Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế

pdf 18 trang Gia Huy 18/05/2022 3860
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphat_trien_ben_vung_kinh_te_bien_viet_nam_trong_qua_trinh_ho.pdf

Nội dung text: Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế

  1. 440 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Nguyễn Thị Thu Hương* Phạm Nguyễn Mỹ Linh TÓM TẮT: Việt Nam là một quốc gia ven biển có nhiều tiềm năng cũng như có lịch sử phát triển lâu đời về kinh tế biển. Biển chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đáng chú ý là những lợi thế về vị trí địa lý tự nhiên thuận lợi và giàu có về tài nguyên khoáng sản (nhất là dầu khí, than, làm muối). Các ngành kinh tế biển có khả năng phát triển là kinh tế hàng hải, khai thác hải sản, du lịch biển và phát triển các khu kinh tế ven biển Việc khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Các ngành kinh tế biển luôn chiếm tỷ trọng lớn trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, kinh tế biển của Việt Nam vẫn thực sự chưa phát triển tương ứng với nhu cầu đặt ra, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của mình. Bài viết phân tích thực trạng phát triển kinh tế biển và bảo tồn tính bền vững của biển Việt Nam trong thời gian gần đây. Từ đó các tác giả đã làm rõ những kết quả cũng như hạn chế trong phát triển kinh tế biển Việt Nam. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam thời gian qua và khuyến nghị các giải đẩy mạnh phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ khóa: Phát triển bền vững, kinh tế biển, hội nhập, Việt Nam 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng lớn về kinh tế biển với bờ biển dài trên 3.260 km, có vùng biển rộng trên 1 triệu km (gấp hơn 3 lần diện tích đất liền), có vị trí địa kinh tế và địa chính trị đặc biệt. Biển chứa đựng nhiều tài nguyên to lớn để phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đáng chú ý là những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản và nguồn lực con người. Biển đã đem lại cho Việt Nam nhiều nguồn lợi lớn từ khai thác khoáng sản (nhất là dầu khí, than ven biển, làm muối), phát triển kinh tế hàng hải, khai thác hải sản, du lịch biển và phát triển các khu kinh tế ven biển. Việc khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước. * Học viện Tài chính, Đức Thắng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Tác giả nhận phản hồi: Email: nguyenthithuhuong@hvtc.edu. vn - Điện thoại: 0912670953 Đại học Manitoba, Canada. Tác giả nhận phản hồi: Email: mylinhphamnguyen52@gmail.com - Điện thoại: +1(204)296 9104
  2. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 441 Các ngành kinh tế biển luôn chiếm tỷ trọng lớn trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Hiện nay, ước tính tỉ trọng các ngành kinh tế biển và liên quan đến biển chiếm khoảng 48% GDP cả nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay phát triển kinh tế biển của Việt Nam được đánh giá là chưa hiệu quả. Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu, Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ khai thác lợi thế tĩnh theo hình thức khai thác tài nguyên thô, trình độ công nghệ thấp, chưa tạo được giá trị gia tăng lớn cho những ngành kinh tế từ biển. Khai thác hàng hải, cảng biển và du lịch nhìn chung vẫn ở trình độ thấp, sức cạnh tranh còn kém. Xuất phát từ thực tiễn trên, các tác giả mong muốn được chia sẻ những quan điểm và khuyến nghị những giải pháp có căn cứ khoa học và thực tiễn để đẩy mạnh phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. 2. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN 2.1. Định nghĩa phát triển bền vững kinh tế biển PTBV kinh tế biển là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường biển. 2.2. Đặc điểm của phát triển bền vững kinh tế biển Từ định nghĩa, ta có thể hiểu PTBV có những đặc điểm chính như sau: Thứ nhất, PTBV kinh tế biển là một phạm trù khoa học tổng hợp về tự nhiên, kinh tế - xã hội. Thứ hai, PTBV kinh tế biển mang tính khách quan và là xu hướng tất yếu của thời đại. Thứ ba, PTBV kinh tế biển không loại trừ tăng trưởng kinh tế mà cần một sự phát triển hài hòa. Thứ tư, PTBV kinh tế biển là một quá trình xã hội - chính trị, một lối sống, một nguyên tắc đạo đức mới 2.3. Các chỉ số đo lường phát triển kinh tế biển bền vững Phát triển kinh tế biển bền vững là sự phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển gắn liền với phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư vùng ven biển và bảo tồn tài nguyên biển, bảo vệ môi trường sinh thái vùng biển, ven biển có hiệu quả. Các chỉ số đo lường phát triển kinh tế biển bền vững bao gồm các chỉ số về kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường và thể chế. Các chỉ số về kinh tế biển: - Qui mô và tốc độ tăng GDP các ngành kinh tế biển; - Tỉ lệ đóng góp GDP của kinh tế biển vào cơ cấu GDP kinh tế của quốc gia, lãnh thổ; - Đảm bảo giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế biển năm sau cao hơn năm trước. - Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng qua các năm;
  3. 442 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA - Tỉ lệ đầu tư phát triển kinh tế biển; - Tổng thu ngân sách từ các hoạt động kinh tế biển cao hơn tổng chi cho phát triển kinh tế - xã hội - môi trường vùng biển, ven biển;. Các chỉ số về văn hóa - xã hội: - Tỉ lệ hộ nghèo vùng ven biển; - Nhà ở an toàn cho các cho các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương do bão lụt; - Tỉ lệ lao động qua đào tạo; - Tỉ lệ lao động có việc làm; - Mức độ hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc; - Đầu tư cho khoa học - công nghệ trong tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế -xã hội; Các chỉ số về bảo tồn tài nguyên và môi trường biển: - Diện tích và tỉ lệ che phủ rừng; - Tỉ lệ đầu tư cho bảo tồn tài nguyên, xử lý và bảo vệ môi trường biển. - Chất lượng nguồn nước biển, không khí, đất ven biển, ; 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM 3.1. Các nguồn tài nguyên biển của Việt Nam Theo các kết quả điều tra cho thấy, Biển Đông có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú và đa dạng bao gồm cả tài nguyên sinh vật và tài nguyên không sinh vật, tài nguyên trong khối nước, trên đáy và trong lòng đất dưới đáy biển. 3.1.1. Tài nguyên sinh vật (Living Resources) Theo các số liệu thống kê, hiện có tới 11.000 loài sinh vật thuỷ sinh và 1.300 loài sinh vật trên đảo đã được biết đến trong các vùng biển - đảo Việt Nam, trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy và 2.000 loài cá. Có 83 loài sinh vật biển được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam (37 loài cá, 6 loài san hô, 5 loài da gai, 4 loài tôm rồng, 1 loài sam, 21 loài ốc, 6 loài động vật hai mảnh vỏ và 3 loài mực). Biển Việt Nam có 110 loài cá kinh tế (trích, thu, ngừ, bạc má, hồng, v.v.) thuộc 39 họ, tổng trữ lượng cá biển khoảng 3 - 3, 5 triệu tấn và khả năng khai thác cho phép là trên một triệu tấn mỗi năm. (bảng 1). Ngoài ra, còn có nguồn lợi động vật thân mềm (hơn 2.500 loài) với trữ lượng đáng kể, có giá trị kinh tế cao. Rong biển có hơn 600 loài (sử dụng cho chế phẩm công nghiệp 24 loài, dược liệu 18 loài, thực phẩm 30 loài, thức ăn gia súc 10 loài và phân bón 8 loài). Trong vùng biển nước ta còn có nhiều loại động vật quý như đồi mồi, rắn biển, chim biển và thú biển. Vì nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, trong các vùng biển của nước ta còn có các hệ sinh thái rừng ngập mặn. hệ sinh thái cỏ biển, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái đảo, hệ sinh thái bờ đá, hệ sinh thái cồn cát, v.v. .
  4. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 443 Bảng 1. Trữ lượng và khả năng khai thác cá ở biển Việt Nam tỷ lệ STT Vùng biển Loại cá Trữ lượng Khả năng khai thác % Tấn % Tấn % Vịnh Bắc bộ phía cá nổi 390.000 83,2 156.000 83 1 tây cá đáy 48,409 16,8 31.364 17 16,9 cá nổi 500.000 89 200 89 2 Trung bộ Cá đáy 61.646 11 24.658 11 23,3 cá đáy 524.000 42,9 209.600 42,9 3 Đông nam bộ cá nổi 698.307 57,1 279.323 57,1 44,1 cá đáy 316.000 62 126.000 62 4 Tây nam bộ cá nổi 190.000 38 76.272 38 18,3 5 Gò nổi cá nổi 10.000 100 2.500 100 0.4 6 Tổng cộng cá nổi 1.740.000 63 697.000 62,8 100 Nguồn: Viện Nghiên cứu hải sản 3.1.2. Tài nguyên không sinh vật (Non - Living Resources) - Tài nguyên khoáng sản. Nguồn tài nguyên khoáng sản có cả trong khối nước, trên đáy và trong lòng đát dưới đáy biển. Trong các vùng biển và thềm lục địa nước ta đã xác định được nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá là có triển vọng dầu khí và điều kiện khai thác thuận lợi nhất, với tổng trữ lượng ước tính khoảng 10 tỉ tấn dầu quy đổi. Cùng với dầu - khí, trong các bể trầm tích ở thềm lục địa nước ta còn có trữ lượng than rất đáng kể (bảng 2.3). Bảng 2. Trữ lượng tiềm năng dự báo than trên thềm lục địa Việt Nam Bể trầm tích Trữ lượng Mét khối (x109 m3) Tấn (x109 tấn) Bể Sông Hồng 543,2 977,8 Bể Cửu long 81,5 146,7 Bể Nam Côn Sơn 1126 2027,8 Bể Malay- Thổ chu 656,7 1182,1 Tổng 2.407,40 4.334,40 Nguồn: Tạp chí Năng lượng Việt Nam Các loại sa khoáng ven bờ như ilmenit với trữ lượng dự đoán khoảng 13 triệu tấn; cát thủy tinh, trữ lượng ước tính hàng trăm tỷ tấn. Ngoài ra, còn một khối lượng lớn vật liệu xây dựng khổng lồ có thể được khai thác từ đáy biển (cát sạn sỏi cho xây dựng hoặc san lấp) để thay thế cho nguồn này trên lục địa đang bị cạn kiệt dần. Ngoài ra còn có cát thủy tinh ở Vân Hải (Quảng Ninh), Ba Đồn (Quảng
  5. 444 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Bình), Cam Ranh (Khánh Hòa), v.v với trữ lượng nhiều tỷ tấn. Trên sườn lục địa - chân lục địa và đáy biển sâu còn có tiểm năng các kết hạch sắt - mangan, bùn đa kim rất đáng kể mà đến nay chưa thể xác định được trữ lượng. Một loại khoáng sản khác rất có triển vọng trong trầm tích đáy biển Việt Nam được các nhà địa chất mới phát hiện trong thời gian gần đây là khí cháy (Hydrat methan). Nguồn tài nguyên khoáng sản trong khối nước biển có trữ lượng lớn nhất là muối với trữ lượng rất lớn bởi vì độ muối trung bình của nước biển là khoảng 32% và đường bờ biển dài khoảng 3.500km. Đây là loại khoáng sản dễ khai thác phục vụ cho công nghiệp và đời sống rất thiết thực. - Tài nguyên năng lượng. Thủy triều, sóng và gió là nguồn năng lượng tái tạo tiềm năng trên các vùng biển - đảo Việt Nam. Tiềm năng điện gió ở Việt Nam rất lớn. Riêng dải duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ có khả năng sản xuất tới 5x109Kw/giờ.năm. 3.1.3. Các nguồn tài nguyên đặc biệt (Remarkable Resources) Không gian mặt biển. Như đã nói, vùng biển - đảo nước ta hoàn toàn nằm trong vùng nhiệt đới và có diện tích rộng tới khoảng 3,5 triệu km2, quanh năm nước không đóng băng. Đây chính là điều kiện để giao thông - thương mại phát triển. Biển Việt Nam nói riêng và Biển Đông nói chung nằm ở vị trí có nhiều tuyến đường biển quan trọng của khu vực cũng như của thế giới, giữ một vai trò rất lớn trong vận chuyển lưu thông hàng hóa thương mại phục vụ đắc lực cho xây dựng nền kinh tế của nước ta cũng như các nước quanh bờ Biển Đông. Địa hình bờ và đảo. Địa hình mặt đất nói chung cũng như địa hình bờ biển và đảo nói riêng là “sân khấu” để cho thế giới sinh vật, trong đó có con người “trình diễn” cuộc sống. Địa hình bờ biển của nước ta rất đa dạng và độc đáo do được phát triển trên các loại đất đá khác nhau trong điều kiện khí hậu có sự phân hóa rõ rệt theo chiều bắc - nam. Trên bờ biển của nước ta lại có nhiều mũi đá nhô ra sát biển tạo nên các “hoành sơn thiên nhiên tráng lệ”, như Đèo Ngang, đèo Hải Vân, Đèo Cả. Vùng biển nước ta có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó vùng biển đông bắc có trên 3.000 đảo, bắc Trung Bộ trên 40 đảo, còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Căn cứ vào vị trí địa lý so với bờ có thể chia thành các đảo và quần đảo gần bờ (nằm trong phạm vi từ vùng tiếp giáp lãnh hải trở vào) và các đảo và quần đảo xa bờ (nằm trong vùng đặc quyền kinh tế). Các thành tạo địa hình bờ biển và đảo trên đây có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế biển. Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho khai thác - chế biến hải sản, giao thông vận tải đường biển, du lịch - thể thao - nghỉ dưỡng, v.v Ngoài ra, một số thành tạo địa hình có giá trị thẩm mỹ còn được sử dụng trực tiếp cho khách tham quan phong cảnh. Mặt khác, các thành tạo địa hình bờ biển và đảo còn là kho lưu trữ các loại tài nguyên khác của biển như thổ nhưỡng và sinh vật. 3.2. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam 3.2.1. Quan điểm chiến lược về phát triển kinh tế biển Việt Nam Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam mới được định hình khá rõ nét. Chiến lược biển Việt Nam đã chú trọng
  6. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 445 đến phát triển kinh tế biển: “đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển”, “phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53- 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước”. Chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam định hướng vào những ngành kinh tế biển chủ chốt như: (1) Phát triển kinh tế hàng hải; (2) Chú trọng khai thác và chế biến khoáng sản (trọng tâm vào dầu, khí); (3) Khai thác và chế biến hải sản; (4) Phát triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; (5) Phát triển các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Tuy nhiên, trong chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam vẫn còn tồn tại một số vấn đề: - Có thể nói cơ chế quản lý kinh tế biển Việt Nam còn nhiều bất cập, điều này thể hiện ở chỗ Việt Nam hiện chưa có một cơ quan quản lý thống nhất về kinh tế biển. Mỗi một lĩnh vực, một ngành nghề lại có một cơ quan quản lý dẫn tới sự chồng chéo lên nhau. Tại các tỉnh thành ven biển Việt Nam có các Tổng cục Biển Đảo Việt Nam (thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường), nhưng cơ quan này được thành lập mới chỉ mang tính hình thức mà chưa phát huy được tác dụng. Quy hoạch không gian phát triển kinh tế biển còn chưa rõ ràng. - Trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế mạnh mẽ, Việt Nam đang ở trong cuộc đua tranh trong phát triển kinh tế Biển Đông giữa các nước ven biển này. Đặc biệt, nơi đây đang có nhiều tranh chấp về chủ quyền biển đảo. Trung Quốc, một nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới đang triển khai chiến lược phát triển kinh tế biển Đông khá bài bản và mạnh mẽ, gây sức ép cạnh tranh lớn đối với Việt Nam và các nước trong khu vực. Trong khi đó, chiến lược phát triển biển của Việt Nam chưa chú ý đúng mức đến vấn đề cạnh tranh chiến lược này (địa kinh tế, địa chính trị). Sự chậm trễ hoặc thiếu sót của Việt Nam trong vấn đề này chắc chắn sẽ gây cho Việt Nam nhiều bất lợi về kinh tế, môi trường, an ninh quốc phòng, chủ quyền quốc gia. - Trong chiến lược phát triển biển của Việt nam chưa đề cập sâu và cụ thể đến mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và và đảm bảo độc lập - tự chủ. - Trong chiến lược phát triển biển của Việt Nam chưa đề cập một cách tổng thể và toàn diện đến quan hệ kinh tế - quốc phòng. 3.2.2. Các chỉ số đo lường phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam 3.2.2.1. Các chỉ số về kinh tế 1. Ngành vận tải biển Việt Nam Đội tàu biển Việt Nam tính đến tháng 4/2016 có 1.895 tau (trong đó có 39 tàu công-te-nơ với năng lực chở khoảng 20.000TEU), tổng dung tích 5,13 triệu GT, tổng trọng tải 7,97 triệu DWT, độ tuổi trung bình là 17 năm. Cơ cấu đội tàu bất hợp lý, dư thừa tàu bách hóa, tổng hợp, thiếu tàu công ten nơ, chuyên dùng; tính hiện đại hóa của đội tàu thấp. Số lượng chủ tàu Việt Nam khoảng 600 chủ tàu, trong đó có khoảng 30 doanh nghiệp nhà nước (gồm Vinalines) chiếm 40% tổng trọng tải đội tàu quốc gia. Khoảng trên 500 chủ tàu là doanh
  7. 446 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA nghiệp tư nhân đa phần chỉ có 01 hoặc 02 tàu có năng lực tài chính, trình độ quản lý hạn chế, manh mún trong đó có hơn. Biểu đồ 1:Cơ cấu đội tàu biển Việt Nam Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam Cơ cấu đội tàu bất hợp lý, thiếu tàu chuyên dùng (công-te-nơ, khí hóa lỏng LPG), dư thừa tàu hàng bách hóa độ tuổi trung bình 17 tuổi. Các doanh nghiệp đang thực hiện tái cơ cấu theo hướng chuyên dụng hóa, trong đó tàu container có 39 tàu, số còn lại tàu bách hóa, hàng rời chiếm đa số đang được cơ cấu lại phù hợp với thị trường. Năm 2018, tổng sản lượng vận tải do đội tàu biển Việt Nam thực hiện ước đạt 144,6 triệu tấn, khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 153.079 triệu tấn km, tăng 10,9% so với năm 2017, chiếm tỷ trọng 55,6% trong tổng lượng hàng hóa luân chuyển của tất cả các phương thức vận tải. Đôi tau mang cơ quôc tich Viêt Nam hiện đã đam nhân đươc gần 100% lượng hàng vân tai nôi đia bằng đường biển, trư môt sô tau chuyên dung như LPG, xi măng rơi Tổng sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển của các phương tiện thủy nội địa năm 2018 ước đạt 171,6 triệu tấn, tăng 30,5% so với năm 2017. Tỷ trọng lượng hàng thông qua hệ thống cảng biển của phương tiện thủy nội địa đã tăng 11,5% trong giai đoạn 2016 - 2018. Phạm vi hoạt động của tàu biển Việt Nam chủ yếu trên các tuyến vận tải ngắn Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Hiện chỉ đảm đương khoang 10% thị phần vận tải hang hoa xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Nguyên nhân do kém liên kết giữa các chủ tàu với nhau và chủ tàu với chủ hàng, cũng như tập quán của chủ hàng Việt Nam mua CIF bán FOB còn phổ biến. Một số doanh nghiệp nhà nước (VINALINES, PVN, Petrolimex, TKV) được xác định là nòng cốt, trong đó Vinalines là chủ đạo. Tuy nhiên do ảnh hưởng kinh tế, vận tải biển thế giới và tình trạng buông lỏng quản lý, tinh thần chịu trách nhiệm quản lý vốn của nhà nước chưa cao, không có chiến lược phát triển đội tàu hợp lý theo nhu cầu dài hạn, hiệu quả khai thác tàu thấp. Hiện nay đang thực hiện tái cơ cấu theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải.
  8. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 447 2) Ngành khai thác khoáng sản biển Việt Nam a) Khai thác dầu, khí Về sản lượng khai thác: Trước năm 2000, dầu thô được khai thác bình quân khoảng 7 triệu tấn/năm; sau năm 2000 bình quân khoảng 16 triệu tấn/năm (tăng gần 2 lần). Sản lượng dầu thô năm 2004 đạt 20,35 triệu tấn, sau 5 năm (đến 2009) đã giảm xuống còn 16 triệu tấn, dự tính đang còn tiếp tục giảm rất nhanh và đến 2025 chỉ còn 3÷5 triệu tấn/năm. Sản lượng cao nhất toàn ngành đạt mức 348.000 thùng/ngày (vào năm 2012). Sản lượng kỷ lục của một mỏ đạt 45.132 thùng/ngày (vào năm 2013 - mỏ Tê Giác Trắng của Công ty Soco). Khí đồng hành của mỏ Bạch Hổ trong thời gian 10 năm đầu bị đốt bỏ ngoài khơi, chỉ được tận thu từ năm 1996 - sau khi Nhà máy điện tua bin khí Bà Rịa đi vào hoạt động. Việc khai thác khí hiện được triển khai chủ yếu tại các mỏ ở thềm lục địa phía Nam (Bạch Hổ, Đại Hùng, Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, PM3). Tính đến tháng 12/2016, tổng sản lượng khai thác khí đạt 123,14 tỷ m3 khí. Biểu đồ 2: Sản lượng khai thác dầu thô hàng năm giai đoạn 1986 - 2016 Nguồn: Tạp chí Năng lượng Việt Nam Hiện tại, các nguồn cung khí hiện hữu, một số mỏ đang suy giảm nhanh (Lan Tây/Lan Đỏ, Rồng Đôi Rồng/Đôi Tây ). Nguồn cung cấp khí trong nước dự kiến có khả năng bổ sung thêm một số mỏ có trữ lượng lớn như: mỏ Cá Voi Xanh, lô B 48/95&52/97 và mỏ Cá Rồng Đỏ. Tuy nhiên, tiến độ phát triển, khai thác các nguồn khí này hiện nay còn đang gặp nhiều khó khăn do quy mô lớn, vốn đầu tư cao, khó khăn trong việc đàm phán thương mại, thu xếp vốn. Dự kiến chỉ có thể bổ sung cho nguồn khí trong nước từ 2021-2023. Như vậy, với tốc độ thăm dò và khai thác như hiện nay, tổng trữ lượng khí thiên nhiên (hiện có và sẽ được bổ sung) của Việt Nam chỉ đủ khai thác trong 18 - 20 năm nữa và đến sau 2020, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu khí bổ sung cho mức thiếu hụt trong khai thác. Đóng góp cho ngân sách nhà nước Năm 2018, PVN đã hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh, đặc biệt ở cả chỉ tiêu gia tăng trữ lượng, sản lượng khai thác dầu khí và các chỉ tiêu tài chính. Hầu hết các chỉ tiêu sản xuất Chính phủ giao tập đoàn đều về đích trước kế hoạch năm.
  9. 448 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Tổng sản lượng khai thác dầu khí năm 2018 đạt 23,98 triệu tấn quy dầu, vượt 5% kế hoạch năm. Sản xuất đạm ước tính cả năm đạt 1,63 triệu tấn, vượt 5,7% kế hoạch năm. Tổng doanh thu toàn tập đoàn năm 2018 ước đạt 626,8 nghìn tỷ đồng, vượt 96 nghìn tỷ đồng, tương đương vượt 18,1% kế hoạch năm, tăng 25,9% so với năm 2017. Nộp NSNN toàn tập đoàn năm 2018 ước đạt 121,3 nghìn tỷ đồng, vượt 47,5 nghìn tỷ đồng, vượt 64,3% kế hoạch năm, tăng 24,3% so với năm 2017. Trung bình mỗi năm PVN duy trì mức tăng trưởng doanh thu 15-20%, đóng góp 20 % tổng thu Ngân sách Nhà nước, chiếm 8% /năm tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. b) Khai thác than (ven biển) Ngành than được định hướng ưu tiên đáp ứng nhu cầu trong nước; giảm dần xuất khẩu và chỉ xuất khẩu các chủng loại than trong nước chưa có nhu cầu sử dụng Ngày 31/8/2016, Bộ Công Thương đã công bố điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030 với các nội dung: - Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành than bình quân khoảng 17,930 tỷ đồng/năm; trong đó, giai đoạn đến năm 2020 là khoảng hơn 95,000 tỷ đồng; giai đoạn 2021-2030 hơn 172,000 tỷ đồng. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung cho đầu tư mới và cải tạo mở rộng các khu mỏ, đầu tư công nghệ thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng than tiên tiến - Về khai thác than, sản lượng than thương phẩm sản xuất toàn ngành than trong các giai đoạn của quy hoạch khoảng 41-44 triệu tấn vào năm 2016; 47-50 triệu tấn vào năm 2020; 51-54 triệu tấn vào năm 2025 và 55-57 triệu tấn vào năm 2030. - Ngành than phải giảm tỷ lệ tổn thất than khai thác bằng phương pháp hầm lò xuống khoảng 20% vào năm 2020 và dưới 20% sau năm 2020; tỷ lệ tổn thất than khai thác bằng phương pháp lộ thiên xuống khoảng 5% vào năm 2020 và dưới 5% sau năm 2020 Biểu đồ 3: Đóng góp cho ngân sách nhà nước: Hiện nay, sản lượng than sản xuất bình quân hàng năm của TKV đạt từ 40 - 45 triệu tấn, tăng gấp 7 lần với khi thành lập doanh nghiệp vào năm 1994.
  10. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 449 Để đạt được sản lượng này, TKV đã thực hiện đào 5.200 km đường lò, gấp 3 lần chiều dài đất nước Việt Nam, bình quân đào 206 km/năm và bóc xúc 3,4 tỷ m3 đất đá, bình quân 128 triệu m3/ năm. Tổng doanh thu than từ 1.300 tỷ đồng năm 1994 tăng lên 62.260 tỷ đồng năm 2018, gấp 47,6 lần so với thời điểm TKV ra đời. Năng suất lao động tính theo than nguyên khai năm 2018 đạt 572 tấn/người-năm, tăng 3,45 lần so với năm 1995. Liên tục từ năm 2005 đến nay, lợi nhuận trước thuế và tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của TKV luôn đạt mức cao trung bình từ 32 - 42 %. Những năm đầu thành lập, vốn chủ sở hữu là 900 tỷ đồng, đến nay đã tăng lên 35.000 tỷ đồng, gấp 37 lần. Tổng tài sản là 129.000 tỷ đồng, tăng 5,38 lần so với năm 2005. Doanh thu tăng từ 1.850 tỷ lên hơn 124.000 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế tăng từ 12 tỷ đồnglên 4.950 tỷ đồng. Tính chung 25 năm, tổng doanh thu của TKV đạt 1.121.000 tỷ đồng. Lợi nhuận đạt 60.000 tỷ đồng. Theo thống kê, nộp ngân sách Nhà nước đã tăng từ 120 tỷ đồng năm 1995 lên 17.800 tỷ đồng năm 2019, gấp 148 lần. Qua 25 năm hoạt động, TKV đã nộp ngân sách nhà nước 164.000 tỷ đồng. 3) Ngành muối Hiện nay cả nước có 21 tỉnh ven biển sản xuất muối nhưng diện tích sản xuất muối tập trung chính ở các tỉnh như: Bạc Liêu, Ninh Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Bến Tre, Khánh Hòa, Bình Thuận, Hà Tĩnh, Nghệ An, Nam Định, Thanh Hóa Muối ở Việt Nam chủ yếu được sản xuất bằng 2 phương pháp là: Phương pháp phơi cát thủ công ở Miền Bắc và Bắc Miền Trung; phương pháp phơi nước: Phơi nước phân tán ở Miền Trung và Miền Nam, Phơi nước tập trung (sản xuất muối công nghiệp) ở 3 tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Nhìn chung, sản xuất muối ở Việt Nam vẫn còn manh mún, lạc hậu, sản lượng và chất lượng thấp, không ổn định, phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu thời tiết, làm cho năng suất, chất lượng muối thấp nên diêm dân sản xuất muối có thu nhập không cao. Năm 2015, cả nước có tổng diện tích sản xuất muối là 15.172 ha, sản lượng muối đạt 1.504 nghìn tấn. Trong đó, sản lượng muối sản xuất bằng phương pháp thủ công đạt 924 nghìn tấn (chiếm 61,44%), muối sản xuất bằng phương pháp công nghiệp đạt 580 nghìn tấn (chiếm 38,56%). Hiện nay, ngành muối của Việt Nam chưa hội tụ đủ các yếu tố để phát triển ổn định và bền vững. Diện tích quy hoạch các vùng sản xuất muối luôn bị thay đổi. Nhiều địa phương vùng biển lại không mặn mà với nghề muối do thu nhập thấp từ nghề này thấp lại phải lao động vất vả. Nguồn thu cho ngân sách lại không nhiều nên lãnh đạo địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến việc chỉ đạo và tạo nguồn vốn đầu tư phát triển ngành này cũng như hỗ trợ cho diêm dân. 4) Ngành khai thác nuôi trồng thủy sản Trong 5 năm qua, kim ngạch XK thủy sản của Việt Nam luôn đứng thứ 4 trong số các mặt hàng XK chủ lực, sau dệt may, da giầy và dầu thô. Thành tựu của ngành thủy sản thể hiện bằng kết quả XK tăng nhanh về cả giá trị và sản lượng trong giai đoạn 2001 - 2016. Năm 2016, sản phẩm thủy sản được XK sang 160 nước và vùng lãnh thổ. 3 thị trường chính là EU chiếm 17,3%, Mỹ 20,6% và Nhật Bản 15,7% và đang có những thị trường tiềm năng như Trung Quốc (12,2%) và ASEAN (7,5%). Số nhà máy và công suất cấp đông của các cơ sở chế biến tăng rất nhanh trong giai đoạn 2001- 2015. Khu vực ĐBSCL đã hình thành
  11. 450 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA một số công ty quy mô lớn như Tập đoàn TS Minh Phú, Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn, công ty Cổ phần Hùng Vương 5) Ngành du lịch biển Việt Nam đứng thứ 27 trong số 156 quốc gia có biển trên thế giới và là nước có diện tích ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á. Và có tới 125 bãi biển mà hầu hết là các bãi tắm đẹp, trong đó bãi biển Đà Nẵng đã được tạp chí Forbes bầu chọn là 1 trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh. Việt Nam cũng là 1 trong 12 quốc gia có các vịnh đẹp nhất thế giới là Vịnh Hạ Long, Vịnh Nha Trang. Trong 125 bãi biển, vịnh biển thuận lợi để phát triển du lịch và hơn 30/125 trong số này đã được các địa phương khai thác tốt để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Một số điểm đến nổi tiếng thu hút đông du khách quốc tế, đã mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch Việt Nam. Du lịch biển phát triển cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội dải ven biển, nơi hiện có khoảng 21,2 triệu người trong độ tuổi lao động và góp phần bảo đảm an ninh - quốc phòng, bảo vệ môi trường biển. 6) Khu kinh tế ven biển Việt Nam Thống kê cho thấy, giai đoạn 2003 - 2005 mới có 3 KKTVB, thì sang giai đoạn 2006 - 2008 có đến 11 KKTVB. Đây là giai đoạn ghi nhận sự bùng nổ về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào VN. Giai đoạn 2010 - 2015 đã có thêm 5 KKTVB thành lập. Tháng 8.2017 vừa qua, KKTVB Thái Bình đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập với diện tích rộng khoảng 30.583ha, trở thành khu kinh tế thứ 17 được thành lập hiện nay. Như vậy, trong Quy hoạch phát triển các KKTVB VN đến năm 2020, chỉ còn lại KKTVB Ninh Cơ - Nam Định chưa được thành lập. Tuy nhiên, sau hơn 14 năm phát động, đến nay VN chưa có một KKTVB nào được xây dựng theo đúng mục tiêu ban đầu của Chính phủ đề ra. 16 KKTVB có 36 khu công nghiệp, khu phi thuế quan được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 16.100ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 7.800ha, chiếm khoảng 48% tổng diện tích đất tự nhiên. Mô hình hoạt động của 16 KKTVB thời gian qua chưa cho thấy hiệu quả kinh tế như kỳ vọng, nhưng lại là loại hình chiếm dụng nhiều đất đai nhất với tổng diện tích đất và mặt nước là 815.000ha, nhiều gấp 13 lần tổng diện tích của 220 khu công nghiệp đang hoạt động. Quy mô kinh tế biển của VN chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD, trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước 1.300 tỷ USD. Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển VN bình quân đạt khoảng 47% - 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” mới đạt khoảng 20% - 22% tổng GDP cả nước. 3.2.2.2. Các chỉ số về văn hóa - xã hội 1)Nhà ở an toàn cho các cho các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương do bão lụt ngày càng gia tăng; Ngày 24/11/2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức Hội thảo Khởi động dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với những tác động của biến đổi khí hậu cho các cộng đồng dễ tổn thương ven biển
  12. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 451 Việt Nam”. Dự án do Quỹ Khí hậu Xanh thông qua UNDP tài trợ với số tiền hơn 29,5 triệu USD và thực hiện trong 5 năm (2017 - 2022). Mục tiêu của dự án là tăng khả năng chống chịu của các cộng đồng dễ bị tổn thương vùng ven biển trước các tác động liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam, thông qua: nhà ở an toàn cho các cho các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương do bão lụt ngày càng gia tăng; tăng tỷ lệ che phủ rừng ngập mặn cung cấp khu đệm tự nhiên giữa biển và các cộng đồng ven biển; thông tin rủi ro khí hậu đáng tin cậy giúp hướng dẫn lập kế hoạch được thông tin rủi ro và chống chịu với biến đổi khí hậu. Theo đó, dự án sẽ xây dựng 4.000 ngôi nhà tại các địa điểm an toàn có thiết kế chống chịu được bão lụt; tái sinh 4.000 ha rừng ngập mặn ven biển làm vùng đệm chắn triều cường và sóng biển dâng; tăng cường khả năng của các khu vực tư nhân và công cộng tiếp cận với những dữ liệu về mất mát, thiệt hại, khí hậu tại 28 tỉnh duyên hải ở Việt Nam. Dự án sẽ mang lại lợi ích cho 28 tỉnh ven biển, với kế hoạch tập trung hỗ trợ cho các tỉnh Nam Định, Thanh Hoá, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Cà Mau. Các huyện ven biển được lựa chọn sẽ được hưởng lợi ích từ việc lập kế hoạch phòng, chống thiên tai thông qua việc đánh giá rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng. 2) Phát triển y tế biển, đảo Đề án “Phát triển y tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã tạo hành lang pháp lý để các bộ, ngành, địa phương đầu tư cho phát triển y tế, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, lực lượng vũ trang và người lao động đang sinh sống, hoạt động trong vùng biển, đảo Việt Nam; giúp người dân an tâm làm ăn, sinh sống, bám biển, giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Qua bốn năm triển khai Đề án, các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương đã chủ động thành lập ban chỉ đạo để chỉ đạo xây dựng kế hoạch triển khai phù hợp với đặc thù của từng địa phương, đơn vị; đồng thời có hướng ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, phương tiện vận chuyển cho các huyện đảo Nhờ đó, nhận thức của người dân về việc tự bảo vệ sức khỏe dần được nâng cao; người dân sinh sống trên các huyện đảo, xã đảo đã được hưởng thụ chính sách ưu đãi về bảo hiểm y tế. Đến nay, các cơ sở khám chữa bệnh trên các huyện đảo, xã đảo và ven bờ từng bước được cải thiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, giúp người dân có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng hơn. Nhiều nạn nhân bị tai nạn, bị bệnh hiểm nghèo đã được cứu sống kịp thời. 3) Đầu tư khoa học - công nghệ cho phát triển kinh tế biển Hệ thống cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (Vnfishbase) nằm trong khuôn khổ dự án Tăng cường năng lực hành chính thủy sản do DANIDA do Đan Mạch tài trợ. Hệ thống cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia là cơ sở dữ liệu trực tuyến và đồng bộ cho cả quản lý thông tin đăng kiểm, đăng ký tàu cá, mẫu sản lượng khai thác tại cảng cá, bến cá, giấy phép khai thác. Đây là cơ sở dữ liệu khá toàn diện và có thể trở thành công cụ hữu ích trong quản lý nghề cá, năng lực khai thác Ban Quản lý Trung ương dự án Nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững đã ký hợp đồng với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hệ thống thông tin FPT để thực hiện dịch vụ tư vấn nâng cấp cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia.
  13. 452 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Tuy nhiên, trong quá trình vận hành hệ thống Vnfishbase vẫn còn bộc lộ một số khó khăn, hạn chế như: cơ sở dữ liệu hoạt động chưa ổn định; phân cấp quyền được xem, sửa, xóa cho tài khoản chưa sâu; việc báo cáo theo định kỳ chưa thống nhất theo biểu mẫu của Tổng cục thủy sản 3.2.2.3. Các chỉ số về bảo tồn tài nguyên và môi trường 1) Diện tích và tỉ lệ che phủ rừng Chương trình trồng rừng ngập mặn phòng ngừa thảm họa (do Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản và Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch tài trợ) được triển khai từ năm 1994. Theo Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, diện tích rừng ngập mặn do tổ chức này trồng chiếm trên 4,27% tổng diện tích rừng ngập mặn hiện đang tồn tại tại Việt Nam, chiếm khoảng 25% diện tích rừng tại các tỉnh có triển khai chương trình. Dự án Bảo vệ và Phát triển những vùng đất ngập nước ven biển miền Nam Việt Nam (CWDP) được triển khai trên địa bàn các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng và Trà Vinh (vùng Đồng bằng sông Cửu Long) giai đoạn 2000 - 2005 với phạm vi 65.936ha (chiếm 3,9%). Mặc dù đã có sự đầu tư trồng bảo vệ rừng ngập mặn thông qua các chương trình, song diện tích mất rừng qua các năm vẫn lớn hơn diện tích tái tạo, bao gồm tái sinh phục hồi rừng tự nhiên và trồng mới. 2) Đầu tư cho bảo tồn tài nguyên, xử lý và bảo vệ môi trường biển Đầu tư cho bảo tồn tài nguyên: Khu bảo tồn biển (KBTB) là một công cụ quản lý tài nguyên được sử dụng để làm chậm lại và cuối cùng đảo ngược quá trình suy giảm hệ sinh thái ven biển. Để bảo vệ đa dạng sinh học nói chung và bảo vệ các hệ sinh thái biển nói riêng, cùng với cộng đồng quốc tế trong chiến lược toàn cầu, ngày 26/5/2010, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 742 phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020, với mục tiêu cụ thể chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 2010-2015: Hoàn thiện hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam ; xây dựng quy hoạch chi tiết, thành lập và đưa vào hoạt động thêm 11 khu bảo tồn biển, đồng thời rà soát điều chỉnh quy hoạch 5 khu bảo tồn biển đã đi vào hoạt động. Giai đoạn 2016-2020: Tiến hành nghiên cứu, đề xuất quy hoạch phát triển mở rộng hệ thống khu bảo tồn biển; điều tra, khảo sát và thiết lập, đưa vào hoạt động một số khu bảo tồn biển mới; Đến nay, 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập và đưa vào hoạt động: Khu vịnh Nha Trang/ Khánh Hòa (2001); Khu BTB Cù Lao Chàm/Quảng Nam (2004); Khu BTB Phú Quốc/Kiên Giang (2007); Khu BTB Cồn Cỏ/Quảng Trị (2009); Khu BTB Hòn Cau/Bình Thuận (2010); Khu BTB Bạch Long Vĩ/Hải Phòng (2014); Khu BTB Lý Sơn/Quảng Ngãi (2015). Có 04 khu bảo tồn biển đã quy hoạch chi tiết đang hoàn thiện hồ sơ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt thành lập: Khu bảo tồn biển Hòn Mê; Khu bảo tồn biển Nam Yết; Khu bảo tồn biển Phú Quý; Khu bảo tồn biển Hải Vân - Sơn Chà. Đầu tư cho bảo vệ môi trường biển: Quyết định 1307/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Xây dựng hệ thống quan trắc và cảnh báo môi trường biển 04 tỉnh miền Trung. Theo Quyết định, mục tiêu của Dự án nhằm xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát và cảnh báo ô nhiễm môi
  14. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 453 trường tại 04 tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế nhằm bảo vệ môi trường biển đảm bảo hiện đại, đồng bộ giúp cung cấp thông tin, số liệu và tư liệu về hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường biển miền Trung; Đồng thời, cảnh báo kịp thời khi chất lượng môi trường biển miền Trung có dấu hiệu ô nhiễm. Theo đó, tổng đầu tư dự kiến là 320 tỷ đồng để đầu tư năng lực thiết bị quan trắc hiện trường, phân tích trong phòng thí nghiệm; phương tiện chuyên dùng phục vụ quan trắc môi trường tại các Trung tâm quan trắc môi trường; 4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM 4.1. Kết quả đạt được Về kinh tế Một là, Kinh tế biển và vùng ven biển nước ta đã có những chuyển biến tích cực và đóng góp lớn vào sự phát triển chung của kinh tế nước nhà. Hai là, Việt Nam đã đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp, xây mới hạ tầng vùng ven biển tạo động lực cho phát triển kinh tế vùng ven biển, gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Ba là, Đã quan tâm đầu tư, đẩy mạnh tổ chức sản xuất nông nghiệp vùng ven biển. Bốn là, Đẩy mạnh phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp và đặc khu kinh tế - hành chính nhằm tạo động lực cho phát triển các khu kinh tế ven biển Việt Nam. Năm là, Du lịch vùng ven biển, đảo ngày càng phát triển. Về xã hội Một là, Kinh tế vùng ven biển Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá và đóng góp rất lớn vào công cuộc đổi mới đất nước, tạo nền tảng vững chắc cho tiến trình tiến ra biển bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc. Hai là, Khai thác về địa chính trị và địa kinh tế để đẩy mạnh phát triển các vùng biển, ven biển, đảo của tổ quốc. Về môi trường: Khai thác tài nguyên khoáng sản vùng ven biển trên nguyên tắc vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ môi trường 4.2. Những hạn chế Bên cạnh những thành tựu, thời gian qua phát triển kinh tế biển và bảo tồn tính bền vững của biển Việt Nam còn gặp không ít thách thức, hạn chế. Nếu không hoặc chậm khắc phục sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển hiệu quả và bền vững, cũng như khả năng công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế biển ở Việt Nam: Về kinh tế Một là, quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý; chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế. Hai là, cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu, manh mún, thiết bị chưa đồng bộ nên hiệu quả sử dụng thấp: các cảng biển, thiếu hệ thống đường bộ cao tốc chạy dọc ven biển để nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp, sân bay ven biển nhỏ bé thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn.
  15. 454 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Ba là, tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững do khai thác tự phát, không tuân thủ quy hoạch biển, đảo, làm nẩy sinh nhiều mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành ở vùng ven biển, biển và hải đảo. Về xã hội Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, ở ven biển còn nhỏ bé, trang bị thô sơ. Các phương thức quản lý biển mới, tiên tiến còn chậm được nghiên cứu áp dụng như: quản lý không gian biển, quy hoạch sử dụng biển bao gồm hải đảo và vùng ven biển, giống như quy hoạch sử dụng đất áp dụng trên đất liền. Đặc biệt ít chú ý nghiên cứu công nghệ biển tiên tiến. Về môi trường biển Một là, môi trường biển bị biến đổi theo chiều hướng xấu. Ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển, một số khu biển ven bờ bị ô nhiễm, hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô rộng, Hai là, đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thuỷ hải sản giảm sút. Các hệ sinh thái biển quan trọng (RSH/ rạn san hô, RNM/ rừng ngập mặn, TCB/ thảm cỏ biển) bị suy thoái và bị thu hẹp diện tích. Ba là, ngoài thiên tai biển xẩy ra thường xuyên, Việt Nam còn là một trong 5 nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ. 4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam 4.3.1. Nguyên nhân chủ quan Một là, do nhận thức về vai trò, vị trí của biển và kinh tế biển của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ. Khái niệm về “kinh tế biển xanh” hầu như chưa được hiểu và áp dụng một cách thống nhất. Hai là, do cách tiếp cận ‘nóng’ trong khai thác tài nguyên biển đang là hiện tượng phổ biến ở các lĩnh vực kinh tế biển: chú trọng nhiều đến sản lượng, số lượng, ít chú ý đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên. Ba là, do biển, đảo và vùng ven biển nước ta vẫn chủ yếu được quản lý theo cách tiếp cận mở kiểu “điền tư, ngư chung” và chủ yếu quản lý theo ngành thông qua các luật pháp, chính sách ngành. Bốn là, công tác kiểm tra, kiểm soát, cấp và thu hồi giấy phép sử dụng, khai thác tài nguyên biển, chậm được triển khai trong lĩnh vực quản lý tài nguyên biển. Năm là, trong mô hình phát triển các khu kinh tế ven biển nói riêng và kinh tế biển nói chung đều thiếu “đầu tàu” không áp dụng các quy luật “lan tỏa” trong phát triển dẫn đến thể chế chưa rõ ràng và đẳng cấp chưa tương xứng, đẳng cấp công nghệ với các khu kinh tế biển thấp, không hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế lớn.
  16. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 455 4.3.2. Nguyên nhân khách quan Biển Đông là nơi xảy ra tranh chấp biển đảo kéo dài, phức tạp và khó lường do các tuyên bố đơn phương và hành động thiếu trách nhiệm, thiếu thượng tôn pháp luật của các cường quyền nước lớn. 5. CÁC KHUYẾN NGHỊ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM 5.1. Tăng cường luật pháp, chính sách về phát triển kinh tế biển Cần áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt về tài chính thu hút đầu tư và ưu tiên phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững: áp dụng các mô hình kinh tế bền vững (du lịch sinh thái, nông - lâm nghiệp sinh thái, khai khoáng sạch, thủ công nghiệp sạch ) để giảm tổn thất tài nguyên và giảm chất thải và suy thoái môi trường; bổ sung các chi phí TN - MT vào chi phí sản xuất; các hình thức xử phạt các hành vi gây tổn hại đến TN - MT như đánh bắt bằng mìn, điện, chặt phá RNM Cần có các chính sách giảm thuế cho các lĩnh vực kinh tế ít gây tổn hại đến TN - MT biển, thu hút các dự án đầu tư phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường từ nước ngoài. Đồng thời cần tăng cường, củng cố các phong tục, luật lệ truyền thống, hương ước tốt ở địa phương, nâng cao nhận thức người dân về giá trị và chức năng, cách thức khai thác, sử dụng bền vững TN - MT biển. 5.2. Quản lý tài nguyên - môi trường dựa vào cộng đồng Khi áp dụng phương pháp quản lý TN - MT dựa vào cộng đồng đối với vùng, trước hết cần triển khai đề án áp dụng mô hình quản lý, bảo vệ các HST RNM vào hội nuôi trồng thủy sản, hội đánh bắt thủy sản, hội cựu chiến binh, phụ nữ Trên cơ sở thành công của đề án này, triển khai mở rộng việc quản lý dựa vào cộng đồng đối với các dạng tài nguyên khác. Quản lý dựa vào cộng đồng cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đối tượng tham gia trên cơ sở thỏa thuận và quy định rõ ràng vai trò, nghĩa vụ, quyền lợi và quyền hạn. Ngoài ra, cần lồng ghép nội dung giáo dục về bảo vệ tài nguyên vào giảng dạy trong các cấp học. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, các cuộc thi sáng tác, hội diễn nghệ thuật về bảo vệ nguồn tài nguyên. 5.3. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát môi trường Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát môi trường có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết dứt điểm những nội dung, vấn đề nóng, bức xúc về môi trường, thông qua đó cập nhật những quy định mới về BVMT, hướng dẫn cho các địa phương, doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ, thủ tục về môi trường, xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, tiếp tục củng cố, hoàn thiện cơ cấu tổ chức về BVMT từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt, sớm bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành cho Chi cục BVMT, tăng cường biên chế cán bộ quản lý môi trường cho cấp huyện, xã để đáp ứng yêu cầu quản lý trong thời gian tới. 5.4. Giải pháp về khoa học công nghệ cho phát triển bền vững kinh tế biển Tiến hành xây dựng và duy trì hoạt động các trạm quan trắc và giám sát TN - MT, tai biến nhằm giám sát chất lượng môi trường, biến động các HST, nơi cư trú (habitat), nguồn gen ; xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu, web hóa đáp ứng yêu cầu sử dụng hợp lý TN - MT và PTBV các vùng biển Việt Nam.
  17. 456 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Nghiên cứu các xu hướng biến động TN - MT biển và ven biển. Dựa trên các báo cáo: đánh giá tác động môi trường, hiện trạng môi trường hàng năm, điều tra chất lượng và trữ lượng của tài nguyên, hiện trạng sử dụng tài nguyên, niên giám thống kê, các kết quả nghiên cứu về TN - MT, thiên tai (dâng cao mực nước biển, bão, lũ ) để xác định các xu thế biến động và dự báo biến động về TN - MT và xung đột môi trường, làm cơ sở khoa học cho việc quy hoạch sử dụng bền vững, phân vùng theo tính dễ bị tổn thương, quản lý, quy hoạch và ban hành các chính sách liên quan đến sử dụng hợp lý. Nghiên cứu và triển khai các mô hình sử dụng bền vững TN - MT biển và ven biển như: mô hình du lịch sinh thái, mô hình nuôi trồng thủy sản sinh thái, mô hình nông nghiệp sinh thái 5.5. Giải pháp tuyên truyền và giáo dục Dân cư sinh sống tại các vùng biển Việt Nam phần lớn dựa vào khai thác và sử dụng các tài nguyên biển và ven biển. Đồng thời, các hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên lại tác động trực tiếp đến TN - MT các vùng biển. Do đó, giải pháp tuyên truyền và giáo dục đối với người dân trong khu vực về sử dụng hợp lý các tài nguyên và bảo vệ môi trường, đối phó với biến đổi khí hậu, nâng cao khả năng phòng chống thiên tai, giảm MĐTT là một trong những giải pháp rất quan trọng. Giáo dục mọi người có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của TN - MT trước hết vì cuộc sống của chính bản thân mình và cộng đồng xung quanh. Cần phát hiện kịp thời và thường xuyên công khai các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của những cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm tạo dư luận xã hội lên án nghiêm khắc đối với những hành vi đó. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ hội cấp xã, huyện, tỉnh về kiến thức, kỹ năng sử dụng bền vững TN - MT, bảo vệ môi trường, bảo tồn tự nhiên, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu 5.6. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển với xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển vững mạnh Việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực ven biển, trên biển và các đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng thể của khu vực phòng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận “tĩnh” của đảo và bờ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ động trên biển tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc. Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế - xã hội phải phù hợp với hệ thống trang bị kỹ thuật quốc phòng - an ninh trong hệ thống các cụm lực lượng trên biển, thực hiện kiểm soát, giám sát, báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong đấu tranh phòng chống các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia. Xây dựng lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác, đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác hải sản trái phép của nước ngoài trên vùng biển của Việt Nam.
  18. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 457 6. KẾT LUẬN Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau. Phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng thế mạnh kết hợp với bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển nói riêng và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nước ta thực sự trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2010), Chiến lược biển Việt Nam: Từ quan điển đến thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. 2. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982. Nxb. Chính trị Quốc gia; Hà Nội, 1993. 3. Chu Đức Dũng (2011), “Chiến lược phát triển kinh tế Biển Đông của một số nước Đông Á - Tác động và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam”, Đề tài cấp nhà nước thuộc Chương trình Khoa học xã hội và nhân văn Chương trình trọng điểm cấp nhà nước “Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020”. 4. Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Hồng Thao, Mạc Việt Hà (1998), Vị trí chiến lược vấn đề biển và luật biển ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Thông tin KHXH, Hà Nội. 5.Nguyễn Chu Hồi (2007), Tổ chức không gian biển để phát triển kinh tế bền vững, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Các giải pháp quản lý và phát triển kinh tế biển ở thành phố Đà Nẵng”, Đà Nẵng. 6. Nguyễn Chu Hồi (chủ biên) (2007), Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam, Viện KHXH Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xuất bản, Hà Nội, tháng 12. 7. Đào Duy Quát và Phạm Văn Linh (2008), Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2008.