính: phân phối kinh để chi trả cho các chi tiêu trong quá trình. 5.6.2 Quá trình hoạt động Việc vận hành chương trình QLTHVB sẽ được bắt đầu để đạt được những kết quả mong muốn nếu quá trình hoạt động tốt và thông suốt. Tuy nhiên việc quản lý một quá trình phức tạp như QLTHVB, không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Các phản hồi trong quá trình quan trắc và đánh giá có thể dẫn tới những thay đổi trong chương trình hiện hành và những xung đột về quyền lợi có thể nảy sinh những vấn đề không mong đợi. 5.6.3 Giải quyết xung đột Vấn đề chính trong quá trình vận hành của QLTHVB đó là giải quyết các xung đột về lợi ích. Để có thể giải quyết các xung đột này, cần phải nhận rõ nguyên nhân và hậu quả của các xung đột, thiết lập một phương pháp rõ ràng để có được quyết định và có khả năng ngăn chặn các tác động tiêu cực bằng các biện pháp thích hợp. Các xung đột có thể bắt nguồn theo chiều dọc" ví dụ xảy ra giữa các bên sử dụng ở các mức độ khác nhau; hoặc theo chiều ngang, ví dụ các bên sử dụng cùng mức độ ở các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ ở trường hợp thứ nhất đó là sự xung đột giữa chính quyền quốc gia, muốn thiết lập một khu bảo tồn thiên nhiên trong chính sách quốc gia và cộng đồng địa phương, muồn đầu tư vào việc phát triển công nghiệp để nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Ví dụ về trường hợp thứ hai là xung đột giữa những người khai thác cát từ bờ biển để xây dựng nhà cửa trong vùng đất liền và những người sống gần bờ biển, phản đối việc khai thác cát vì cho rằng việc khai thác cát dẫn đến mối đe dọa nhà cửa của họ do xói lở bờ biển. Để giải quyết những xung đột lớn hơn, chương trình QLTHVB cần phải có một hệ thống hòa giải. Một hệ thống như vậy có thể tạo ra một phương pháp luận rõ ràng để giải quyết các xung đột và đưa ra cách giải quyết. Có thể phân biệt các thủ tục hành chính và pháp luật. Thủ tục hành chính dựa vào sự hợp tác tự nguyện của tất cả bên. Đối với mỗi một xung đột, một thủ tục có thể được biến đổi phù hợp với tình cảnh của nó. Ví dụ đối với một nhiệm vụ không lường trước, một hội đồng, hay một tổ chức khoa học có thể được thành lập để tìm kiếm một giải pháp cho một vấn đề đặc thù. Một chính sách đối thoại cũng có thể thành lập để tập hợp các bên xung đột lại với nhau và để cho họ thảo luận dưới sự lãnh đạo của một người hòa giải. Tiến trình hòa giải có thể bắt đầu khi không có khả năng tìm ra giải pháp qua đàm phán. Nếu tất cả đều thất bại, thủ tục luật pháp phải được sử dụng để bắt buộc phải tuân theo một giải pháp. Một thủ tục như vậy tốn thời gian và tiền của, vì vậy nên tránh. 5.7 Quan trắc và đánh giá Các chính sách mới, các chương trình hoặc kế hoạch tuy đã được đàm phán và cân nhắc kỹ lưỡng song vẫn hiếm khi chứng tỏ một cách đúng như là chúng được dự tính hoặc ít khi hoàn thiện thích hợp. Điều này xuất phát từ thực tế rằng thường là không thể dự tính và lập kế hoạch cho mọi sự bất ngờ bắt gặp trong quá trình thực thi. Ngoài ra, khoảng thời gian gián đoạn giữa giai đoạn xác định và giai đoạn thực thi của quá trình là đủ để các tình hình môi trường, kinh tế xã hội và hoặc thể chế có thể thay đổi. Cách tốt nhất để chuẩn bị cho tình huống có thể xảy ra như thế là khởi xướng và thực hiện một qui trình đánh giá liên tục các thành công cũng như thất bại của các chính sách và các hoạt động khi chúng được đưa vào thực hiện. Sản phẩm của bước quan trắc và đánh giá là khả năng đánh giá sự thành công hay thất bại chung của các chính sách hay chương trình đã được thông qua. Trên cơ sở của các kết quả này, điều cần thiết là phải xác định được hành động sửa chữa nào là thích hợp hoặc phải đánh giá lại các mục đích ban đầu của bài tập. Nơi nào đòi hỏi phải có hành động sửa chữa thì 58
  22. hành động này cần được xác định và tiến hành trong khuôn khổ của quá trình đã được vạch ra, được lồng vào và được đánh giá tại bước thích hợp. Nơi nào đòi hỏi phải có sự đánh giá lại các mục tiêu ban đầu thì cần phải tiến hành bằng cách bắt đầu quá trình lại từ đầu và đi qua đầy đủ các bước như trước đó. Vì vậy điều chủ yếu là các kết quả của các bước quan trắc và đánh giá phải được phản ảnh lại vào trong các bước trước đó của quá trình. 5.7.1 Quan trắc Chương trình quan trắc bắt đầu ngay sau khi chương trình QLTHVB đi vào hoạt động. Tiến trình quan trắc thường xuyên thu thập thông tin từ kết quả của việc đánh giá và phản hồi trong các giai đoạn và có thể dẫn đến quan điểm là chính sách phải thay đổi. Dạng quan trắc phụ thuộc phần lớn vào mục tiêu của chương trình, do vậy cần phải rõ ràng. Một chương trình quan trắc tốt bao trùm toàn bộ khu vực liên quan và trong một quãng thời gian kéo dài. Ngân sách thường giới hạn và cần nhấn mạnh rằng tốt hơn là có nhiều số liệu (bao gồm toàn bộ hệ thống ven bờ) dù chất lượng thấp, hơn là một ít số liệu có chất lượng nhưng chỉ tập trung ở một vài điểm. Các dạng số liệu để quan trắc là:  Xã hội: tỷ lệ sinh, sức khỏe, chất lượng cuộc sống;  Kinh tế: thu nhập, số lượng công ty công nghiệp, khối lượng chuyên chở giữa hai vùng;  Sinh thái: số loài động, thực vật, sức khoẻ của quần thể, số con sinh ra,  Tự nhiên: vị trí của vùng bờ, chiều sâu của lòng sông, eo biển, kích thước của các đụn cát., Các dữ liệu có thể được lưu trữ ở các viện nghiên cứu. Trong trường hợp này, bước đầu là tập hợp các số liệu này vào một mối để có thể sử dụng để đánh giá. Nếu số liệu chưa có sẵn, các chương trình quan trắc cần được thiết lập và thực hiện thu số liệu. Sau đó, phải tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu khoa học và các viện nghiên cứu của họ tham khảo. Các chuyên gia này có thể được huấn luyện các kỹ năng thích hợp. Trong giai đoạn này, kỹ thuật không ảnh và viễn thám có vai trò quan trọng do các kỹ thuật này có khả năng cung cấp và xử lý số liệu chất lượng cao mà giá thành lại rẻ. 5.7.2 Đánh giá Các số liệu thu thập được sử dụng để phân tích để đánh giá kết quả của chương trình QLTHVB hay giải quyết các vấn đề được xác định trong mục tiêu của chương trình. Nếu đánh giá dẫn đến việc sửa đổi việc vận hành của chương trình QLTHVB, cần phải xem xét lại các thông tin này hay các chính sách được sửa đổi phải được đánh giá ở mức cao hơn. Một số mục tiêu có thể được xác định là:  Chính thức hóa các tổ chức hành chính (ví dụ thành lập các cơ quan);  Giảm thiểu các hành vi có hại và thực hiện các hành động phát triển;  Làm tốt hơn các chỉ thị môi trường và xã hội;  Sử dụng bền vững tài nguyên và nâng cao chất lượng cuộc sống (ví dụ khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên). Mục tiêu cao nhất (thứ tư) có thể không đạt được trong một thời gian ngắn và có thể không mong đợi trong quá trình đánh giá lần đầu. Có thể phân biệt hai dạng đánh giá: Liên tục để có thể cải thiện việc quản lý và các chính sách. Theo thời gian ví dụ 2 năm là dạng đánh giá lớn hơn có thể thực hiện để chỉ rõ cho cộng đồng chương trình được hoạt động như thế nào. Điều này có thể đạt được các hỗ trợ để chương trình QLTHVB được tiếp tục. 59
  23. Xác định vấn đề (*) Quan trắc Đánh giá đánh giá phân tích Thực thi Các vấn đề, kế hoạch các lựa chọn Thông qua Xây dựng kế hoạch kế hoạch Hình 4.1. Các bước của quá trình quản lý vùng ven bờ 6. Quản lý vùng ven bờ Việt Nam 6.1 Dự thảo chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và vùng ven bờ Việt Nam 6.1.1 Tính cấp thiết Việt Nam là quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km 2 và bờ biển dài trên 3.200 km, với 29 tỉnh và thành phố tiếp giáp với biển. Vùng biển và vùng bờ Việt Nam có vai trò quan trọng to lớn đối với công cuộc phát triển chung của đất nước. Với các đặc điểm nổi bật như: các huyện ven biển của Việt Nam chiếm 17% diện tích đất đai, là nơi sinh sống của 23% dân số cả nước; hai nguồn tài nguyên chỉ tìm thấy ở vùng biển và ven bờ là dầu khí và hải sản, đóng góp hơn 23% tổng giá trị xuất khẩu; Đa dạng sinh học vùng biển và ven biển đem lại nhiều lợi ích quan trọng cho cộng đồng địa phương và cho cả nước. Hàng năm các hệ sinh thái biển và ven biển quan trọng nhất của Việt Nam đem lại giá trị ước tính khoảng 38 triệu USD. Đa dạng sinh học biển và vùng bờ đem lại nhiều lợi ích cho các hộ dân và cộng đồng địa phương. Vùng ven biển là nơi thu hút nhiều khách du lịch nhất với số khách du lịch ngày càng gia tăng. Khoảng 65% hàng xuất khẩu của Việt Nam qua các hải cảng và tỷ lệ hàng nhập khẩu vào Việt Nam qua các hải cảng cũng tương tự. Tuy vậy, vùng ven bờ Việt Nam vẫn chưa đặt đúng vị trí trong hệ thống khu bảo tồn quốc gia: các khu bảo tồn vùng bờ chỉ chiếm 11% tổng diện tích được bảo tồn cả nước. Vùng bảo tồn biển Việt Nam chưa có tên trong hệ thống các khu bảo tồn. Mặc dù đông dân hơn, đầu tư vào vùng ven biển Việt Nam vẫn tụt hậu so với đầu tư vào các vùng khác. Lấy đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) làm chỉ số đầu tư chung, thì 125 huyện ven biển với khoảng 23% dân số cả nước, chỉ nhận được 13% số dự án FDI được phê chuẩn cho cả nước giai đoạn 1993 đến 1997. Đầu tư vào vùng ven biển Việt Nam lại phân bố không đều: các địa phương của một số ít tỉnh ven biển (Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa và Bà Rịa Vũng Tàu) nhận được hầu hết các đầu FDI rót vào tỉnh. Ngược lại, các huyện ven biển của 8 trong số 29 tỉnh ven biển chưa hề nhận một chút đầu tư FDI nào. Sự bất bình đẳng như vậy có thể thấy ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng đặc biệt rõ rệt ở các vùng ven biển, vì mức đầu tư chung vào các vùng này luôn thấp hơn so với phần còn lại của đất nước. 60
  24. Theo số liệu của các chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, 14% các xã nghèo nhất và 6% các xã thiếu các cơ sở hạ tầng cơ bản thuộc các huyện ven biển. Hầu hết các xã nghèo nhất duyên hải Việt Nam đều tập trung ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, cũng như các tỉnh vùng ven biển thuộc châu thổ sông Mekong. 6.1.2 Cơ sở lý luận của dự thảo chiến lược Việt Nam nằm ở vị trí địa lý đầu mối quan trọng. Tầm quan trọng và đóng góp của các nguồn lợi môi trường biển và vùng bờ Việt Nam đối với thế giới được thừa nhận ngày càng nhiều hơn. Nhiều hệ sinh thái biển và ven bờ của Việt Nam được đánh giá cao ở trong nước cũng như trên toàn thế giới nhờ giá trị đa dạng sinh học cũng như giá trị văn hóa và lịch sử. Nguồn lợi môi trường biển và vùng bờ Việt Nam cũng có tầm quan trọng trực tiếp đối với hơn 17 triệu dân cư vùng ven biển của đất nước. Người dân dựa vào nguồn lợi tài nguyên biển và vùng bờ để giải quyết rất nhiều nhu cầu cơ bản của cuộc sống và cuộc sống của họ phụ thuộc vào những nguồn lợi môi trường như rừng, nước sạch và thủy sản biển và vùng bờ để sinh sống và phòng chống nhiều hiện tượng thiên tai khác nhau như bão lụt. Việt Nam cố gắng tận dụng vị thế của mình là một quốc gia ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á để tiếp tục phát triển kinh tế và trên thực tế, một số lợi ích của chính sách này đã trở thành hiện thực, nhất là trong lĩnh vực nghề cá và năng lượng. Những thành công này rất đáng kể và kết quả là cuộc sống của người dân vùng ven biển cũng như dân trong cả nước được cải thiện rõ rệt. Nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo ở vùng biển và vùng ven bờ Việt Nam vốn rất phong phú và quan trọng, thế nhưng nhiều loại nguồn tài nguyên trong số này đang nhanh chóng bị suy thoái. Bốn nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là:  Khung chính sách, pháp lý và thể chế hiện hành của Việt Nam cho phép tự do tiếp cận vùng biển, không có sự quản lý phù hợp;  Tình trạng này còn nghiêm trọng hơn do chưa tiến hành khoanh vùng chức năng để sử dụng và yếu kém trong việc thực thi các quy định hiện hành liên quan đến việc tiếp cận vùng khai thác. Dựa vào nhà nước để thực thi các quy định hiện hành chỉ thành công một phần nhất định, do các cơ quan quản lý địa phương thiếu cán bộ, trang thiết bị, phương tiện năng lực, như trường hợp các ban quản lý các khu bảo tồn, các chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản và quản lý môi trường địa phương;  Phương thức quản lý và quy hoạch theo ngành không cho phép so sánh cân nhắc thiệt hơn khi phân chia nguồn lợi vùng biển và vùng bờ cho các ngành kinh tế khác nhau để khai thác, sử dụng (như ngành kinh tế cảng, du lịch, nghề cá, đô thị hóa, công nghiệp hóa);  Đời sống ở vùng biển và vùng bờ Việt Nam còn nghèo, nhất là các vùng nông thôn. Khả năng hình thành vốn cho đầu tư của các hộ gia đinh nông thôn còn bị hạn chế do cơ sở hạ tầng yếu kém, hoạt động tín dụng chưa đáp ứng được nhu cầu và phương tiện tiếp cận thị trường còn chưa đủ. Các hộ nông thôn giải quyết nhu cầu cơ bản của mình bằng cách khai thác những nguồn lợi tự nhiên và môi trường quan trọng vượt cả giới hạn khai thác bền vững và mở rộng hoạt động khai thác của mình sang những vùng nhạy cảm về mặt môi trường. Kết quả là các hệ sinh thái quan trọng vùng biển và vùng bờ không được bảo vệ một cách thích đáng, trong khi đó chúng là nguồn cung cấp những lợi ích về đa dạng sinh học, tài chính và kinh tế quan trọng cho các cộng đồng ven biển cũng như cho cả nước. Ngoài ra, hàng năm vùng bờ Việt Nam lại phải chịu tổn thất nặng nề do thiên tai, chủ yếu là bão nhiệt đới và lũ lụt. Đây là một nguyên nhân làm kiệt quệ nền kinh tế quốc gia và khiến cư dân vùng ven bờ, vốn dễ bị tổn thương, phải hạn chế các hoạt động kinh tế của mình vì quá mạo hiểmvà rủi ro. 61
  25. Trong khi đó, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa vẫn diễn ra ở vùng ven biển Việt Nam, mà các biện pháp kiểm soát ô nhiễm công nghiệp và ô nhiễm đô thị nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Các hoạt động khai thác ở vùng biển và vùng bờ cho đến nay thu được rất nhiều lợi ích. Tuy nhiên, muốn tiếp tục có được thành công như vậy, cần phải tập trung tiến hành một số hoạt động sau:  Cũng cố khung chính sách, pháp lý và thể chế liên quan đến nguồn lợi biển và ven bờ;  Đầu tư thích đáng vào công tác bảo tồn và quản lý nguồn lợi tự nhiên và môi trường vùng biển và ven bờ;  Đầu tư cải thiện cuộc sống cho cư dân và cộng đồng vùng ven biển theo những phương thức do họ tự xác định và quyết định cho bản thân mình. Dự thảo chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và vùng bờ Việt Nam được đề xuất nhằm loại bỏ các hạn chế, hướng tới phát triển bền vững ở vùng biển và vùng bờ Việt Nam. 6.1.3 Mục tiêu của chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và vùng bờ Mục tiêu bao trùm của Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường ở vùng bờ Việt Nam thông qua giảm nghèo và bảo vệ và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên tái tạo ở vùng biển và vùng bờ. Mục tiêu cụ thể của chiến lược gồm 6 hợp phần chính là: Hợp phần số 1 – Quy hoạch quản lý tổng hợp vùng biển và vùng bờ cho các tỉnh duyên hải. Xây dựng các kế hoạch trên cơ sở từng vùng, kết hợp với việc phân vùng chức năng cho tất cảcác địa phương ven biển và vùng ven bờ của Việt Nam. Hợp phần số 2 – Các khu bảo tồn vùng biển và ven bờ. Bảo vệ, bảo tồn và kiểm soát tính đa dạng sinh học ở vùng biển và ven biển Việt Nam thông qua hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển hiện có và thu hút thêm các vùng biển và ven biển có ý nghĩa về mặt đa dạng sinh học khác. Hợp phần số 3 – Quản lý tổng hợp nghề cá ven bờ. Thiết lập một hệ thống quản lý chức năng trên cơ sở cộng đồng cho việc khai thác nguồn lợi hải sản ven bờ, nhờ thế giảm bớt đáng kể các hoạt động khai thác quá mức và không được điều tiết, bảo vệ môi trường vùng biển và đẩy mạnh việc phát triển kinh tế ven biển. Hợp phần số 4 – Phát triển và cải thiện sinh kế cho các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương. Trong những xã ven biển nghèo nhất (theo xác định của Bộ lao Động, Thương binh và Xã hội), cung cấp giải pháp sinh kế bền vững cho dân cư và cộng đồng địa phương bằng cách khôi phục cơ sở hạ tầng, bảo vệ nguồn lợi tự nhiên có sự tham gia của người dân, nâng cao năng lực cho các cộng đồng địa phương và tạo việc làm. Hợp phần số 5 – Phòng chống thiên tai và xói lở bờ biển ở duyên hải Việt Nam Xây dựng các công trình bờ biển và các giải pháp sinh học (ví dụ: chắn gió cát ven biển và ổn định các đụn cát), đồng thời nâng cao khả năng đối phó với tình trạng khẩn cấp để giảm thiệt hại kinh tế do thiên tai và nâng cao an ninh kinh tế cho dân cư ven biển. Đảm bảo việc giảm thiểu các thiệt hại từ thiên tai vào chiến lược phát triển cho các vùng ven biển. Hợp phần số 6 – Tăng cường khung hành động môi trường quốc gia, nâng cao nhận thức, đánh giá ô nhiễm và giám sát. 62
  26. Đây là một hợp phần chung, hỗ trợ cho chiến lược quốc gia, bao gồm: củng cố khung pháp lý quốc gia cho các vấn đề môi trường chủ yếu, tăng cường thu nhập, phân tích và cung cấp dữ liệu, thông tin về môi trường biển và vùng bờ và giám sát, kiểm soát ô nhiễm đô thị và công nghiệp, đánh giá và thanh tra nếu cần thiết và nâng cao nhận thức về môi trường cho tất cả các đối tượng có liên quan đến quản lý môi trường biển và vùng bờ. 6.1.4 Các ưu tiên trong chiến lược Gợi ý cho việc thực hiện chiến lược, các ưu tiên đối với mỗi hợp phần được đề xuất bởi những ưu tiên chung cấp tỉnh chỉ ra rằng vùng Bắc Trung bộ và Trung Trung bộ của Việt Nam là cùng được ưu tiên cao nhất cho việc thực hiện chiến lược quốc gia. Miền duyên hải Việt Nam này có hàng loạt ưu tiên trong nhiều hợp phần, đặc biệt là giảm nghèo, phòng chống thiên tai và quản lý tổng hợp nghề cá ven bờ. Hơn nữa, các vấn đề ưu tiên về quản lý môi trường ở các tỉnh này do chính quyền tỉnh xác định cũng trùng hợp với những hợp phần ưu tiên được đề xuất. Hai nguyên tắc cơ bản để tổ chức thực hiện chiến lược đa được đưa ra: Một là, nguyên tắt đối tác và quản lý. Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục chịu trách nhiệm chung đối với việc quản lý môi trường biển và vùng bờ. Nhưng cần phải có sáng tạo khi sắp xếp về thể chế giữa các thành phần khác nhau sao cho việc thực hiện kế hoạch này (hay một kế hoạch tương tự) đem lại lợi ích tối đa cho cư dân ven biển nói riêng và cả nước nói chung. Đó có thể là những việc như khắc phục những trở ngại về mặt năng lực, phạm vi hoạt động của các cơ quan chức năng chính phủ mở rộng tới tận cấp địa phương, khả năng có sẵn nguồn lực tài chính và tận dụng lợi thế so sánh của địa phương. Tất cả đều có thể đạt được thành công tối đa nếu có sự hợp tác giữa các thành phần chủ chốt, bao gồm:  Chính phủ có chủ quyền đối với đất, nguồn lợi và xây dựng khung pháp lý, chính sách và điều tiết cơ bản cho hoạt động của các thành phần;  Các cộng đồng địa phương – sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời là những người phải chịu hậu quả của các quyết định đầu tư và phân bổ nguồn lợi;  Các cơ quan cho vay quốc tế cung cấp nguồn đầu tư cần thiết ban đầu;  Các nhà tài trợ cung cấp và hỗ trợ kỹ thuật;  Khu vực tư nhân – là nguồn cung cấp vốn, ảnh hưởng, và trình độ chuyên môn, đặc biệt có tính thực tiễn ở vùng ven biển nước ta, cụ thể cho hoạt động du lịch, sản xuất và chế biến thủy sản và có thể cho cả các doanh nghiệp nhỏ hoạt động bền vững;  Các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan khoa học – có trách nhiệm chuyển tải thông tin đến quần chúng, cho ý kiến tư vấn về kỹ thuật, tạo dựng mối liên hệ giữa các nơi tham gia và giám sát, theo dõi. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy rằng tất cả các thành phần liên quan đều quan trọng và điều này cũng có thể đúng cho công tác quản lý môi trường vùng biển và ven biển Việt Nam. Ở những nơi có thể, cần tạo ra những động cơ thúc đẩy các thành phần liên quan để họ tiếp tục tham gia và đem hết năng lực thực hiện các nhiệm vụ của mình. Hai là, cấp tỉnh là cấp thực hiện phù hợp nhất. Do tính chất đa ngành của chiến lược quốc gia và do nhu cầu quy hoạch bao gồm cả việc khoanh vùng chức năng cho vùng biển và ven biển, khuyến nghị rằng nên để tỉnh duyên hải là đơn vị cơ sở thực hiện chiến lược quốc gia. Rõ ràng cần phải lập quy hoạch, xếp thứ tự và theo dõi ở cấp quốc gia để bảo đảm rằng chiến lược này luôn được thực hiện phù hợp với các mục tiêu phát triển quốc gia trong khi vẫn đạt 63
  27. được mục tiêu của mình. Tương tự, chiến lược này có một số khuyến nghị về việc nên để chính quyền và cộng đồng địa phương là đối tác cùng thực hiện kế hoạch. Việc thực hiện chiến lược ở cấp tỉnh ở vùng ven biển có thể có nhiều thuận lợi như sau:  Việc quy hoạch theo khu vực và khoanh vùng chức năng biển và vùng bờ, cân bằng phát triển ở cấp tỉnh là tiền đề để tiếp tục đầu tư và trợ giúp kỹ thuật liên quan;  Tiếp theo có thể đề ra một chương trình đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật trọn gói đa lĩnh vực, bao gồm một tập hợp các hoạt động phù hợp nhất với yêu cầu của tỉnh;  Các huyện ven biển có thể gần hơn với toàn bộ quá trình thực hiện và rất có khả năng xem xét nhu cầu thật sự của địa phương, các lợi thế so sánh cũng như các giải pháp;  Vùng quy hoạch cần đủ lớn (trong hầu hết các trường hợp) để các yếu tố bên ngoài (như ô nhiễm vùng thượng nguồn, trách nhiệm quản lý chung đối với các vùng đánh cá, khu bảo tồn, ) không thể chi phối các quyết định đa được đưa ra. 6.2 Dự án quản lý tổng hợp ven bờ Việt Nam – Hà Lan Dự án Quản lý Tổng hợp Vùng bờ Việt Nam Hà Lan được thực hiện trong 3 năm (từ tháng 9/2000 8/2003) với mục tiêu thiết lập một chương trình dài hạn về quản lý tổng hợp vùng ven biển Việt Nam gọi là "Chương trình QLTHVB Việt Nam" và tập trung vào việc tư vấn cho chính phủ Việt Nam trong việc lập kế hoạch và phát triển vùng ven biển, phát triển cộng đồng và các nguồn tài nguyên ở đó một cách bền vững. Dự án do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường Việt Nam (MOSTE) điều phối thông qua Cục Môi trường (NEA). NEA sẽ nhận được hỗ trợ kỹ thuật từ NEDECO, một tổ chức tư vấn của Hà Lan. NEDECO và Cục Môi Trường sẽ thực hiện dự án với sự tham gia của nhiều bộ, ngành và cơ quan liên quan, cũng như Uỷ ban nhân dân các tỉnh và các nhà tư vấn Việt Nam. Dự án quản lý tổng hợp vùng bờ Việt Nam sẽ vạch ra chiến lược và kế hoạch hành động cho việc quản lý tổng hợp vùng bờ (SAPICZM) như là 1 công cụ chính để chuyển từ dự án thành chương trình dài hạn. SAPICZM sẽ được thiết lập trong quá trình thực hiện dự án nhằm tạo ra một diễn đàn trao đổi giữa các bộ và các tổ chức có thẩm quyền địa phương thông qua các hội thảo, chuyên đề khoa học và các hội nghị tư vấn. Văn phòng chính của dự án đặt tại Hà Nội và 3 điểm đầu mối của dự án sẽ được thiết lập thông qua các dự án thí điểm tại Nam Định (Đồng bằng sông Hồng, vùng bờ miền Bắc), Thừa Thiên Huế (vùng bờ miền Trung) và Bà Rịa Vũng Tàu (vùng bờ miền Nam). Để tăng cường khả năng của các địa phương, ở mỗi điểm nghiên cứu thí điểm, dự án sẽ thiết lập văn phòng và cung cấp các thiết bị, số liệu, nghiên cứu, phương tiện đi lại cho Uỷ ban nhân dân địa phương. Việc đào tạo cũng sẽ được thực hiện trong chương trình QLTHVB ở Việt Nam (Hà Nội và 3 tỉnh: Nam Định, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa Vũng Tàu), ở Manila và Hà Lan. Sau khóa học, những người tham dự sẽ có hiểu biết toàn diện về chu trình xây dựng và quản lý áp dụng cho các dự án môi trường biển và dải ven bờ, và có khả năng lập đề xuất các dự án mới mang tính khả thi:  Chu trình xây dựng và quản lý dự án  Khái niệm và nguyên tắc cơ bản về xây dựng và quản lý dự án  Áp dụng cơ cấu hợp lý trong thiết kế và lập kế hoạch dự án  Tài liệu dự án và xây dựng đề xuất  Tài liệu dự án, thẩm định và phê duyệt dự án đề xuất  Tài trợ kinh phí cho dự án 64
  28.  Lập kế hoạch làm việc và ngân sách  Phát triển nguồn nhân lực  Giám sát, đánh giá dự án và báo cáo: khái niệm, công cụ và kỹ thuật  Tổng quan về quản lý tổng hợp dải ven bờ. Sau thời gian chính thức hoạt động, dự án đã có một số kết quả và thành tựu bước đầu, được thể hiện qua các nhiệm vụ sau: Thành lập văn phòng dự án tại Hà Nội và các tỉnh thí điểm Việc tổ chức thành lập Văn phòng dự án quốc gia ở Hà Nội và Văn phòng dự án thí điểm tại ba tỉnh Nam Định, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa Vũng Tàu được thực hiện ngay từ những ngày đầu triển khai Dự án. Đến nay, cả 4 văn phòng đều đã đi vào hoạt động ổn định với đầy đủ trang thiết bị và lực lượng cán bộ phù hợp. Xây dựng cơ sở dữ liệu/thư viện tra cứu phục vụ việc triển khai dự án Trong nhiệm vụ của Dự án có phần xây dựng một cơ sở dữ liệu trên máy tính thống kê các dự án về vùng ven biển do Việt Nam đầu tư thực hiện hoặc với sự hỗ trợ của nước ngoài, và các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng ven biển Việt Nam. Đồng thời, nhiệm vụ này cũng bao gồm việc thiết lập một thư viện tra cứu trong đó các tài liệu, báo cáo, thông tin của Dự án và các tài liệu mà Dự án thu thập được sẽ được sắp xếp theo hệ thống, tiện ích cho người sử dụng. Hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu và thư viện tra cứu nói trên sơ bộ đa được xây dựng xong với cấu trúc thiết kế thích hợp, cho phép tra cứu trực tiếp hoặc thông qua mạng Internet. Hệ thống phục vụ tốt cho việc triển khai dự án và đáp ứng các nhu cầu tham khảo, tra cứu thông tin của nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm đến vùng ven biển và QLTHVB. Dự án đang tiếp tục bổ sung thông tin, cập nhật dữ liệu để hoàn thiện hơn hệ thống này. Xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động quản lý tổng hợp vùng bờ Trong các tài liệu ban đầu của dự án có nhiệm vụ: xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động dài hạn cho quản lý tổng hợp vùng bờ (SAPICZM) ở cấp quốc gia và cấp tỉnh để trong thời hạn hoạt động của Dự án có thể đưa ra một chương trình quản lý tổng hợp vùng bờ dài hạn. Sau đó, căn cứ vào kết quả các đợt công tác của chuyên gia tư vấn Hà Lan và tham vấn các chuyên gia Việt Nam, mục tiêu của nhiệm vụ đã được đề xuất điều chỉnh như sau: Xây dựng hướng dẫn, cung cấp chỉ dẫn thực tế, nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực của các cán bộ quản lý và chuyên môn liên quan ở trung ương và địa phương, nhằm xây dựng và thực hiện chiến lược và kế hoạch hành động quản lý tổng hợp vùng bờ. Nhiều hoạt động liên quan đến nhiệm vụ này đa và đang được triển khai, trong đó phải kể đến việc thành lập và hoạt động của các ban chỉ đạo và các nhóm chuyên gia cố vấn kỹ thuật ở các địa phương thí điểm, nghiên cứu về các vấn đề thể chế, luật pháp liên quan đến QLTHVB ở Thừa Thiên Huế, và việc hình thành đề xuất sơ bộ về thành lập một trung tâm tư vấn quốc gia về quản lý vùng bờ cho Việt Nam. Đến nay, kế hoạch công việc cụ thể và danh mục các sản phẩm của nhiệm vụ đã hình thành, bản dự thảo chiến lược QLTHVB cho Thừa Thiên Huế sẽ được hoàn thành vào cuối 2002. Đối với Nam Định, một chiến lược như vậy, theo dự kiến, sẽ được xây dựng vào đầu năm 2003. Cải thiện việc quản lý và tiếp cận cơ sở dữ liệu Một nhiệm vụ khác của dự án là cải thiện việc quản lý và tiếp cận cơ sở dữ liệu về vùng ven biển Việt Nam, đồng thời cung cấp công cụ trợ giúp Bộ KHCN&MT trong việc quản lý tài 65
  29. nguyên thiên nhiên và môi trường. Hệ thống thông tin địa lý (GIS) và viễn thám sẽ được áp dụng. Kết quả dự kiến của nhiệm vụ này là tăng cường năng lực về GIS và cơ sở dữ liệu GIS ở cấp quốc gia và cấp tỉnh; tăng cường trao đổi cơ sở dữ liệu GIS. Dự án đã và đang triển khai nhiều hoạt động thực hiện nhiệm vụ này, trong đó đáng chú ý nhất là khóa đào tạo GIS cơ sở (8/2001) và khóa đào tạo GIS nâng cao (1/2002). Những người được đào tạo chủ yếu là cán bộ của các Sở KHCN&MT kiêm cán bộ 3 dự án thí điểm tại Nam Định, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa Vũng Tàu. Sau các khóa học, học viên có khả năng đảm đương các công việc về GIS cho văn phòng dự án thí điểm và Sở KHCN&MT của mình. Dự kiến tại mỗi dự án thí điểm sẽ có một bộ phận GIS/Cơ sở dữ liệu GIS được thành lập. Đào tạo, tập huấn về quản lý tổng hợp vùng ven biển và các chủ đề liên quan khác Nhiệm vụ này của dự án là cung cấp đào tạo, tập huấn cho các cán bộ quản lý và chuyên môn có liên quan ở trung ương và địa phương, nhằm góp phần nâng cao nhận thức về tiếp cận QLTHVB cũng như tăng cường năng lực để áp dụng thành công QLTHVB ở Việt Nam. Trong khuôn khổ dự án, chương trình đào tạo hướng tới 2 mục tiêu cụ thể, đó là đào tạo QLTHVB cơ sở cho một số cán bộ, và đào tạo QLTHVB chuyên sâu cho một số ít hơn để trong tương lai họ có thể đào tạo về QLTHVB cho những người khác. Các khóa đào tạo được thực hiện ở Việt Nam, Philipines và Hà Lan. Đến nay, chương trình đào tạo của dự án đang triển khai đúng tiến độ. Trong năm 2001, hai khóa đào tạo QLTHVB cơ sở đa được tổ chức tại Hà Nội và Huế; 5 cán bộ đã được dự tập huấn tại Manila, Phillipines. Cuối tháng 5/2002, đoàn cán bộ quản lý cấp trung ương gồm 7 thành viên đã đi tham quan và học tập kinh nghiệm tại Hà Lan. Việc tổ chức các khóa đào tạo tiếp theo trong năm 2002 đang được khẩn trương triển khai. Nghiên cứu các vấn đề trọng điểm và hội thảo khoa học chuyên đề Đây là một nhiệm vụ quan trọng trong khuôn khổ Dự án. Nội dung nhiệm vụ này là xác định các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở vùng ven biển, đưa ra thảo luận ở các hội nghị khoa học với sự tham gia của các chuyên gia đa ngành để khẳng định tính phù hợp và cấp thiết của vấn đề, sau đó tiến hành nghiên cứu sơ bộ và lập đề cương dự án để gửi tới các cấp thẩm quyền và các nhà tài trợ. Các vấn đề trọng điểm đó cũng có thể được đề cập đến trong Chiến lược và Kế hoạch Hành động QLTHVB. Báo cáo nghiên cứu các vấn đề trọng điểm đầu tiên về "Thể chế hóa hoạt động QLTHVB ở Việt Nam" đa được hoàn thành vào tháng 1/2002, gửi cho Đại sứ quán Hà Lan và đa được xem xét chấp thuận kinh phí tài trợ để tiến hành tiểu dự án "Nghiên cứu thành lập Trung tâm Quản lý Vùng bờ Việt Nam". Hiện nay, Dự án đang tiếp tục triển khai nghiên cứu về các đề tài: hoạt động diêm nghiệp, khai thác bãi bồi, du lịch sinh thái ở khu bảo tồn RAMSAR Nam Định, ứng dụng mô hình toán trong quản lý vùng đầm phá ở Thừa Thiên Huế, và ứng phó sự cố tràn dầu ở Bà Rịa Vũng Tàu. Các vấn đề này đa bước đầu thu hút được sự quan tâm của các cấp thẩm quyền ở trung ương và địa phương cũng như một số tổ chức quốc tế. Các hoạt động khác Với mục tiêu nâng cao nhận thức về QLTHVB và chia sẻ thông tin với các bên quan tâm, Dự án định kỳ tổ chức hội thảo, phát hành Bản tin, xây dựng và cập nhật trang Web của Dự án. Đến nay đa có 2 hội thảo quốc gia và nhiều hội thảo địa phương được tổ chức, 4 bản tin được phát hành (3 tháng một số) và trên 14.000 lượt người đa truy cập vào trang Web của Dự án. 66
  30. Theo đánh giá chung của các chuyên gia, Dự án VNICZM là một dự án phức hợp với nhiều thách thức, nhưng lại hết sức cần thiết cho Việt Nam, một quốc gia với trên 3.000 km bờ biển. Các kết quả mà Dự án thu được tuy mới chỉ là bước đầu, nhưng đa cho thấy mô hình thực tế về QLTHVB đa được chấp nhận và triển khai ở Việt Nam. Nhiều địa phương ven biển khác như Thái Bình, Thanh Hóa, đã tỏ ý mong muốn được tham gia Dự án. Điều này chứng tỏ phương pháp triển khai QLTHVB của Dự án là phù hợp và thiết thực với dải ven biển Việt Nam. 6.3 Các khu bảo tồn biển Việt Nam 6.3.1 Tính cấp thiết của việc thiết lập khu bảo tồn biển (MPAmarine protected area). Khu bảo tồn biển là một phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ đa dạng sinh học và và đáp ứng nhu cầu sinh kế của con người. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mật độ sinh vật trong các khu bảo tồn biển tăng gấp đôi sau một thời gian thiết lập (thường là 5 năm), cung cấp ấu trùng và bổ sung các lọai sinh vật biển giai đoạn nhỏ vào vùng biển xung quanh nhờ các dòng hải lưu. Hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển và hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ được khôi phục. Do vậy, nguồn lợi thủy sản không bị sụt giảm, dẫn đến tăng năng suất nghề cá. Ngoài ra, khu bảo tồn biển còn có sức hấp dẫn đối với du khách, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng. Trên thế giới có hơn 1.300 khu bảo tồn biển, trong đó 640 khu đã được xác định là ưu tiên quốc gia về mặt bảo tồn đa dạng sinh học. Khu bảo tồn biển đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Florida (Mỹ) vào năm 1935 với 18.850 ha diện tích mặt biển và 35 ha vùng đất ven bờ. Khu bảo tồn biển lớn nhất thế giới là Great Barrier Reef ở Australia với diện tích 34,4 triệu ha. Khu bảo tồn biển nhỏ nhất là khu dự trữ san hô đỏ ở Monaco và khu Doctor's Gully ở Australia (1ha). Tính tới năm 2002, Đông Nam Á có 310 khu bảo tồn biển và ven biển, trong đó Philippines có 280 khu. Khoảng 46% số khu bảo tồn biển không được quản lý hoặc quản lý lỏng lẻo, 28% được quản lý dưới mức trung bình, còn số khu được quản lý tốt chỉ đếm trên đầu ngón tay. Không ít khu bảo tồn biển đã bị đóng cửa vì nhiều lý do khác nhau như thiếu kinh phí để duy trì hoạt động, thiếu sự hợp tác của cộng đồng địa phương hoặc do những thiếu sót về mặt khoa học trong việc chọn lựa địa điểm, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, thể chế, pháp luật, v.v. Việt Nam trải dài qua 13 vĩ tuyến theo hướng Bắc Nam với khoảng 3.260 km bờ biển và 2.700 đảo lớn nhỏ. Vị trí địa lý của vùng biển rất thuận lợi để có tính đa dạng sinh học cao. Các hệ sinh thái nhiệt đới điển hình như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển phân bố rộng ở vùng ven biển và các đảo xa. Biển Việt Nam còn được coi là nơi có thành phần loài sinh vật khá cao. Mức độ đa dạng loài cũng không đồng nhất giữa các vùng do sự chi phối của điều kiện tự nhiên. Biển Việt Nam cung cấp nhiều nguồn lợi đáng kể. Theo tính toán trữ lượng cá có thể đạt tới 2,7 triệu tấn. Sản lượng cá khai thác năm 1995 là khoảng 1.344.000 tấn, trong đó đánh bắt là 829.860 tấn và sản lượng nuôi trồng là 415.280 tấn. Nghề cá ở nước ta mang tính đa loài, giá trị các loài khác nhau nhiều. Ngoài nghề cá truyền thống, nhiều nguồn lợi mới mang lại lợi ích lớn. Biển và vùng ven biển nước ta còn cho một tiềm năng lớn về du lịch. Cảnh quan trên bờ và dưới nước ở vịnh Hạ long, Nha Trang, v.v đang thu hút du khách từ bốn phương. Nguồn lợi biển đa và đang được sử dụng với cường độ ngày càng cao. Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, hoạt động của con người đa gây ra nhiều tác động đối với tài nguyên và môi trường biển. Sau đây có thể kể đến một số tác động chính. 67