Giáo trình Nghiệp vụ thanh toán

pdf 109 trang Gia Huy 24/05/2022 1870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nghiệp vụ thanh toán", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nghiep_vu_thanh_toan.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nghiệp vụ thanh toán

  1. CHƯƠNG 1: HỆ THỐNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI Mục tiêu chương này: Sau khi học xong chương này người học có kiến thức cơ bản về những nội dung như sau: + Bản chất của tiền tệ. + Quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ. + Quy luật lưu thông tiền tệ, lạm phát. + Các loại hình tiền tệ phổ biến trên thế giới. 1.1 Những vấn đề chung về tiền tệ 1.1.1 Bản chất của tiền tệ Tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trao đổi hàng hoá dịch vụ. Về bản chất, tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo lường giá trị của các hàng hoá. Do tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt nên cũng như các hàng hoá thông thường khác, tiền tệ có hai thuộc tính đó là: giá trị và giá trị sử dụng. Bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ hơn qua hai thuộc tính của nó: - Thứ nhất về giá trị sử dụng của tiền tệ: Đó là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu cầu sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ nào đó là do xã hội quy định, khi nào xã hội còn thừa nhận nó thực hiện tốt làm vai trò trung gian môi giới trong quá trình trao đổi thì khi đó giá trị sử dụng của nó với tư cách là tiền tệ còn tồn tại. Bởi vậy, đó cũng là cách trả lời cho sự xuất hiện hay biến mất của các dạng tiền tệ trong lịch sử. - Thứ hai là giá trị của tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm “sức mua tiền tệ”, đó là khả năng đổi được nhiều hay ít hàng hoá trong trao đổi. Tuy nhiên, khái niệm “sức mua tiền tệ” không được xem xét dưới góc độ sức mua đối với từng loại hàng hoá nhất định mà nó được xem xét trên phương diện toàn thể các hàng hoá trên thị trường. Cụ ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  2. thể là nếu xếp tất cả hàng hoá trong xã hội vào một “giỏ” thì “sức mua tiền tệ” được phản ánh bằng khả năng mua được bao nhiêu phần của “giỏ” hàng hoá đó. Đó là sức mua tổng hợp đối với tất cả các hàng hoá trên thị trường. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  3. 1.1.2 Quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ Khi nền sản xuất và quá trình trao đổi hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định nào đó thì đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hoá khác. Vật ngang giá chung có đặc điểm là có giá trị sử dụng thiết thực, quý hiếm, dễ bảo quản, dễ vận chuyển và mang tính đặc thù của từng địa phương. Khi lực lượng sản xuất phát triển, thị trường được mở rộng, trao đổi hàng hoá trở thành nhu cầu thường xuyên của con người thì việc có quá nhiều vật ngang giá chung đã gây khó khăn cho quá trình trao đổi hàng hoá, do đó những vật ngang giá chung đã tự loại trừ lẫn nhau. Dần dần, vật ngang giá chung bằng kim loại đã thay thế những vật ngang giá chung khác. Kim loại được sử dụng đầu tiên làm vật ngang giá chung là sắt và kẽm, sau rồi đến đồng và bạc. Đến đầu thế kỷ 19, vai trò của tiền tệ đã được cố định bởi vàng bởi vì vàng có nhiều đặc tính ưu việt hơn những hàng hoá khác, đó là : - Tính đồng nhất của vàng rất cao. - Dễ phân chia mà không làm ảnh hưởng đến giá trị vốn có của nó. - Dễ vận chuyển. - Thuận tiện trong việc dự trữ. Khi vàng độc chiếm vị trí vật ngang giá chung thì tên “vật ngang giá chung” được thay thế bằng “tiền tệ”. Và lúc này thế giới hàng hoá được chia thành 2 cực rõ rệt : Một bên là những hàng hoá thông thường, trực tiếp biểu hiện giá trị sử dụng và mỗi hàng hoá chỉ có thể thoả mãn một hay một vài nhu cầu nào đó của con người, còn bên kia cực đối lập là vàng – tiền tệ, trực tiếp biểu hiện giá trị của mọi hàng hoá khác. Vì tiền có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng hoá trong bất kỳ điều kiện nào. Vì vậy, vàng – tiền tệ được coi là một loại hàng hoá đặc biệt. 1.1.3 Quy luật lưu thông tiền tệ ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  4. 1.1.3.1 Nội dung quy luật lưu thông tiền tệ Khối lượng tiền cần thiết trong khâu lưu thông nhiều hay ít, biến đổi tỷ lệ thuận với tổng giá cả hàng hóa và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông tiền tệ: Kc = H/V Kc: Khối lượng tiền cần thiết trong khâu lưu thông H: Tổng giá cả hàng hóa lưu thông V: Vòng quay của tiền tệ 1.1.3.2 Cung và cầu tiền tệ + Mức cầu tiền tệ: là khối lượng tiền cần thiết trong khâu lưu thông (Kc) mà dân chúng, doanh nghiệp, Nhà nước, cần để thỏa mãn nhu cầu chi dùng do các nguyên nhân: chi trả để mua sắm và trả nợ, dự phòng khi bất trắc, tích lũy chờ mua sắm tài sản. - Các yếu tố tác động đến mức cầu tiền tệ: khối lượng hàng hóa sản xuất, giá cả hàng hóa, vòng quay tiền. + Mức cung tiền tệ: là khối lượng tiền thực tế (Kt) mà Ngân hàng Nhà nước phải phát hành vào khâu lưu thông để đáp ứng cho nhu cầu tiền tệ: Kt = Kc Cung ứng tiền qua các kênh : - Cho ngân sách Nhà nước vay : do bội chi. - Cho ngân hàng thương mại vay (tái cấp vốn, tái chiết khấu). - Mua ngoại tệ, vàng (thị trường hối đoái, ngoại hối). - Mua các giấy tờ có giá ngắn hạn (thị trường mở). 1.1.3.3 Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ + Cơ sở cung ứng tiền: Ngân hàng Nhà nước độc quyền cung ứng tiền, điều tiết khối cung tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền. Mức cung ứng tiền được dựa vào các cơ sở : - Chỉ số trượt giá của hàng hóa. - Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. - Thâm hụt ngân sách. - Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. + Quan điểm cung ứng tiền : ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  5. - Chính sách tiền tệ thắt chặt: Hạn chế cung ứng tiền, vốn, tín dụng, đầu tư, tăng trưởng kinh tế nóng; chống lạm phát. - Chính sách tiền tệ nới lỏng: Mở rộng việc cung ứng tiền, vốn, tín dụng, đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chống suy thoái kinh tế. 1.1.4 Lạm phát 1.1.4.1 Khái niệm Theo Fisher: “Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên liên tục và kéo dài trong một thời gian nhất định”. Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết của lưu thông hàng hóa làm cho tiền giấy bị mất giá và giá cả của hàng hóa được biểu hiện bằng đồng tiền mất giá không ngừng tăng lên. Lạm phát thường xuyên xảy ra trong chế độ lưu thông tiền giấy. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  6. 1.1.4.2 Biểu hiện đặc trưng của lạm phát - Tiền giấy mất giá. - Giá cả hàng hóa gia tăng đồng bộ và liên tục. - Sự bất ổn định trong đời sống kinh tế xã hội. 1.1.4.3 Phân loại lạm phát Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là giá cả hàng hoá tăng liên tục nên người ta thường căn cứ vào chỉ số giá cả hàng hoá tăng để làm căn cứ phân thành 3 loại lạm phát: - Lạm phát vừa phải (lạm phát một con số): Biểu hiện chỉ số giá cả tăng chậm trong khoảng 10% trở lại. Do đó, đồng tiền mất giá không nhiều, không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Ở hầu hết các nước trên thế giới áp dụng và xem đó là chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển. - Lạm phát phi mã: giá cả hàng hoá bắt đầu tăng với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số. Khi lạm phát này xuất hiện thì bắt đầu gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã hội. - Siêu lạm phát : xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi mã. Nếu trong điều kiện của lạm phát phi mã vẫn có một số trường hợp nền kinh tế vẫn phát triển tốt như Brazil, thì một khi siêu lạm phát xảy ra thì chắc chắn nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của quốc gia. 1.1.4.4 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát Từ những luận thuyết trên ta có thể thấy nguyên nhân và bản chất của lạm phát được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng chung quy lại lạm phát xuất hiện do những nguyên nhân sau: - Sự mất cân đối của nền kinh tế quốc dân, sản xuất thấp kém, thâm hụt ngân sách quốc gia. Đây được coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Nói cách khác, sự khủng hoảng của nền kinh tế và tài chính của một quốc gia là nguyên nhân cơ bản và sâu xa đưa đến lạm phát. - Lượng tiền cung cấp vào lưu thông quá mức cần thiết cũng là nguyên nhân trực tiếp của lạm phát. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  7. - Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài, làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị ảnh hưởng, từ đó làm uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút. - Nguyên nhân chủ quan khác đó là do nhà nước chủ động sử dụng lạm phát như là một công cụ để thực thi chính sách kinh tế của mình. Từ những phân tích trên có thể nói rằng lạm phát vừa là một phạm trù kinh tế khách quan, vừa là một công cụ kinh tế được nhà nước sử dụng để phát triển kinh tế. Vì việc phân phối sản phẩm và thu nhập đều được thực hiện thông qua tiền tệ nên lạm phát là biện pháp để phân phối lại sản phẩm và thu nhập trong nền kinh tế. Như vậy lạm phát mang bản chất kinh tế – xã hội sâu sắc chứ không phải là một hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế. 1.1.4.5 Các biện pháp kiềm chế lạm phát - Thắt chặt khối cung tiền tệ: Khi khối cung tiền tệ trong lưu thông tăng lên sẽ làm tăng tổng cầu và giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Trong trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện chính sách thắt chặt khối cung tiền tệ bằng các công cụ của mình như tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, tăng tỷ lệ dự trữ pháp định, không phát hành thêm tiền vào lưu thông. - Kiềm giữ giá cả bằng các biện pháp: + Nhập khẩu lượng hàng mà nền kinh tế thiếu. + Xuất kho dự trữ ra bán. + Thực hiện chính sách kiểm soát giá. - Ấn định mức lãi suất cao: Khi lãi suất tiền gửi được ấn định ở mức cao sẽ thu hút bớt tiền trong lưu thông về, tuy nhiên sử dụng biện pháp này cần sự hỗ trợ của ngân hàng trung ương và ngân sách nhà nước. - Giảm chi tiêu ngân sách: ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  8. Chi tiêu ngân sách là 1 bộ phận quan trọng của tổng cầu, giảm chi ngân sách những khoản chưa thật sự cần thiết sẽ làm giảm sức ép đối với tổng cầu và giá cả sẽ hạ xuống. - Hạn chế tăng tiền lương: Tiền lương là một bộ phận quan trọng trong chi phí sản xuất, tăng tiền lương sẽ làm tăng tổng chi phí sản xuất dẫn đến làm giá cả tăng lên, đồng thời tăng tiền lương cũng làm tăng thu nhập cho dân chúng gây sức ép làm tăng tổng cầu. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  9. - Lạm phát chống lạm phát: Nhà nước gia tăng đầu tư mở rộng sản xuất, kết quả của đầu tư sẽ làm tăng cung tạo điều kiện cân bằng quan hệ cung cầu. - Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Cạnh tranh hoàn hảo sẽ tránh được độc quyền đẩy giá lên, mặt khác cạnh tranh sẽ thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất góp phần làm cho giá cả hàng hóa hạ xuống. - Mua lấy 1 tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát: Lạm phát và thất nghiệp là 2 yếu tố đối nghịch nhau, người ta có thể mua lấy 1 tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát vừa phải để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bình thường và đời sống xã hội ổn định. 1.2 Các loại hình tiền tệ phổ biến trên thế giới 1.2.1 Ngoại tệ và ngoại hối 1.2.1.1 Ngoại tệ: Là đồng tiền của các quốc gia phát hành được lưu thông trên thị trường quốc tế. Ví dụ như ở Việt Nam thì USD, GBP, EUR, là ngoại tệ. Ngoại tệ được thể hiện dưới hình thức ngoại tệ tiền mặt hay các số dư ngoại tệ trên tài khoản tiền gởi tại ngân hàng. 1.2.1.2 Ngoại hối: Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của luật quản lý ngoại hối của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối có thể là không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, ngoại hối gồm các loại chủ yếu sau: - Ngoại tệ (Foreign currency): Tiền của nước khác lưu thông trong một nước. Ngoại tệ bao gồm: ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng. - Các phương tiện thanh toán quốc tế được ghi bằng ngoại tệ: hối phiếu, lệnh phiếu, séc, thư chuyển tiền (mail transfer), điện chuyển tiền (telegraphic transfer), thẻ tín dụng (credit card), thư tín dụng ngân hàng (bank letter of credit), là những chứng từ chi trả phát sinh từ quan hệ tín dụng, thể hiện một số tiền nhất định, được lưu thông dễ dàng từ người này sang người khác. Phần lớn các phương tiện thanh toán này hình thành trên cơ sở của sự phát triển tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Các phương tiện này không có giá trị nội tại của nó, mà nó chỉ là dấu hiệu của tiền tệ. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  10. 2 Một số đồng tiền phổ biến trên thế giới 1.2.2.1 Về tên gọi Mỗi nước có tên gọi tiền tệ riêng nhằm phân biệt giữa tiền tệ nước này với nước khác. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  11. 1.2.2.2 Về ký hiệu tiền tệ Các nước trên thế giới tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế IS0 (International Standard Organization). Theo quy định, ký hiệu tiền tệ gồm ba chữ cái: trong đó hai chữ cái đầu phản ánh tên quốc gia, chữ cái thứ ba phản ánh tên gọi tiền tệ của quốc gia đó. Cụ thể ký hiệu của một số đồng tiền như sau : No. Country Names Currency ISO (Tên quốc gia ) (Tên gọi (Ký hiệu tiền tệ) đồng tiền) 1. United States (US) Dollar USD 2. United Kingdom (GB/UK) Pound GBP 3. Japan (JP) Yen JPY 4. Canada (CA) Dollar CAD 5. Australia (AU) Dollar AUD 6. China (CN) Yan CNY 7. Cuba (CU) Peso CUP 8. HongKong(HK) Dollar HKD 9. Korea (North) (KP) Won KPW 10. Korea (South) (KR) Won KRW 11. European Union (EU) Euro EUR 12. Russia (RU) Ruble RUB 13. Iraq (IQ) Dinar IQD 14. Germany (DE) Mark DEM ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  12. 15. Switzerland (CH) Franc CHF ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  13. CHƯƠNG 2: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Mục tiêu của chương: Sau khi học xong chương này người học có kiến thức cơ bản về những nội dung như sau: + Khái niệm về tỷ giá. + Phương pháp yết tỷ giá. + Các loại tỷ giá hối đoái. + Các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. + Phương pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 2.1 Khái niệm về tỷ giá hối đoái 2.1.1 Khái niệm: * Hối đoái (Exchange): Là việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác. Ví dụ: Chuyển đổi từ đồng Việt Nam (VND) sang dollar Mỹ (USD) hay từ đồng Euro (EUR) sang Yen Nhật (JPY), * Tỷ giá hối đoái (Exchange rate): - Tỷ giá hối đoái là quan hệ tỷ lệ so sánh giữa đồng tiền các nước với nhau. - Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng những đơn vị tiền tệ của nước khác. - Tỷ giá hối đoái là tỷ giá để đổi tiền một nước này lấy tiền của một nước khác. * Ở Việt Nam: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 định nghĩa Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giá trị của đồng tiền nước ngoài với giá trị đồng Việt Nam. Ví dụ: Tỷ giá giữa USD và VND, viết là USD/VND, chính là số lượng VND cần thiết để mua 1 USD. 2.1.2 Cơ sở hình thành tỷ giá - Trong chế độ bản vị vàng, tiền tệ trong lưu thông là tiền đúc bằng vàng và giấy bạc ngân hàng được tự do đổi ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng của nó. Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng của hai nước với nhau hoặc là so sánh hàm lượng vàng của hai đồng tiền hai nước với nhau. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  14. Ví dụ: Hàm lượng vàng của 1 bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam vàng nguyên chất và của 1 đô la Mỹ (USD) là 0,888671 gam vàng nguyên chất, do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là: Tỷ giá hối đoái GBP/USD = Giá trị của GBP/Giá trị của USD. Tỷ giá hối đoái GBP/USD = Hàm lượng vàng của GBP/Hàm lượng vàng của USD. Tỷ giá hối đoái GBP/USD = 2,488281/0,888671 = 2,80. So sánh hàm lượng vàng của hai tiền tệ với nhau gọi là ngang giá vàng (gold parity). Hay nói một cách khác, ngang giá vàng của tiền tệ là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái trong chế độ bản vị vàng. - Trong chế độ lưu thông tiền giấy, tiền đúc trong lưu thông không còn nữa, giấy bạc ngân hàng không còn tự do đổi ra vàng theo hàm lượng vàng của nó, do đó, ngang giá vàng không còn làm cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái. Việc so sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng so sánh sức mua của hai tiền tệ với nhau, gọi là ngang giá sức mua của tiền tệ (Purchasing Power Parity – PPP). Ví dụ: Trong điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị của Anh và Mỹ là như nhau. Một tấn lúa mì loại 1 ở Anh có giá là 100 GBP, ở Mỹ có giá là 178 USD. Ngang giá sức mua là: Đây là tỷ giá hối đoái giữa bảng Anh (GBP) và đôla Mỹ (USD). Trong chế độ lưu thông tiền giấy, việc xác định tỷ giá hối đoái phức tạp hơn nhiều so với trong chế độ bản vị vàng. Tỷ giá hối đoái trên thị trường bị dao động dưới tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau. 2.2. Phương pháp yết tỷ giá 2.2.1 Khái niệm phương pháp yết tỷ giá Yết tỷ giá là việc công bố tỷ giá giữa hai đồng tiền trên thị trường tài chính tiền tệ. Như vậy khác với yết giá hàng hóa thông thường, yết một tỷ giá bao giờ cũng có 02 đồng tiền tham gia, trong đó có một đồng tiền đóng vai trò là đồng tiền yết giá, còn đồng tiền kia đóng vai trò là đồng tiền định giá. Ví dụ: Tại Thành Phố Hồ Chí Minh (Việt Nam) ngày 25/01/2011 tỷ giá giữa đồng USD và đồng VND được yết như sau : USD/VND = 20500E USD = 20500 VND. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  15. * Đồng tiền đứng trước USD gọi là: Đồng tiền yết giá/hàng hóa/cơ sở (Quoted/Commodity/Base currency). Bởi đây là đồng tiền được coi như là hàng hóa ngoại tệ được mua vào và bán ra trên thị trường so với ngoại tệ khác. * Đồng tiền đứng sau VND gọi là : Đồng tiền định giá/đối ứng (Terms /Counter currency) dùng để xác định giá trị của đồng tiền hàng hóa trên thị trường. - Theo thông lệ quốc tế khi báo giá quy định đặt đồng tiền yết trước và đồng tiền định giá sau dấu phân cách (/). + Đồng tiền yết giá thường là 1, 100 hay là 1000. + Đồng tiền định giá là một số bất kỳ. 2.2.2 Các phương pháp yết tỷ giá 2.2.2.1 Phương pháp yết tỷ giá trực tiếp - Ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá. - Nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá. Ví du : Tại Việt Nam USD/VND = 16000. Tại Singapore USD/SGD = 1,4560 2.2.2.2 Phương pháp yết tỷ giá gián tiếp - Nội tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá. - Ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá. Ví du : Tại London GBP/USD = 1,5897 Tại Newyork USD/SGD = 1,4560 * Lưu ý : Đa số các nước trên thế giới đều áp dụng phương pháp trực tiếp, và các đồng tiền theo phương pháp gián tiếp như : GBP, USD, EUR, AUD, NZD 2.2.3 Phương pháp xác định tỷ giá theo phương pháp tính chéo 2.2.3.1 Khái niệm + Theo nghĩa rộng: Tỷ giá chéo là tỷ giá của hai đồng tiền bất kỳ được xác định thông qua một đồng tiền thứ ba (đồng tiền trung gian). + Theo nghĩa hẹp: Do đồng USD thường là đồng tiền được yết giá với các đồng tiền tiền quốc gia khác nên tỷ giá của hai đồng tiền bất kỳ thường được suy ra từ tỷ giá giữa chúng với USD nên tỷ giá chéo thường được hiểu là tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ được xác định thông qua USD (USD luôn là đồng tiền trung gian). 2.2.3.2 Cách tính ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  16. Giả sử các đồng tiền khác nhau được ký hiệu A, B, C và tỷ giá giữa chúng là A/B, A/C, B/C trong đó có một đồng tiền đóng vai trò là đồng tiền trung gian. Có ba quy tắc áp dụng cho 03 trường hợp : - Quy tắc 01: Đồng tiền trung gian đóng vai trò là đồng tiền yết giá . Ta có: A/B = eb, A/C = ec Suy ra : B/C = ec/eb CURRENCY PAIRS BID ASK (1) A/B BID1 ASK1 (2) A/C BID2 ASK2 CROSS RATE BID ASK B/C BID2 AKS2 ASK1 BID1 - Quy tắc 02: Đồng tiền trung gian đóng vai trò là đồng tiền định giá . Ta có A/C = ea, B/C = eb Suy ra : A/B = ea/ eb CURRENCY PAIRS BID ASK (1)A/C BID1 ASK1 (2)B/C BID2 ASK2 CROSS RATE BID ASK A/B BID1 AKS1 ASK2 BID2 - Quy tắc 03: Đồng tiền trung gian vừa đóng vai trò là đồng tiền định giá, vừa đóng vai trò đồng tiền yết giá. Ta có A/B = ea, B/C = ec Suy ra : A/C = ea x eb C/A = 1/ ea x eb CURRENCY PAIRS BID ASK (1)A/B BID1 ASK1 (2)B/C BID2 ASK2 CROSS RATE BID ASK ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  17. A/C BID1 x BID2 AKS1 x ASK2 CROSS RATE BID ASK C/A 1/(AKS1 x ASK2) 1/(BID1 x BID2) * Kết luận: - Quy tắc 1 áp dụng trong trường hợp hai đồng tiền yết giá trực tiếp. - Quy tắc 2 áp dụng trong trường hợp hai đồng tiền yết giá gián tiếp. - Quy tắc 3 áp dụng trong cả trường hợp. 2.3. Các loại tỷ giá hối đoái Có thể có các loại tỷ giá khác nhau sử dụng trên thị trường hối đoái. Chúng ta có thể xem xét một số tỷ giá sau đây: 2.3.1 Căn cứ vào tính chất áp dụng của tỷ giá hối đoái Căn cứ vào tính chất áp dụng của tỷ giá hối đoái, tỷ giá hối đoái được chia làm 2 loại : - Tỷ giá giao nhận ngay : Là tỷ giá áp dụng khi bán ngoại hối thì nhận được tiền ngay vào hôm đó, hay sau 2 ngày. - Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn : Là tỷ giá áp dụng khi bán ngoại hối nhưng sau một thời gian nhất định 1 tháng hay 3 tháng, mới nhận được tiền. 2.3.2 Căn cứ vào thời điểm mua bán Căn cứ vào thời điểm mua bán, tỷ giá hối đoái được chia làm 2 loại : - Tỷ giá mở cửa : là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán giao dịch ngoại hối đầu tiên trong ngày. - Tỷ giá đóng cửa : là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán giao dịch ngoại hối cuối cùng trong ngày tại trung tâm hối đoái. Tỷ giá đóng cửa được coi là chỉ tiêu chủ yếu về tình hình biến động của tỷ giá trong ngày hôm đó. 2.3.3 Căn cứ vào cách thức hình thành tỷ giá hối đoái: ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  18. Căn cứ vào cách thức hình thành tỷ giá hối đoái, tỷ giá hối đoái được chia làm 3 loại : - Tỷ giá hối đoái chính thức : là tỷ giá hối đoái do nhà nước công bố. - Tỷ giá tự do: là tỷ giá được hình thành tự phát và diễn biến theo quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. 2.3.4 Căn cứ vào các phương thức chuyển ngoại hối Tỷ giá thường được phân thành các loại như sau : - Tỷ giá điện hối (Telegraphic transfer – T/T): Là tỷ giá giao dịch ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện. - Tỷ giá thư hối (Mail transfer – M/T): Là tỷ giá giao dịch ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư. 2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Sau 1971 với sự sụp đổ của chế độ tiền tệ Bretton Woods, quan hệ tiền tệ giữa các nước được thả nổi, điển hình là ở các nước tư b ản. Với cơ chế này, tỷ giá hối đoái của các nước biến động hàng ngày, hàng giờ trên thị trường do ảnh hưởng của nhiều nhân tố như lạm phát, tình hình cán cân thanh toán quốc tế, tình hình cung và cầu ngoại hối trên thị trường v.v Chúng ta cần hiểu rằng tỷ giá hối đoái là một loại giá, vậy về bản chất nó giống như bất kỳ một loại giá nào trong nền kinh tế, tức là sẽ vận động theo quy luật cung - cầu. Tuy nhiên cần nhấn mạnh ngay rằng xét về phạm vi ảnh hưởng tỷ giá hối đoái bao giờ cũng được coi là loại giá quốc tế, do đó nó sẽ bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau trong không gian này. Dưới đây chúng ta sẽ xét ảnh hưởng của các nhân tố quan trọng đến biến động của tỷ giá hối đoái. 2.4.1 Quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường Cung cầu ngoại hối là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén tới sự biến động của tỷ giá. 2.4.1.1 Khái niệm + Cung ngoại hối: là những khoản tiền nhận được từ bên ngoài do xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, nhận đầu tư, đi vay, kiều hối ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  19. + Cầu ngoại hối: là những khoản tiền phải chi trả cho bên ngoài như thanh toán nhập khẩu, đầu tư ra bên ngoài, cho vay 2.4.1.2 Ảnh hưởng của quan hệ cung cầu đến tỷ giá Khi cán cân thanh toán quốc tế của một nước thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đến tình hình cung cầu ngoại hối của nước đó. Chẳng hạn, cán cân vãng lai của một nước thặng dư sẽ đồng nghĩa với cung về ngoại hối lớn hơn cầu về ngoại hối. Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén đến sự biến động của tỷ giá hối đoái, bởi vì nếu cầu ngoại hối lớn hơn cung ngoại hối thì đồng tiền trong nước giảm giá so với ngoại tệ, tỷ giá hối đoái tăng lên và ngược lại. Tóm lại, bất cứ một nhân tố nào làm ảnh hưởng cung cầu ngoại hối cũng dẫn đến sự thay đổi tỷ giá. 2 Mức chênh lệch về lạm phát giữa các nước Nếu tỷ lệ lạm phát của một nước mà cao hơn các nước khác thì đồng tiền nước đó có xu hướng giảm giá so với đồng tiền nước kia. 2.5. Phương pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái Trong nền sản xuất hàng hoá, tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và biến động một cách tự phát. Nhà nước có thể áp dụng nhiều phương pháp để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Các biện pháp chủ yếu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là : chính sách chiết khấu, chính sách hối đoái, lập quỹ bình ổn hối đoái, vay nợ, phá giá, nâng giá tiền tệ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 2.5.1 Chính sách chiết khấu: Là chính sách của ngân hàng trung ương dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu của ngân hàng mình để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái lên cao đến mức nguy hiểm muốn làm cho tỷ giá hạ xuống thì ngân hàng trung ương nâng cao tỷ suất chiết khấu lên, do đó lãi suất trên thị trường cũng tăng lên, kết quả là vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ chạy vào nước mình để thu lãi cao. Lượng vốn chạy vào sẽ góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó tỷ giá hối đoái sẽ có xu hướng hạ xuống. Chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất không có quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố quyết định sự vận động vốn của các nước. Ví dụ: trong cuộc khủng hoảng đô la Mỹ, mặc dù lãi suất của USD trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần thị trường Tây Đức, nhưng vốn ngắn hạn không chạy vào Mỹ, mà đổ dồn chạy vào Tây Đức và Nhật, mặc dù các nước ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  20. này thực hịên chính sách lãi suất thấp, bởi vì nguy cơ phá giá đô la sắp trở thành hiện thực. Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau thì phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do đó, hiện nay, chính sách chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Ví dụ : năm 1964, ngân hàng Anh quốc nâng tỷ suất chiết khấu từ 5% lên 7%, do đó đã thu hút được vốn ngắn hạn chạy vào Anh, góp phần giải quyết những khó khăn của cán cân thanh toán quốc tế của Anh. 2.5.2 Sự can thiệp trực tiếp vào thị trường hối đoái: Là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái, có nghĩa là ngân hàng trung ương hay các cơ quan đối ngoại của nhà nước dùng nghiệp vụ trực tiếp mua bán ngoại tệ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái lên cao, ngân hàng trung ương tung ngoại tệ ra bán để kéo tỷ giá hối đoái tụt xuống. Muốn thực hiện được biện pháp này, ngân hàng trung ương phải có dự trữ ngoại tệ lớn. Song nếu tình hình thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế của một nước kéo dài thì khó có nguồn dự trữ ngoại tệ lớn để thực hiện chính sách này. Trong tình hình như trên, các nước tư bản chủ nghĩa phải dựa vào vốn dự trữ ngoại tệ của nhau để cứu nguy đồng tiền của một nước nào đó. Vì vậy 14 nước tư bản chủ nghĩa phát triển và Mỹ đã ký hiệp định “SWAP” để hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngân hàng trung ương nhằm tác động đến quan hệ cung cầu ngoại hối của nước sử dụng tín dụng “SWAP”, do đó ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của nước đó. Chính sách chiết khấu và chính sách ngoại hối đều dẫn đến mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản trong nước, giữa thương nhân xuất khẩu muốn nâng cao tỷ giá hối đoái lên, với thương nhân nhập khẩu muốn hạ tỷ giá hối đoái xuống, giữa nhà xuất khẩu muốn hạ thấp tỷ giá hối đoái với nhà nhập khẩu muốn nâng tỷ giá hối đoái và mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, vì tỷ giá của môt nước nâng lên thì hạn chế xuất khẩu hàng của nước khác nhưng lại khuyến khích việc xuất khẩu vốn của nước khác, do đó, làm cho cán cân thương mại và cán cân thanh toán của nước ngoài đó với nước thực hiện hai chính sách này bị thiệt hại. 2.5.3 Lập quỹ bình ổn tỷ giá: Quỹ dự trữ bình ổn tỷ giá hối đoái là một hình thức biến tướng của chính sách hối đoái, mục đích của nó là nhằm tạo ra một cách chủ động một lượng dự trữ ngoại tệ để ứng phó với sự biến động của tỷ giá hối đoái, thông qua chính sách hoạt động công khai trên thị trường. Về nguyên tắc thì ngân hàng trung ương và các nước không chịu trách nhiệm điều tiết sự biến động của tỷ giá thả nổi. Song, do khủng hoảng hối đoái trầm trọng, tiền tệ các nước ngày một mất giá và tỷ giá biến động mãnh liệt đã ảnh hưởng đến sản xuất ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  21. và lưu thông hàng hoá, các nước đã thành lập quỹ bình ổn hối đoái để điều tiết tỷ giá của đồng tiền nước mình. Theo số liệu của ngân hàng dự trữ liên bang New York, các nước tư bản chủ nghĩa đã chi một khoản khá lớn trích ra trong quỹ của mình khoảng 300 tỷ đô la từ đầu năm 1973, trong đó chỉ riêng từ tháng 8/1977 đến tháng 2/1978 đã chi ra 60 tỷ đô la để duy trì tỷ giá hối đoái của họ. Riêng tháng 3/1978, quỹ của ngân hàng dự trữ liên bang và khoản tín dụng “SWAP” đã đạt tới 22,6 tỷ đô la để thực hiện cho mục đích này. Tác dụng của quỹ bình ổn hối đoái rất có hạn, vì một khi đã bị khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, lượng dự trữ theo quỹ đó cũng giảm đi và không đủ sức điều tiết theo tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng khi khủng hoảng ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ, ví dụ như tín dụng “SWAP”. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  22. 2.5.4 Phá giá tiền tệ. Trong những điều kiện của cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị của các nước vì thị trường ngoài nước, cũng như trong những điều kiện mức độ lạm phát rất khác nhau ở các nước đã phát sinh, vấn đề cần thiết phải xem xét lại tỷ giá tiền tệ của nước này hoặc của nước khác. Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của tiền tệ giảm sút mạnh không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, khi mà trong suốt thời gian dài tỷ giá hối đoái biến động mạnh thì vấn đề xác định lại tỷ giá hối đoái là không thể tránh khỏi, song các Nhà nước không thừa nhận điều đó, họ phá giá tiền tệ lúc nào, mức độ ra sao là phụ thuộc vào mục đích kinh tế và chính trị của họ. Phá giá tiền tệ đã trở thành một chính sách kinh tế, tài chính của nhà nước để tác động đến tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế. Phá giá tiền tệ là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ thấp hơn sức mua thực tế của nó. Ví dụ: tháng 12/1971, USD phá giá 7,89%, tức là giá của một bảng Anh tăng từ 2,40 USD lên 2,605 USD hay là sức mua USD giảm từ 0,416 GBP còn 0,383 GBP. Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nước tiến hành phá giá có thể là : - Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, hạn chế nhập khẩu hàng hoá, do đó có tác dụng khôi phục lại sự cân bằng của cán cân ngoại thương nhờ vậy góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. - Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối và hạn chế xuất khẩu vốn ra bên ngoài cũng như chuyển tiền ra ngoài nước, do đó có tác dụng làm tăng khả năng cung ngoại hối, giảm nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. - Khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài, vì vậy quan hệ cung và cầu ngoại hối bớt căng thẳng. - Cướp không một phần giá trị thực tế của những ai nắm đồng tiền phá giá trong tay. Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình của cán cân thương mại. Ví dụ : Do kết quả phá giá của bảng Anh 14,3% tháng 11/1967 nên trong năm 1968 – 1969 sự thiếu hụt của cán cân thương mại của Anh đã giảm đi rõ rệt và trong hai năm 1970 và 1971 cán cân thương mại của Anh đã dư thừa 12 triệu bảng Anh và 285 triệu bảng Anh. 5 Nâng giá tiền tệ Là việc nâng sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ, cao hơn sức mua thực tế của nó. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  23. Ví dụ : Tháng 10/1969, Mác Đức (DEM) nâng giá 9,29%, tức là ở Đức tỷ giá hối đoái 1 USD = 4 DEM đã giảm còn 1 USD = 3,66 DEM, tức là đô la giảm giá, ngược lại giá của DEM đã tăng từ 1 DEM = 0,25 USD lên 1 DEM = 0,27 USD. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ. Nâng giá tiền tệ trong những điều kiện hiện nay thường xảy ra dưới áp lực của nước khác mà các nước này mong muốn tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình vào nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa. Đức là một nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa đối với Mỹ, Anh và Pháp, để hạn chế xuất khẩu hàng hoá của Đức vào nước mình, Mỹ, Anh và Pháp thúc ép Đức phải nâng giá Mác Đức. Sau khi nâng hàm lượng vàng của Mác Đức lên 5% vào năm 1961, chính phủ Đức đã phải nhiều lần nâng giá đồng tiền của mình dưới áp lực của các nước bạn như Mỹ, Anh, Pháp và Ý. Tình hình đối với đồng yên Nhật Bản cũng tương tự như vậy và thêm tệ hơn. Hiện nay Yên Nhật đã lên giá quá cao USD/JPY = 102 năm 1966, so với 360 năm 1971. Ngoài ra, không loại trừ khả năng để tránh phải tiếp nhận các đồng đô la mất giá đang “chạy trốn” khỏi Mỹ và Anh, Chính phủ Đức và Nhật coi biện pháp nâng giá đồng tiền của mình như là một biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa đô la mất giá chạy vào nước mình và giữ vững lưu thông tiền tệ và tín dụng, duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” như Nhật Bản, muốn làm “lạnh” nền kinh tế để tránh khủng hoảng cơ cấu thì sẽ dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để giảm xuất khẩu hàng hoá, giảm đầu tư vào trong nước. Việc nâng giá đồng Yên của Nhật Bản cũng tạo đIều kiện để Nhật Bản chuyển vốn đầu tư ra bên ngoài nhằm xây dựng một nước Nhật “kinh tế” trong lòng các nước khác, nhờ vào đó mà Nhật giữ vững thị trường bên ngoài, một vấn đề sống còn đối với Nhật Bản. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  24. CHƯƠNG 3: THANH TOÁN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Mục tiêu của chương: Sau khi học xong chương này người học có kiến thức cơ bản về những nội dung như sau: + Thanh toán tiền mặt. + Thanh toán không dùng tiền mặt, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. 3.1 Thanh toán tiền mặt trong nền kinh tế thị trường 3.1.1. Khái niệm Thanh toán Tiền mặt là phương tiện thanh toán thông dụng, nhanh chóng và được sử dụng phổ biến để thanh toán. Tiền mặt được chia thành hai loại : Nội tệ và ngoại tệ. * Nội tệ Nội tệ là tiền tệ của một quốc gia lưu hành trong phạm vi quốc gia đó. Đối với Việt Nam nội tệ là VND. Đối với Mỹ nội tệ là USD. * Ngoại tệ Ngoại tệ là tiền tệ của một quốc gia khác sử dụng tại quốc gia này. Đối với Việt Nam tất cả những tiền của các quốc gia khác đều được gọi là ngoại tệ. Các giao dịch trong khách sạn thường sử dụng các ngoại tệ mạnh như: Đô la Mỹ (USD), France Pháp (FRF), bảng Anh (GBP), Các ngoại tệ được sử dụng để giao dịch trong khách sạn tuỳ theo quy định của từng khách sạn. 3.1.2 Bản chất của thanh toán tiền mặt trong nền kinh tế thị trường: Tiền mặt vận động trong lưu thông vừa thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. 3.1.3 Ưu và nhược điểm của thanh toán tiền mặt: * Ưu điểm: - Thuận tiện cho giao dịch hàng ngày. - Phù hợp với giao dịch nhỏ, phạm vi hẹp. * Nhược điểm: - Chi phí lưu thông cao (như chi phí in tiền, chi phí chung chuyển, - Gây khó khăn cho việc kiểm soát hoạt động của các tác nhân trong nền kinh tế của Ngân hàng nhà nước (biểu hiện rõ nhất là ở nạn tham nhũng, lạm phát và nạn rửa tiền). - Kém an toàn trong việc giữ tiền, dễ mất cắp. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  25. - Khó thực hiện giao dịch với quy mô lớn, khoảng cách xa - Chịu tác động của sự biến động tỷ giá hối đoái. - Không tạo điều kiện cho ngân hàng có nhiều khoản vốn. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  26. 3.2 Thanh toán không dùng tiền mặt 3.2.1 Khái niệm Thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức chi trả thực hiện bằng cách trích một số tiền từ tài khoản người chi chuyển sang tài khoản người thụ hưởng. Các tài khoản này đều được mở tại Ngân hàng. Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng, Ngân hàng chỉ thực hiện thanh toán khi có lệnh của chủ tài khoản bao gồm các tổ chức kinh tế, đơn vị và cá nhân mở tài khoản tại Ngân hàng. Thông thường tham gia thanh toán không dùng tiền mặt gồm có 4 bên: - Bên mua hay nhận dịch vụ cung ứng. - Ngân hàng phục vụ bên mua, tức là Ngân hàng nơi đơn vị mua mở tài khoản giao dịch. - Bên bán tức là bên cung ứng hàng hóa hay dịch vụ. - Ngân hàng phục vụ bên bán là Ngân hàng nơi đơn vị bán mở tài khoản giao dịch trong quan hệ thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ tài chính cho cả bên mua và bên bán với mức phí dịch vụ thích hợp. 3.2.2 Bản chất của thanh toán không dùng tiền mặt Lịch sử ra đời, sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, cũng đồng thời gắn liền với sự ra đời và phát triển của tiền tệ. Từ cổ xưa đến cách đây vài trăm năm, các kim loại quý như vàng, bạc được coi như một phương tiện trao đổi trong xã hội trừ xã hội sơ khai nhất. Sự phát triển tiếp theo của hệ thống thanh toán là đồng tiền giấy, đồng tiền giấy có lợi hơn hẳn so với đồng tiền kim loại ở chỗ nó nhẹ hơn rất nhiều, việc cầm theo nó cũng dễ dàng hơn, nhưng vấn đề đặt ra khi công nghệ in ấn tiền phát triển tiên tiến thì tệ nạn in tiền giả cũng phát triền theo, chi phí in tiền, vận chuyển và bảo quản tiền rất tốn kém. Mặt khác, cả hai loại tiền này nổi lên một số yếu điểm đó là dễ bị lấy cắp, tốn thời gian vận chuyển, chi phí bảo quản in ấn cao.Để khắc phục khó khăn này, một bước tiến mới của hệ thống thanh toán đã xuất hiện với hoạt động Ngân hàng hiện đại- thanh toán chuyển khoản qua Ngân hàng. Để thực hiện quá trình này phải có ít nhất ba chủ thể tham gia, đó là bên mua, bên bán và Ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính với chức năng là trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Các Ngân hàng Thương mại hoàn toàn có khả năng tổ chức các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thích hợp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, góp phần lớn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, ổn định giá cả, đẩy lùi lạm phát, đẩy nhanh lưu thông hàng hóa, tăng thu nhập quốc dân. Vì có tính ưu việt như trên nên công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được khách hàng ưa chuộng, không ngừng phát triền và không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  27. hiện nay. Do đó thanh toán không dùng tiền mặt ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử loài người. Tóm lại, thanh toán không dùng tiền mặt là một nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng, đây chính là cách thức mang lại hiệu quả cao nhất cho cả hai bên: đơn vị mở tài khoản và Ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa.Việc thay thế thanh toán tiền mặt bằng thanh toán không dùng tiền mặt đã thực sự thu hút dòng tiền mặt chảy vào Ngân hàng, ngân hàng sẽ tăng nguồn thu và nguồn vốn tín dụng đồng thời qua đó Ngân hàng có thể kỉêm soát và điều hành chặt chẽ thông qua công tác thanh tóan. Còn khách hàng đơn vị mở tài khoản tại Ngân hàng đảm bảo được chi trả đúng thời hạn, tiết kiệm thời gian, an toàn nhất. 3.2.3 Các nguyên tắc trong thanh toán không dùng tiền mặt Để công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng có thể thực hịên nhanh chóng, chính xác thì các bên mua, bên bán và Ngân hàng phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất: Khách hàng có quyền lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán tại một Ngân hàng có cung cấp dịch vụ thanh toán. Thứ hai: Việc mở tài khoản tại Ngân hàng, Kho bạc nhà nước và thực hiện thanh toán qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp mở và thanh toán bằng ngoại tệ phải được thực hiện theo cơ chế quản lý ngoại hối của Chính phủ Việt Nam ban hành. Thứ ba : Để đảm bảo thanh toán đầy đủ kịp thời các chủ tài khoản (bên trả tiền) phải có đủ tiền trên tài khoản. Thứ tư: Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước phải có trách nhiệm. -Thực hiện các ủy nhiệm thanh toán của khách hàng phải chính xác, an toàn, nhanh chóng và thuận tiện, chi trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của khách hàng. - Nếu có thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước phải bồi thường thiệt hại và tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật. Thứ năm: Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản khách hàng cho cơ quan ngoài Ngân hàng và Kho bạc nhà nước khi có văn bản của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Thứ sáu: Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  28. thu phí theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 3.2.4 Ý nghĩa của thanh toán không dùng tiền mặt: * Đối với Ngân hàng: Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần tăng nhanh nguồn vốn của Ngân hàng, mở rộng nghiệp vụ kinh doanh. Khi các doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng sẽ mang lại cho Ngân hàng nguồn vốn tương đối lớn để cho vay, đầu tư phát triển kinh tế. Nó thúc đẩy ngiệp vụ tín dụng của Ngân hàng phát triển, giúp Ngân hàng hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng, qua đó nắm được đặc điểm tình hình kinh doanh của khách hàng. Khi khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng và ký thác vốn của mình vào đó sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng kiểm soát được một phần lượng tiền trong nền kinh tế, cũng như khả năng tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.Trên cơ sở đó ngân hàng tiến hành cung ứng một lượng tiền thích hợp cho nền kinh tế. * Đối với chủ thể giao dịch: Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ chu chuyển vốn và quá trình tái sản xuất trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn giúp việc thanh toán đảm bảo sự an toàn về vốn cũng như tài sản của cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp tránh được những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra trong quá trình thanh toán. *Xét trên góc độ quản lý vĩ mô của Nhà nước Đối với nền kinh tế việc tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần tiết kiệm chi phí. Đồng thời giúp Ngân hàng trung ương có khả năng điều tiết cung ứng tiền tệ cho phù hợp với nhu cầu thông qua việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các Ngân hàng, đảm bảo ổn định sức mua của đồng tiền. Có thể thấy, trong xu thế mở cửa của nước ta hiện nay thanh toán không dùng tiền mặt có những vai trò trực tiếp cũng như gián tiếp ảnh hưởng tới 3 thành phần quan trọng của nền kinh tế đó là : Doanh nghiệp, Ngân hàng và Nhà nước . Thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ giúp các thành phần này đạt hiệu quả cao trong hoạt động của mình, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển. 3.3 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt 3.3.1 Hối phiếu Hối phiếu là phương tiện đươc sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. Hối phiếu là một bộ phận cấu thành quan trọng trong bộ chứng từ thanh toán, khi sử dụng phương thức thanh toán quốc tế như phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  29. Khi sử dụng hối phiếu, người sử dụng phải tuân theo các đạo luật chi phối nó. Các nguồn luật chi phối hối phiếu bao gồm : - Luật thống nhất về hối phiếu 1930 (Uniform law for bills of exchange - ULB) - Công ước Giơnevơ năm 1930-1931. - Luật hối phiếu của Anh quốc năm 1882 (Bill of Exchange Act of 1882 - BEA) - Luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 (UCC - 1962). 3.3.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hối phiếu * Khái niệm: Hối phiếu là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định, hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác, hoặc trả cho người cầm hối phiếu. Từ khái niệm trên ta thấy, các đối tượng liên quan đến hối phiếu bao gồm: - Người ký phát hối phiếu (Drawer): là người bán hàng hay người xuất khẩu (Exporter). - Người trả tiền hối phiếu (Drawee) : là người mua hàng hoặc người nhập khẩu (Importer), hoặc người thứ 3 do sự chỉ định của người nhập khẩu (thường là một ngân hàng đóng vai trò ngân hàng chấp nhận hoặc ngân hàng mở thư tín dụng). - Người thụ hưởng hối phiếu : trước tiên là người ký phát hối phiếu, sau đó có thể là người nào đó do người ký phát hối phiếu chỉ định. * Đặc điểm của hối phiếu: Hối phiếu có 3 đặc điểm - Tính trừu tượng. - Tính bắt buộc trả tiền. - Tính lưu thông. 3.3.1.2 Một số quy định về việc lập và sử dụng hối phiếu : * Những quy định về việc thành lập hối phiếu: Hối phiếu là một văn bản, xác nhận một trái vụ trả tiền có tính chất thương mại cho nên hối phiếu phải có nội dung và hình thức nhất định phù hợp với luật lệ chi phối nó. + Về mặt hình thức: Hình thức của hối phiếu được quy định như sau: - Hối phiếu phải được lập thành văn bản ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  30. - Hình mẫu hối phiếu ở nước ta thường do ngân hàng nhà nước thống nhất in sẵn và phát hành. Đối với các nước khác hình mẫu hối phiếu thương mại do tư nhân tự định ra và tự phát hành. Hình mẫu của hối phiếu không quyết định giá trị pháp lý của hối phiếu. - Ngôn ngữ tạo lập hối phiếu là ngôn ngữ viết, thống nhất một thứ tiếng nhất định, thường là tiếng Anh. Hối phiếu có thể tự thiết lập hoặc điền vào mẫu in sẵn bằng thứ mực không phai. - Hối phiếu có thể lập thành một hoặc nhiều bản, mỗi bản đều phải đánh số thứ tự và các bản có giá trị pháp lý như nhau. Khi thực hiện thanh toán ngân hàng thường gửi 2 bản hối phiếu liên tiếp đến cho người trả tiền đề phòng sự thất lạc. Hối phiếu chỉ thanh toán một bản đến trước, bản nào đến sau sẽ trở thành vô giá trị. Vì vậy, trên hối phiếu thường ghi câu “Sau khi nhìn thấy bản thứ nhất của hối phiếu này (bản thứ hai có cùng nội dung và ngày tháng không trả tiền) ”ở bản số 1 của hối phiếu. Bản số 2 lại ghi “Sau khi nhìn thấy bản thứ hai của hối phiếu này (bản thứ nhất có cùng nội dung và ngày tháng không trả tiền ) .”. Hối phiếu không có bản phụ. + Về mặt nội dung: Một hối phiếu phải bao gồm những nội dung bắt buộc sau đây : - Tiêu đề của hối phiếu - Địa điểm ký phát hối phiếu - Địa điểm trả tiền của hối phiếu - Ngày tháng năm ký phát hối phiếu - Mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện - Số tiền của hối phiếu - Thời hạn trả tiền của hối phiếu : gồm có hai loại - Người hưởng lợi - Người trả tiền hối phiếu * Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan đến hối phiếu : Ban đầu có 3 bên tham gia liên quan trực tiếp đến hối phiếu là : người ký phát, người trả tiền và người thụ hưởng. Tuy nhiên trong quá trình tham gia thanh toán hối phiếu, nếu là hối phiếu có kỳ hạn, hối phiếu có thể chuyển nhượng cho người khác thì ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  31. số thành viên tham gia và liên quan đến hối phiếu sẽ bao gồm cả người chuyển nhượng và người cầm phiếu. + Người ký phát hối phiếu: Người ký phát hối phiếu trong ngoại thương là người xuất khẩu, người cung ứng các dịnh vụ có liên quan đến xuất khẩu hàng hoá. Người ký phát hối phiếu có trách nhiệm : - Ký phát hối phiếu theo đúng luật. - Khi hối phiếu đã được chuyển nhượng và bị từ chối trả tiền thì người ký phát hối phiếu phải có trách nhiệm hoàn trả tiền cho người thụ hưởng của tờ hối phiếu đó. Quyền lợi của người ký phát hối phiếu : - Quyền được hưởng số tiền ghi trên hối phiếu. - Quyền chuyển nhượng quyền hưởng lợi đó cho người khác. + Người trả tiền hối phiếu : Trong hoạt động ngoại thương người trả tiền hối phiếu là người nhập khẩu (nếu hối phiếu được sử dụng trong phương thức nhờ thu), hoặc là ngân hàng mở thư tín dụng (L/C) hay ngân hàng xác nhận thư tín dụng (nếu hối phiếu được sử dụng trong phương thức tín dụng chứng từ) Người trả tiền hối phiếu có trách nhiệm : - Trả tiền hối phiếu theo những qui định đã ghi trên hối phiếu. - Nếu là hối phiếu có kỳ hạn, người trả tiền hối phiếu phải ký chấp nhận trả tiền hối phiếu khi nhìn thấy hối phiếu. Việc chấp nhận này là vô điều kiện, phù hợp với luật ULB. Quyền lợi của người trả tiền hối phiếu : Người trả tiền có quyền từ chối trả tiền hối phiếu khi chưa ký chấp nhận. Việc từ chối trả tiền phải phù hợp với luật ULB. + Người thụ hưởng hối phiếu : Người thụ hưởng hối phiếu là người có quyền nhận được số tiền của hối phiếu. Người thụ hưởng có thể là người ký phát hối phiếu hoặc có thể là một người khác do người ký phát hối phiếu chỉ định, hoặc do người thụ hưởng chuyển nhượng quyền hưởng lợi hối phiếu của mình cho một người đó bằng thủ tục ký hậu hối phiếu. + Người chuyển nhượng hối phiếu : ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  32. Người chuyển nhượng hối phiếu là người đem quyền hưởng lợi hối phiếu của mình chuyển cho người khác bằng thủ tục ký hậu hối phiếu. Như vậy người chuyển nhượng đầu tiên là người ký phát hối phiếu. + Người cầm phiếu : Người cầm phiếu là người có quyền nhận số tiền trên hối phiếu khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Người cầm phiếu có thể là : - Người ký phát hối phiếu, nếu người này không chuyển nhượng hối phiếu cho người khác. - Đối với hối phiếu đã được chuyển nhượng, người cầm phiếu là người thụ hưởng cuối cùng của hối phiếu. Cần lưu ý 2 trường hợp: - Nếu hối phiếu không ghi tên người thụ hưởng ở mặt trước của tờ hối phiếu (tức là hối phiếu vô danh) thì bất kỳ người nào cầm hối phiếu cũng trở thành người thụ hưởng. - Nếu hối phiếu được chuyển nhượng ở mặt sau bằng hình thức ký hậu để trống thì bất kỳ người nào cầm hối phiếu cũng đều trở thành người thụ hưởng. 3.3.1.3 Các nghiệp vụ liên quan đến việc sử dụng hối phiếu : * Chấp nhận hối phiếu : Hối phiếu sau khi ký phát phải được xuất trình cho người trả tiền để người này ký chấp nhận trả tiền (đây là hành vi cam kết trả tiền của người có nghĩa vụ trả tiền khi hối phiếu đến hạn thanh toán ), đặc biệt là đối với hối phiếu có kỳ hạn. Một hối phiếu đã được ký chấp nhận trả tiền mới có sự tin cậy trong thanh toán. Thông thường hối phiếu được gửi tới tay người trả tiền, để người này ký chấp nhận trước ngày hết hạn xuất trình hối phiếu. Thời hạn chấp nhận có thể được giải thích trong 2 trường hợp : - Trường hợp 1: Nếu hai bên không có thoả thuận gì khác thì theo luật ULB quy định thời hạn chấp nhận là 12 tháng kể từ ngày ký phát hối phiếu. - Trường hợp 2: Nếu hai bên quy định rõ với nhau trong hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc trong thư tín dụng thời hạn cụ thể phải xuất trình hối phiếu để chấp nhận, thì hối phiếu phải được xuất trình trong thời hạn đó. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  33. Ví dụ : thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là 30 ngày kể từ ngày giao hàng, thì thời hạn chấp nhận hối phiếu chỉ trong vòng 30 ngày đó. Nếu quá 30 ngày tức là hết hiệu lực của thư tín dụng, ngân hàng mở L/C sẽ từ chối thanh toán tờ hối phiếu gửi đến (nếu là hối phiếu trả tiền ngay) hoặc từ chối chấp nhận hối phiếu (nếu là hối phiếu kỳ hạn). * Ký hậu hối phiếu (Endorsement) : Ký hậu là hành vi pháp lý dùng để chuyển nhượng hối phiếu. Khi người hưởng lợi muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác thì phải ký vào vị trí quy định ở mặt sau của tờ hối phiếu rồi chuyển cho người đó. Có 4 hình thức ký hậu khác nhau : - Ký hậu để trắng (Blank endorsement): là hình thức ký hậu không chỉ định người thụ hưởng kế tiếp là ai. Người ký hậu chỉ ký tên vào mặt sau của tờ hối phiếu. Với loại ký hậu này, người nào cầm hối phiếu sẽ trở thành người thụ hưởng hối phiếu và việc chuyển nhượng kế tiếp hối phiếu này chỉ cần trao tay là đủ (nếu người ký hậu không muốn thay đổi hình thức ký hậu) - Ký hậu theo lệnh (Oder endorsement): là hình thức ký hậu chỉ định một cách suy đoán ra người hưởng lợi hối phiếu do thủ tục ký hậu đem lại. Người ký hậu chỉ cần ghi câu : “trả theo lệnh ông X” và ký tên. Như vậy người thụ hưởng hối phiếu trong trường hợp này chưa quy định rõ ràng, cần suy đoán theo ý định của ông X, nếu ông X ra lệnh trả tiền cho một người khác thì người đó sẽ là người thụ hưởng hối phiếu. Nếu ông X im lặng thì người thụ hưởng hối phiếu đương nhiên là ông X. Với cách ký hậu này, hối phiếu sẽ được chuyển nhượng kế tiếp nhau đến khi nào người thụ hưởng cuối cùng không ký hậu chuyển nhượng nữa, và đến hạn hối phiếu sẽ được thanh toán. Vì vậy ký hậu theo lệnh là loại ký hậu rất thông dụng trong thanh toán quốc tế. - Ký hậu hạn chế (Restrictive endorsement): là hình thức ký hậu chỉ định rõ người được thụ hưởng hối phiếu kế tiếp và chỉ người đó mà thôi. Người ký hậu ghi câu : “chỉ trả cho ông X” và ký tên. Đối với loại ký hậu này, chỉ có ông X mới nhận được tiền của hối phiếu, do đó ông X không thể chuyển nhượng tiếp hối phiếu này cho người khác bằng thủ tục ký hậu được nữa. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  34. - Ký hậu miễn truy đòi (Without recouse endorsement): là hình thức ký hậu mà sau đó người thụ hưởng kế tiếp không được đòi lại tiền của người ký hậu chuyển nhượng cho mình khi người thụ lệnh (người tra tiền) từ chối thanh toán tiền hối phiếu. Hình thức ký hậu này người ký hậu ghi thêm câu : “Miễn truy đòi người ký hậu" cùng với một trong 3 loại ký hậu trên. Ví dụ : “Trả theo lệnh của ông X, miễn truy đòi” . Như vậy khi bị từ chối trả tiền thì ông X không được đòi tiền người ký hậu trực tiếp cho mình. Nếu hối phiếu có nhiều người ký hậu theo lệnh đều ghi chữ “miễn truy đòi” vào chỗ ký hậu của mình, còn có một người không ghi chữ “miễn truy đòi” thì đương nhiên người này không được hưởng quyền miễn truy đòi đó. Khi hối phiếu bị từ chối thanh toán, họ phải có trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng kế tiếp. Ký hậu miễn truy đòi là một hình thức được sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế. * Ý nghĩa pháp lý của thủ tục ký hậu: - Thừa nhận sự chuyển nhượng quyền hưởng lợi hối phiếu cho người khác - Việc ký hậu mang tính chất trừu tượng và vô điều kiện, có nghĩa là người ký hậu không cần phải nêu lý do cũng như điều kiện của việc chuyển nhượng và cũng không cần phải thông báo cho người trả tiền biết về việc chuyển nhượng đó. - Xác định trách nhiệm của người ký hậu về việc trả tiền hối phiếu đối với người hưởng lợi kế tiếp. Điều đó có nghĩa là người ký hậu chuyển nhượng cam kết rằng nếu người thụ lệnh không trả được tiền thì họ sẽ là người chịu trách nhiệm trả tiền cho người được chuyển nhượng kế tiếp trên hối phiếu. * Bảo lãnh hối phiếu (Aval of B/E) : Bảo lãnh hối phiếu là sự cam kết của người thứ 3 sẽ trả tiền cho người hưởng lợi khi đến hạn trả tiền. Hình thức thể hiện của sự bảo lãnh trên hối phiếu được ghi bằng chữ “Bảo lãnh” và người bảo lãnh ký tên. Thông thường thì ngân hàng đứng ra bảo lãnh hối phiếu theo yêu cầu của người trả tiền. Khi bảo lãnh ngân hàng sẽ thu phí bảo lãnh và tiền hành thực hiện cam kết bảo lãnh với hai hình thức : - Bảo lãnh ngay trên hối phiếu, thể hiện bằng chữ "Bảo lãnh" (as aval, Guarantee) và ký tên trên tờ hối phiếu. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  35. - Bảo lãnh bằng một văn bản riêng thường gọi là bảo lãnh mật. Sở dĩ có hình thức bảo lãnh này là do người trả tiền không muốn cho người khác biết tình hình tài chính của mình đến mức cần phải bảo lãnh, nếu sự bảo lãnh ghi ngay trên hối phiếu. Chỉ có một số người cần thiết có liên quan mới được thông báo có sự bảo lãnh đó và sự bảo lãnh này có lợi ích đối với họ. * Kháng nghị về việc trả tiền hối phiếu : Khi đến hạn trả tiền của hối phiếu mà hối phiếu không được thanh toán, thì người hưởng lợi hiện hành có quyền kháng nghị người trả tiền hối phiếu trước pháp luật. Việc từ chối thanh toán của người trả tiền hối phiếu được xác nhận bằng một văn bản kháng nghị của người thụ hưởng hiện hành. Bản kháng nghị phải được lập ra trong thời hạn 2 ngày làm việc kế tiếp sau ngày hết hạn của hối phiếu. Sau khi lập xong bản kháng nghị, trong vòng 4 ngày làm việc, người bị từ chối trả tiền phải báo cho người chuyển nhượng trực tiếp để đòi tiền hoặc đòi tiền bất cứ người nào đã ký hậu chuyển nhượng hối phiếu hoặc đòi người ký phát hối phiếu. Nếu không có bản kháng nghị về việc bị từ chối trả tiền thì những người chuyển nhượng được miễn trách nhiệm trả tiền hối phiếu, nhưng người ký phát hối phiếu và người chấp nhận trả tiền vẫn phải chịu trách nhiệm đối với người kháng nghị. Ví dụ : A là người ký phát hối phiếu; B, C, D là những người được chuyển nhượng tiếp sau; E là người được chuyển nhượng cuối cùng. Khi E bị từ chối trả tiền, E sẽ chuyển hối phiếu để đòi tiền D kèm theo một bản tính tiền, gồm số tiền của hối phiếu, chi phí làm thủ tục kháng nghị và các chi phí khác. D hoàn trả tiền cho E và truy đòi ngược lại C, và cứ thế cho tới A. 3.3.1.4 Phân loại hối phiếu * Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu người ta chia hối phiếu thành 2 loại : - Hối phiếu trả tiền ngay: Là loại hối phiếu được trả tiền ngay sau khi người trả tiền nhìn thấy hối phiếu. Việc trả tiền này có thể mang ý nghĩa ngay lập tức, hoặc ngay sau khi nhìn thấy hối phiếu 5 đến 7 ngày. Việc trả tiền không chỉ phụ thuộc vào hối phiếu, mà còn phụ thuộc vào bộ chứng từ gửi hàng. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  36. - Hối phiếu có kỳ hạn: Là loại hối phiếu được trả tiền sau một thời gian nhất định ghi trên hối phiếu. * Căn cứ vào chứng từ kèm theo hối phiếu Căn cứ vào chứng từ kèm theo hối phiếu, hối phiếu được phân thành 2 loại: - Hối phiếu trơn (hối phiếu không kèm chứng từ ): là loại hối phiếu mà việc thanh toán tiền trên hối phiếu không có kèm theo điều kiện về việc phải trao bộ chứng từ gửi hàng. Thanh toán bằng loại hối phiếu này không đảm bảo được quyền lợi của người xuất khẩu cũng như người nhập khẩu, chỉ thường được dùng để thu tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, hoa hồng - Hối phiếu kèm chứng từ : là loại hối phiếu mà việc thanh toán hoăc chấp nhận trả tiền hối phiếu đòi hỏi kèm theo điều kiện về việc trao bộ chứng từ thương mại cho người trả tiền hối phiếu. Nếu người trả tiền đã trả tiền, hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ cho người nhập khẩu để người nhập khẩu nhận hàng. Vì vậy loại hối phiếu này đảm bảo quyền lợi của người xuất khẩu hơn. Vì lẽ đó, trong thanh toán quốc tế, hối phiếu kèm chứng từ được áp dụng phổ biến. Hối phiếu kèm chứng từ có hai loại : + Hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay. + Hối phiếu kèm chứng từ chấp nhận. * Căn cứ vào khả năng chuyển nhượng của hối phiếu Căn cứ vào khả năng chuyển nhượng của hối phiếu, hối phiếu có thể chia làm 3 loại : - Hối phiếu đích danh: là loại hối phiếu ghi cụ thể tên người được thụ hưởng. Loại hối phiếu này không chuyển nhượng được. - Hối phiếu vô danh: là loại hối phiếu không ghi tên người được thụ hưởng, thường ghi “trả cho người cầm phiếu”. Đối với loại hối phiếu này, ai nắm trong tay hối phiếu người đó được quyền hưởng lợi từ hối phiếu, nó có thể chuyển nhượng dễ dàng bằng cách trao tay. - Hối phiếu theo lệnh: là loại hối phiếu không ghi đích danh tên người hưởng lợi, mà chỉ ghi “trả tiền theo lệnh của ”. Loại hối phiếu này có thể chuyển nhượng, nhưng ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  37. phải thông qua thủ tục ký hậu theo luật định. Đây là loại hối phiếu được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. * Căn cứ vào người ký phát hối phiếu: Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, hối phiếu được chia ra làm 2 loại : - Hối phiếu thương mại: là loại hối phiếu do người bán ký phát đòi tiền người mua, việc lập hối phiếu không có sự tham gia của ngân hàng. - Hối phiếu ngân hàng: là loại hối phiếu do ngân hàng ký phát đòi tiền một người nào đó, hoặc ra lệnh cho ngân hàng đại lý của mình trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi ghi trên hối phiếu. 2 Thanh toán bằng séc 3.3.2.1 Khái niệm Séc là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện của người chủ tài khoản (khách hàng của ngân hàng), ký phát ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người được chỉ thị có tên ghi trên séc, hoặc người cầm séc. * Thành phần tham gia thanh toán séc Những người có liên quan đến việc thanh toán bằng séc bao gồm : - Người ký (phát hành) séc : là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. - Người thụ lệnh : là ngân hàng phục vụ người phát hành séc. - Người thụ hưởng : là người được hưởng số tiền ghi trên tờ séc. * Điều kiện sử dụng séc Với khái niệm như trên có thể thấy để sử dụng được phương tiện thanh toán này cần đảm bảo được các điều kiện sau : - Người sử dụng séc phải là khách hàng của ngân hàng, có tiền trên tài khoản mở tại ngân hàng. - Số tiền trên tờ séc chỉ được phép trong số dư tài khoản. Tuy nhiên theo luật ULC 1931, người ký phát séc có thể ký phát hành tờ séc tại thời điểm không đủ số dư như số tiền ghi trên tờ séc, song đến thời điểm thanh toán séc trên tài khoản phải đủ tiền. Trường hợp không đủ, tờ séc đã phát hành vẫn có giá trị , nhưng người ký séc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (kỷ luật sử dụng séc) ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  38. - Séc là ấn phẩm của ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng, bởi vậy để thuận lợi trong ký phát và thanh toán, séc được in theo mẫu, người ký phát phải ghi đầy đủ chính xác các nội dung trên séc. 3.3.2.2 Nội dung và quy định khi sử dụng séc * Nội dung: Theo công ước Giơnevơ 1931, nội dung của tờ séc bao gồm các yếu tố sau đây: - Tiêu đề của séc : “SEC”. Nếu không có tiêu đề này ngân hàng sẽ từ chối việc thực hiện lệnh của người ký phát. - Địa điểm, ngày tháng năm ký phát séc. Yếu tố này liên quan trực tiếp đến thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực của séc, đồng thời còn liên quan đến số dư trên tài khoản của người ký phát séc tại thời điểm đó. - Số tiền ghi trên séc : Phải ghi đầy đủ, rõ ràng cụ thể, ghi cả bằng số và bằng chữ, có đơn vị tiền tệ cụ thể. Số tiền ghi bằng số và bằng chữ phải khớp nhau. - Tên địa chỉ người trả tiền. - Tài khoản được trích trả, ngân hàng trả tiền. - Tên, địa chỉ của người được hưởng số tiền ghi trên séc (nếu có). - Chữ ký, dấu (nếu có) của người ký phát séc. Chữ ký phải đúng với chữ ký mẫu đã đăng ký tại ngân hàng. Tất cả các yếu tố trên đây của tờ séc phải được ghi rõ ràng chính xác tuyệt đối, không tẩy xoá, phải được ghi cùng một loại chữ, một thứ mực, không được ghi bằng bút chì và mực đỏ. * Một số quy định khi sử dụng séc : Séc ra đời từ chức năng làm phương tiện thanh toán, được sử dụng rộng rãi trong những nước có hệ thống ngân hàng phát triển cao. Séc có giá trị thay thế tiền mặt trong lưu thông, nên séc cũng có khả năng chuyển nhượng cho nhiều người liên tiếp trong phạm vi thời hạn xuất trình của séc bằng phương thức ký hậu (tương tự như nguyên tắc ký hậu của hối phiếu) - Thời hạn xuất trình và hiệu lực của séc : + Thời hạn xuất trình : là hạn thời gian mà người thụ hưởng phải chuyển giao tờ séc cho ngân hàng thụ lệnh để nhận tiền. Trong thời hạn này, người ký séc phải duy trì số dư tài khoản tiền của mình tại ngân hàng thụ lệnh để đảm bảo số tiền đã ký phát séc cho người thụ hưởng. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  39. Theo luật ULC thời hạn xuất trình séc được tính từ ngày ký séc đến ngày người thụ hưởng xuất trình cho ngân hàng thụ lệnh, cụ thể quy định như sau : - Đối với séc lưu thông trong phạm vị một quốc gia : 8 ngày làm việc. - Đối với séc lưu thông giữa các nước cùng châu lục : 20 ngày làm việc. - Đối với séc lưu thông giữa các nước khác châu lục : 70 ngày làm việc. - Séc du lịch có giá trị vô thời hạn. + Thời hạn hiệu lực của séc đối với ngân hàng : là hạn thời gian mà trong đó ngân hàng thụ lệnh thực hiện việc chi trả cho người thụ hưởng, thường là 12 tháng kể từ ngày hết hạn xuất trình. Sau khi hết thời hạn hiệu lực của tờ séc, ngân hàng thụ lệnh không có nghĩa vụ thực hiện chi trả. Tuy nhiên, người ký phát vẫn còn nguyên nghĩa vụ thanh toán trên tờ séc cho người thụ hưởng, vì tờ séc vẫn còn hiệu lực pháp lý của một hợp đồng dân sự. 3.3.2.3 Sơ đồ lưu thông séc * Sơ đồ 3.1: Lưu thông séc qua một ngân hàng NGÂN HÀNG (4 (3 (4) (1) NGƯỜI BÁN NGƯỜI MUA (2) Chú thích: (1) Người bán giao hàng cho người mua (2) Người mua ký phát hành séc thanh toán cho người bán (3) Người bán nộp séc vào ngân hàng để thanh toán (4) Ngân hàng thu tiền của người mua và trả tiền cho người bán. * Sơ đồ 3.2: Lưu thông séc qua hai ngân hàng (5 NGƯỜI MUA ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  40. (5NGNGÂNƯỜI HÀNG BÁN(3 (2)(1)(4 NGÂN HÀNG(5) BÊN BÁN BÊN MUA C h ú thích (1) Người bán giao hàng cho người mua (2) Người mua ký phát hành séc thanh toán cho người bán (3) Người bán nộp séc vào ngân hàng phục vụ bên bán (4) Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển séc cho ngân hàng phục vụ bên mua (5) Ngân hàng phục vụ bên mua thu tiền của người mua và chuyển tiền cho ngân hàng phục vụ bên bán để ngân hàng phục vụ bên trả tiền cho người bán. 3.3.2.4 Phân loại séc * Căn cứ vào khả năng chuyển nhượng của séc - Séc đích danh : là loại séc ghi cụ thể tên người thụ hưởng, do đó chỉ người này mới được lĩnh tiền ở ngân hàng. Loại séc này không thể chuyển nhượng. - Séc vô danh : là loại séc không ghi tên người thụ hưởng, chỉ ghi câu “trả cho người cầm séc”. Đối với loại séc này bất cứ ai cầm séc cũng có thể lĩnh tiền của tờ séc ở ngân hàng. Loại séc này có thể chuyển nhượng bằng hình thức trao tay, không cần thông qua thủ tục ký hậu. - Séc theo lệnh : là loại séc không ghi đích danh tên người thụ hưởng, chỉ ghi “Trả theo lệnh của ông X”. Loại séc này có thể chuyển nhượng bằng thủ tục ký hậu giống như ký hậu hối phiếu. * Căn cứ vào hình thức của séc - Séc gạch chéo : là loại séc trên mặt trước của nó có 2 gạch chéo song song. Loại séc này thường dùng thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng, không dùng để rút tiền mặt. Séc gạch chéo có 2 loại : + Séc gạch chéo thông thường : là loại séc mà giữa 2 gạch chéo song song không ghi tên ngân hàng lĩnh hộ tiền. Đối với loại séc này ngân hàng nào cũng có thể lĩnh hộ tiền cho người thụ hưởng. + Séc gạch chéo đặc biệt : là loại séc mà giữa 2 đường gạch chéo song song, có ghi tên của ngân hàng lĩnh hộ tiền của người thụ hưởng, với cách ghi như vậy chỉ có ngân hàng đó mới có quyền lĩnh hộ tiền cho người thụ hưởng mà thôi. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  41. Séc gạch chéo không tên có thể chuyển thành séc gạch chéo có tên. Trái lại, séc gạch chéo có tên không thể chuyển thành séc gạch chéo không tên bằng cách xoá tên đi. - Séc không có gạch chéo : là loại séc mà ở mặt trước của nó không có hai gạch chéo song song. Loại séc này được dùng để thanh toán bằng tiền mặt. * Căn cứ vào công dụng của séc : - Séc chuyển khoản : là loại séc được sử dụng để thanh toán bằng chuyển khoản cho người thụ hưởng. Có nghĩa là người ký phát séc ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định trên tài khoản của mình chuyển trả sang một tài khoản của người khác trong cùng ngân hàng hoặc khác ngân hàng. Séc chuyển khoản không thể rút tiền mặt và cũng không thể chuyển nhượng. - Séc rút tiền mặt: là loại séc do chủ tài khoản tiền gửi phát hành để rút tiền mặt tại ngân hàng. - Séc thanh toán bằng tiền mặt : là loại séc được sử dụng để thanh toán bằng tiền mặt cho người thụ hưởng. - Séc du lịch (còn gọi là séc lữ hành) : là loại séc do ngân hàng phát hành, đây là lệnh của ngân hàng yêu cầu bất cứ chi nhánh, hay đại lý nào của ngân hàng trả tiền cho người cầm séc. Người thụ hưởng là khách du lịch có tiền gửi tại ngân hàng phát hành phát hành séc. Trên tờ séc du lịch đã in sẵn mệnh giá và có chữ ký thứ nhất của người thụ hưởng, khi lĩnh tiền tại ngân hàng, người thụ hưởng phải ký chữ ký thứ hai bên cạnh chữ ký thứ nhất tại chỗ để ngân hàng kiểm tra đối chiếu với chữ ký thứ nhất trên tờ séc du lịch khi người thụ hưởng mua tờ séc này, nếu khớp đúng ngân hàng mới trả tiền. Thời hạn hiệu lực của séc du lịch là vô thời hạn. * Căn cứ vào khả năng thanh toán của séc - Séc xác nhận : là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của tờ séc bằng xác nhận của ngân hàng trước khi người ký phát giao cho người thụ hưởng. Mục đích của việc xác nhận này là nhằm đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc, chống phát hành séc quá số dư và phát hành séc khống, ngân hàng sẽ xác nhận trên tờ séc với công thức như : “Xác nhận số tiền .trả đến ngày tại ngân hàng .” Ký tên. Bắt đầu từ lúc xác nhận séc, ngân hàng sẽ lưu ký tiền gửi trên tài khoản của khách hàng số tiền ghi trên séc sang tài khoản séc xác nhận trong suốt thời hạn của tờ séc. Như vậy việc thanh toán séc xác nhận hoàn toàn không phụ thuộc vào khả năng tài chính của người phát hành séc tại thời điểm thanh toán. - Séc không được xác nhận (séc thông thường) : là loại séc mà việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tài chính của người phát hành séc tại thời điểm thanh toán. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  42. 3.3.3Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi (UNC) 3.3.3.1 Khái niệm Ủy nhiệm chi là lệnh viết của chủ tài khoản yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng sau khi mua hàng hóa , dịch vụ , nộp thuế Ủy nhiệm chi được áp dụng để thanh toán cho người thụ hưởng ở cùng Ngân hàng, khác Ngân hàng, khác tỉnh, khác hệ thống Ngân hàng 3.3.3.2 Quy trình thanh toán: Tại Ngân hàng bên mua: Sau khi nhận được hàng hóa, dịch vụ của đơn vị bán, đơn vị mua phải lập 4 liên Ủy nhiệm chi theo mẫu đúng nội dung quy định, có dấu, chữ ký của chủ tài khoản. Trong trường hợp người mua, người bán mở tài khoản tại hai Ngân hàng thương mại khác nhau thì tùy theo hình thức thanh toán mà Ngân hàng bên mua phải lập thêm các chứng từ sau: Nếu thanh toán bằng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước thì phải lập thêm 2 liên bảng kê . Ủy nhiệm chi kế toán ghi: - Nợ tài khoản tiền gửi đơn vị mua. - Có tài khoản 1113- Tiền gửi tại ngân hàng nhà nước. Gửi tới Ngân hàng Nhà nước bảng kê và liên 3, 4 Ủy nhiệm chi. - Nếu thanh toán bù trừ thì lập thêm 2 liên bảng kê. Dựa vào Ủy nhiệm chi và bảng kê, kế toán ghi: Nợ tài khoản tiền gửi đơn vị mua. Có tài khoản 5012- Thanh toán bù trừ của ngân hàng thành viên. Gửi bảng kê và liên 3,4 tới ngân hàng bên bán. - Nếu thanh toán qua liên hàng thì kế toán ghi: Nợ tài khoản tiền gửi đơn vị mua. Có tài khoản 5211- liên hàng đi năm nay. * Quy trình thanh toán bằng Ủy nhiệm chi: Sơ đồ 3.3 quy trình thanh toán bằng Ủy nhiệm chi ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  43. Đơn vị mua Đơn vị bán (1) (3a) (2) (4) Ngân hàng Ngân hàng bên bán (3b) Chú thích : 1. Đơn vị bán giao hàng. 2. Đơn vị mua nộp Ủy nhiệm chi vào Ngân hàng phục vụ mình. 3a. Ngân hàng bên mua ghi Nợ tài khoản đơn vị mua và báo Nợ bên mua. 3b. Ngân hàng bên mua làm thủ tục thanh toán qua Ngân hàng nhà nước, bù trừ hoặc liên hàng, gửi giấy báo có tới Ngân hàng bên bán. 4. Ngân hàng bên bán ghi có và báo có cho đơn vị bán. - Tại Ngân hàng bên bán: Tùy theo giấy tờ thanh toán nhận được từ Ngân hàng bên mua mà ghi Nợ: + Nếu nhận được bảng kê 11, ghi nợ tài khoản 1113 + Nếu nhận được bảng kê 12, ghi nợ tài khoản 5012 +Nếu nhận được giấy báo liên hàng ghi Nợ tài khoản 5212- liên hàng đến năm nay ghi có tài khoản đơn vị bán. 4 Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu (UNT): 3.3.4.1 Khái niệm: Ủy nhiệm thu là lệnh viết trên mẫu in sẵn, đơn vị bán lập Ủy nhiệm thu nhờ Ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền sau khi đã hoàn thành cung ứng hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho đơn vị mua theo hợp đồng thỏa thuận. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  44. Ủy nhiệm thu chủ yếu sử dụng trong thanh toán giữa các bên mua bán tín nhiệm lẫn nhau, bên mua và bên bán phải thống nhất thỏa thuận dùng hình thức thanh toán Ủy nhiệm thu đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng bên thụ hưởng để có căn cứ thực hiện Ủy nhiệm thu. 3.3.4.2 Quy trình thanh toán Đơn vị bán hàng phải lập 4 liên Ủy nhiệm thu kèm theo hóa đơn giao hàng có vào Ngân hàng phục vụ mình. Trường hợp 2 đơn vị mở tài khoản tại 2 Ngân hàng. * Hạch toán tại Ngân hàng bên mua: Ngân hàng bên mua lập 2 liên bảng kê 11 nếu thanh toán qua 2 Ngân hàng Nhà nước, 2 liên bảng kê số 12 nếu thanh toán bù trừ, lập giấy báo liên hàng nếu thanh toán liên hàng. Đồng thời kế toán ghi: Nợ tài khoản tiền gửi đơn vị mua. Có tài khoản 1113, nếu bảng kê 11. Có tài khoản 5012, nếu bảng kê 12. Có tài khoản 5211, nếu lập giấy báo liên hàng. * Hạch toán tại Ngân hàng bên bán: Khi nhận được Ủy nhiệm thu , ngân hàng bên bán phải tách riêng liên 4 Ủy nhiệm thu để theo dõi, lưu tại Ngân hàng mình, còn các liên 1,2,3 gửi tới Ngân hàng bên mua để ghi Nợ tài khoản đơn vị mua. Khi Ủy nhiệm thu được bên mua thanh toán, tùy theo hình thức thanh toán mà Ngân hàng bên bán nhận được các chứng từ phù hợp để: Ghi Nợ : - Nếu nhận được bảng kê 11, ghi Nợ tài khoản 1113. - Nếu nhận được bảng kê 12, ghi Nợ tài khoản 5012. - Nếu nhận được giấy báo liên hàng ghi Nợ tài khoản 5212 Ghi Có : tài khoản tiền gửi đơn vị bán Hình thức thanh toán Ủy nhiệm thu áp dụng giữa các đơn vị mở tài khoản tại cùng chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh khác nhưng cùng hệ thống Ngân hàng. * Quy trình thanh toán bằng Ủy nhiệm thu : Sơ đồ 3.4 quy trình thanh toán bằng Ủy nhiệm thu Đơn vị chuyển tiền ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  45. (2) (4b) Người đại diện (1) (4a) Ngân hàng Ngân hàng chi trả chuyển tiền chuyển tiền Chú thích: 1. Người bán giao hàng hóa dịch vụ cho người mua 2. Bên bán nộp Ủy nhiệm thu kèm hóa đơn giao hàng có chữ ký nhận hàng 3. Ngân hàng bên bán chuyển Ủy nhiệm thu, bản sao hóa giao hàng cho ngân hàng bên mua. 4a. Ngân hàng bên mua ghi Nợ tài khoản và báo Nợ cho người mua. 4b. Ngân hàng bên mua thanh toán cho Ngân hàng bên bán. 5. Ngân hàng bên bán ghi có và báo có cho người bán 3.3.5 Thanh toán bằng thư tín dụng: 1 Khái niệm Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở L/C) theo yêu cầu của môt khách hàng (người đề nghị mở L/C) sẽ trả một số tiền cho người khác (người thụ hưởng số tiền của L/C), hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người này xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp vời những quy định đề ra trong L/C. Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế được áp dụng phổ biến nhất hiện nay. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  46. Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ thông thường gồm có: - Người đề nghị mở thư tín dụng (The applicant for credit) là người mua, người nhập khẩu hàng hoá. - Ngân hàng mở L/C, còn được gọi là ngân hàng phát hành L/C (The issuing bank hoặc Opening bank) là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Thông thường, đây là ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu, nhưng trong trường hợp bên bán không tin tưởng ngân hàng này thì có thể bất kỳ là một ngân hàng nào đó theo yêu cầu người bán. - Người thụ hưởng thư tín dụng (The Beneficiary) là người bán người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác được chỉ định hưởng lợi. - Ngân hàng thông báo L/C (Advising bank) là ngân hàng chi nhánh hoặc ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành L/C, ngân hàng phục vụ người xuất khẩu ở nước người xuất khẩu. 2 Nội dung quy trình nghiệp vụ * Sơ đồ 3.5 qui trình thanh toán L/C: (5)(6) Ngân hàng mở L/C Ngân hàng thông báo L/C (2) (8) (7) (1) (3) (5) (6) Người nhập khẩu (4) Người xuất khẩu Chú thích: (1)Người nhập khẩu dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương ký với người xuất khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng mở L/C, yêu cầu ngân hàng này mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng. Ở Việt Nam, giấy xin mở L/C được lập thành 2 bản có chữ ký của giám đốc đơn vị, theo mẫu in sẵn của ngân hàng. Khi viết giấy xin mở L/C người nhập khẩu cần ghi rõ những nội dung chủ yếu sau : - Mở L/C loại nào, mở bằng điện hay bằng thư . ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  47. - Họ tên, địa chỉ đầy đủ của người được hưởng L/C (nói rõ cả địa chỉ, điện tín) - Số tiền của L/C - Ghi rõ ký hiệu quốc tế của loại ngoại tệ mở L/C - Trình bày tóm tắt về hàng hoá, tên hàng, số lượng, chất lượng đơn giá . - Yêu cầu về chủng loại chứng từ, số lượng từng loại, tên người ký phát chứng từ mà người xuất khẩu phải cung cấp. - Nơi gửi hàng ( sân bay, nhà ga, bến cảng .) và nơi hàng đến. - Hàng có được phép chuyển tải không. - Hàng có giao từng phần hay không. - Ngày giao hàng cuối cùng. - Thời hạn xuất trình chứng từ để thanh toán. - Ngày và địa điểm hết hạn hiệu lực của L/C Khi đề nghị mở L/C người nhập khẩu thường phải ký quỹ mở L/C. Việc ký quỹ có thể thực hiện bằng ngoại tệ, hoặc VNĐ tương đương theo tỷ giá ngân hàng công bố. Số tiền ký quỹ nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sức mạnh tài chính và uy tín của nhà nhập khẩu với ngân hàng mở L/C Nếu nhà nhập khẩu không có tiền và có yêu cầu thì ngân hàng sẽ có thể cho nhà nhập khẩu vay để mở L/C. Khi được ngân hàng chấp nhận mở L/C thì nhà nhập khẩu phải trả phí mở L/C ( ở nước ta quy định mức phí này bằng 1 % số tiền của L/C). (2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C cho người xuất khẩu và chuyển bản chính cho ngân hàng thông báo L/C ở nước người xuất khẩu. (3) Ngân hàng thông báo L/C nhận L/C bằng văn bản và gửi L/C cho người xuất khẩu. Nếu L/C được mở bằng điện thì ngân hàng phải chuyển nguyên văn bức điện và bản xác nhận của mình cho người xuất khẩu. Ngân hàng thông báo không được dịch, hay diễn giải nội dung của bức điện. Nếu ngân hàng diễn giải sai nội dung thì ngân hàng sẽ phải chịu trách nhiệm. Nếu L/C mở bằng thư thì ngân hàng thông báo phải chuyển bản chính (bản gốc) L/C cho người xuất khẩu. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  48. Ngân hàng thông báo được thu thủ tục phí thông báo (ai là người trả khoản phí này đã được ghi rõ trong L/C) (4) Giao hàng Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu sẽ phải tiến hành kiểm tra những nội dung đã ghi trong L/C, đối chiếu với các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương. Nếu : - Các nội dung trong L/C đã phù hợp với hợp đồng đã ký thì tiến hành giao hàng. - Nếu có nội dung nào cần sửa đổi hoặc bổ sung thì phải điện thông báo cho người nhập khẩu. Nếu người nhập khẩu điện qua trả lời đồng ý (qua ngân hàng mở L/C) thì những nội dung sửa đổi bổ sung mới có hiệu lực thi hành. Và người xuất khẩu thực hiện việc giao hàng theo đúng các điều khoản ghi trong L/C (5) Sau khi hoàn tất việc giao hàng, người xuất khẩu phải hoàn chỉnh ngay bộ các chứng từ hàng hoá và hối phiếu theo yêu cầu của L/C và xuất trình cho ngân hàng mở L/C, thông qua ngân hàng thông báo để xin thanh toán. (6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ thanh toán nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu qua ngân hàng thông báo L/C. Nếu không thấy phù hợp, ngân hàng sẽ từ chối thanh toán hoặc từ chối chấp nhận hối phiếu và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu. Trên thực tế, khi nhận được bộ chứng từ, ngân hàng mở L/C có thể chuyển ngay bộ chứng từ cho người nhập khẩu , nếu người nhập khẩu kiểm tra và thông báo kiểm tra và thông báo chứng từ phù hợp với yêu cầu của L/C thì ngân hàng mở L/C mới trả tiền, nếu không phù hợp sẽ từ chối trả tiền. Cách thanh toán này giúp ngân hàng tránh được những rủi do đáng tiếc có thể xảy ra do việc không cẩn thận trong việc kiểm tra chứng từ để trả tiền của ngân hàng. (7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu để người nhập khẩu làm căn cứ nhận hàng. (8) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì hoàn trả tiền cho ngân hàng, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền cho ngân hàng. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  49. Qua quy trình thanh toán trên cho chúng ta thấy rằng, phương thức tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán rất chặt chẽ về mặt thủ tục. Hơn thế nữa, trong phương thức này, ngân hàng mở L/C không chỉ là một trung gian trong thanh toán mà còn là người có nghĩa vụ trả tiền cho nhà xuất khẩu trong thời hạn hiệu lực của L/C, nếu nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C. Vì vậy đây là phương thức thanh toán đảm bảo chắc chắn quyền lợi cho nhà xuất khẩu. 3 Các loại thư tín dụng Thư tín dụng là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C. Thư tín dụng được hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán, tức là căn cứ vào nội dung và yêu cầu của hợp đồng để người nhập khẩu làm giấy đề nghị mở L/C. Nhưng sau khi L/C đã mở ra rồi thì nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán, có nghĩa khi thanh toán ngân hàng mở L/C chỉ căn cứ vào L/C đã mở mà thôi. Các loại L/C trong thanh toán quốc tế gồm có. - Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C): là loại L/C mà nhà nhập khẩu có thể sửa đổi, hoặc huỷ bỏ tại bất cứ thời điểm nào mà không cần thông báo trước cho người bán. Nhưng muốn sửa đổi, hoặc huỷ bỏ phải tiến hành trước khi nhà xuất khẩu giao hàng và xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng thông báo. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (inrrevocable confirmed L/C): là loại thư tín dụng sau khi đã được mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có sự thoả thuận khác của các bên tham gia L/C. Đây là thư tín dụng được áp dụng rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế, nó là loại L/C cơ bản nhất. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (inrrevocable confirmed L/C): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, đồng thời lại có sự xác nhận trả tiền của một ngân hàng khác theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (inrrevocable without Recourse L/C) ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  50. Là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không còn quyền đòi lại tiền của người xuất khẩu. Khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu (người hưởng lợi của L/C) phải ghi trên hối phiếu câu “không được truy đòi ngư- ời phát phiếu” và trong L/C cũng như vậy. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có thể chuyển nhượng được (inrrevocable Transferable L/C ). Đây là loại thư tín dụng không huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người khác, theo lệnh của người được hưởng lợi đầu tiên. Loại L/C này chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu. - Thư tín dụng thanh toán dần dần (Deferred payment L/C) : Là loại L/C không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C, hay ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người thụ hưởng sẽ thanh toán dần dần số tiền của L/C trong những thời hạn đã quy định rõ trong L/C đó. - Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C) Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng xong, hoặc đã hết hạn hiệu lực thì nó lại có giá trị như cũ, và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị đồng mua bán ngoại thư ơng được thực hiện xong. - Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C) Là một loại thư tín dụng được mở căn cứ vào L/C gốc. Loại L/C này thường được người xuất khẩu sử dụng để thanh toán với người cung cấp hàng hoá cho mình để xuất khẩu. Trong trường hợp này người xuất khẩu trao cho ngân hàng mở L/C giáp lưng bản L/C gốc mà người nhập khẩu đã mở cho mình làm cơ sở để yêu cầu ngân hàng mở cho người cung cấp hàng L/C giáp lưng. L/C giáp lưng thường phát sinh trong trường hợp mua bán hàng hoá thông qua trung gian, hoặc kinh doanh chuyển khẩu. - Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C). Là loại L/C chỉ bắt đầu có giá trị hiệu lực khi L/C đối ứng với nó đã mở ra. L/C đối ứng thường được sử dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  51. - Thư tín dụng dự phòng (Stand - by L/C). Đây là loại L/C mà trong đó ngân hàng mở L/C cam kết với người nhập khẩu sẽ trả lại tiền cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa giao hàng theo L/C đã đề ra - Thư tín dụng thanh toán dần dần (Deferred payment L/C) : Là loại L/C không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C, hay ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người thụ hưởng sẽ thanh toán dần dần số tiền của L/C trong những thời hạn đã quy định rõ trong L/C đó. 3.3.6 Thanh toán bằng thẻ 3.3.6.1 Khái niệm Thẻ thanh toán là phương tiện thanh toán hiện đại, một hình thức tiền điện tử được sử dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền tại các chi nhánh và đại lý thanh toán thẻ. Thẻ thanh toán chủ yếu phục vụ cho mục đích tiêu dùng, nó không thích hợp với việc mua bán hàng hoá có giá trị lớn. Hiện tại, nó được sử dụng khá phổ biến trong thanh toán ở lĩnh vực du lịch - khách sạn, khách du lịch sử dụng thẻ để thanh toán thì không phải dùng tiền mặt do đó vừa gọn nhẹ, an toàn lại vừa đảm bảo thanh toán nhanh chóng, thuận lợi. Trên thế giới hiện có một số loại thẻ thanh toán phổ biến sau : - Visa cards : được phát hành từ năm 1960, đây là loại thẻ có quy mô phát triển lớn nhất hiện nay, một loại thẻ có thể chấp nhận thanh toán ở bất cứ nơi nào. - Master cards : ra đời vào năm 1966 do hiệp hội ICA (Interbank Card American) phát hành thông qua các thành viên trên thế giới, đây cũng là một loại thẻ có quy mô rất phát triển. Có thể nói, hiện nay Master cards là một trong hai tổ chức thẻ lớn cùng với Visa cards cung cấp nhiều dịch vụ nhất trên thế giới. - American Express (AMEX) cards : ra đời vào năm 1938, đây là tổ chức thẻ du lịch và giải trí lớn nhất thế giới. Không giống như Visa card và Master card, AMEX tự phát hành thẻ của chính mình và trực tiếp quản lý chủ thẻ. Để cạnh tranh với Visa cards và Master cards, AMEX đã cho ra đời một loại thẻ tín dụng mới, sử dụng tuần hoàn OPTIMA cards ra đời vào năm 1987. - Diners Club cards : là một loại thẻ du lịch ra đời đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, loại thẻ này không phát triển mạnh bằng 3 loại thẻ trên. Hiện nay số người sử dụng thẻ Diners Club đang bị giảm dần. - JCB cards : ra đời vào năm 1967, của hiệp hôi tín dụng Nhật Bản, mục tiêu chủ yếu hướng vào thị trường du lịch và giải trí. Hiện nay JCB còn đứng sau AMEX nhưng đây là đối thủ cạnh tranh mạnh của AMEX. Giống như AMEX, JCB không nhận thành viên mà họ trực tiếp phát hành và quản lý khách hàng của mình. Ngày nay, JCB đang có ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  52. khuynh hướng mở rộng thị trường không chỉ phục vụ cho người Nhật mà còn phục vụ cho các đối tượng khác có yêu cầu. 3.3.6.2 Một số quy định liên quan đến thẻ tín dụng *Mô tả thẻ : - Thẻ tín dụng được làm bằng một loại thẻ đặc biệt theo kích thước tiêu chuẩn quốc tế là 8cm x 5cm x 1mm do các ngân hàng phát hành. Thẻ tín dụng có hai mặt. + Mặt trước bao giờ cũng có ba yếu tố được dập nổi lên : - Số thẻ. - Ngày hiệu lực thẻ. - Tên người sử dụng thẻ. Ngoài ra, còn một số nội dung như : - Tên thẻ : Visa card, Master card, american Express, JCB, Diners club - Biểu tượng thẻ. - Tên ngân hàng phát hành thẻ - Hình chủ thẻ (nếu có) + Mặt sau có : Băng từ đen chức đựng những nội dung sau : - Số thẻ. - Ngày hiệu lực thẻ. - Họ và tên chủ thẻ. - Địa chỉ của chủ thẻ. - Mã số bí mật. - Bảng lý lịch ở ngân hàng. - Mức rút tiền tối đa và số dư. * Băng màu trắng chữ ký mẫu của khách hàng. Cả hai băng từ và băng chữ ký được ép chìm vào bên trong thẻ. * Các bên có liên quan đến quá trình thanh tóan thẻ tín dụng : ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  53. + Ngân hàng phát hành (Issuing bank) : Việc phát hành thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành đảm nhận từ lúc trực tiếp nhận hồ sơ, mở quản lý tài khoản, phát hành thẻ, theo dõi thanh toán và quản lý rủi ro về thẻ + Chủ thẻ (Cardholder) : Là người được quyền sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại các điểm bán hàng hoặc rút tiền tại ngân hàng hoặc các máy rút tiền tự động. Mỗi thẻ đều được ngân hàng cấp hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định. + Điểm bán hàng (Merchant, Point of sale) : Là điểm tiếp nhận các thẻ như cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, nhà hàng, khách sạn, công ty du lịch + Tổ chức thanh toán (Acquirer) : Là nơi đại diện cho ngân hàng phát hành thanh toán tiền cho các điểm bán hàng khi họ xuất trình hóa đơn thanh toán thẻ thường là các ngân hàng đảm nhận này nên gọi là ngân hàng thanh toán (Acquiring Bank). + Hiệp hội thẻ tín dụng quốc tế (Visa, Master) : Đây không phải là tổ chức phát hành thẻ mà chỉ là tổ chức đứng ra liên kết các thành viên là các ngân hàng phát hành ở các nước khác. 3.3.6.3 Phân loại thẻ * Căn cứ vào cơ chế thanh toán của thẻ: - Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ trong đó người chủ thẻ được phép nợ ngân hàng phát hành thẻ một số tiền nhất định không vượt quá số tiền ghi trên thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt. Mỗi thẻ đều có một hạn mức tín dụng riêng theo sự thoả thuận giữa chủ thẻ và ngân hàng phát hành thẻ. Khi chủ thẻ sử dụng thẻ mà chưa đến ngày thanh toán nợ thì có nghĩa là họ đang sử dụng tiền của ngân hàng, tức là ngân hàng đang cấp tín dụng cho chủ thẻ. Chính vì thế, thẻ tín dụng vừa được xem như là một phương tiện chi trả, đồng thời cũng là một hình thức tín dụng hiện đại. Đây là loại thẻ ngày càng phát triển phổ biến, khẳng định tính tiện lợi và hữu dụng của nó , vì : Người dùng thẻ tín dụng được hưởng tiện lợi từ việc tiêu dùng trước trả tiền sau. Trong trường hợp khi tiêu dùng dịch vụ tại khách sạn, khách chỉ việc ký hóa đơn. Cuối tháng ngân hàng hoặc đại diện công ty phát hành thẻ sẽ gửi bản tổng hợp các chi tiêu trong cả tháng đến cho khách và khách phải hoàn trả số tiền này cho ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Ở đây, công ty hoặc ngân hàng phát hành thẻ sẽ ủy quyền cho khách sạn nhận thanh toán bằng thẻ. Đồng thời khách sạn còn được thông báo "hạn mức tín dụng" - nghĩa là số tiền tối đa khách sạn được phép chấp nhận thanh toán đối với mỗi loại thẻ nhất định mà không cần phải điện thoại để xin phép ngân hàng. Các ngân hàng lớn và công ty thẻ thường có trung tâm cấp phép thanh toán hoạt động 24/24 giờ hàng ngày giúp nhân viên thanh toán thực hiện thủ tục xin kiểm tra tính hợp lệ hoặc xin cấp phép cho các khoản thanh toán vượt quá hạn mức tín dụng. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  54. - Thẻ ghi nợ (Debit card) : là loại thẻ được dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt. Khi chủ thẻ sử dụng thẻ này, ngay lập tức ngân hàng sẽ thu tiền của chủ thẻ bằng cách làm giảm số dư tài khoản tiền gửi của chủ thẻ. Thẻ ghi nợ thường được áp dụng đối với những khách hàng có mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng phát hành thẻ và mỗi thẻ cũng chỉ được ấn định một hạn mức nhất định. Loại thẻ này ít được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới mà chỉ được phát hành theo từng khu vực hoặc theo nước bởi tính chất ghi nợ ngay lập tức của nó. - Thẻ ký quỹ (Cash card) : là loại thẻ mà chủ thẻ phải ký quỹ tiền gửi vào ngân hàng phát hành thẻ với số tiền bằng số tiền ghi trên thẻ. Loại thẻ này thường được sử dụng phổ biến đối với khách du lịch. Ngoài ra, dựa trên các căn cứ khác nhau người ta còn có thể chia thẻ ra làm nhiều loại như sau : * Căn cứ theo công nghệ sản xuất của các loại thẻ : - Thẻ khắc chữ nổi (Embossed card) : Là loại thẻ mà trên bề mặt của thẻ được khắc nổi các thông tin cần thiết. Hiện nay, loại thẻ này được kết hợp thêm với những kỹ thuật mới như băng từ, thông minh. - Thẻ băng từ (Magnenic stripe) : Thẻ được dựa trên kỹ thuật những thông tin của thẻ và chủ thẻ được mã hoá trên băng từ ở mặt sau của thẻ. Thẻ này hiện đang được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên thẻ có thể bị lợi dụng gây mất tiền do thông tin ghi trên thẻ hẹp mang tính chất cố định áp dụng mã hoá an toàn, có thể đọc được dễ dựng qua hệ thống máy vi tính. - Thẻ thông minh (Smart card) : là loại thẻ thế hệ mới, dựa trên kỹ thuật vi sử lý tin học, gắn vào thẻ một “chíp” điện tử có cấu trúc như một máy tính hoàn hảo. Thẻ có tính an toàn và bảo mật rất cao. Tuy vậy giá thành của thẻ rất cao nên thẻ này chỉ mới phổ biến ở những nước phát triển. * Căn cứ vào chủ thể phát hành thẻ - Thẻ do ngân hàng phát hành : Loại thẻ này giúp khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng số tiền do ngân hàng cấp cho vay trên tài khoản. Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. - Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành : đó là các loại thẻ du lịch, giải trí do các tập đoàn kinh doanh lớn, các cửa hiệu phát hành, như thẻ Dinners Club, Amex . * Căn cứ vào hạn mức của thẻ : - Thẻ vàng (Gold card): là loại thẻ hạng ưu, phù hợp với mức sống và nhu cầu tài chính của khách hàng có thu nhập cao. Thẻ được phát hành cho những đối tượng có uy tín, có khả năng tài chính lành mạnh, có nhu cầu chi tiêu lớn. Điểm khác biệt của thẻ vàng so với thẻ thường là hạn mức tín dụng lớn. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  55. - Thẻ thường (Standard card): là loại thẻ tín dụng, hạn mức tín dụng thấp hơn, loại thẻ này mang tính phổ thông, phổ biến được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. * Căn cứ vào phạm vi sử dụng : - Thẻ nội địa : là loại thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do vậy đồng tiền giao dịch phải là đồng tiền nước đó. - Thẻ quốc tế : là loại thẻ sử dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán, được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Thẻ được hỗ trợ, quản lý trên toàn thế giới bởi các tổ chức tài chính lớn như Mastercard, Visa hoạt động thống nhất đồng bộ. Thẻ quốc tế rất được ưa chuộng vì tính an toàn và tiện lợi của nó. 3.3.6.4 Việc ứng dụng thẻ thanh toán tại Việt Nam : Thẻ thanh toán xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1949, và ngày càng được sử dụng rộng rãi, phổ biến trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, thẻ thanh toán được du nhập đầu tiên vào Việt Nam năm 1989 bằng sự hợp tác giữa ngân hàng BFCE (Pháp) và Vietcombank làm đại lý trả thẻ của Visa Card, chủ yếu phục vụ cho khách nước ngoài đến Việt Nam thanh toán bằng USD được thuận lợi. Sau đó, ngân hàng Công thương liên doanh với một ngân hàng nước ngoài hình thành trung tâm thanh toán Visa Card tại thành phố Hồ Chí Minh và còn làm đại lý các loại thẻ thanh toán khác như JCB Card, Master Card. Đến nay, đã có nhiều ngân hàng của Việt Nam là thành viên của các tổ chức phát hành thẻ tín dụng quốc tế như : Vietcombank, Eximbank, ACB Mặc dù Vietcombank và ngân hàng Công thương đã lần lượt mở rộng các điểm thanh toán tại các khách sạn, các trung tâm thương mại lớn nhưng việc sử dụng thẻ thanh toán ở nước ta vẫn chưa phổ biến, điều này cũng do nhiều nguyên nhân khác nhau và một trong những lý do đó là : - Do tập quán của người Việt. - Do cước phí mà chủ thẻ phải trả cho ngân hàng ở Việt Nam còn khá cao, không phù hợp với thu nhập của phần lớn người lao động. - Do chúng ta chưa có đủ cơ sở vật chất máy móc để phục vụ cho việc thanh toán bằng thẻ. Vì vậy, hiện nay các đối tượng sử dụng thanh toán bằng thẻ chủ yếu là các doanh nghiệp và những người có thu nhập cao trong xã hội. Ngoài ra, dịch vụ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là dịch vụ rút tiền bằng máy rút tiền tự động ATM. 7 Voucher 3.3.7.1 Khái niệm ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  56. Phiếu trả tiền trước còn gọi là phiếu thanh toán trọn gói (voucher) là hình thức thanh toán thay cho khách hàng trong du lịch, việc thanh toán do các nhân viên phục vụ du lịch đứng lên thanh toán theo các cam kết trong hợp đồng du lịch với khách hàng. Phiếu trả tiền trước do các công ty du lịch phát hành, trên đó yêu cầu khách sạn cung cấp cho người cầm phiếu một số dịch vụ nhất định. Đại lý du lịch sẽ thanh toán cho khách sạn các khoản chi phí này. 3.3.7.2. Nội dung của voucher Phiếu trả tiền trước có những nội dung cơ bản sau : - Nơi phát hành voucher (công ty du lịch, hãng lữ hành ) - Ngày phát hành - Số seri - Thông tin về chủ sử dụng (người thụ hưởng) voucher : tên, tuổi, số chứng minh thư - Các thông tin về dịch vụ mà người thụ hưởng được chỉ định để tiêu dùng (ví dụ : đi máy bay ghế ngồi hạng nào, ở tại khách sạn phòng tiêu chuẩn nào ?, ở mấy ngày ) - Thông tin về thời gian sử dụng, hạn sử dụng của voucher : cho biết thời gian khách sử dụng các dịch vụ đã được chỉ định trên voucher và voucher có giá trị hiệu lực đến ngày nào. - Các thông tin cụ thể không gian, địa điểm : trên mỗi phiếu trả tiền trước đều chỉ định rõ địa điểm mà người thụ hưởng được tiêu dùng các dịch vụ ghi trên voucher. 3.3.7.3. Các loại voucher Phiếu trả tiền trước bao gồm các hình thức sau : - Các hợp đồng (thu tiền trước hoặc thu tiền sau) giữa khách hàng với các công ty lữ hành du lịch có tính chất trọn gói hoặc không trọn gói (chưa bao gồm các khoản lệ phí, các bữa ăn ) - Các loại phiếu tặng, cho biếu của tổ chức hoặc cá nhân này cho tổ chức hoặc cá nhân khác, cho những tua du lịch đã được ấn định về địa điểm, thời gian - Các loại phiếu trúng thưởng mà phần thưởng được trả dưới hình thức các tua du lịch. 3.3.7.4. Cách sử dụng và thanh toán voucher Khách du lịch, khi đi du lịch sẽ đến công ty du lịch mua voucher về các dịch vụ mà mình muốn sử dụng trong chuyến đi và xuất trình voucher đó trước những nhà cung cấp dịch vụ (khách sạn ) mà voucher chỉ định để tiêu dùng dịch vụ. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung
  57. Khi phát hành voucher công ty du lịch thường phát hành thành 2 bản : một bản giao cho khách, một bản giao cho nhà cung cấp dịch vụ. Ví dụ trong trường hợp khách mua voucher cho các dịch vụ tại khách sạn trong chuyến du lịch của mình thì một bản của voucher sẽ được gửi đến khách sạn khi công ty du lịch tiến hành đặt buồng cho khách và một bản khác sẽ được giao cho khách để họ tự mang đến khách sạn. * Ưu điểm thanh toán bằng voucher: Có thể thấy voucher là một phương tiện thanh toán rất tiện lợi đối với cả khách du lịch và cơ sở chấp nhận thánh toán bằng voucher (khách sạn ), vì: - Đối với khách du lịch, khi sử dụng voucher trong chuyến du lịch, khách không phải lo lắng về việc thanh toán các dịch vụ mà mình sử dụng trong chuyến đi vì tất cả đã được ghi trên voucher vì các công ty du lịch, các hãng lữ hành phát hành ra voucher sẽ có trách nhiệm thanh toán cho cơ sở chấp nhận thanh toán ( khách sạn, nhà hàng ). Nếu khách muốn tiêu dùng thêm các dịch vụ khác, khách sẽ phải trả tiền. - Đối các cơ sở chấp nhận thanh toán voucher, khi nhận thanh toán bằng voucher cho khách sẽ đảm bảo an toàn cho cơ sở thanh toán hơn là thanh toán bằng séc du lịch vì cơ sở chấp nhận thanh toán đã nhận được 1 bản của voucher do công ty du lịch gửi tới trước khi khách du lịch xuất trình voucher cho mình, vì vậy voucher này chắc chắn là có thật. Hơn thế nữa, khi trở thành một cơ sở chấp nhận thanh toán phiếu trả tiền trước, bắt buộc các khách sạn, nhà hàng phải có những mối quan hệ liên kết với các công ty du lịch ở trong và ngoài nước, điều này giúp các khách sạn, nhà hàng duy trì được nguồn khách du lịch và dần mở rộng được quy mô, thương hiệu của mình cả trong nước và trên thế giới. ( Word Reader - Unregistered ) www.word-reader.comNgười biên soạn: Nguyễn Tiến Trung