Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nang_cao_nang_luc_canh_tranh_cua_cac_doanh_nghiep_viet_nam_t.pdf
Nội dung text: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN ENHANCING COMPETITIVENESS OF VIETNAMESE ENTERPRISES IN ASEAN ECONOMIC COMMUNITY ThS. Nguyễn Thị Thu Trang ĐH Ngân Hàng TP.HCM trangntt@buh.edu.vn TÓM TẮT Tháng 12/2015, Việt Nam tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), thời gian còn rất ít để chúng ta vào cuộc chơi chung, không còn hàng rào thuế quan, chính sách bảo hộ. Sự kiện Việt Nam gia nhập AEC sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn, giúp Việt Nam tăng cường vị thế và uy tín trên diễn đàn ASEAN cũng như các diễn đàn quốc tế khác. Tuy nhiên, cơ hội luôn đi liền cùng những thách thức lớn như sự cạnh tranh gay gắt hơn không chỉ cạnh tranh về sản phẩm, thị trường mà còn cạnh tranh cả về nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, chủ động thay đổi công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến để tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành phù hợp mới có thể cạnh tranh trên thị trường. Chính phủ cũng cần có các chính sách cụ thể như chính sách tín dụng ưu đãi để các doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn vay, từ đó họ đầu tư cải tiến cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Từ khóa: cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, AEC. ABSTRACT In December of 2015, Vietnam will participate in ASEAN Economic Community (AEC), and we have very little time left to join in the common game with no tariff barriers and protectionist policies. The fact that Vietnam joins in AEC will provide Vietnam with greater opportunities, helping Vietnam strengthen its position and reputation in the ASEAN forum, as well as other international ones. However, opportunities always go hand in hand with major challenges such as keener competition not only in products and market but also in high quality human resources. That requires businesses to proactively seize opportunities and to actively change production technology and to apply advanced technology in order to create products with good quality and reasonable price, which can compete on the market. Government also needs to have specific policies such as preferential credit policies for enterprises to access to loans which help them invest in infrastructure improvements, machinery and training high quality manpower thereby improving the competitiveness of enterprises in Vietnam. Keywords: competition, competitiveness, AEC. 1. Lý thuyết năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Cạnh tranh theo khái niệm trong từ điển Bách khoa là hiện tƣợng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể có chung một môi trƣờng sống khi cùng quan tâm tới một đối tƣợng nào đó. Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, ngƣời tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế lợi hơn trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu đƣợc nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có thể xảy ra giữa ngƣời sản xuất với ngƣời tiêu dùng khi ngƣời sản xuất muốn bán hàng hóa với giá cao, ngƣời tiêu dùng lại muốn mua đƣợc với giá thấp. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho ngƣời tiêu dùng. Ngƣời sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lƣợng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ cao hơn để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Cạnh tranh làm cho ngƣời sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của khách hàng, thƣờng xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, những nghiên cứu mới nhất vào sản xuất; hoàn thiện cách thức tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lƣợng và hiệu quả kinh tế. Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Wesrtgren thì năng lực cạnh tranh là khả năng tạo ra và duy trì một cách tốt nhất mức lợi nhuận cao và thị phần lớn trong các thị trƣờng trong và ngoài 222
- HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) nƣớc. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh đƣợc đánh giá dựa trên mức chi phí thấp, chi phí sản xuất thấp là điệu kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh. Tóm lại theo những khái niệm và nhận định trên thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) là khả năng tận dụng những nội lực bên trong cũng nhƣ khai thác những thuận lợi của môi trƣờng bên ngoài của doanh nghiệp để tạo ra lợi thế cạnh tranh giúp DN tồn tại và phát triển trên thị trƣờng trong và ngoài nƣớc. Để thực hiện các quy trình hoạt động của mình, các DN cần có những nguồn lực nhƣ nhân lực, thiết bị, vật tƣ, thông tin, năng lƣợng Các nguồn lực này có thể sở hữu, thuê hoặc cho thuê. Điều cốt yếu của DN là sở hữu và nuôi dƣỡng những nguồn lực và năng lực cốt lõi trong kinh doanh. Michael (1985) đã đề xuất các tiêu chí năng lực cạnh tranh sản phẩm và của quốc gia. Phòng Công nghiệp Thƣơng mại Việt Nam (VCCI) đã đề xuất bộ chỉ tiêu đánh giá năng lực canh tranh của các tỉnh. Tuy nhiên, ít có tác giả đƣa ra một cách hệ thống về chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm đƣợc đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lƣợng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của ngƣời bán, thƣơng hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, v.v Năng lực cạnh tranh của DN là khả năng doanh nghiệp tạo ra đƣợc lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lƣợng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Nhƣ vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trƣớc hết phải đƣợc tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ đƣợc tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trƣờng. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp đƣợc đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tƣơng ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi DN phải tạo lập đƣợc lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, DN có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng nhƣ lôi kéo đƣợc khách hàng của đối tác cạnh tranh. 2. Vài nét về AEC AEC đƣợc thành lập nhằm mục đích tạo dựng một thị trƣờng và cơ sở sản xuất thống nhất cho các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tƣ, lao động có tay nghề trong ASEAN. Mục tiêu của AEC là thúc đẩy phát triển kinh tế một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao mà với năng lực cạnh tranh này, ASEAN có thể hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Cộng đồng kinh tế Asean là một khu vực kinh tế chung bao gồm các thành viên sau: Brunei, Cam-pu-chia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam. AEC là một trụ cột nằm trong Cộng đồng kinh tế Asean. Ngày 7 tháng 10 năm 2003, tại Bali, Indonesia, lãnh đạo các quốc gia thành viên đã kí kết Bản kế hoạch chiến lƣợc nhằm hình thành và phát triển AEC. Mục tiêu của chiến lƣợc là hình thành 1 thị trƣờng chung của các nƣớc thành viên trong đó có 5 cấu phần quan trọng: tự do di chuyển hàng hóa, tự do cung cấp dịch vụ, tự do đầu tƣ, tự do di chuyển vốn, tự do di chuyển lao động có kĩ năng. Rõ ràng, đây là một tầm nhìn hoàn toàn khác so với các hiệp định thƣơng mại thuần túy của Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới. AEC tƣơng tự nhƣ một quốc gia chung của các công dân Asean. 223
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Hành động lớn đầu tiên của ASEAN để triển khai các biện pháp cụ thể trên chính là việc các nhà lãnh đạo các nƣớc thành viên ký Hiệp định Khung ASEAN về Hội nhập các Ngành Ƣu tiên. Có thể coi đây là một kế hoạch hành động trung hạn đầu tiên của AEC. ASEAN hy vọng, hội nhập nhanh các ngành ƣu tiên này sẽ tạo thành bƣớc đột phá, tạo đà và tạo ra hiệu ứng lan tỏa sang các ngành khác. Tại Hiệp định này, các nƣớc thành viên đã cam kết loại bỏ thuế quan sớm hơn 3 năm so với cam kết theo Chƣơng trình Thuế quan Ƣu đãi Có Hiệu lực Chung của AFTA (CEPT/AFTA). Các ngành ƣu tiên hội nhập gồm: 7 ngành sản xuất hàng hóa là nông sản, thủy sản, sản phẩm cao su, sản phẩm gỗ, dệt may, điện tử, ô tô; 2 ngành dịch vụ là hàng không và e- ASEAN (hay thƣơng mại điện tử); và, 2 ngành vừa hàng hóa vừa dịch vụ là y tế và công nghệ thông tin. Tháng 12 năm 2006, tại Hội nghị Bộ trƣởng Kinh tế ASEAN, các bộ trƣởng đã quyết định đƣa thêm ngành hậu cần vào danh mục ngành ƣu tiên hội nhập. Nhƣ vậy, tổng cộng có 12 ngành ƣu tiên hội nhập. Các ngành nói trên đƣợc lựa chọn trên cơ sở lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên, kỹ năng lao động, mức độ cạnh tranh về chi phí, và mức đóng góp về giá trị gia tăng đối với nền kinh tế ASEAN. Các nƣớc Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan sẽ hạ thuế quan đối với các sản phẩm của 12 ngành ƣu tiên xuống 0% vào năm 2007, trong khi đối với các nƣớc còn lại sẽ là năm 2012. 3. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam Trong năm 2013, cả nƣớc có 76.955 DN đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 398.681 tỷ đồng, tăng 10,1% về số DN và giảm 14,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trƣớc. Ta thấy tình hình DN có dấu hiệu tốt lên khi số DN thành lập mới trong năm 2013 tăng trở lại so với năm 2012. Về số DN dừng hoạt động trong năm 2013, cả nƣớc có 60.737 DN giải thể và ngừng hoạt động (trong đó, số DN hoàn thành thủ tục giải thể là 9.818 DN, số DN gặp khó khăn và rơi vào trạng thái tạm ngừng hoạt động là 50.919 DN) tăng 11,9 % so với cùng kỳ năm trƣớc. Về số DN gặp khó khăn rơi vào tình trạng ngừng hoạt động nay quay trở lại hoạt động trong năm 2013 là 14.402 DN. Số DN khó khăn rơi vào tình trạng ngừng hoạt động nay quay trở lại hoạt động tăng dần theo các tháng. Theo báo cáo ―Đánh giá môi trƣờng KD năm 2014‖ của World Bank, chỉ số xếp hạng môi trƣờng KD thuận lợi của Việt Nam năm 2014 là 72 trên tổng số 189 quốc gia. Đây là kết quả của việc cải thiện hệ thống thông tin tín dụng quốc gia, giảm lãi suất tín dụng. Đồng thời, trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện cho các công ty giảm bớt chi phí thuế bằng cách giảm mức thuế thu nhập DN. Những lĩnh vực mà Việt Nam đã cải cách trong quy định KD bao gồm: vay vốn (thông tin tín dụng), nộp 224
- HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) thuế Ngoài ra, World Bank cũng đƣa ra đánh giá xếp hạng về các lĩnh vực khác trong môi trƣờng KD của Việt Nam nhƣ điểm khởi đầu KD: 125; xin cấp giấy phép xây dựng: 22; kết nối điện: 135; đăng ký tài sản: 33; vay vốn: 36; nộp thuế: 173; giải quyết tình trạng phá sản: 104; thƣơng mại xuyên biên giới: 75 Căn cứ vào kết quả này, Chính phủ Việt Nam có thể điều chỉnh hoặc thay đổi nhằm cải thiện các yếu tố môi trƣờng KD cho phù hợp. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề truyền thống. Xét theo số lƣợng DN, các DN Việt Nam chủ yếu tập trung vào 5 ngành sau: Thƣơng mại (38,9%); Công nghiệp chế biến (16,24%); Xây dựng (14,07%); Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ (8,53%) và Vận tải, kho bãi (5,57%). Xét theo số lao động, các DN tập trung vào 3 ngành: Công nghiệp chế biến, chế tạo (45,02%); Xây dựng (15,96%); Thƣơng mại (13,15%). Tỷ lệ doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực hiện đại chƣa nhiều. Chẳng hạn, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính tín dụng chỉ chiếm 1,46%, kinh doanh tài sản và tƣ vấn chỉ chiếm 5,73%, khoa hoc và công nghệ chiếm 0,02%. Cơ cấu này đã phản ánh lĩnh vực kinh doanh ngành của các doanh nghiệp Việt Nam còn lạc hậu. Năm 2012, cả nƣớc có 341.664 DN nhỏ và vừa theo tiêu chí quy mô lao động, chiếm 98,5% trên tổng số DN trong cả nƣớc và có 323.844 DN có quy mô vốn dƣới 50 tỷ đồng, chiếm 93,4% trên tổng số DN trong cả nƣớc. Tuy nhiên theo thời gian, cùng với việc chuyển sang kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển rất mạnh, góp phần to lớn vào việc thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho toàn dân, thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động và hiệu quả hơn. Đồng thời do hoạt động trong cơ chế thị trƣờng nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đƣợc nâng cao, nhiều doanh nghiệp đứng vững trên thị trƣờng trong nƣớc và vƣơn ra cả thị trƣờng quốc tế. Thị phần hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam đƣợc mở rộng và ngày càng đƣợc khẳng định trên thị trƣờng quốc tế. Thị phần và năng lực chiếm lĩnh thị tƣờng của doanh nghiệp Việt Nam tuy đã đƣợc cải thiện nhƣng vẫn còn hạn chế. Điều đó phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, bao gồm cả từ phía các doanh nghiệp, do môi trƣờng kinh doanh và từ phía Nhà nƣớc các cấp. Trình độ công nghệ của DN quyết định đến tăng trƣởng và phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia. Hiện trạng công nghệ của ngành và lĩnh vực sản xuất, năng lực thích ứng và khả năng đổi mới công nghệ trong các DN có thể đƣợc kiểm định bằng khả năng cạnh tranh, mức độ tiêu thụ các sản phẩm sản xuất trong nƣớc trên thị trƣờng trong và ngoài nƣớc và do đó liên quan đến khả năng tồn tại và phát triển của DN. Theo kết quả điều tra đối với toàn bộ DN năm 2011, chỉ có khoảng 8% DN chỉ tiến hành hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D), trong khi khoảng 5% chỉ cải tiến công nghệ có sẵn, có 84% DN đƣợc điều tra cho biết họ không có bất cứ chƣơng trình cải tiến hoặc phát triển công nghệ nào. AEC sẽ là cơ hội quý báu để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Theo Hiến chƣơng ASEAN có hiệu lực từ 15/12/2008, AEC đƣợc thành lập vào cuối năm 2015 sẽ đánh dấu sự hội nhập toàn diện các nền kinh tế 10 nƣớc Đông Nam Á, tạo ra thị trƣờng chung của một khu vực có dân số 600 triệu ngƣời và GDP hàng năm khoảng 2.000 tỉ USD. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi lớn, AEC ra đời, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc cạnh tranh về dịch vụ đầu tƣ của các nƣớc ASEAN sẽ dẫn đến một số ngành, doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trƣờng. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập mạnh mẽ, các nƣớc sẽ mở rộng thị trƣờng xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nhƣng đồng thời 225
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa cạnh tranh của các nƣớc. Những doanh nghiệp có lợi thế xuất khẩu sẽ ngày càng lớn mạnh hơn, trong khi doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh yếu đối với hàng hóa nhập khẩu sẽ gặp thách thức nghiêm trọng. Hiện nay, đa số doanh nghiệp của Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế, bƣớc vào "sân chơi" AEC, các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt không ít khó khăn, thách thức. Bảng 1. Xếp hạng cạnh tranh thời kỳ 2007 – 2010 Nguồn: WEF, Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2010 - 2011 * Thứ hạng trên số nƣớc đƣợc xếp hạng Việc tham gia AEC cũng sẽ là cơ hội lớn để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao trình độ phát triển. Tuy nhiên, trong những năm tới, Việt Nam cũng đứng trƣớc sức ép rất lớn về cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ và năng lực cạnh tranh, trong bối cảnhASEAN nhảy vọt từ nấc Khu vực thƣơng mại tự do ASEAN (AFTA) lên nấc thang Liên minh Kinh tế AEC. Hiện nay, trình độ phát triển của Việt Nam còn kém xa nhiều quốc gia trong ASEAN nhƣ: Singapore, Malaysia, Thái Lan do vậy, sức ép cải cách đặt ra với Việt Nam là rất lớn. Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố cho năm 2014-2015 ở mức rất thấp và ít có cải thiện từ nhiều năm nay.Nền quản lý hành chính lạc hậu, nhiều thủ tục rƣờm rà gây ảnh hƣởng tiêu cực nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp Việt Nam, đơn cử nhƣ việc các doanh nghiệp Việt Nam cần đến 872 giờ/năm để đóng thuế trong khi con số bình quân của dịch vụ đó ở các nƣớc ASEAN-6 chỉ là 172 giờ/năm.Thực tế này cho thấy, cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học-công nghệ và năng lực cạnh tranh đang là đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho Việt Nam khi gia nhập AEC. Đối với lĩnh vực lao động, việc làm, Việt Nam cũng đứng trƣớc những cơ hội và thách thức lớn.Để thực hiện cam kết có tính mới và đột phá về "tự do dịch chuyển của lao động có chứng chỉ đào tạo", 10 nƣớc ASEAN đã thống nhất công nhận giá trị tƣơng đƣơng của chứng chỉ đào tạo của mỗi nƣớc thành viên đối với tám loại nghề nghiệp: bác sỹ, nha sỹ, hộ lý, kỹ sƣ, kiến trúc sƣ, kiểm toán viên, giám sát viên và nhân viên du lịch. Về lý thuyết, khi gia nhập AEC, Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang các nƣớc trong khu vực. Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động trẻ đông đảo, khéo tay, học nhanh và làm việc chăm chỉ, có thể cạnh tranh với các nƣớc trong khu vực về lao động phổ thông. Tuy nhiên, lao động Việt Nam có nhƣợc điểm là rất kém về kỷ luật lao động, kỹ năng sống và sẵn sàng chuyển việc nếu đƣợc hứa hẹn tiền lƣơng cao hơn nơi đang làm. Trình độ chuyên môn và kỹ năng của lao động trong nƣớc đa số chƣa cao. 226
- HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) Do vậy, lao động có tay nghề cao từ các nƣớc ASEAN-6 phát triển hơn cũng có thể tràn vào Việt Nam và gây nhiều hệ lụy về xã hội. Thực tế này đòi hỏi Chính phủ, doanh nghiệp và ngƣời dân Việt Nam phải có sự thuẩn bị tốt để đối phó các thách thức về dịch chuyển lao động từ AEC. Bảng 2. Xếp hạng về thể chế của Việt Nam Nguồn: Diễn đàn Kinh tế Thế giới 4. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong AEC Trong Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trƣờng kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, Chính phủ đề ra mục tiêu cụ thể là trong 2 năm phải đƣa nền kinh tế Việt Nam vƣơn đến mức trung bình của ASEAN- 6. Mới đây, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trƣờng kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 - 2016, trong đó xác định yêu cầu đến hết năm 2015, các chỉ tiêu về môi trƣờng kinh doanh của Việt Nam phải đạt và vƣợt mức này (rút ngắn thời gian nộp thuế không quá 121,5 giờ/năm; nộp bảo hiểm xã hội không quá 49,5 giờ/năm; thực hiện thủ tục kinh doanh tối đa 6 ngày; thời gian tiếp cận điện năng đối với lƣới điện trung áp tối đa 36 ngày; thời gian hàng hóa nhập khẩu qua biên giới tối đa là 13 ngày với hàng hóa xuất khẩu; 14 ngày đối với hàng hóa nhập khẩu ); và đến hết năm 2016, chỉ số môi trƣờng kinh doanh của Việt Nam thiểu phải đạt mức trung bình của nhóm ASEAN-4 đối với một số chỉ tiêu thông lệ quốc tế. Thứ nhất, giải pháp chung cho DN và Nhà nƣớc là phải nắm bắt đƣợc các cam kết để thực thi, đổi mới cơ chế, nâng cao năng lực quản trị của các cấp chính quyền, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, giúp DN nâng cao năng lực cạnh tranh. Chiến lƣợc cao nhất và thực chất nhất là nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu tăng GDP bằng cách thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài thì cũng không giúp tăng năng lực cạnh tranh cho Việt Nam. Thứ hai, để đổi mới thể chế có hiệu quả, bên cạnh sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nƣớc còn cần có sự tham gia tích cực, chủ động của doanh nghiệp. Trong quá trình hình thành tất cả các văn bản pháp luật liên quan đến kinh doanh, cộng đồng doanh nghiệp đã tham gia rất tích cực thông qua vai trò của VCCI và các hiệp hội ngành hàng. Các cơ quan này thƣờng xuyên tổ chức các cuộc đối thoại để 227
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG các doanh nghiệp có cơ hội kiến nghị và những góp ý cụ thể vào từng điều, từng khoản có liên quan đến cải thiện môi trƣờng kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thứ ba, AEC sẽ khiến các DN phải cạnh tranh gay gắt trên sân nhà, lúc này, lựa chọn kênh phân phối là rất quan trọng. Do đó, hƣớng các DN tận dụng kênh thƣơng mại điện tử bởi các giao dịch rất đa dạng, trao đổi thông tin, thanh toán, nộp thuế, quảng cáo, tuyển dụng nhân lực với chi phí thấp, 24/24 giờ và DN có thể chỉ cần ngồi một chỗ. Thứ tƣ, các doanh nghiệp cần tích cực hơn trong phát triển thị trƣờng lao động trong nƣớc, phối kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nƣớc tập trung vào hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trƣờng lao động khu vực cả về quy mô, chất lƣợng và cơ cấu ngành nghề. Cần phát triển lực lƣợng lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao, giỏi về ngoại ngữ, thông thạo môi trƣờng khu vực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đổi mới cơ chế quản lý tiền lƣơng gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh, khuyến khích ngƣời lao động tự động nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của mình. Tóm lại, xây dựng vững chắc ba trụ cột kinh tế chính: doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp dịch vụ và nguồn nhân lực là những yêu cầu cấp bách nhất cho nền kinh tế Việt Nam. Chỉ khi nào ba trụ cột kinh tế mạnh thì khả năng cạnh tranh doanh nghiệp Việt với các doanh nghiệp khác trong khu vực ASEAN mới đƣợc hình thành và đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế đất nƣớc. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] C.K Prahalad and Gary Hamel (1960), The core competence of the corporation, Harvard business review. [2] Michael E. Porter (1985), The Competitive Advantage of Nations, the Free press, New York. [3] Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr.1172. [4] Một số website: vi.wikipedia.org; 228