Khóa luận Logistics và phát triển Logistics trong giao nhận, vận tải biển tại Việt Nam

pdf 151 trang hoanguyen 4490
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Logistics và phát triển Logistics trong giao nhận, vận tải biển tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_logistics_va_phat_trien_logistics_trong_giao_nhan.pdf

Nội dung text: Khóa luận Logistics và phát triển Logistics trong giao nhận, vận tải biển tại Việt Nam

  1. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam `TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: LOGISTICS VÀ PHÁT TRIỂN LOGISTICS TRONG GIAO NHẬN, VẬN TẢI BIỂN TẠI VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn : PGS. TS Nguyễn Như Tiến Người thực hiện : Đồng Thị Khánh Ngọc Lớp : A9 - K38C - KTNT HÀ NỘI -12/ 2003 Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 1
  2. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 7 LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGISTICS 7 I. Khái quát về logistics 7 1. Khái niệm và tầm quan trọng của logistics 7 1.1. Khái niệm về logistics 7 1.2. Tầm quan trọng của logistics 11 2. Một số cách tiếp cận về logistics 14 2.1. Tiếp cận logistics theo trục ngang 16 2.2. Tiếp cận logistics theo hình tháp 17 3. Đặc điểm của logistics 18 3.1. Logistics là một dịch vụ 18 3.2. Logistics có chức năng hỗ trợ 19 4. Các yếu tố tạo nên chuỗi logistics 21 4.1. Yếu tố vận tải 22 4.2. Yếu tố kho bãi 23 4.4. Nhân lực và đào tạo nhân lực 25 4.5. Tài liệu kỹ thuật 25 4.6. Thiết bị kiểm tra và hỗ trợ 26 4.7. Yếu tố nhà xưởng 26 5. Vận hành logistics 27 5.1. Chu kỳ hoạt động của logistics 27 5.2. Hoạt động Marketing 29 5.3. Vòng đời sản phẩm 30 II. Quản trị logistics 32 1. Vai trò của quản trị logistics 32 2. Trách nhiệm của nhà quản trị logistics 33 3. Hệ thống quản trị logistics 34 3.1. Phân tích tổng chi phí 34 3.2. Tiếp cận doanh nghiệp. 35 3.3. Dịch vụ khách hàng 36 3.4. Các kênh phân phối 36 III. Mối quan hệ giữa vận tải biển và logistics 37 1. Tầm quan trọng của vận tải biển trong thương mại quốc tế hiện nay. 37 Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 2
  3. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam 1.1. Ưu điểm của vận tải biển 37 1.2. Phát triển vận tải hàng hoá bằng đường biển là động lực thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế 38 2. Logistics trong hoạt động giao nhận, vận tải biển 39 3. Các yếu tố tác động tới vận tải biển và logistics trong tương lai 40 CHƯƠNG II 45 HOẠT ĐỘNG LOGISTICS TRONG CÁC DOANH NGHIỆP GIAO NHẬN, VẬN TẢI BIỂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 45 I. Lợi ích do logistics đem lại cho các doanh nghiệp giao nhận,vận tải biển 45 1. Giảm chi phí 46 2. Nâng cao mức độ linh hoạt trong hoạt động của các DN 47 3. Tăng cường chất lượng dịch vụ 48 4. Tăng doanh thu và lợi nhuận 49 II. Hoạt động logistics trong các doanh nghiệp giao nhận, vận tải biển tại Việt Nam 50 1. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận, vận tải biển Việt Nam 50 2. Nhận thức của các DN giao nhận, vận tải biển về logistics 59 3. Thực tiễn áp dụng logistics trong các DN giao nhận, vận tải biển Việt Nam 60 III. Các yếu tố tác động tới hoạt động logistics trong vận tải biển tại Việt Nam những năm tới 63 1. Các yếu tố khách quan 63 1.1. Một số xu hướng phát triển vận tải biển trên thế giới 63 1.2. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO tạo điều kiện phát triển ngoại thương Việt Nam 70 1.3. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin có tác động mạnh tới chất lượng dịch vụ vận tải 72 2. Các yếu tố chủ quan 74 2.1. Chiến lược phát triển ngành vận tải biển Việt Nam 74 2.2. Xây dựng cảng trung chuyển container 77 2.3. Khuyến khích sử dụng vận tải đa phương thức 79 CHƯƠNG III 81 Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 3
  4. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN LOGISTICS TRONG GIAO NHẬN, VẬN TẢI BIỂN TẠI VIỆT NAM 81 I. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng logistics trong vận tải biển tại Việt Nam 81 1.Thuận lợi 81 2. Khó khăn 82 2.1. Cơ sơ hạ tầng, vật chất kỹ thuật chưa đồng bộ 82 2.2. Hành lang pháp lý cho hoạt động logistics chưa được thiết lập 84 2.3. Chưa có đào tạo chuyên môn cho đội ngũ lao động hoạt động trong lĩnh vực logistics 84 2.4. Cạnh tranh quá mạnh từ các công ty nước ngoài 85 II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam 86 1. Các giải pháp vĩ mô 86 1.1. Cần ban hành các quy định pháp luật tạo điều kiện phát triển logistics 86 1.2. Cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật đồng bộ và tiên tiến 91 1.3. Liên kết các hiệp hội ngành nghề có liên quan để phát huy vai trò sẵn có của họ 96 1.4. Xây dựng nguồn nhân lực phục vụ cho yêu cầu của hoạt động logistics 98 2. Giải pháp vi mô 99 2.1. Nâng cao chất lượng các dịch vụ cung ứng cho khách hàng 99 2.2. Liên doanh với các công ty logistics nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm 101 2.3. Tin học hoá hệ thống quản lý trong nội bộ DN 101 2.4. Chú trọng hoạt động Marketing để thu hút khách hàng 103 KẾT LUẬN 104 Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 4
  5. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam LỜI NÓI ĐẦU Trong vòng 20 năm qua, toàn cầu hoá kinh tế đã làm thay đổi thế giới trên nhiều phương diện, mở mang thêm các lĩnh vực hợp tác quốc tế từ mậu dịch hàng hoá đến mậu dịch vô hình, tác động mạnh mẽ tới hệ thống “cung – cầu”, làm biến đổi nhanh về số lượng và chất lượng của nó. Trước đây, vai trò của “cung” luôn được đặt lên hàng đầu, nhưng ngày nay, tình hình đã thay đổi: trong dây chuyền phân phối hàng hoá, vai trò quan trọng hàng đầu đã được chuyển từ “cung” sang “cầu”. Trong bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào, người sản xuất luôn phải quan tâm, đặt ra và giải đáp câu hỏi: Khách hàng và người tiêu thụ sản phẩm của mình là ai? Ai là đối thủ cạnh tranh của mình? Mình cần phải sản xuất cái gì và tổ chức sản xuất ra sao? Trong lĩnh vực giao thông vận tải, người kinh doanh dịch vụ vận tải không chỉ đơn thuần là người vận chuyển nữa, mà thực tế họ đã tham gia cũng với người sản xuất để đảm nhiệm thêm các khâu liên quan đến quá trình sản xuất hàng hoá như : gia công, chế biến, lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, lưu kho và giao nhận. Hoạt động vận tải thuần tuý đã dần chuyển sang hoạt động tổ chức toàn bộ dây chuyền phân phối vật chất và trở thành một bộ phận khăng khít của chuỗi mắt xích “cung – cầu”. Xu hướng đó không những đòi hỏi phải phối hợp liên hoàn tất cả các phương thức vận tải, mà còn đòi hỏi phải kiểm soát được các luồng thông tin, luồng hàng hoá và luồng tài chính. Chỉ khi tối ưu được toàn bộ quá trình này thì mới giải quyết được vấn đề đặt ra là: vừa làm tăng lợi nhuận cho các DN sản xuất hàng hoá, vừa làm tăng lợi nhuận cho các hãng vận tải, thương mại, đảm bảo được lợi ích chung. Từ đó đã hình thành nên vấn đề quản lý logistics nhằm đạt được mục tiêu trên. Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình để hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Các DN Việt Nam cần phải tăng khả năng cạnh tranh, cung cấp cho thị trường các loại hàng hoá phù hợp. Điều này đòi hỏi người vận chuyển phải đảm bảo chi phí vận tải hợp lý, đúng thời điểm, chính xác và an toàn. Muốn như vậy, không có cách nào khác là các DN giao nhận, vận tải của ta phải làm quen và áp dụng logistics trong hoạt động của mình nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp, đặc biệt là trong hoạt động vận tải biển vì khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường biển luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ khối lượng hàng hoá XNK được chuyên chở. Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 5
  6. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Với mong muốn góp một phần sức lực nhỏ bé của mình trong việc phát triển ngành dịch vụ hàng hải Việt Nam ngày càng lớn mạnh và tiên tiến, phối hợp cùng những ngành khác trong nền kinh tế nhằm nâng cao vị thế của đất nước trong lĩnh vực kinh tế nói riêng và trong mọi lĩnh vực nói chung, em đã quyết định chọn đề tài: “Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn giới thiệu những ưu việt mà hoạt động logistics có thể đem lại cho ngành dịch vụ giao nhận, vận tải biển tại Việt Nam và đề ra một số giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ này. Khoá luận này có sử dụng phương pháp nghiên cứu mới là phương pháp điều tra, phỏng vấn nhằm đưa ra một cái nhìn khách quan về tình hình ứng dụng logistics trong giao nhận, vận tải biển Việt Nam. Kết cấu của luận văn này gồm 3 chương: - Chương 1: Lý luận chung về logistics - Chương 2: Hoạt động logistics trong các DN giao nhận, vận tải biển Việt Nam những năm gần đây - Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Như Tiến, người thầy đã trực tiếp tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành khoá luận này. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô trong khoa Kinh tế ngoại thương – Trường Đại học Ngoại Thương đã truyền đạt cho em những kiến thức cần thiết giúp ích rất nhiều cho em trong quá trình làm bài. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị ở Cục Hàng hải Việt Nam, các công ty Vinalines, Vinafreight, Maersk Logistics, APL, Viettrans, Vietfracht, Falcon, Dragon Logistics, ITS, Châu Giang đã góp ý kiến cho em trong quá trình viết luận văn này. Sự hỗ trợ về vật chất cũng như tinh thần của gia đình và bạn bè cũng góp phần rất lớn vào việc hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này của em. Hà Nội, tháng 12/2003 Sinh viên thực hiện Đồng Thị Khánh Ngọc Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 6
  7. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGISTICS I. KHÁI QUÁT VỀ LOGISTICS 1. Khái niệm và tầm quan trọng của logistics 1.1. Khái niệm về logistics 1.1.1. Lịch sử hình thành logistics Mặc dù trước đây, logistics/phân phối vật chất bị lãng quên, nhưng những năm gần đây, nó ngày càng thu hút nhiều sự chú ý và nguyên nhân của hiện tượng này gắn chặt với lịch sử phát triển kinh doanh của nước Mỹ. Vào đầu thế kỷ 18, khi cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu thì mục tiêu kinh doanh lúc đó là hướng vào sản xuất. Mỗi doanh nghiệp đều tập trung khả năng vào việc giảm chi phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm. Đến đầu thế kỷ 19, sản xuất bắt đầu bắt kịp với nhu cầu và các doanh nghiệp nhận thức được rằng việc bán hàng có tầm quan trọng vô cùng to lớn. Nhưng logistics/phân phối vật chất vẫn bị giới kinh doanh lãng quên cho đến tận sau này. Thuật ngữ logistics đầu tiên được sử dụng trong quân đội và mang nghĩa là "hậu cần" hoặc "tiếp vận". Tướng Chauncey B.Baker đã viết rằng: "Một nhánh trong nghệ thuật chiến đấu có liên quan tới việc di chuyển và cung cấp lương thực, trang thiết bị cho quân đội được gọi là logistics" 4. Trong suốt Chiến tranh Thế giới II, các lực lượng quân đội đã sử dụng các phương thức logistics và các dạng phân tích hệ thống một cách hiệu quả để đảm bảo rằng quân nhu được đáp ứng đúng nơi đúng lúc. Thuật ngữ này hiện nay vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong quân đội và các ứng dụng dạng quân đội. Trong thời kỳ Ethiopia được cứu trợ thoát khỏi nạn đói vào những năm 80 thì thuật ngữ này được dùng để chỉ các hoạt động cung cấp lương thực. Rất nhiều kỹ năng về logistics được biết đến trong Chiến tranh Thế giới II đã tạm thời bị lãng quên trong hoạt động kinh tế thời hậu chiến. Các giám đốc Marketing bắt đầu hướng sự chú ý vào việc đáp ứng nhu cầu về hàng hoá thời Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 7
  8. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam hậu chiến. Cuộc khủng hoảng năm 1958 và việc thu hẹp lợi nhuận đã tạo ra một môi trường khiến các nhà kinh doanh phải tìm kiếm các hệ thống kiểm soát chi phí hiệu quả hơn. Hầu như cùng một lúc, nhiều doanh nghiệp nhận thức rằng phân phối vật chất và logistics là những vấn đề mà chi phí cho nó chưa được nghiên cứu kỹ và chưa thực sự kết hợp với nhau. Một loạt các xu hướng khác cũng đã được nhận thức rõ và điều này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tập trung chú ý vào phân phối sản xuất. Đó là các xu hướng sau 1: Thứ nhất, chi phí vận tải tăng nhanh một cách chóng mặt. Các phương thức phân phối truyền thống đã trở nên đắt đỏ hơn và các nhà quản trị đã nhận thức được nhu cầu phải kiểm soát các chi phí này tốt hơn. Vào những năm 70, các chi phí này càng trở nên quan trọng khi giá nhiên liệu tăng lên và sự khan hiếm về địa điểm. Vận tải không còn được coi là một nhân tố ổn định trong các phương trình của các nhà hoạch định kinh doanh. Việc quản trị cấp cao đã bao gồm các khía cạnh logistics có liên quan đến vận tải, cả trong hoạt động và các cấp độ chính sách, do có rất nhiều quyết định mới được đưa ra nhằm thích ứng với sự thay đổi chóng mặt trong tất cả các lĩnh vực của vận tải. Thứ hai, hiệu quả sản xuất đã đạt tới đỉnh điểm. Việc tạo nên sự tiết kiệm chi phí thêm nữa trở nên hết sức khó khăn bởi vì sự "màu mỡ" đã bị vắt kiệt trong sản xuất. Mặt khác, phân phối vật chất và logistics vẫn là lĩnh vực hầu như chưa được khai phá. Thứ ba, có sự thay đổi đáng kể trong triết lý về hàng tồn kho. Vào thời điểm đó, các nhà bán lẻ nắm giữ xấp xỉ một nửa số lượng hàng thành phẩm trong kho còn các nhà bán buôn và các nhà sản xuất nắm giữ phần còn lại. Trong những năm 50, các kỹ thuật phức tạp hơn nhằm kiểm soát hàng hoá trong kho, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh hàng tạp hoá, đã làm giảm tổng số lượng hàng hoá trong kho và làm thay đổi tỷ lệ nắm giữ hàng hoá của các nhà bán lẻ xuống còn 10% còn các nhà phân phối và sản xuất nắm giữ 90%. Thứ tư, các dây chuyền sản xuất gia tăng nhanh chóng, đây là hệ quả trực tiếp của triết lý Marketing cung cấp cho mỗi khách hàng loại sản phẩm cụ thể mà họ yêu cầu. Ví dụ, cho đến giữa những năm 50, các sản phẩm như máy đánh Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 8
  9. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam chữ, bóng đèn điện, giấy vệ sinh có chức năng là chính công dụng của nó. Nhưng gần đây, sự khác biệt của sản phẩm không còn bị giới hạn bởi sự khác biệt về cấu trúc thực tế. Một nhà buôn máy đánh chữ có thể sẽ không còn trữ loại máy đánh chữ điện tiêu chuẩn hai màu đen trắng. Ông ta có thể mua máy đánh chữ màu có mặt bàn phím phù hợp với yêu cầu của người mua. Thứ năm, công nghệ tin học đã tạo nên sự thay đổi lớn. Quản trị việc tiếp cận logistics bao gồm một số lượng lớn chi tiết và dữ liệu. May mắn thay, các khái niệm về phân phối vật chất và logistics đang được phát triển, cùng với đó là sự xuất hiện của máy vi tính cho phép các khái niệm được đưa vào thực tiễn. Nếu không có sự phát triển và sử dụng máy vi tính trong thời gian này, các khái niệm về logistics và phân phối vật chất sẽ vẫn chỉ là các học thuyết ít có khả năng áp dụng vào thực tế. Thứ sáu, việc sử dụng máy vi tính ngày càng nhiều cũng là một nhân tố, bởi vì ngay cả khi một doanh nghiệp cụ thể nào đó không sử dụng máy vi tính thì nhà cung cấp và khách hàng của doanh nghiệp này cũng vẫn sử dụng. Điều này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp biết được một cách có hệ thống chất lượng dịch vụ mà họ nhận được từ nhà cung cấp của mình. Dựa trên loại phân tích này, rất nhiều doanh nghiệp đã có khả năng nhận ra được nhà cung cấp nào đã cung cấp dịch vụ dưới mức tiêu chuẩn cho mình. Rất nhiều doanh nghiệp đã được thức tỉnh để nhận ra được nhu cầu cần thiết phải nâng cấp hệ thống phân phối của mình. Và khi các doanh nghiệp sản xuất chuyển sang áp dụng hệ thống JIT (Xem phụ lục 3) thì họ cũng đặt ra cho các nhà cung cấp một yêu cầu rất chính xác về vận chuyển nguyên vật liệu. 1.1.2. Một số khái niệm về logistics Bất cứ khi nào có sự thay đổi lớn trong một lĩnh vực thì các thuật ngữ và định nghĩa cũng thay đổi theo. Logistics cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các thuật ngữ như : logistics kinh doanh, phân phối vật chất, quản lý nguyên vật liệu, kỹ thuật phân phối, quản trị logistics đều là các thuật ngữ được sử dụng để diễn đạt cùng một chủ đề, đó là cái mà chúng ta gọi là logistics. Logistics Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 9
  10. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam diễn tả toàn bộ quá trình nguyên vật liệu và sản phẩm đi vào, qua và đi ra khỏi doanh nghiệp. Hình 1: Kiểm soát dòng vận động bên trong và bên ngoài doanh nghiệp 1 Nguyên vật liệu Nhà bán lẻ K. H Quá trình Nhà Kho Nhà À s ả n xu ấ t máy ch ứ a bán thành buôn N ph ẩ m G Quản trị nguyên vật liệu Phân phối vật chất Logistics kinh doanh Giáo sư Bowersox, khi bàn về sự phát triển của phân phối vật chất và logistics đã nói rằng các hoạt động phân phối vật chất sơ khai là sự kết hợp giữa vận tải, lưu kho, chính sách trữ hàng và thực hiện đơn hàng để cung cấp một dịch vụ khách hàng đúng thời gian với chi phí hợp lý 5. Vậy ngày nay thuật ngữ logistics được hiểu như thế nào? Logistics là việc đem sự vật đến đúng nơi mà nó cần phải đến.  Vì vậy logistics được định nghĩa là " quá trình lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả và tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và việc lưu trữ nguyên liệu thô, hàng trong kho đang sử dụng, hàng thành phẩm và các thông tin liên quan từ nơi xuất xứ cho tới nơi tiêu thụ nhằm mục đích thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng". (Theo Hội đồng Quản trị logistics Mỹ - 1988)  Logistics tích hợp (intergrated logistics) là một nguyên lý đơn lẻ nhằm hướng dẫn quá trình lên kế hoạch, định vị và kiểm soát các nguồn nhân lực và tài lực có liên quan tới hoạt động phân phối vật chất, hỗ trợ sản xuất và hoạt động mua hàng. (Donald J.Bowersox - CLM Proceeding - 1987) Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 10
  11. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam  Logistics là việc quản lý sự vận động và lưu trữ của nguyên vật liệu vào trong doanh nghiêp, của hàng hoá trong lúc sản xuất tại doanh nghiệp và hàng thành phẩm đi ra khỏi doanh nghiệp 3. Từ các phân tích trên, có thể rút ra một định nghĩa ngắn gọn về logistics. Đó là quá trình có được đúng số lượng hàng hoá cần thiết đúng nơi, đúng lúc. 1.2. Tầm quan trọng của logistics Môi trường kinh doanh ở mỗi nơi trên thế giới là khác nhau, và văn hoá cũng như vậy. Điều này đã ảnh hưởng đến việc tiến hành kinh doanh và hoạt động logistics. Chính vì vậy, các nước khác nhau có quan điểm rất khác nhau về logistics. Theo quan điểm của người Pháp, không có sự khác biệt nhiều giữa quản trị các hoạt động của doanh nghiệp với quản trị logistics. Nước Nga vẫn chưa phát triển nhiều trong lĩnh vực logistics nhưng các công ty Nga cũng đang tiến hành các hoạt động logistics. Tại Nhật Bản, logistics được coi là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước này. Theo một nghiên cứu vào năm 1996, 2,89 nghìn tỷ USD đã được chi cho hoạt động logistics. Tại Mỹ, trong mỗi đồng Đô la bán hàng thì 7,5% được dùng để trang trải cho chi phí logistics và tổng chi phí cho logistics tại Mỹ là 600 tỷ USD, gấp 2 lần chi phí dành cho quốc phòng. Tuy nhiên, chi phí cho logistics có xu hướng giảm xuống, Theo nghiên cứu của Bang Michigan, chi phí logistics trong các năm 1992 - 1996 đã giảm 3,6%. Nhưng điều này không có nghĩa là logistics đã kém phần quan trọng mà là do hoạt động logistics tại các doanh nghiệp đã hiệu quả hơn 2. Có thể khẳng định rằng logistics là chìa khoá giúp cho các công ty, nhất là các công ty phải vận chuyển nhiều nguyên vật liệu, tồn tại và kinh doanh có lãi. Theo một nghiên cứu thì dịch vụ logistics có tác động trực tiếp tới 33% quyết định mua hàng của khách hàng và cả trực tiếp lẫn gián tiếp có ảnh hưởng tới hơn 50% quyết định đó. Hiện nay ngày càng có nhiều công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế thì chức năng của logistics lại càng quan trọng. Peter Drucker đã gọi Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 11
  12. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam logistics là "lục địa đen của nền kinh tế" và cho rằng logistics là lĩnh vực kinh doanh bị bỏ quên nhiều nhất nhưng cũng lại hứa hẹn nhiều thành công nhất 6. Mục tiêu của logistics là đạt được mức độ đặt ra về dịch vụ khách hàng với chi phí thấp nhất có thể. Nếu như trước đây, logistics được coi là một nhân tố quyết định sự thắng lợi của một cuộc chiến thì ngày nay logistics đã trở thành một phần quan trọng đem đến sự thành công trong kinh doanh. Logistics đã trở thành trung tâm của hầu hết các quyết định kế hoạch và các bộ phận logistics trong doanh nghiệp sẽ tác động qua lại với các phòng ban chức năng chính khác của doanh nghiệp. Hoạt động logistics có thể được thể hiện dưới các dạng sau:  Thu gom và lưu trữ nguyên liệu cho sản xuất,  Lưu trữ và phân phối vật chất hàng thành phẩm,  Thu gom, quản lý và kiểm soát hàng hoá trong kho để hỗ trợ cho thiết bị sản xuất hoặc hàng thành phẩm,  Thiết lập các kênh logistics,  Phát triển các khoá đào tạo đề hỗ trợ cho thiết bị sản xuất hoặc như một dịch vụ khách hàng,  Chuẩn bị các tài liệu cần thiết để hỗ trợ cho hoạt động và bảo dưỡng sản phẩm. Có một số tiêu chí để đánh giá một nước có khả năng hoạt động trong lĩnh vực logistics hay không. Điều này rất quan trọng vì một số khu vực trên thế giới có các tài sản logistics rất quý, nó góp phần tạo nên sự phồn thịnh của khu vực đó. Ngược lại, có những nơi lại rất thiếu điều kiện phát triển logistics và nơi đó chịu sự thiệt thòi về mặt kinh tế và cả các khía cạnh khác nữa. Các điều kiện để phát triển logistics của một khu vực hay một quốc gia bao gồm: Điều kiện địa lý: Điều kiện địa lý thuận lợi là một trong những yếu tố để phát triển logistics. Các cảng tự nhiên, ví dụ như vịnh, là một trong những đặc điểm về địa lý có giá trị nhất mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn có được. Việc phát triển đường bộ cũng tạo điều kiện thuân lợi cho logistics. Đất đai bằng Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 12
  13. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam phẳng là điều kiện lý tưởng nhất để phát triển giao thông đường bộ, còn địa hình núi hay đầm lầy đều gây khó khăn cho giao thông đường bộ. Cơ sở hạ tầng: Việc có được điều kiện địa lý tốt cũng chưa hẳn đã có tác dụng nếu không có cơ sở hạ tầng như đường xá, cảng biển, sân bay Muốn xây dựng cơ sở hạ tầng thì cần phải mất nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng cũng tồn tại lâu dài và khó bị hư hại hoặc bị phá huỷ. Môi trường pháp lý: Các doanh nghiệp hiện đại đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật với các quy định về thương mại và buôn bán, về hải quan, và về cưỡng chế thi hành luật pháp của các hợp đồng kinh doanh. Hoạt động kinh doanh và logistics đòi hỏi các doanh nghiệp và Chính phủ đề ra các quy định này. Nếu không có các quy định này thì việc kinh doanh chưa chắc đã có lãi bất chấp thực tế là cơ sở hạ tầng hay điều kiện địa lý có tốt như thế nào đi nữa. Chính vì vậy, những lĩnh vực phát triển về mặt kinh tế mạnh nhất là những lĩnh vực có hệ thống pháp luật hoàn hảo và các dịch vụ logistics đầy đủ. Ông Bowersox và ông Closs đã đưa ra 6 mục tiêu hoạt động của một hệ thống logistics như sau 7: Phản ứng nhanh - một công ty cần có sự phản ứng nhanh nhạy với những thay đổi hay phát triển mới. Khả năng có thể cung cấp cho khách hàng cái mà họ muốn thường là nhân tố giúp cho doanh nghiệp thành công. Tối thiểu hoá biến động - điều này có liên quan trực tiếp tới mức độ tin cậy, khả năng sản xuất cùng một thành phẩm một cách tương đối và ít biến động nhất có thể. Trong trường hợp sản xuất hàng loạt hay các tình huống tương tự, việc hàng hoá được sản xuất ra phù hợp với những tiêu chuẩn cụ thể là vô cùng quan trọng. Tối thiểu hoá lưu kho - việc lưu hàng hoá trong kho sẽ gây tốn kém, vì vậy cần phải tối thiểu hóa lưu kho. Kết hợp vận chuyển - các chi phí vận tải có thể được giảm bớt bằng cách kết hợp nhiều chuyến hàng nhỏ thành một chuyến hàng to. Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 13
  14. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Chất lượng - không chỉ có các sản phẩm mới cần phải có chất lượng tốt mà dịch vụ logistics cũng cần phải thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng. Hỗ trợ vòng đời sản phẩm - điều này không chỉ liên quan đến nhu cầu giao hàng hoá đi mà còn cả vấn đề giải quyết hàng hoá bị trả lại như thế nào cho hợp lý. Hàng hoá đó có thể là hàng hoá bị khuyết tật cần phải tái chế bao bì hay tái chế chính bản thân hàng hoá. Dựa trên các phân tích trên, có thể thấy logistics là một nhân tố quan trọng trong doanh nghiệp bởi vì nó có liên quan trực tiếp tới nguyên liệu thô, quá trình chuyển đổi thành thành phẩm và việc phân phối thành phẩm. Logistics còn cung cấp sự hỗ trợ trên các điểm chuyển giao quyền sở hữu. Ngày nay các doanh nghiệp phải tồn tại trong một môi trường chật hẹp, trong môi trường này doanh nghiệp vừa phải tìm kiếm các nguồn lực để sản xuất và đồng thời tìm kiếm khách hàng tiêu thụ các sản phẩm đã sản xuất ra. Phương tiện liên kết doanh nghiệp với môi trường hoạt động đó chính là kênh logistics. Các kênh logistics cung cấp nguyên liệu thô để tạo điều kiện phát triển vận tải và cung cấp thành phẩm cho hệ thống phân phối vật chất. Nhận thức được tầm quan trọng của logistics nên các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển đã chi rất nhiều cho dịch vụ này. Nước Mỹ đã tiêu tốn 10,5% GDP cho dịch vụ logistics; Anh là 10,6%; Pháp 11,1%; Italia và Hà Lan đều chi khoảng 11,3%. Các nước chi cho dịch vụ này nhiều nhất là Đức (13%), Tây Ban Nha (11,5%), Mêxico (14,9%), và Nhật Bản (11,4%) 8. 2. Một số cách tiếp cận về logistics Logistics, hiểu theo nghĩa rộng nhất, có thể được coi là tổng hợp các hoạt động trong 3 khía cạnh chính là : logistics sinh tồn, logistics hoạt động và logistics hệ thống. Logistics sinh tồn có liên quan tới các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống như lương thực, thực phẩm, quần áo, nơi cư trú. Tại bất kỳ thời điểm nào, trong Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 14
  15. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam bất kỳ môi trường nào, logistics sinh tồn tương đối ổn định và có thể dự đoán được. Con người có nhận thức rất hữu hạn về nhu cầu: cần gì, cần bao nhiêu, khi nào cần và cần ở đâu. Logistics sinh tồn là hoạt động cơ bản của các xã hội sơ khai và là thành phần thiết yếu trong một xã hội công nghiệp hoá. Nó cung cấp nền tảng cho logistics hoạt động. Logistics hoạt động mở rộng các nhu cầu cơ bản bằng cách liên kết các hệ thống sản xuất các sản phẩm xa xỉ, đẹp đẽ cho cuộc sống. Theo định nghĩa, logistics hoạt động liên kết các nguyên liệu thô doanh nghiệp cần trong quá trình sản xuất, các dụng cụ sử dụng nguyên liệu đó trong quá trình sản xuất và phân phối thành phẩm có được từ sản xuất. Khía cạnh này của logistics cũng tương đối ổn định và có thể dự đoán được. Tất cả các doanh nghiệp, từ các nhà sản xuất xe hơi cho đến các chuỗi cửa hàng phục vụ đồ ăn nhanh đều có thể xác định được số lượng nguyên liệu và nguồn lực cần cho sản xuất với độ chính xác cao. Tuy nhiên, logistics hoạt động không thể xác định được khi nào thì một bộ phận máy móc nào đó có sự cố, và để sửa chữa thì cần cái gì, hoặc thời gian cần để sửa chữa. Logistics hoạt động chỉ có liên quan tới sự vận động và lưu kho của nguyên liệu vào trong, qua và đi ra khỏi nhà máy, nên nó sẽ là nền tảng cho logistics hệ thống. Logistics hệ thống liên kết các nguồn lực cần có trong việc giữ cho hệ thống hoạt động. Những nguồn lực này, hay nói cách khác là các yếu tố logistics bao gồm thiết bị, phụ tùng thay thế, nhân sự và đào tạo, các tài liệu kỹ thuật, các thiết bị kiểm tra và hỗ trợ và nhà xưởng. Sự hội nhập được tổ chức tốt của các yếu tố logistics là rất quan trọng, ví dụ như khi hướng dẫn sửa chữa mô tả một cách thức để sửa chữa nhưng dụng cụ thì lại được dùng cho mục đích khác, do vậy, việc sửa chữa có thể sẽ không thực hiện được. Văn phòng hỗ trợ logistics tích hợp đã đưa ra định nghĩa về hỗ trợ logistics tích hợp như sau: Hỗ trợ logistics tích hợp là sự kết hợp của tất cả các phương án hỗ trợ cần thiết để đảm bảo hỗ trợ hiệu quả và kinh tế trong một hệ thống trong suốt quá trình tồn tại của nó. Nó là một phần trọn vẹn của tất cả các khía cạnh trong hệ thống và hoạt Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 15
  16. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam động của hệ thống. Hỗ trợ logistics tích hợp nổi trội hơn so với tất cả các yếu tố logistics là nhờ sự liên kết và sự rõ ràng 3. 2.1. Tiếp cận logistics theo trục ngang Logistics Logistics Logistics sinh tồn hoạt động hệ thống Hình 2: Logistics tiếp cận theo trục ngang Hình 2 miêu tả các khái niệm được nói đến ở trên khi logistics được tiếp cận theo trục ngang. Nhân tố thứ nhất là logistics sinh tồn, tại đó toàn bộ thời gian được sử dụng cho một cuộc đấu tranh sinh tồn không có điểm kết. Trong điều kiện này các cá nhân không sở hữu cả công cụ lẫn nhu cầu sản xuất ra thành phẩm để trao đổi cho nhau. Như thế hầu như tất cả các nỗ lực được sử dụng để nhằm bảo toàn sự tồn tại của các cá nhân. Logistics trong điều kiện đó chỉ là sự tập trung của các nguyên liệu của cuộc sống như lương thực thực phẩm, quần áo, nơi cư trú để cung cấp cho sự tiếp diễn của cuôc sống. Logistics sinh tồn tồn tại như là một hoạt động độc lập, tuy nhiên điều này chỉ là tạm thời. Bởi vì khi các điều kiện phát triển thì dễ nhận thấy có một bước tiến hướng tới sự chuyên môn hoá. Ví dụ như một cá nhân có khả năng đóng ghế sẽ bắt đầu sử dụng sức lực của mình để chuyên tâm vào việc đó. Sản xuất ra có thể vượt quá nhu cầu, và các sản phẩm thừa đó sẽ được coi là thành phẩm dùng để trao đổi cho người khác. Người đóng ghế đó có thể cần các nguyên vật liệu thô khác để sản xuất. Ghế có thể được coi là nguyên liệu đang trong quá trình chờ để được chuyển thành các dạng lắp ghép khác như là hàng bán thành phẩm hoặc cũng có Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 16
  17. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam thể là hàng thành phẩm chờ giao cho khách hàng. Các yếu tố của logistics hoạt động (sự di chuyển của nguyên liệu vào trong, qua và đi ra khỏi doanh nghiệp) đã được hình thành. Tuy nhiên, logistics hoạt động không thể tồn tại độc lập, nó phải dựa vào nền tảng là logistics sinh tồn. Trong một xã hội như vậy, sẽ không cần logistics phải mở rộng tới điểm chuyển giao quyền sở hữu. Chiếc ghế đã được sản xuất nếu bị gẫy sẽ được người chủ mới sửa chữa. Tuy nhiên thời kỳ của chuyên môn hoá đã tất yếu dẫn tới cuộc cách mạng công nghiệp với sự gia tăng cùng một lúc về số lượng, sự đa dạng, hàm lượng kỹ thuật của sản phẩm. Người bán hàng sẽ không còn có thể sửa chữa được sản phẩm do mình sản xuất ra. Việc sửa chữa bây giờ đòi hỏi người sửa chữa phải được đào tạo, phải có công cụ đặc biệt và thiết bị kiểm tra, phải có sẵn các thiết bị thay thế, và thậm chí phải có nhà xưởng. Sự hỗ trợ như hệ quả của việc chuyển giao quyền sở hữu đã trở thành một vấn đề quan trọng. Do đó chúng ta bước vào kỷ nguyên của logistics hệ thống. Logistics hệ thống chỉ có thể tồn tại trên cơ sở logistics sinh tồn và logistics hoạt động. Điều này đã dẫn tới một quan điểm về logistics khác thích hợp hơn. 2.2. Tiếp cận logistics theo hình tháp Ba khía cạnh của logistics bây giờ đã được thể hiện theo hình tháp, trong đó mỗi khía cạnh của logistics được các khía cạnh khác ở cấp độ thấp hơn hỗ trợ. Sự thể hiện này đã cho thấy rằng logistics hoạt động liên kết và mở rộng từ logistics sinh tồn và đến lượt mình, logistics hệ thống lại liên kết và mở rộng từ logistics hoạt động. Cách tiếp cận này gần như đã đi đúng hướng với thực tế. Tuy nhiên, điều này không ngầm ám chỉ rằng các doanh nghiệp phải liên kết tất cả các yếu tố logistics hay các nguồn lực với nhau. Logistics h ệ th ố ng Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 17
  18. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Logistics hoạt động Logistics sinh tồn Hình 3: Logistics tiếp cận theo hình tháp Lấy ví dụ, một nhà máy thép đòi hỏi nguyên liệu thô (quặng sắt) phải được đưa vào trong nhà máy, thép sẽ tồn tại trong nhà máy trong nhiều giai đoạn cho đến khi thành sản phẩm cuối cùng, thành phẩm này (thép) sẽ được lưu kho trước khi được phân phối cho khách hàng. Nhà máy thép này sẽ không cần thiết lắm phải phát triển chương trình logistics nhằm cung cấp sự hỗ trợ cho phân phối sản phẩm. Như vậy, nhà máy thép trong ví dụ này đã liên kết các yếu tố của logistics hoạt động với sự hiểu biết rất hạn chế về logistics hệ thống. 3. Đặc điểm của logistics 3.1. Logistics là một dịch vụ Logistics có chức năng là một dịch vụ. Nó tồn tại để cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp hoặc cho khách hàng của doanh nghiệp. Dịch vụ, đối với cả doanh nghiệp hay khách hàng, đều được cung cấp thông qua việc tập trung các yếu tố khác nhau, mà các yếu tố này lại được tập hợp dưới "tán ô" của logistics. Dịch vụ logistics trong doanh nghiệp chú trọng đến các yếu tố về quản trị nguyên vật liệu, lưu kho trong nhà máy và phân phối vật chất. Tuy nhiên, nó không chỉ bị hạn chế trong các dịch vụ hữu hạn này. Ngược lại, bản chất của các chức năng cơ bản này chỉ ra các mức độ khác nhau của việc nhấn mạnh vào các yếu tố khác của logistics. Ví dụ:  Một trong ba chức năng cơ bản - quản trị nguyên vật liệu, chuyển giao lưu kho nội bộ và phân phối vật chất - đều trực tiếp dẫn tới yêu cầu phải lưu kho. Nguyên vật liệu cho sản xuất bao giờ cũng được cung ứng nhiều hơn mức cầu, và sự dư thừa này cần phải được kiểm soát và tính tới. Quá trình sản xuất, bất kể là trong một doanh nghiệp hay trong các doanh nghiệp phân tán trong một vùng Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 18
  19. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam địa lý cũng cần phải được kiểm soát, tính toán và được tiến hành thông qua kỹ thuật chuyển giao lưu kho nội bộ. Các sản phẩm, trừ trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng, được sản xuất ra đều vượt quá cầu và phần thừa đó được lưu trong kho. Việc lưu kho cũng đòi hỏi phải dự trữ sẵn và kiểm soát các phụ tùng thay thế nhằm duy trì hoạt động sản xuất.  Sự xuất hiện của vấn đề lưu kho đã làm nảy sinh nhu cầu phải xây dựng nhà xưởng. Nhà kho và phòng chứa cần phải được cung cấp để lưu trữ và kiểm soát nguyên liệu phục vụ sản xuất, sản phẩm và các thiết bị cần lưu kho khác mà doanh nghiệp cần đến.  Thiết bị sản xuất tất yếu sẽ bị hỏng hóc, vì vậy chúng cần được đem đến cho dịch vụ sửa chữa trong thời gian sớm nhất có thể. Điều này đã tạo nên nhu cầu phải thiết lập khả năng bảo dưỡng, sửa chữa và nhà xưởng cần thiết phục vụ cho việc bảo dưỡng.  Lực lượng lao động tham gia vào sản xuất phải được đào tạo vận hành các thiết bị sản xuất. Nhân viên bảo dưỡng cũng phải được đào tạo để phát triển khả năng sửa chữa đối với cùng một loại máy móc thiết bị. Ngược lại, trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng đòi hỏi phải sử dụng các tài liệu kỹ thuật, dụng cụ, thiết bị hỗ trợ và kiểm tra. Từ những diễn giải trên, ta thấy một doanh nghiệp trong điều kiện hoạt động bình thường sẽ đòi hỏi sự hỗ trợ từ các yếu tố logistics. Một yếu tố logistics cụ thể - ví dụ như việc bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị sản xuất - sẽ được cung cấp từ một nhà chuyên nghiệp chứ không phải từ trong doanh nghiệp. Tuy nhiên điều này cũng không thể làm mất đi nhu cầu cho dịch vụ này, mà chỉ đơn giản là nó được cung cấp từ một nguồn bên ngoài doanh nghiệp. Nhưng trách nhiệm đối với chất lượng của sự hỗ trợ này lại là trách nhiệm của logistics trong doanh nghiệp. 3.2. Logistics có chức năng hỗ trợ Logistics có chức năng hỗ trợ, thể hiện ở điểm nó tồn tại chỉ để cung cấp sự hỗ trợ cho các bộ phận khác của doanh nghiệp. Logistics hỗ trợ quá trình sản Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 19
  20. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam xuất (là logistics hoạt động), nó còn hỗ trợ cho sản phẩm sau khi được chuyển quyền sở hữu từ người sản xuất sang người tiêu dùng (là logistics hệ thống). Điều này không có nghĩa là quá trình sản xuất không bao gồm các yếu tố của logistics hệ thống hay là hoạt động hỗ trợ sau khi chuyển giao quyền sở hữu không bao gồm các yếu tố của logistics hoạt động. Trên thực tế, các khía cạnh logistics được liên kết với nhau và được sắp xếp tuần tự với nhau. Xem xét một ví dụ là người ta ngày càng sử dụng nhiều rôbốt trong quá trình sản xuất. Những máy móc tinh vi này đòi hỏi công nhân phải được đào tạo để phát triển các kỹ năng cần thiết để vận hành và sửa chữa các rôbốt. Công việc sửa chữa lại đòi hỏi phải có tài liệu kỹ thuật đặc biệt, dụng cụ đặc biệt và thiết bị kiểm tra, thậm chí là cả một nhà máy sửa chữa. Tất cả những cái này đều là các yếu tố của hệ thống logistics. Xem xét ở khía cạnh khác, coi như nhà máy sửa chữa được dùng để cung cấp sự hỗ trợ tiếp sau việc chuyển giao quyền sở hữu. Để sửa chữa có hiệu quả thì nhà máy đó phải duy trì một kho chứa phụ tùng thay thế, và kho này phải được nhập hàng thường xuyên khi các phụ tùng thay thế được sử dụng trong quá trình sửa chữa. Sự di chuyển của phụ tùng thay thế vào trong nhà máy và hệ quả của nó là việc lưu trữ hàng hoá cho đến khi cần dùng để sửa chữa đã tạo nên các yếu tố của logistics hoạt động. Sự liên kết tự nhiên của logistics đã cho thấy những lý luận cho rằng logistics hoạt động đối lập với logistics hệ thống là không đúng. Do vậy, chỉ có một loại logisitcs với các yếu tố như vận tải (việc di chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá), kho bãi, phụ tùng thay thế, nhân sự và đào tạo nhân sự, tài liệu, thiết bị kiểm tra và hỗ trợ, nhà xưởng. Một doanh nghiệp có thể kết hợp bất kỳ yếu tố logistics nào với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tuỳ theo cấp độ yêu cầu của doanh nghiệp mình. Giám đốc Sản xuất Tài chính Marketing Logistics Mua vào Kế toán Quảng cáo Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 20 Lưu kho Đầu tư Bán hàng
  21. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Hình 4: Bốn chức năng hoạt động của doanh nghiệp 3 Theo hình 4, logistics hỗ trợ cho các chức năng khác của doanh nghiệp. Sản xuất được logistics hỗ trợ thông qua quản lý sự di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào trong doanh nghiệp và bán thành phẩm di chuyển trong doanh nghiệp. Marketing được logistics hỗ trợ thông qua quản lý việc di chuyển và lưu trữ hàng thành phẩm. Logistics hỗ trợ sản xuất và marketing có thể sẽ dẫn đến yêu cầu phải đào tạo nhân lực, dự trữ phụ tùng thay thế hay bất kỳ một yếu tố nào khác nữa của logistics. Ví dụ, việc sản xuất có thể làm phát sinh nhu cầu phải đào tạo người lao động để vận hành và sửa chữa máy móc trong quá trình sản xuất. Mặt khác, marketing lại đòi hỏi phải đào tạo khách hàng để họ biết cách sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Logistics cũng có thể đóng vai trò liên kết với chức năng tài chính để giải quyết bất kỳ xung đột nào phát sinh giữa các chức năng của doanh nghiệp do doanh nghiệp có quá nhiều mục tiêu phải hoàn thành cùng một lúc. 4. Các yếu tố tạo nên chuỗi logistics Các yếu tố logistics bao gồm các hoạt động hay các nguồn lực đại diện cho đầu vào của hệ thống logistics. Như đã phân tích ở trên, các yếu tố logistics, khi được liên kết trong một thể thống nhất và hài hoà thì sẽ hỗ trợ cho các mục tiêu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thể tồn tại bằng cách tự cung tự cấp. Mô hình doanh nghiệp được định hình và điều tiết bởi luật lệ và quy định do hệ thống chính trị xây dựng nên. Còn sản phẩm, giá sản phẩm và thị trường bán hàng của doanh nghiệp lại chịu ảnh hưởng của hệ thống công nghiệp đặc thù nơi doanh nghiệp hoạt động. Việc cung cấp Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 21
  22. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam nguyên vật liệu và phân phối thành phẩm chịu sự kiểm soát của hệ thống vận tải. Việc xây dựng nhà xưởng mới và tăng vốn chịu tác động của hệ thống tài chính. Nhà quản trị logistics phải nhận thức được những mối quan hệ này và hành động sao cho những tác động thực tế cũng như tiềm năng của mỗi yếu tố logistics không bị phủ nhận lẫn nhau. Ở phần trên, chúng ta đã được biết đến các yếu tố logistics như vận tải, kho bãi, phụ tùng thay thế, nhân lực và đào tạo nhân lực, tài liệu, thiết bị kiểm tra và hỗ trợ, nhà xưởng và trong phần này, chúng ta sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu các yếu tố chủ yếu của logistics. 4.1. Yếu tố vận tải Yêu cầu cần phải có yếu tố logistics này xuất phát từ xu hướng chuyên môn hoá. Khi một doanh nghiệp thu hẹp phạm vi hoạt động của mình vào một hay một nhóm các sản phẩm có liên quan thì doanh nghiệp đó ngày càng phụ thuộc vào môi trường bên ngoài. Mỗi thành viên của hệ thống công nghiệp, từ doanh nghiệp nhỏ nhất cho đến tập đoàn hùng mạnh nhất, đều phải dựa vào các doanh nghiệp khác cung cấp nguyên vật liệu cần thiết cho hoạt động của mình. Vận tải cung cấp các phương tiện nhằm di chuyển các nguyên vật liệu đó từ nơi có nguồn hàng tới doanh nghiệp, tại đó nguyên vật liệu được sử dụng để chuyển đổi thành sản phẩm và giao thông vận tải, một lần nữa lại làm công việc cung cấp hệ thống phân phối vật chất cho sản phẩm. Như vậy, giao thông vận tải, sự di chuyển của nguyên vật liệu vào trong doanh nghiệp và việc phân phối thành phẩm từ doanh nghiệp ra thị trường đã tạo một vòng tuần hoàn trong hoạt động của doanh nghiệp. Tầm quan trọng của vận tải, trên cơ sở là một yếu tố của logistics, được biết đến vào những năm 70, khi thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng nhiên liệu trầm trọng. Cuộc khủng hoảng này đẫ khiến cho người tiêu dùng phải mua nhiên liệu với giá cao hơn rất nhiều và điều này đã làm cho chi phí kinh doanh cũng Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 22
  23. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam tăng lên đáng kể. Chi phí tăng cao đe doạ nghiêm trọng tới các doanh nghiệp hoạt động trong ngành vận tải vì chi phí tăng lên sẽ dẫn tới phí vận tải tăng theo và điều này hiển nhiên sẽ làm cho giá hàng hoá trên thị trường tăng lên. Một doanh nghiệp hiếm khi thoả mãn nhu cầu về vận tải của mình bằng nội lực. Thay vào đó, kênh logistics này sẽ bao gồm nhiều công ty độc lập hoạt động nhằm mục đích chuyển nguyên vật liệu vào doanh nghiệp hay thanh phẩm ra khỏi doanh nghiệp. Các công ty độc lập thu lợi nhuận từ việc di chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm được gọi là các nhà trung gian chuyên nghiệp. Một kênh logistics có thể được tạo bởi một số nhà trung gian chuyên nghiệp, và sự thành bại của mỗi thành viên được quyết định bởi sự thành bại của toàn bộ kênh. Vận tải cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến vị trí của doanh nghiệp. Ví dụ, khả năng sẵn sàng vận chuyển bằng đường sắt hoặc đường bộ có thể cho phép doanh nghiệp lựa chọn xây dựng nhà máy ở nơi xa nguồn nguyên liệu. Hệ thống phân phối sản phẩm cũng có tác động tới việc lựa chọn vị trí của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có một kênh phân phối với chi phí được tối thiểu và các kênh logistics hiệu quả thì lựa chọn vị trí của doanh nghiệp sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi thị trường mà doanh nghiệp phục vụ. Tóm lại, yếu tố logistics vận tải bao gồm cả doanh nghiệp, nhà cung cấp của doanh nghiệp, thị trường mà doanh nghiệp hướng tới, nhu cầu của doanh nghiệp và khả năng vận tải của các kênh logistics để có thể hội nhập vận tải với các yếu tố logistics khác. 4.2. Yếu tố kho bãi Kho bãi và các hoạt động liên quan tới nó đại diện cho một yếu tố logistics quan trọng và là sự nối kết cơ bản trong kênh logistics. Trong toàn bộ quá trình sản xuất, từ nguyên vật liệu nhập vào cho tới hàng thành phẩm đều cần phải có kho bãi. Không chỉ vấn đề di chuyển nguyên vật liệu và phân phối sản phẩm làm nảy sinh nhu cầu phải dự trữ. Các yêu cầu này có liên quan cơ bản tới nhu cầu ở Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 23
  24. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam bên trong doanh nghiệp mà đó là hệ quả của việc nhận thức được trách nhiệm của doanh nghiệp phải mở rộng ra khỏi điểm chuyển giao quyền sở hữu. Doanh nghiệp thực hiện nhu cầu lưu trữ nội bộ khi bán thành phẩm được dịch chuyển trong quá trình sản xuất để thành thành phẩm. Điều kiện này có thể thay đổi tuỳ vào mục tiêu ưu tiên của doanh nghiệp, ngày giao hàng bị hoãn lại, nguyên vật liệu bị thiếu hay một nguyên nhân nào đó. Yêu cầu phải tăng dự trữ bắt nguồn từ nhu cầu thiết lập các nhà kho để chứa phụ tùng thay thế phục vụ cho máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất. Yêu cầu về dự trữ cũng có thể tăng lên khi sản phẩm bị hỏng cần phải sửa chữa. Doanh nghiệp hay có thể là nhà trung gian chuyên nghiệp phải dự trữ một kho bộ phận thay thế và sửa chữa nhằm đảm bảo khả năng cung cấp của mình. Việc xây dựng kho chứa là một yếu tố quan trọng ở mỗi bước của quá trình lưu kho và nó sẽ giúp đưa ra quyết định (1) lưu trữ cái gì, (2) lưu trữ bao nhiêu, (3) và khi nào thì cần tới các sản phẩm lưu trữ này. Do đó, yêu cầu về lưu trữ là một nhân tố quan trọng khi quyết định loại và quy mô của các kho chứa. 4.3. Yếu tố phụ tùng thay thế và sửa chữa Phụ tùng thay thế và sửa chữa là một khoản đầu tư bằng tiền mặt nhằm bảo hiểm cho nhu cầu có thể phát sinh trong tương lai. Ví dụ, một nơi làm việc được thắp sáng bằng một bóng đèn đơn duy nhất. Tuy nhiên, chiếc bóng đèn này có thể bị hỏng bất cứ lúc nào và không có cách nào để biết chắc được khi nào thì nó hỏng. Giả dụ chi phí thay một cái bóng đèn là hết 20 nghìn đồng và phải đi mua bóng đèn ở một cửa hàng cách đó vài km. Thời gian tối thiểu dự tính để thay một cái bóng đèn là 2 giờ, trong đó có cả thời gian đi và về tới cửa hàng bán bóng đèn. Như vậy một cái bóng đèn hỏng sẽ làm mất ít nhất là 2 giờ không làm việc được nếu như không có bóng đèn dự trữ. Cho nên nếu ngày hôm nay ta bỏ thêm ra 20 nghìn đồng để mua thêm một cái bóng đèn thì ta sẽ giảm được thời gian bị mất do một sự cố gây nên, khi đó thời gian mất đi chỉ tính bằng phút chứ không phải bằng giờ. Ví dụ này đã cho thấy hiệu quả về mặt chi phí cũng Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 24
  25. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam như công việc khi chi tiêu vào ngày hôm nay để bảo đảm tránh được sự cố có thể xảy ra trong tương lai. Phụ tùng thay thế và sửa chữa, với sự trợ giúp của kho bãi, là một yếu tố quan trọng của hỗ trợ logistics tích hợp. Phụ tùng thay thế và sửa chữa thường được sử dụng nhằm hỗ trợ cho hoạt động phân phối sản phẩm như là một dịch vụ sau bán, ngoài ra nó còn có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ các trang thiết bị của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất. 4.4. Nhân lực và đào tạo nhân lực Đào tạo nhân lực có thể được coi là yếu tố đòi hỏi chi phí lớn nhất trong hỗ trợ logistics tích hợp. Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phức tạp, có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao hay các sản phẩm mang tính nghệ thuật đều đòi hỏi lực lượng lao động của mình phải được đào tạo kỹ lưỡng để có kiến thức chuyên môn và có tay nghề cao. Chương trình đào tạo phải được thiết kế đặc biệt và phát triển phù hợp với sản phẩm được sản xuất ra, với các tài liệu kỹ thuật được áp dụng trong quá trình sản xuất, với các hướng dẫn bảo dưỡng và các thiết bị hỗ trợ và kiểm tra. Việc đào tạo phải được lên kế hoạch sao cho có đủ số lượng nhân viên vận hành cũng như nhân viên kỹ thuật để hỗ trợ cho sản phẩm (nhằm đảm bảo có đủ số lượng, đúng chủng loại, đúng nơi, đúng lúc). Việc tuyển chọn nhân lực kỹ càng, cùng với chương trình đào tạo hiệu quả được thiết kế đặc biệt và liên kết với tổng thể các hoạt động logistics phục vụ cho mục tiêu của doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu chi phí cho yếu tố logistics này. 4.5. Tài liệu kỹ thuật Tài liệu kỹ thuật rất cần thiết trong việc hỗ trợ cho sản phẩm có hiệu quả. Tài liệu kỹ thuật phải được biên tập sao cho phù hợp với khách hàng mà doanh nghiệp hướng tới. Ví dụ như một tài liệu kỹ thuật (cũng như văn phong sử dụng trong tài liệu kỹ thuật đó) sẽ khác khi nó được thiết kế để hỗ trợ cho một thiết bị phục vụ cho phòng Nghiên cứu và phát triển của một trường Đại học so với khi nó được sử dụng để hỗ trợ cho việc lắp đặt tại hộ gia đình. Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 25
  26. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Tài liệu kỹ thuật phải cung cấp các thông tin cần thiết để lắp đặt, các hướng dẫn lắp đặt và hướng dẫn vận hành. Ngoài ra còn có những tài liệu kỹ thuật khác cung cấp thông tin về bảo dưỡng, danh sách các bộ phận tháo rời và thay thế, cách sử dụng thiết bị hỗ trợ và kiểm tra. Tài liệu kỹ thuật phải tương thích (liên kết với các yếu tố logistics khác) và phải được so sánh với sản phẩm thực tế để đảm bảo độ chính xác và đầy đủ của tài liệu. 4.6. Thiết bị kiểm tra và hỗ trợ Máy móc và thiết bị, bất kể là một phần của quá trình sản xuất hay là một sản phẩm được doanh nghiệp phân phối, đều đòi hỏi phải được sửa chữa, bảo dưỡng và chỉnh sửa định kỳ. Những hoạt động này sẽ đễ dàng hơn nhiều nếu như sử dụng các loại thiết bị hỗ trợ và kiểm tra. Thiết bị hỗ trợ và kiểm tra cần phải được lựa chọn hoặc thiết kế đặc biệt để có thể đáp ứng được bất kỳ yêu cầu cụ thể nào đó, để phù hợp với môi trường hoạt động của sản phẩm và khả năng con người có thể vận hành và bảo dưỡng. Các thiết bị hỗ trợ và kiểm tra bị tách rời nhau có thể phức tạp hơn các thiết bị đồng bộ, do đó, nó cần có sự hỗ trợ thêm của logistics. Logistics trong các thiết bị hỗ trợ và kiểm tra được thể hiện thông qua quyết định: cần cái gì, số lượng bao nhiêu và khi nào cần tới. 4.7. Yếu tố nhà xưởng Các nguồn lực logistics trọn gói sẽ vẫn chưa trọn vẹn nếu như không có yếu tố nhà xưởng hỗ trợ cho các yếu tố logistics khác. Một nhà xưởng phục vụ cho hoạt động logistics đòi hỏi phải được xây dựng mới hoặc phải thay đổi kết cấu xây dựng hiện tại để đáp ứng các yêu cầu cụ thể của logistics. Nhà xưởng để hoạt động logistics bao gồm:  Một nhà xưởng tại nơi nhà cung cấp để lưu kho nguyên vật liệu trước khi chúng được chuyển tới doanh nghiệp,  Một nhà xưởng tại doanh nghiệp để lưu kho nguyên vật liệu nhập vào cho đến khi cần để sản xuất, Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 26
  27. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam  Một nhà xưởng để lưu kho hàng thành phẩm trước khi đem ra phân phối trên thị trường,  Một nhà xưởng làm công tác bảo dưỡng và sửa chữa máy móc thiết bị sử dụng trong quá trình sản xuất,  Một nhà xưởng để bảo dưỡng và sửa chữa sản phẩm sau khi được chuyển giao quyền sở hữu. Yêu cầu đối với nhà xưởng là do doanh nghiệp hoặc nhà trung gian chuyên nghiệp đưa ra. Các hoạt động logistics gồm việc quyết định quy mô của nhà xưởng, lựa chọn vị trí thuận lợi và liên kết nhà xưởng với các yếu tố logistics khác. Các yếu tố logistics kể trên không thể phản ánh hết được hoạt động tổng thể trong lĩnh vực logisitcs, vì khi áp dụng một yếu tố logistics cụ thể thì còn cần phải thực hiện thêm nhiều công việc khác. Tuỳ vào mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp trong từng thời kỳ mà có thể áp dụng các yếu tố logistics khác nhau với mức độ liên kết của các yếu tố đó cũng khác nhau. 5. Vận hành logistics Vận hành logistics bao gồm tất cả các hoạt động có liên quan đến việc hoàn thành một hoạt động logistics. Đến lượt mình, hoạt động logistics lại đòi hỏi phải có hỗ trợ logistics và dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics có thể liên quan tới nguyên vật liệu thô, hàng thành phẩm, đào tạo nhân lực, hoạt động sửa chữa hay bất kỳ hoạt động logistics nào. Vận hành logistics kết thúc bằng việc đáp ứng yêu cầu đối với dịch vụ. Do đó, có thể đưa ra kết luận rằng vận hành logistics liên kết chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp, bắt đầu bằng việc xác định nhu cầu logistics và kết thúc bằng việc tìm ra giải pháp giải quyết nhu cầu đó. 5.1. Chu kỳ hoạt động của logistics Logistics liên kết các chức năng khác nhau của doanh nghiệp, liên kết nhà cung cấp với doanh nghiệp và khách hàng với doanh nghiệp. Mối liên hệ này Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 27
  28. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam bao gồm cả hoạt động vận tải và thông tin liên lạc nhằm thúc đẩy nhu cầu đối với việc vận hành logistics và liên kết chu kỳ vận động của nguyên vật liệu, chu kỳ chuyển giao lưu kho cũng như chu kỳ của sản phẩm vào chu kỳ hoạt động tổng thể của logistics. Chu kỳ hoạt động của logistics được bắt đầu từ việc nhận thức được nhu cầu về dịch vụ logistics. Việc nhận thức được nhu cầu này sẽ dẫn tới yêu cầu về dịch vụ. Các yêu cầu này có thể đến từ khách hàng hay người tiêu dùng (thể hiện qua chu kỳ của sản phẩm), nó cũng có thể xuất phát từ phía doanh nghiệp (thể hiện qua chu kỳ vận động của nguyên vật liệu hay chu kỳ chuyển giao lưu kho nội bộ). Chính các yêu cầu này lại định hướng cho các hoạt động logistics cần thiết cho sự di chuyển của nguyên vật liệu vào trong nhà máy, bán thành phẩm trong quá trình sản xuất và thành phẩm ra khỏi nhà máy. Hình 5 cho thấy việc lưu kho nguyên vật liệu được liên kết với các nhà kho chứa hàng để trở thành một phần của doanh nghiệp. Một số sản phẩm được sản xuất theo đơn đặt hàng, do đó nó đặc định được số lượng nguyên vật liệu cần phải lưu kho để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất. Điều này kéo theo hệ quả là doanh nghiệp cũng chỉ lưu kho một số lượng thành phẩm hữu hạn để đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Hình 5: Chu kỳ hoạt động của logistics Luồng nguyên Luồng chuyển giao Luồng sản phẩm vật liệu lưu kho Nhà cung cấp Kho dự trữ Kho lưu trữ Khách hàng nguyên vật liệu nguyên liệu sản phẩm Doanh nghiệp Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 28
  29. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Chu kỳ hoạt động của logistics được đo thông qua hiệu quả và năng suất. Hiệu quả được thể hiện ở chỗ mục tiêu đề ra được hoàn thành tốt như thế nào, còn năng suất thể hiện ở việc chi ra các nguồn lực để đạt được mục tiêu đó. Lấy ví dụ về việc cung cấp mức độ dịch vụ tốt nhất có thể đối với sản phẩm máy rửa bát chén. Mức độ tối ưu của dịch vụ có thể được thể hiện ở điểm: với mỗi máy rửa bát chén có một nhân viên kỹ thuật sẵn sàng sửa chữa khi cần. Xét về khía cạnh đạt được mục tiêu đề ra là cung cấp dịch vụ tốt nhất có thể thì điều này hoàn toàn hiệu quả, nhưng xét ở khía cạnh các nguồn lực phải bỏ ra thì điều này không năng suất. Vì vậy có thể thấy rõ rằng khách hàng chính là người kiểm soát chu kỳ hoạt động của logistics. Yêu cầu của khách hàng về một sản phẩm sẽ tạo nên chu kỳ của sản phẩm và điều này kéo theo hệ quả là việc mua hàng sẽ làm giảm số lượng hàng lưu trữ trong kho. Hàng hoá giảm đi trong kho sẽ kích thích quá trình sản xuất, như vậy nguyên vật liệu lại được đưa vào doanh nghiệp để chuyển thành thành phẩm. Quá trình sản xuất tiêu thụ nguyên vật liệu và tạo ra nhu cầu đối với nguyên vật liệu mới cho doanh nghiệp. Và sự kiểm soát của khách hàng ở dạng này được thể hiện qua một triết lý gọi là hoạt động Marketing. 5.2. Hoạt động Marketing Việc chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường, nơi khách hàng là "thượng đế" là một cuộc cách mạng lớn. Trước những năm 50, người ta áp dụng triết lý hướng về sản xuất, tức là tập trung chủ yếu vào khả năng sản xuất và bán sản phẩm của doanh nghiệp, còn khách hàng chỉ được coi là nơi chứa hàng hoá. Việc ngày càng có nhiều hàng hoá và cạnh tranh gay gắt giữa những loại hàng hoá có thể thay thế cho nhau đã dẫn tới sự hình thành định hướng tới thị trường vào những năm 50. Việc chuyển sang tư duy về Marketing là một triết lý mới trong kinh doanh, nó đòi hỏi doanh nghiệp phải điều tra về dung lượng thị Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 29
  30. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam trường để đưa ra quyết định thị trường cần cái gì và sản xuất các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu đó của thị trường. "Bán cho khách hàng cái mà họ cần" đã trở thành phương châm kinh doanh mới. Phương thức kinh doanh hướng tới thị trường đã tạo nên một số thử thách mới đối với các nhà quản trị. Nó đòi hỏi các nhà quản trị phải biết được đâu là thị trường của doanh nghiệp, nó đưa ra tư duy về dịch vụ khách hàng hiệu quả và hỗ trợ sản phẩm, nó giúp đưa đúng sản phẩm tới đúng nơi cần vào thời điểm thích hợp với mức giá phải chăng, nó thiết lập nhu cầu phải có kênh phân phối để tối đa hoá lượng hàng bán ra với mức giá hợp lý và nó đòi hỏi phải có sự hỗ trợ đối với sản phẩm sau khi chuyển giao quyền sở hữu. Từ đây ta có thể thấy mối liên hệ khăng khít giữa tư duy về Marketing với tư duy về hỗ trợ logistics tích hợp. Cho dù doanh nghiệp hay khách hàng quyết định về sản phẩm thì chính bản thân sản phẩm sẽ quyết định loại kênh phân phối và việc sử dụng các nguồn lực trong doanh nghiệp. Thông qua việc chuyển đổi các nguồn lực này, quá trình sản xuất sẽ tạo ra thành phẩm và thành phẩm lại được chuyển tới khách hàng. Sản phẩm có được sản xuất lâu dài hay không chỉ có thể được quyết định thông qua hoạt động bán hàng. Doanh nghiệp sẽ không thể tiếp tục hoạt động nếu như sản phẩm sản xuất ra không bán được. Doanh nghiệp định hướng vào thị trường sẽ sử dụng các nghiên cứu về thị trường để đảm bảo sản phẩm nào có tiềm năng được khách hàng ưa thích. Và logistics, là một chức năng cơ bản trong doanh nghiệp, có vai trò quan trọng trong quá trình khách hàng tiếp cận, chấp nhận và tin tưởng vào sản phẩm của doanh nghiệp. Vai trò này sẽ thay đổi tuỳ theo từng pha của vòng đời sản phẩm. 5.3. Vòng đời sản phẩm Sản phẩm cũng như con người, đều có quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành rồi già lão và mất đi. Vòng đời của sản phẩm có thể kéo dài trong vài tháng, cũng có thể trong vài thập kỷ và còn lâu hơn nữa. Một vòng đời sản phẩm Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 30
  31. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam có bốn pha, bao gồm pha giới thiệu sản phẩm, pha tăng trưởng, pha bão hoà và pha suy thoái 12. Các sản phẩm mới sẽ được tung ra thị trường tại pha giới thiệu sản phẩm và chỉ nhận được sự chấp nhận hữu hạn của thị trường. Sản phẩm mới phải được khuyếch trương mạnh để cộng đồng tiêu dùng có thể nhận ra được sự xuất hiện, ưu điểm và các sử dụng sản phẩm đó. Trong pha giới thiệu này, logistics có nhiệm vụ cơ bản là thiết lập nên kênh phân phối có hiệu quả cao. Chi phí về logistics trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ tương đối cao vì chi phí thiết lập nguồn lực logistics, yêu cầu cao về mức độ sẵn sàng của sản phẩm và sự cần thiết phải có phản hồi nhanh chóng đối với các đơn đặt hàng. Khi sản phẩm đạt được sự chấp nhận của cộng đồng tiêu dùng thì sản phẩm bước vào pha tăng trưởng. Trong pha này, doanh thu và lợi nhuận tăng mạnh vì các sản phẩm cạnh tranh vẫn chưa gia nhập thị trường. Pha thứ hai này có thể kéo dài từ vài ngày cho tới vài năm. Hoạt động logistics trong pha tăng trưởng này sẽ chuyển từ việc chú trọng vào sự khuyếch trương của doanh nghiệp sang mối quan tâm thực tế hơn là chi phí và dịch vụ. Cạnh tranh ít và nhu cầu cao đối với sản phẩm cho phép doanh nghiệp quản lý các kênh phân phối một cách thuận lợi nhằm tối thiểu hoá chi phí logistics trên mỗi đơn vị sản phẩm. Khi sản phẩm được thị trường chấp nhận rộng rãi và có doanh thu ngày càng tăng thì sẽ có nhiều đối thủ cạnh tranh muốn nhảy vào thị trường của doanh nghiệp. Giai đoạn này được gọi là pha bão hoà, với đặc điểm là cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Cạnh tranh khốc liệt đã dẫn tới việc giảm lợi nhuận và tăng nhu cầu sử dụng các nguồn lực logistics một cách hiệu quả. Chức năng của logistics trong giai đoạn này lại chuyển sang đáp ứng yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ ở mức độ cao do doanh nghiệp cố gắng duy trì và tăng số lượng khách hàng lên. Chi phí logistics trung bình trên mỗi đơn vị sản phẩm tăng lên cùng với sự chú ý ngày càng tăng tới dịch vụ khách hàng. Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 31
  32. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Pha suy thoái được thể hiện ở điểm thị trường bị thu hẹp. Sản phẩm không còn được ưa chuộng. Hoạt động logistics phải tiếp tục hỗ trợ cho sản phẩm nhằm tránh những rủi ro không đáng có. Tối thiểu hoá rủi ro đã trở thành động lực cho hoạt động logistics trong giai đoạn này. Tuy nhiên, hỗ trợ logistics sẽ chưa kết thúc cùng với quyết định ngừng sản xuất. Doanh nghiệp có thể phải chịu trách nhiệm cung cấp sự hỗ trợ cho sản phẩm trong một thời gian nhất định sau khi sản xuất. Và trong trường hợp này, logistics phải đảm bảo rằng các bộ phận thay thế và các phương tiện phục vụ dịch vụ khách hàng tiếp tục có khả năng đáp ứng cho khách hàng. II. QUẢN TRỊ LOGISTICS 1. Vai trò của quản trị logistics Quản trị logistics không chỉ đơn giản là việc thiết lập nên một hệ thống và làm cho hệ thống đó hoạt động, bởi vì con người không thể lường trước được có những nguy cơ gì có thể xảy ra và không phải nhà quản trị logistics có thể giải quyết được tất cả mọi vướng mắc phát sinh. Quản trị logistics là quá trình áp dụng và phát triển một phương pháp nhằm đảm bảo đạt được hiệu quả với chi phí tối thiểu khi thực hiện các mục tiêu logisitcs. Mục tiêu của logistics, như đã đề cập ở phần trên, là khả năng đem đúng sản phẩm, đúng số lượng tới đúng nơi cần vào đúng lúc. Việc áp dụng các nguyên tắc của quản trị logistics thường xuyên là một sự thoả hiệp giữa các lợi ích đối nghịch nhau trong doanh nghiệp. Ví dụ như vấn đề đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất. Người mua nguyên vật liệu sẽ ngay lập tức nhận ra lý thuyết về lợi thế tăng theo quy mô và sẽ muốn mua với khối lượng lớn để giảm giá thành trên mỗi đơn vị nguyên liệu. Tuy nhiên, điều này có thể sẽ có mâu thuẫn với chính sách quản lý kho bãi của doanh nghiệp vì nếu dự trữ nhiều nguyên liệu như vậy thì sẽ làm phát sinh chi phí lớn cho hoạt động lưu kho. Quản trị logistics có trách nhiệm phải giải quyết những mâu thuẫn như vậy để doanh nghiệp vừa đạt được hiệu qủa mà chỉ phải bỏ ra chi phí ít nhất 2. Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 32
  33. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Quản trị logistics có vị trí rất quan trọng là vậy nhưng cũng lại rất khó khăn để thực hiện. Đó là vì mỗi một mắt xích thực hiện một khâu của toàn bộ hoạt động logistics có thể là những công ty khác nhau. Để liên kết các công ty độc lập với nhau vào thành một chuỗi không phải là chuyện dễ vì mỗi công ty hoạt động vì lợi ích riêng của mình, mà lợi ích chung tối thượng của toàn bộ hệ thống chưa chắc đã là lợi ích tối thượng của một mắt xích cụ thể. Do vậy, nó đòi hỏi nhà quản trị logistics phải biết kết hợp các yếu tố logistics lại với nhau để tạo ra hiệu quả cho toàn bộ các mắt xích của hệ thống. 2. Trách nhiệm của nhà quản trị logistics Nhà quản trị logistics có vai trò và trách nhiệm rất lớn. Bởi vì người đó vừa phải có kiến thức chuyên môn lại vừa phải hiểu biết rộng. Ở khía cạnh thứ nhất, nhà quản trị logistics phải hiểu biết về các mức cước vận tải, phân tích lưu kho, tình hình kho bãi, vấn đề sản xuất, mua hàng và cả các quy định về vận tải. Ở khía cạnh thứ hai, nhà quản trị logistics phải hiểu biết về mối quan hệ giữa tất cả các chức năng của logistics. Thêm vào đó, anh ta phải liên kết được hoạt động logistics với các hoạt động khác trong doanh nghiệp cũng như với nhà cung cấp và khách hàng. Điều quan trọng là nhà quản trị logistics phải biết nghĩ tới toàn bộ hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp. Người đó không chỉ nghĩ tới luồng nguyên liệu trong doanh nghiệp mình mà suy nghĩ của người đó phải bao quát từ lúc lấy hàng của nhà cung cấp tới lúc giao hàng cho khách hàng. Tư duy đó phải bao gồm cả đối thủ cạnh tranh, thị trường tiềm năng Nói ngắn gọn, nhà quản trị logistics phải có tư duy lớn 13. George A.Gecowets, giám đốc điều hành Hiệp hội Quản trị Logistics đã phát biểu: "Hầu hết các nhà quản trị logistics cấp cao đều có kiến thức tổng hợp tốt. Họ trước tiên là các nhà quản trị, và sau đó mới là các chuyên gia về phân phối. Họ có thể điều hành bất kỳ chức năng nào của doanh nghiệp chứ không chỉ có vận tải hay phân phối" 14. Cho dù ở cấp độ quản trị nào thì một nhà quản trị logistics cũng phải quan tâm tới vấn đề lợi nhuận. Logistics có thể làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp bằng cách điều hành hoạt động của doanh nghiệp Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 33
  34. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam một cách hiệu quả, và việc này sẽ làm giảm chi phí. Thêm vào đó, bằng các dịch vụ cung cấp cho khách hàng, logistics còn có thể làm tăng doanh thu và điều này đồng nghĩa với tăng lợi nhuận. Và lợi nhuận có nguồn gốc từ hoạt động logistics thực sự là một khoản rất lớn. Theo Hiệp hội Quản trị Phân phối vật chất Hoa Kỳ, chi phí logistics chiếm khoảng 10% GNP của Hoa Kỳ trong năm 2000. Những ngành như công nghiệp thực phẩm, hoá chất, dược phẩm , nơi mà sự di chuyển của nguyên liệu là rất quan trọng, thì chi phí cho hoạt động logistics chiếm khoảng 10% mỗi đồng đô la doanh thu bán ra. Lợi nhuận trước thuế của mỗi doanh nghiệp khác nhau, nhưng số phần trăm là tương tự nhau, vì vậy có một mối quan hệ hữu cơ là hoạt động logistics tăng lên 5, 10 hay 15% thì lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp cũng tăng tương ứng 5, 10 hoặc 15% và đây là mức tăng rất đáng kể 1. Từ phân tích trên, có thể thấy mỗi quyết định của nhà quản trị logistics có ảnh hưởng trực tiếp tới mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ vấn đề chi phí tới lợi nhuận, từ nhà cung cấp tới khách hàng. Vì vậy, nhà quản trị logistics là tâm điểm của mọi hoạt động logistics và người đó phải nỗ lực để đạt được mục tiêu thiết lập nên các nguồn lực logistics trọn gói một cách hài hoà và thống nhất. 3. Hệ thống quản trị logistics Động cơ thúc đẩy việc tiếp cận với hoạt động logistics, như đã đề cập ở phần trước, là nhằm tìm kiếm các biện pháp cắt giảm chi phí. Để đạt được mục tiêu này, hệ thống quản trị logistics tập trung vào một số khía cạnh chính sau: 3.1. Phân tích tổng chi phí Phân tích tổng chi phí lần đầu tiên được áp dụng trong kinh tế học logistics vào giữa những năm 50 với mục đích nhằm đánh giá chi phí của các vấn đề logistics. Tổng chi phí là tất cả các chi phí có liên quan đến một nhiệm vụ trong chuỗi logistics - từ những ý tưởng đầu tiên trong pha thâm nhập thị trường cho đến hết một vòng đời sản phẩm - và tổng chi phí còn được gọi với một cái tên khác là chi phí cho một vòng đời sản phẩm. Do đó, tư duy về tổng chi phí là nhằm thâu tóm toàn bộ các vấn đề liên quan đến vòng đời một sản phẩm tới cùng một mẫu số chung là số tiền phải bỏ ra cho sản phẩm đó. Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 34
  35. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam 3.2. Tiếp cận doanh nghiệp. Nếu nhà quản trị coi doanh nghiệp là đầu mối liên kết tất cả các chức năng trong doanh nghiệp với nhau thì khi đó anh ta đã coi doanh nghiệp là một hệ thống. Các khía cạnh khác nhau trong doanh nghiệp được liên kết bởi các nguồn lực và phụ thuộc vào nhau để tồn tại. Một khi đã coi doanh nghiệp là một hệ thống thì cần phải có nhận thức về môi trường doanh nghiệp hoạt động. Doanh nghiệp không chỉ lấy các nguồn lực (nguyên liệu) từ môi trường đó mà nó còn đóng góp vào môi trường đó thông qua việc phân phối các thành phẩm. Vì vậy định hướng về hệ thống là điểm căn bản trong việc tiếp cận doanh nghiệp. Khi xem xét trong hoạt động logistics, từ "hệ thống" dùng để chỉ việc nhóm các yếu tố hay các hoạt động logistics có liên quan với nhau để đạt được mục đích nào đó. Việc coi các hoạt động logistics là một hệ thống sẽ giúp cho nhà quản trị logistics không bị mất phương hướng trong việc thấy được sự hài hoà và thống nhất giữa các yếu tố logistics. Hình 6 minh hoạ cho ý tưởng doanh nghiệp là một hệ thống. Theo đó, đầu vào (nguyên liêu thô) sẽ trải qua quá trình sản xuất để sản xuất ra đầu ra (thành phẩm). Nhà quản trị logistics sẽ điều khiển hệ thống và hướng hoạt động của nó nhằm hoàn thành tốt quá trình sản xuất. Hình 6: Doanh nghiệp là một hệ thống Hoạt động kiểm soát Quá trình sản Đầu vào Đầu ra xuất Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 35
  36. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam 3.3. Dịch vụ khách hàng Tư duy về logistics tích hợp trong những năm 60 đã không chỉ nhấn mạnh về vấn đề chi phí mà còn nhấn mạnh tới các dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Sự chuyển đổi này đã có tác động tới cách tiếp cận thực tiễn hơn về các hoạt động logistics và mối liên hệ qua lại với hoạt động sản xuất và marketing. Các hệ thống logistics khác nhau nhằm đáp ứng các cấp độ hỗ trợ và cung ứng nguồn lực khác nhau bây giờ có thể được phát triển để hỗ trợ cho các kế hoạch sản xuất và marketing đa dạng. Quản trị logistics được giao trọng trách phát triển và triển khai một hệ thống logistics có khả năng đạt được mức độ dịch vụ khách hàng yêu cầu với chi phí thấp nhất có thể. 3.4. Các kênh phân phối Nhận thức ngày càng tăng về logistics là một hoạt động liên kết kéo theo nhận thức ngày càng tăng về tầm quan trọng của các cách bố trí kênh phân phối trong hệ thống logistics. Những chi phí logistics không cần thiết hay dịch vụ khách hàng yếu kém có thể xảy ra khi một doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới kênh phân phối. Các phân tích trước đây về kênh phân phối đề cao vai trò của vị trí. Một doanh nghiệp nên ở gần nguồn nguyên liệu hoặc ở một nơi có đường giao thông xuyên suốt từ nơi có nguồn nguyên liệu tới doanh nghiệp. Ngược lại, khả năng sẵn sàng vận chuyển nguyên liệu tới doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có thể có sự lựa chọn thay thế là xây dựng nhà xưởng ở gần thị trường tiêu thụ. Việc quá nhấn mạnh vào tầm quan trọng của địa điểm này đã làm xao nhãng vấn đề thời gian trong hệ thống logistics. Hoạt động phân tích về các kênh phân phối và hệ thống logistics ngày càng được chú ý hơn khi người ta nhận thấy các hoạt động logistics và trách nhiệm của doanh nghiệp vẫn tiếp diễn ngay cả khi đã vượt qua điểm chuyển giao quyền sở hữu. Vì vậy, thành tựu lớn nhất trong hoạt động nghiên cứu về kênh phân phối chính là sự liên kết giữa thời gian và địa điểm. Cách tiếp cận này Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 36
  37. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam đưa ra một cái nhìn tổng quan hơn về logistics bằng cách quan tâm tới sự liên kết giữa một lực lượng hữu hình với một lực lượng vô hình. III. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬN TẢI BIỂN VÀ LOGISTICS 1. Tầm quan trọng của vận tải biển trong thương mại quốc tế hiện nay Vận tải biển đóng vai trò quan trọng nhất trong vận chuyển hàng hoá ngoại thương. Khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường biển không ngừng tăng qua các năm và theo số liệu thống kê của UNTACD, tổng số lượng hàng hoá chuyên chở trong buôn bán quốc tế đạt hơn 7 tỷ tấn mỗi năm thì khối lượng hàng hoá chuyên chở thông qua vận tải biển luôn chiếm khoảng 80%. 1.1. Ưu điểm của vận tải biển Vận tải đường biển đóng vai trò quan trọng như vậy trong thương mại quốc tế vì nó có những ưu điểm nổi bật sau:  Vận tải đường biển có năng lực chuyên chở lớn: Phương tiện vận tải trong vận tải đường biển là các tàu có sức chở lớn, lại có thể chạy được nhiều tàu trong cùng một tuyến đường, cùng một khoảng thời gian nên vòng quay phương tiện vận tải tăng giúp giảm chi phí. Thời gian tàu nằm chờ tại cảng giảm do sử dụng các phương tiện xếp dỡ hiện đại và container nên khả năng thông quan lớn, như cảng Rotterdam: 300 triệu tấn hàng hoá/năm; cảng New York: 150 triệu tấn/năm; cảng Kobe: 136 triệu tấn/năm  Vận tải đưởng biển thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết các loại hàng hoá trong thương mại quốc tế. Đặc biệt thích hợp và hiệu quả là các loại hàng rời có khối lượng lớn nhưng giá trị thấp như than, quặng, ngũ cốc, phốt phát  Chi phí đầu tư xây dựng các tuyến đường hàng hải thấp: các tuyến đường hàng hải hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên nên không đòi hỏi nhiều vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng, duy trì, bảo quản trừ việc xây dựng các kênh đào và hải cảng. Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 37
  38. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam  Giá thành vận tải biển rất thấp do trọng tải tàu biển lớn, cự ly vận chuyển trung bình lớn, biên chế ít nên năng suất trong ngành vận tải biển cao. Nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong vận tải và thông tin được áp dụng nên giá thành vận tải biển có xu hướng ngày càng hạ. Hiện nay, giá thành vận tải biển chỉ khoảng 0,7USD/kg/km, bằng 1/6 so với giá thành vận tải đường hàng không, 1/2 so với đường sắt và bằn 1/4 so với vận chuyển bằng đường ô tô. 1.2. Phát triển vận tải hàng hoá bằng đường biển là động lực thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế Vận tải hàng hoá bằng đường biển có tác dụng rất lớn thúc đẩy buôn bán quốc tế. Trước đây, khi vận tải quốc tế chưa phát triển rộng khắp, sức chở của phương tiện vận tải biển nhỏ, công cụ vận tải thô sơ, các dịch vụ tại cảng kém an toàn đã hạn chế việc mở rộng việc buôn bán giữa các quốc gia. Ngày nay, hệ thống vận tải trên thế giới đã phát triển tạo điều kiện mở rộng các thị trường tiêu thụ nên hoạt động XNK được thông suốt. Các nước xuất khẩu có khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình ở những nước cách xa và các nước nhập khẩu cũng có điều kiện lựa chọn thị trường cung cấp rộng rãi hơn. Trong buôn bán quốc tế, chi phí vận tải là một bộ phận cấu thành lên giá cả hàng hoá, nó chiếm khoảng 10-15% giá FOB hoặc 8-9% giá CIF. So với các phương thức vận tải khác, vận tải hàng hoá bằng đường biển có chi phí thấp nhất chỉ sau vận tải bằng đường ống do vậy vận tải hàng hoá bằng đường biển sẽ góp phần giảm giá thành sản phẩm do đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá đó với hàng hoá cùng loại của các nước khác. Điều đó kích thích tiêu dùng của khách hàng, làm cho việc tiêu thụ hàng càng nhanh chóng, thuận lợi với số lượng hàng lớn, kích thích sản xuất và hoạt động mua bán phát triển. Như vậy vận tải hàng hoá bằng đường biển đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá giữa các nước khi mà thị trường trong nước đã trở nên quá chật Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 38
  39. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam hẹp. Hoàn thiện hệ thống vận tải, giảm giá thành vận tải (cước phí), nâng cao chất lượng phục vụ của các dịch vụ vận tải sẽ tạo điều kiện mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế. Ngược lại, khi buôn bán quốc tế phát triển, lượng hàng hoá trao đổi giữa các nước tăng lên, đòi hỏi chất lượng các dịch vụ vận tải càng cao thì dịch vụ vận tải hàng hoá bằng đường biển càng phát triển: phải tăng khả năng chuyên chở của các đội tàu, tăng khả năng xếp dỡ của cảng. Điều này lại kéo theo chi phí càng giảm và lại càng thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển hơn lên. Vận tải hàng hoá bằng đường biển cần lượng hàng lớn đến nhiều thị trường khác nhau, thương mại quốc tế cần chi phí vận chuyển thấp, vận chuyển an toàn, hiện đại, nhanh chóng. Đó chính là mối quan hệ qua lại, tác động chặt chẽ hữu cơ với nhau, cái này lôi kéo tạo đà cho cái kia phát triển theo để đáp ứng nhu cầu của nhau. 2. Logistics trong hoạt động giao nhận, vận tải biển Do hoạt động thương mại quốc tế ngày càng mở rộng nên cạnh tranh giữa các công ty nhằm giành được lợi thế trên thị trường thế giới ngày càng trở nên khốc liệt. Để tạo được lợi thế cạnh tranh, chính sách giá là một vũ khí quan trọng của các DN. Do hoạt động sản xuất đã đạt đến đỉnh điểm trong khai thác năng suất lao động, nên việc giảm giá không còn dựa vào giảm giá thành sản xuất của sản phẩm nữa. Trong giá hàng xuất khẩu, chi phí cho vận tải hàng hoá chiếm tới 30%, và đây là một giải pháp cho vấn đề tăng năng lực cạnh tranh bằng giá vì hiệu quả trong hoạt động vận tải biển vẫn chưa đạt tới ngưỡng tối đa. Trong thời gian gần đây, hoạt động logistics đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực và đã đem lại nhiều lợi ích rõ rệt. Trong hoạt động giao nhận, vận tải biển của thế giới, hoạt động logistics cũng đã được ứng dụng. Nhờ quản lý theo hệ thống logistics mà hoạt động giao nhận, vận tải biển đạt được hiệu quả hơn trước. Logistics giúp tạo nên một chuỗi liền mạch trong quá trình chuyên chở hàng hoá từ điểm đi tới điểm đến, Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 39
  40. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam giúp vận chuyển hàng hoá được thông suốt. Trước đây, khi chưa áp dụng quản lý theo logistics, hàng hoá có thể sẽ bị ách tắc tại cảng hay bị mắc kẹt ở trên tàu mà không được thông qua nhanh chóng. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thương mại quốc tế. Nó gây ra nhiều phiền hà cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Nó còn làm tăng chi phí xuất nhập khẩu hàng hoá vì nhà XNK phải bỏ thêm chi phí lưu kho bãi hay chi phí do bị phạt vì chậm bốc dỡ, chậm giao hàng. Tất cả những điều này làm cho nhà XNK không thể cạnh tranh tốt trong môi trường kinh doanh quốc tế. Nhưng việc áp dụng logistics trong giao nhận, vận tải biển đã giúp hàn gắn lại những lỗ hổng trong quá trình chuyên chở hàng hoá đó và tạo thành một đường thẳng trong hoạt động giao nhận, vận tải biển, giúp tối thiểu hoá chi phí cho hoạt động giao nhận, vận tải biển. Như vậy, vấn đề giảm chi phí cho hàng hoá XNK đã được giải quyết nhờ ứng dụng quản lý hoạt động giao nhận, vận tải biển theo logistics. 3. Các yếu tố tác động tới vận tải biển và logistics trong tương lai Hoạt động logistics chứa đựng các yếu tố thường xuyên vận động, thay đổi theo thời gian. Tạp chí Distribution đã chỉ ra một số xu hướng phát triển chính tác động tới lĩnh vực logistics và vận tải biển trong thời gian tới như sau: Thương mại quốc tế được đẩy mạnh. Giá trị giao dịch thương mại quốc tế hàng năm là khoảng 2 nghìn tỷ đô la và ngày càng có xu hướng tăng lên. Đó là vì các nước đều nhận thức rõ được lợi ích của thương mại quốc tế. Quá trình chuyên môn hoá đã giúp cho một số nước có lợi thế trong việc sản xuất một số mặt hàng cụ thể. Nhưng muốn tận dụng được lợi thế này không có cách nào khác là dựa vào hoạt động buôn bán quốc tế. Chỉ có như vậy các nước mới có thể bán được các hàng hoá mà mình sản xuất hiệu quả sang cho các nước Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 40
  41. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam khác và mua về những mặt hàng mà mình không thể sản xuất hay sản xuất không có hiệu quả. Nhờ đó, các nguồn lực được sử dụng có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích kinh tế nhiều hơn. Trên quan điểm của logistics quốc tế, xu hướng này sẽ đưa đến nhiều thách thức. Logistics quốc tế sẽ ngày càng phức tạp vì ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, và mỗi quốc gia có thể là một mắt xích trong toàn bộ hệ thống logistics quốc tế đó. Kinh tế dịch vụ ngày càng phát triển. Một xu hướng sẽ vẫn tiếp diễn trong tương lai là sự chuyển đổi sang nền kinh tế dịch vụ. Điều này có nghĩa là ngày càng có nhiều hoạt động kinh tế cung cấp các dịch vụ thay vì hàng hoá hữu hình. Điều này có ý nghĩa rất lớn tới hoạt động logistics vì hoạt động logistics phát triển phần lớn là nhờ nhu cầu tổ chức và điều hành luồng hàng hoá. Các hàng hoá dịch vụ có đặc điểm là không thể dự trữ hay lưu kho được trong khi một trong các yếu tố quan trọng của hoạt động logistics là vấn đề lưu kho. Vì vậy hoạt động logistics cần phải linh hoạt chuyển hướng hoạt động, không chỉ vận chuyển hàng hoá mà vận chuyển cả con người (những người cung cấp dịch vụ) và làm dịch vụ truyền các ý tưởng. Sự bùng nổ của trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange) Trước đây, vòng quay phân phối chỉ là sự di chuyển nguyên liệu. Nhưng ngày nay đã có thêm sự di chuyển của thông tin. Rõ ràng là trao đổi thông tin và các thông tin bậc cao đã và sẽ tiếp tục là một trong những thay đổi lớn trong cách thức chúng ta tiến hành hoạt động logistics. Trao đổi dữ liệu điện tử là sự trao đổi trực tiếp từ máy vi tính tới máy vi tính trong các giao dịch liên công ty. Trao đổi dữ liệu điện tử rất quan trọng vì nó cho phép các công ty trao đổi nhanh hơn, giảm chi phí Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 41
  42. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam nhờ loại trừ việc sử dụng giấy tờ. Các công ty sẽ nhận thấy EDI là một phương pháp gửi hoá đơn, đơn đặt hàng, chứng từ hải quan, thông báo về tàu và các chứng từ kinh doanh vô cùng nhanh chóng và kinh tế. Tăng hiệu quả trao đổi chứng từ là nhằm đẩy nhanh tốc độ quá trình kinh doanh. Hơn thế nữa, các quá trình này lại được giám sát chặt chẽ, giúp công ty theo dõi, quản lý và kiểm toán việc thi hành nhiệm vụ. Mặc dù hoạt động logistics đã ra đời từ lâu nhưng sự phát triển của hoạt động này sẽ không thể mạnh mẽ như ngày nay nếu không có sự hỗ trợ của các phương tiện, công nghệ hiện đại như máy vi tính, mạng Internet Những công nghệ chủ yếu được sử dụng trong hoạt động logistics là: Mạng Internet Có rất nhiều khía cạnh đáng nói đến về mạng Internet. Đây là một công cụ mới có quyền năng lớn dựa trên các máy tính tương đối đơn giản. Sức mạnh của nó nằm ở điểm là chúng đều được liên kết với chi phí rất rẻ. Với mức phí chỉ vài đôla một tháng, một người hoàn toàn có thể tiếp cận với toàn bộ cộng đồng Internet. Cộng đồng logistics đã tìm thấy một số ứng dụng giá trị của công nghệ Internet. Do nó tương đối rẻ và có thể tiếp cận được nên hầu hết các DN có thể tiếp cận được với Internet. Đây là sự khác biệt rất lớn với các công nghệ khác, những công nghệ chỉ một số DN mới có tiền mua để sử dụng. Do vậy, các DN nhỏ là có lợi hơn cả, và trong rất nhiều lĩnh vực họ có thể cạnh tranh với các DN lớn hơn. Công việc giao nhận cần phải chuyển rất nhiều dữ liệu, mà trước đây đòi hỏi phải có hệ thống đặc biệt. Ngày nay mạng Internet cho phép kể cả những người giao nhận nhỏ nhất cũng có thể chuyển thông tin thông qua mạng hầu như miễn phí. EDI cho phép dữ liệu được truyền từ máy tính này đến máy tính khác. Đây là một trong những bước đầu tiên để tạo ra mạng Internet. Hệ thống EDI bao gồm các máy tính được trang bị để gửi và nhận các thông Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 42
  43. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam tin truyền đi và đường truyền, ví dụ như đường điện thoại. Cần phải có phần mềm đặc biệt và một máy tính trung gian do những máy tính khác nhau có những quy ước khác nhau nên cần phải làm cho chúng tương thích. Công nghệ viễn thông Công nghệ viễn thông là việc liên lạc bằng tiếng truyền thống, dữ liệu và truyền hình. Từ khi logistics liên quan tới các hoạt động liên kết nhau trải dài thì công nghệ viễn thông trở nên rất quan trọng. Vấn đề chi phí là một nhân tố quan trọng. Khi gọi điện thoại đường dài qua đường đây điện thoại truyền thống sẽ đắt. Người ta có thể lựa chọn thay thế nó bằng cách sử dụng Internet để gửi thư điện tử, và gần đây còn để gọi điện thoại. Điện thoại không dây đã đóng góp một không gian mới cho hoạt động logistics và ngành vận tải. Trước đây, việc kiểm soát hoạt động giao hàng đồng nghĩa với việc chỉ có thể liên lạc được với phương tiện vận tải khi nó dừng lại tại đâu đó. Khả năng có thể liên lạc với phương tiện vận tải vào bất kỳ lúc nào đã cơ bản thay đổi các phương thức vận hành và di chuyển. Nó tăng cường hiệu quả của hoạt động vận tải. Hệ thống thông tin địa lý (GIS) Một hệ thống thông tin địa lý là một hệ thống thông tin có thể sử dụng dữ liệu có trong không gian. Nếu giải thích đơn giản hơn thì đây là một cái bản đồ được vi tính hoá. Bây giờ, khi hệ thống GIS đã phát triển thì chúng có thể được sử dụng để tìm tuyến đường tốt nhất cho chuyến hàng. Những con tàu sử dụng hệ thống GIS để tính toán các dòng hải lưu và thời tiết để tìm lịch trình thích hợp nhất giữa hai cảng. Hệ thống vệ tinh Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 43
  44. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Vệ tinh được sử dụng cho rất nhiều ứng dụng thương mại và khoa học. Ở đây chúng ta sẽ đề cập tới hai ứng dụng được sử dụng trong logistics và vận tải. Thứ nhất là thông tin liên lạc. Ngoài EDI, mạng Internet và hệ thống viễn thông, một số công ty lớn thấy các liên lạc vệ tinh trực tiếp có hiệu quả về chi phí hơn. Đó là bởi vì hiện nay có các máy truyền tín hiệu nhỏ được gọi là "các trạm thu phát cực nhỏ" (VSATs) cho phép người sử dụng bắt đầu sử dụng vệ tinh với khoản đầu tư rất nhỏ. Liên lạc vệ tinh có vị trí rất quan trọng trong việc giúp các DN trên toàn cầu liên lạc với nhau. Một ứng dụng khác của vệ tinh là hệ thống định vị (GPS). Đây là thiết bị của quân đội được sử dụng cho thương mại. Quân đội Mỹ phóng các vệ tinh trên toàn thế giới và chúng đều phát tín hiệu xuống Trái đất. Máy thu GPS, có kích cỡ bằng một tế bào điện thoại, nhận những tín hiệu này và tính toán xem nó định vị ở chỗ nào trên trái đất. GPS vi phân sử dụng các trạm nối đất để thay thế cho việc truyền bằng vệ tinh, do đó cho phép đọc chính xác giúp các máy bay hạ cánh và tàu thuỷ vào được các kênh đào hẹp. Hiện nay các máy bay sử dụng các tín hiệu radio phát từ hai đầu của đường bay, do vậy đòi hỏi có sự tiếp cận dài và thẳng. Truyền thông tin qua GPS vi phân phát đi mọi phía nên máy bay có thể nhận được tín hiệu từ bất cứ nơi nào và sử dụng tàu vũ trụ có hiệu quả hơn. GPS vi phân cho phép máy bay xếp sát nhau hơn, có thể tăng thêm 20% máy bay đỗ mà không sợ làm tăng độ rủi ro về an toàn. Chi phí cho hệ thống này vào khoảng 6 trăm nghìn đôla cho vài đường băng trong khi chi phí cho hệ thống dựa vào radio là khoảng 2 triệu đôla cho mỗi đường băng. Có thể nói những công nghệ mới đang ngày càng thúc đẩy sự phát triển của hoạt động logistics. Tuy nhiên trong thời đại thông tin liên lạc phát triển như vũ bão thì chúng ta sẽ còn được chứng kiến hoạt động Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 44
  45. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam logistics hoàn thiện hơn nữa trong tương lai do những đòi hỏi tất yếu khách quan của các hoạt động kinh tế. CHƯƠNG II HOẠT ĐỘNG LOGISTICS TRONG CÁC DOANH NGHIỆP GIAO NHẬN, VẬN TẢI BIỂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY I. LỢI ÍCH DO LOGISTICS ĐEM LẠI CHO CÁC DOANH NGHIỆP GIAO NHẬN,VẬN TẢI BIỂN Do hoạt động logistics trong vận tải biển vẫn còn là một lĩnh vực tương đối mới mẻ nên để phục vụ cho việc hoàn thành khoá luận này, em đã sử dụng phương pháp điều tra phỏng vấn một số công ty giao nhận, vận tải biển tại hai địa bàn Hà Nội và Hải Phòng thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau ( DNNN, công ty nước ngoài, DN tư nhân) để có được cái nhìn khách quan về hoạt động logistics trong vận tải biển. Dưới đây là kết quả của cuộc điều tra, phỏng vấn đó (Xin xem thêm phụ lục 1+2). Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 45
  46. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam Có thể tóm tắt chuỗi hoạt động logistics trong vận tải biển theo sơ đồ sau: Chủ Người giao Người Người giao Chủ hàng nhận chuyên chở nhận hàng Hải quan Hải quan Sử dụng các nghiệp vụ để liên kết thành chuỗi logistics Hình 7: Chuỗi logistics trong vận tải biển Như vậy, hoạt động logistics trong vận tải biển là hoạt động khép kín từ khâu nhận hàng từ người gửi hàng, tiến hành các nghiệp vụ cần thiết như đóng gói, bốc xếp, làm thủ tục hải quan, chuyên chở và giao cho người nhận hàng ở cảng đến. Đây là dịch vụ "từ cửa tới cửa" rất phức tạp, bao gồm cả dịch vụ, vận tải thực và vận tải môi giới. Do đó, người làm công tác logistics phải liên kết các hoạt động riêng lẻ này thành một chuỗi liên tiếp, liền mạch để tận dụng những lợi ích của nó. 1. Giảm chi phí Theo kết quả điều tra, có 56% số DN được hỏi cho rằng ứng dụng hoạt động logistics trong vận tải biển sẽ làm giảm chi phí giao nhận, vận tải. Vì khi áp dụng logistics trong vận tải biển thì các DN phải có hệ thống kho vận toàn cầu. Khi làm công tác giao nhận, vận tải, các DN có thể gom các lô hàng lẻ lại và cho vào kho chờ cho đến khi có thể đóng thành một lô hàng lớn thì chuyển xuống tàu gửi đi. Như vậy, chi phí gửi một lô hàng lớn sẽ rẻ hơn là gửi một lô hàng lẻ, nhỏ. Thêm vào đó, do hệ thống kho ở trong nước cũng như ở nước ngoài là của DN nên DN cũng không phải bỏ tiền ra thuê kho. Mục tiêu của logistics là tối thiểu hoá thời gian chờ đợi tại các điểm nên người cung cấp dịch vụ logistics sẽ sắp xếp lịch trình phù hợp cho Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 46
  47. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam hàng hoá để hàng tới cảng là được bốc ngay lên phương tiện vận chuyển và khi tới cảng đích là được dỡ ngay xuống giao cho chủ hàng, nên giảm được thời gian hàng phải nằm chờ tại kho của cảng hay trên phương tiện vận tải, chủ hàng cũng như người vận tải sẽ không tốn chi phí lưu kho hay chi phí phạt chậm xếp dỡ hàng, những chi phí ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành cung cấp dịch vụ giao nhận, vận tải. Việc áp dụng logistics sẽ giúp hàng hoá được luân chuyển theo JIT, việc vận chuyển hàng hoá sẽ được quản lý sao cho hàng hoá sẽ không bị ùn tắc ở bất kỳ khâu nào. Do đó sẽ giúp tăng nhanh thời gian chuyên chở hàng hoá, giảm thời gian hàng phải chờ tại các điểm chuyển tải. Đây chính là lý do tại sao áp dụng logistics trong giao nhận, vận tải biển lại giúp làm giảm chi phí. 2. Nâng cao mức độ linh hoạt trong hoạt động của các DN Khi áp dụng logistics trong vận tải biển sẽ giúp các DN giao nhận, vận tải chủ động về mọi mặt. 100% các DN được hỏi đều thống nhất rằng logistics giúp nâng cao sự linh hoạt trong việc cung cấp các dịch vụ của DN mình. Thực tế, hoạt động logistics giúp các DN giao nhận, vận tải biển nắm rõ lịch trình của tàu, tình trạng hoạt động của các cầu cảng nên có thể bố trí tàu vào cảng kịp thời, có kế hoạch chủ động gom hàng để chuyển đi đúng tuyến Trong hoạt động giao nhận hiện nay, vì các DN không có hệ thống kho bãi, không có tàu mẹ của riêng mình nên không chủ động được về giá cả, mức giá thông báo cho chủ hàng phải phụ thuộc vào mức giá của bên nước ngoài cung. Nếu áp dụng logistics, các DN sẽ nắm bắt kịp thời sự biến động của giá cả và linh hoạt thay đổi cho phù hợp với thị trường chung. Ngoài ra, việc áp dụng logistics còn giúp cho việc tiến hành các thủ tục thông quan hàng hoá thuận tiện hơn. Khi hàng hoá chưa về tới cảng Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 47
  48. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam thì các thông tin về tàu, về hàng đã được hải quan nước sở tại nhận được và làm sẵn thủ tục, khi hàng hoá về tới cảng sẽ mất ít thời gian hơn trong khâu làm thủ tục. Như vậy, hoạt động logistics giúp cho các DN có sự chuẩn bị sẵn sàng để tiến hành giao nhận dễ dàng hơn. 3. Tăng cường chất lượng dịch vụ Mục đích của logistics là đưa đúng hàng tới đúng nơi, đúng lúc. Vì vậy, như đã phân tích ở trên, việc ứng dụng logistics trong vận tải biển giúp giảm chi phí, giảm thời gian "chết" tàu và hàng phải chờ đợi để được giải phóng. Nhờ vậy, chất lượng của dịch vụ giao nhận, vận tải được nâng lên. Các DN giao nhận, vận tải ứng dụng logistics trong hoạt động của mình sẽ có sức cạnh tranh tốt hơn so với các DN giao nhận, vận tải thông thường vì yếu tố giá cả và chất lượng của dịch vụ là hai yếu tố quan trọng nhất tác động tới chủ hàng quyết định thuê người giao nhận, vận tải nào cung cấp dịch vụ cho mình. Một trong những yêu cầu cần thiết khi ứng dụng logistics là phải có hệ thống kho tiêu chuẩn và hệ thống quản lý trên mạng chuẩn. Khi sử dụng các dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế như vậy thì đương nhiên chất lượng dịch vụ giao nhận, vận tải cũng tăng theo như một hệ quả tất yếu. Hiện tại, hoạt động giao nhận, vận tải biển Việt Nam vẫn còn được tiến hành một cách thủ công. Lấy ví dụ chủ hàng muốn biết lúc này tàu và hàng đang ở địa điểm nào để thông báo cho người nhận chủ động đến nhận hàng thì người giao nhận, vận tải không thể đưa ra được câu trả lời ngay lập tức. Anh ta phải gửi thư hoặc gọi điện thoại hay fax sang hãng tàu, có khi còn liên lạc với cảng tiếp để biết thông tin về chuyến tàu và hàng đó. Công việc liên lạc và chờ trả lời có khi phải mất đến nửa ngày. Khi ứng dụng dịch vụ logistics với hệ thống quản lý mạng trên toàn cầu, ta chỉ cần nhập số vận đơn và mã số tàu vào máy tính và chỉ sau 5 phút, người giao nhận hoàn toàn có thể nắm bắt được các thông tin chi tiết về ngày giờ, địa điểm cập cảng của tàu và thông báo lại cho chủ hàng. Rõ ràng, hoạt động Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 48
  49. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam logistics trong vận tải biển ưu việt hơn hoạt động giao nhận, vận tải thông thường. 4. Tăng doanh thu và lợi nhuận Việc ứng dụng logistics trong vận tải biển đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho DN kinh doanh giao nhận, vận tải như giảm chi phí, giảm thời gian làm hàng, nâng cao sức cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ, tăng tính linh hoạt trong hoạt động của DN. Ngoài những lợi ích đó, nó còn giúp tăng doanh thu và lợi nhuận của DN kinh doanh giao nhận, vận tải. Theo số liệu thống kê từ các DN được hỏi thì 89% các DN đều có nhận xét trên. Khi cung ứng dịch vụ logistics, các DN này sẽ cung cấp toàn bộ các dịch vụ trong cả chuỗi lưu chuyển hàng hoá "từ kho tới kho". Hàng hoá của các chủ hàng sẽ được gửi trong hệ thống kho của DN, được chuyên chở trên tàu của DN , vì vậy DN sẽ thu thêm được phí từ chủ hàng, dẫn tới doanh thu của DN cũng được nâng lên. Ngoài ra, hiện nay dịch vụ này còn rất mới mẻ ở Việt Nam, nếu một DN nào đó đứng ra cung ứng dịch vụ này thì sẽ thu hút được rất nhiều người giao nhận khác tham gia, trở thành các chân rết thu gom hàng để chuyên chở nhằm hưởng lợi từ hệ thống kho vận và mạng thông tin toàn cầu. Học thuyết kinh tế "lợi thế tăng theo quy mô" áp dụng trong vận tải biển vẫn hoàn toàn đúng. Chi phí gửi một lô hàng to bao giờ cũng rẻ hơn rất nhiều so với chi phí gửi nhiều lô hàng nhỏ lẻ. Các DN giao nhận, thu phí từ các chủ hàng lẻ nhưng lại gom vào thành một lô hàng lớn và gửi cho người chuyên chở thực sự với mức phí của một lô hàng lớn và thu lợi nhuận từ phần chênh lệch đó. Như vậy, thông qua việc cung ứng dịch vụ logistics này thì các DN giao nhận càng gom được nhiều lô hàng lẻ hơn và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tóm lại, ứng dụng hoạt động logistics trong vận tải biển sẽ đem đến một cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực kinh doanh giao nhận, vận tải biển. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 49
  50. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam khu vực và thế giới, nên việc ứng dụng các kỹ thuật hiện đại là cần thiết để chúng ta không bị tụt hậu so với bên ngoài, nhất là trong điều kiện hoạt động giao nhận, vận tải biển của chúng ta vẫn còn nhiều yếu kém. II. HOẠT ĐỘNG LOGISTICS TRONG CÁC DOANH NGHIỆP GIAO NHẬN, VẬN TẢI BIỂN TẠI VIỆT NAM 1. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận, vận tải biển Việt Nam Trước đây, khi Nhà nước ta thực hiện độc quyền ngoại thương thì hoạt động giao nhận tại các cảng biển Việt Nam là do các cảng tự đứng ra thực hiện, hoạt động trong thế độc quyền. Tuy nhiên, khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường thì hoạt động giao nhận tại các cảng biển đã có nhiều đổi khác. Sau năm 1990, do chính sách mở cửa kinh tế thị trường và tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế quốc dân, nên lượng hàng thông qua các cảng biển của Việt Nam đã không ngừng được tăng lên. Số lượng tàu cập cảng để bốc dỡ hàng hoá cũng nhiều hơn. Vì vậy, nhu cầu phục vụ cho các tàu cũng tăng nhanh. Khi đó rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước được thành lập, cùng kinh doanh các dịch vụ giống nhau và bắt đầu có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Nhà nước có chức năng kinh doanh như nhau. Đặc biệt sau Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư nước ngoài cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và các liên doanh tham gia hoạt động dịch vụ hàng hải thì hoạt động dịch vụ hàng hải có điều kiện phát triển mạnh mẽ, trở nên sôi động với nhiều doanh nghiệp thuộc đủ các thành phần kinh tế tham gia. Đây là thời kì ra đời hàng loạt doanh nghiệp của mọi thành phần tham gia hoạt động dịch vụ hàng hải. Các cảng chỉ thực hiện công đoạn bốc dỡ hàng hoá với tàu tại cảng còn các dịch vụ khác là do người XNK thoả thuận thêm. Cho nên các cảng biển Việt Nam phải tổ chức tốt công việc bốc xếp, giao nhận, bảo quản, vận chuyển hàng hoá XNK thì mới mong có được tín nhiệm của khách hàng để nhận được phần việc uỷ thác, tăng được doanh thu, tạo việc làm ổn định cho bộ phận nghiệp vụ giao Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 50
  51. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam nhận tại cảng. Điều này đã dẫn đến sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động giao nhận, do cảng bây giờ không phải là người duy nhất cung cấp dịch vụ như trước đây và điều này dẫn tới một hệ quả tất yếu là các dịch vụ giao nhận ngày càng đa dạng, chất lượng cũng được nâng cao. Thêm vào đó, nếu như trước đây hoạt động giao nhận hàng hoá XNK chỉ được thực hiện ở một số cảng chính trong cả nước như Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ Tĩnh, Đà Nẵng, Sài Gòn thì nay đã được thực hiện ở nhiều cảng, cửa khẩu khác nhau, trong đó có nhiều cảng chuyên dụng, cảng mới dưới sự quản lý của các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Điều này đã giúp cho việc lưu thông hàng hoá XNK không còn bị ứ đọng và nhanh chóng hơn trước, tạo ra thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải, giao nhận, bốc xếp, lưu cước đường biển, thu hút đón tàu cập cảng Các cơ quan cảng biển cũng đã mạnh dạn cải tiến quản lý, tổ chức lại sản xuất kinh doanh giao nhận, chuyển sang tự hạch toán kinh tế, xoá bỏ bao cấp, thực hiện tự trang trải. Ngoài kinh doanh dịch vụ giao nhận thuần tuý, các cảng còn mở rộng các hình thức dịch vụ trợ giúp như bảo quản hàng hoá, tái chế, đóng gói lại, thu gom hàng xuất khẩu Các cảng cũng đã tổ chức những bộ phận tiếp thị để chủ động tìm kiếm các chân hàng. Nhờ các biện pháp tích cực như vậy, các cảng đã dần tháo gỡ được khó khăn, mở rộng qui mô và phạm vi hoạt động, tăng hiệu quả kinh doanh và uy tín với khách hàng. Có thể nói cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ bốc xếp của cảng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn tới tốc độ và chất lượng giao nhận hàng hoá XNK tại cảng biển. Trong những năm qua, do phải cạnh tranh mạnh mẽ trong cơ chế thị trường, phải tự hạch toán kinh doanh và phải đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của chủ hàng, của người vận tải, các cảng biển Việt Nam đã đầu tư đổi mới trang thiết bị, mở rộng cầu cảng, kho bãi, mua thêm các thiết bị chuyên dụng với vốn đầu tư không chỉ từ ngân sách Nhà nước, từ nguồn vay nước ngoài mà còn từ nguồn vốn bản thân các cảng tích luỹ được. Ngoài các trang thiết bị bốc xếp hàng hoá thông thường như hàng rời, hàng bao gói, hiện nay khi phương thức vận tải container trở nên phổ biến ở nước ta, các cảng đã tự trang bị những dây chuyền công nghệ hiện đại, bến bãi cầu tàu phục vụ cho giao Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 51
  52. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam nhận, bốc xếp container. Với nỗ lực lớn của các cơ quan cảng cũng như của Nhà Nước và ngành Hàng Hải, đến năm 2002 cả nước đã có tổng diện tích đất dành cho kho bãi và hoạt động của cảng lên đến trên 10 triệu m2, tổng chiều dài cầu cảng cả nước đạt 24.000 m, năng suất bình quân đạt 3500T/m. Các cảng đã đón 54.062 lượt tàu, tương đương với 202.858.000 GT. Sản lượng hàng hoá thông qua năm 2002 đạt trên 102 triệu tấn, trong đó hàng container đạt 1,7 triệu TEU, hàng lỏng đạt 32,6 triệu tấn, hàng khô đạt 43,3 triệu tấn, hàng nội địa đạt 22,7 triệu tấn và hàng quá cảnh đạt 22,7 triệu tấn 34. Trang thiết bị phục vụ bốc xếp tại cảng không ngừng được nâng cấp, cải tiến, thay thế, từng bước thích ứng với yêu cầu về công nghệ của thế giới. Một số bến container chuyên dụng với công nghệ bốc xếp hiện đại ngang tầm các nước trong khu vực cũng đã được xây dựng tại cảng Chùa Vẽ - Hải Phòng, Khánh Hội - thành phố Hồ Chí Minh. Việc đầu tư để cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới và áp dụng những công nghệ bốc dỡ hiện đại tại các cảng biển đã thay đổi đáng kể chất lượng bốc xếp. Năng suất bốc dỡ tăng, khả năng cơ giới hoá cao đã giúp giảm tới 60% giá thành, chi phí giao nhận, vận chuyển. Nhờ vậy, các cảng biển thu hút thêm được nhiều chủ hàng đến với phương thức vận tải biển, thoả mãn nhu cầu vận chuyển, lưu chuyển hàng hoá của các ngành kinh tế quốc dân và của công tác xuất nhập khẩu. Ở cảng Sài Gòn, trong giai đoạn chuyển động mạnh nhất của mình (1997- 2001), cảng đã đầu tư hơn 760 tỷ VND cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá 5 khu cảng trực thuộc, đảm bảo năng lực thông qua cảng mỗi năm có thể lên tới 16 triệu tấn hàng. Một điều đáng chú ý nữa là ngoài việc tự đầu tư, các cảng còn thực hiện liên doanh với những công ty giao nhận chuyên nghiệp để được hỗ trợ về vốn, thiết bị kỹ thuật cũng như dịch vụ liên quan. Nhờ đó mà cả hai bên đều tăng được hiệu quả làm việc, phối hợp với nhau đồng bộ, nhịp nhàng và thoả mãn yêu cầu của khách hàng. Ví dụ Công ty giao nhận Germantrans đã trang bị cho cảng Tân Thuận dây chuyền bốc xếp container có số thiết bị chiếm tới 60% tổng số thiết bị của cảng; Công ty Viettrans liên doanh với hãng tàu biển đen Ucraina đã đầu tư xây dựng cầu cảng Bông Sen - Lotus dài 320m tại cảng Phú Mỹ cho Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 52
  53. Logistics và phát triển logistics trong vận tải biển tại Việt Nam phép tàu dưới 16.000 tấn vào làm hàng nhanh chóng, thuận tiện. Gần đây nhất là việc thành lập cảng VICT là liên doanh giữa Vietfracht - Công ty vận tải Miền Nam và Mito Orient Enterprise Co. xây dựng 2 bến với 305m cầu cảng tiếp nhận được tàu 20.000DWT với công suất 165.000 TEU 35. Việc thay đổi cơ chế quản lý, đáp ứng yêu cầu thị trường một cách nhanh chóng đã mang lại kết quả khả quan cho ngành vận tải biển nói chung và các cảng biển nói riêng, được thể hiện qua lưu lượng hàng hoá qua các các cảng biển tăng theo các năm. Cảng Hải Phòng năm 1990 lượng hàng hoá thông qua là 2516 nghìn tấn, năm 1995 là 4515 nghìn tấn và năm 2002 tăng lên 10.000 nghìn tấn. Cảng Sài Gòn năm 1990 có 4347 nghìn tấn hàng hoá thông qua, năm 1995 có 7212 nghìn tấn, và tới cuối năm 2002 đã đạt được con số 12 triệu tấn hàng hoá thông qua cảng [32, 33]. Đặc biệt trong thời gian gần đây, do nhận thức được những yếu kém trong công tác quản lý của mình, ngành Hàng hải đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính thí điểm tại một số cảng ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vũng Tàu, Đà Nẵng và đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Theo Quyết định số 178/2002/QĐ - Ttg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 13/12/2002, việc thí điểm được thực hiên theo hướng giảm thiểu đến mức tối đa các loại giấy tờ liên quan đến tàu, hàng hoá mà chủ tàu, chủ hàng phải nộp hoặc xuất trình cho các cơ quan chức năng khi làm thủ tục (chỉ bằng 1/2 so với yêu cầu hiện tại và có cơ quan giảm gần 2/3 các loại giấy tờ) [39, 40]. Ngoài việc loại bỏ các giấy tờ không cần thiết, đợt thí điểm này còn sử dụng các mẫu biểu thống nhất có tham khảo chuẩn mực quốc tế, nhằm tránh trùng lặp và mâu thuẫn về nội dung hoặc tuỳ tiện áp đặt các loại biểu mẫu khai báo gây phiền hà cho đối tượng quản lý. Về địa điểm làm thủ tục, ngoài các trường hợp cần thiết phải tiến hành khi tàu neo đậu ở ngoài phao số 0, còn địa điểm làm thủ tục chủ yếu tiến hành tại trụ sở các cảng nhằm khắc phục tình trạng phức tạp hoá quy trình giải quyết thủ tục. Thời hạn làm thủ tục của chủ tàu, người khai hải quan và của công chức thuộc các cơ quan chức năng liên quan về cơ bản được rút ngắn đáng kể, tối đa Đồng Thị Khánh Ngọc – A 9 K38 KTNT 53