Quy định về quyền tác giả, quyền liên quan trong hiệp định CPTPP và thách thức đặt ra đối với Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Quy định về quyền tác giả, quyền liên quan trong hiệp định CPTPP và thách thức đặt ra đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- quy_dinh_ve_quyen_tac_gia_quyen_lien_quan_trong_hiep_dinh_cp.pdf
Nội dung text: Quy định về quyền tác giả, quyền liên quan trong hiệp định CPTPP và thách thức đặt ra đối với Việt Nam
- QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TÁC GIẢ, QUYỀN LIÊN QUAN TRONG HIỆP ĐỊNH CPTPP VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM Ths. Nguyễn Thị Ngọc Tú Ths. Hoàng Ngọc Hải Trƣờng Đại học Thƣơng Mại Tóm tắt: Kể từ khi tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam có được nhiều cơ hội, song song với đó là không ít thách thức trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Bởi có một thực tế cần phải đối diện đó là Việt Nam c ng là quốc gia có tỷ lệ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung, đặc biệt quyền là tác giả, quyền liên quan ở mức cao, trong khi đó cơ chế thực thi bảo vệ các quyền này ở mức thấp. Bài viết tìm hiểu các quy định về quyền tác giả và quyền liên quan trong Hiệp định CPTPP, từ đó chỉ ra những thách thức đối với Việt Nam và phần nào nêu lên quan điểm về việc sửa đổi pháp luật Việt Nam để phù hợp với CPTPP. Từ khóa: Quyền tác giả, quyền liên quan, CPTPP, quyền SHTT, tính tương thích 1. Nội dung quyền tác giả và quyền liên quan trong CPTTP Đối với lĩnh vực SHTT được quy định tại Chương 18 của Hiệp định, trong đó các vấn đề về quyền tác giả, quyền liên quan được quy định chủ yếu tại Mục H (gồm 11 Điều quy định về tiêu chuẩn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan) và các quy định khác nằm rải rác trong các Mục A (Các quy định chung); Mục B (Các quy định về hợp tác); Mục I (Các quy định về thực thi) và Mục K (Các điều khoản cuối cùng) - Các quy định về tiêu chuẩn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan gồm: + Các quy định về phát song, truyền đạt tới công chúng, định hình, người biểu diễn, bản ghi âm, nhà sản xuất bản ghi âm, công bố (Điều 18.57); + Quy định về quyền sao chép (Điều 18.58): bao gồm cả hình thức điện tử; + Quy định về quyền truyền đạt tới công chúng (Điều 18.59): bao gồm cả việc phổ biến đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận tự địa điểm và tại thời điểm do chính họ lựa chọn; + Quy định về quyền phân phối (Điều 18.60): chỉ liên quan đến những bản sao đã được định hình và có thể đưa vào lưu thông dưới dạng vật thể hữu hình; + Quy định về không thứ bậc (Điều 18.61): cần sự cho phép từ cả phía tác giả của tác phẩm có trong bản ghi âm và người biểu di n hoặc nhà sản xuất có quyền sở hữu đối với bản ghi âm đó; + Quy định về các quyền liên quan (Điều 18.62): quyền của người biểu di n và quyền của nhà sản xuất bản ghi âm (phát sóng và truyền đạt tới công chúng; định hình); + Quy định về áp dụng Điều 18 Công ước Berne và Điều 14.6 Hiệp định Trips (Điều 18.64): áp dụng với các đối tượng đang được bảo hộ vào ngày Hiệp định có hiệu lực; + Quy định về giới hạn và ngoại lệ (Điều 18.65): theo nguyên tắc phép thử 3 bước, phù hợp với Trips, Berne, WCT, WPPT; 1119
- + Quy định về sự cân bằng trong hệ thống quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 18.66): xem xét các yếu tố như môi trường số; các mục đích hợp pháp như đưa tin, giảng dạy, nghiên cứu; người khiếm thị v.v + Quy định về chuyển giao thông qua hợp đồng (Điều 18.67); + Quy định về quản lý tập thể (Điều 18.70): công b ng, hiệu quả, minh bạch, có trách nhiệm - Các quy định về thực thi quyền tác giả, quyền liên quan gồm: + Quy định về giả định quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 18.72.1): người được nêu tên theo cách thông thường là tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất thì được coi là chủ thể quyền đối với tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm đó; + Quy định về các chế tài và thủ tục hành chính và dân sự (Điều 18.74): cách tính giá trị trong bồi thường thiệt hại; bên thua kiện, bên lạm dụng quyền c ng phải bồi thường thiệt hại; + Quy định về các biện pháp tạm thời (Điều 18.75): thu giữ hàng hoá bị nghi ngờ là xâm phạm; + Quy định về các biện pháp biên giới (Điều 18.76): nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền; hành động mặc nhiên của cơ quan hải quan; + Quy định về các thủ tục và chế tài hình sự (Điều 18.77): đối với các hành vi sao chép lậu để đạt được lợi thế thương mại hoặc thu lợi tài chính, hoặc gây thiệt hại đáng kể cho chủ thể quyền; hành vi xuất, nhập khẩu; hành vi quy phim trong rạp; thực thi mà không cần có khởi kiện của bên thứ ba hay chủ thể quyền; + Quy định Chính phủ sử dụng phần mềm có bản quyền (Điều 18.80): ban hành hoặc duy trì các đạo luật, quy định, chính sách v.v quy định các cơ quan Chính phủ trung ương của mình chỉ sử dụng phần mềm máy tính không xâm phạm bản quyền57 2. Những thách thức đặt ra đối với Việt Nam Khi CPTPP được ký kết, những quy định về sở hữu trí tuệ gây ra nhiều thách thức lớn, đặc biệt liên quan đến việc sửa đổi hệ thống pháp luật để phù hợp với quy định quốc tế. Thách thức này trở nên rõ nét hơn khi Việt Nam không những phải thực hiện các nghĩa vụ được đặt ra trong CPTPP mà còn phải tiến hành cải thiện khung pháp lý trong nước để tuân thủ theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới khác trong bối cảnh lĩnh vực sở hữu trí tuệ đang được coi trọng hơn bao giờ hết. Thứ nhất, khả năng thực thi quyền tác giả, quyền liên quan còn hạn chế Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đồng và phù hợp với các cam kết WTO theo hiệp định TRIPS mà Việt Nam đã tham gia và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên trong đó có Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan. Việt Nam đã ban hành Luật sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này đối với các đối tượng quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về thủ tục hành chính trong việc xử lý vi phạm, các thủ tục dân sự và hình sự theo Bộ luật tố tụng 57 Kỷ yếu Hội nghị tập huấn phổ biến các quy định về quyền tác giả, quyền liên quan trong HĐ CPTPP và pháp luật Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, 12/09/2019 1120
- dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Đồng thời, các biện pháp thúc đẩy thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới quyền tác giả, quyền liên quan cũng đã được thực hiện thông qua việc Chính phủ ban hành một loạt các Nghị định, thông tư về quyền tác giả, quyền liên quan, đặc biệt từ năm 2006 như Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định 47/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 02 năm 2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan của Chính phủ. Có thể nói, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này tương đối đầy đủ. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu của CPTPP, Việt Nam sẽ phải sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật vì nhiều quy định của luật hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu rất cao của CPTPP. Mặc dù pháp luật Việt Nam quy định tương đối đầy đủ, tuy nhiên tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng đang tiếp tục ra tăng, gây ra những hậu quả xấu đối với sự phát triển của xã hội. Một phần nguyên nhân không nhỏ xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp dẫn đến việc sao chép lậu và kinh doanh các sản phẩm sao chép lậu như âm nhạc, phim ảnh, các tác phẩm văn học, nghệ thuật Phần lớn người dân chưa có ý thức tôn trọng quyền tác giả và coi việc sử dụng các sản phẩm sao chép lậu là việc bình thường, chưa có ý thức về việc phải trả tiền để được thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật. Bên cạnh đó, luật pháp về bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan chưa quy định rõ trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian (như các công ty cung cấp dịch vụ internet, dịch vụ mạng xã hội) trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường internet hiện nay. Đặc biệt là trách nhiệm của các doanh nghiệp này khi nhận được thông tin về hành vi xâm phạm từ chủ thể quyền tác giả. Đồng thời, một số quy định pháp luật còn chưa có hướng dẫn rõ ràng, chưa bắt kịp với các công nghệ xâm phạm tinh vi, nên khó đi vào thực tiễn. Có thể nói, trong thời đại công nghiệp 4.0 đang bùng nổ mạnh mẽ như hiện nay, khi Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do trong đó có CPTTP, công tác quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan cần phải đặc biệt được quan tâm, chú trọng từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, ý thức chấp hành pháp luật trong việc thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan cần được nâng cao hơn nữa nhằm tránh nguy cơ tiềm ẩn tranh chấp có thể xảy ra ví dụ trong một số trường hợp sau: - Việc sử dụng nhạc nước ngoài trong các chương trình biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phát hành băng đĩa trong khi chưa có ý kiến của chủ sở hữu hoặc của tổ chức đại diện Quyền tác giả - Việc độc quyền khai thác tác phẩm hiện cũng đang khó thực hiện làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc khai thác và bảo vệ các quyền này của nhiều cá nhân, tổ chức có liên quan 1121
- - Quy định việc sử dụng tác phẩm đã được công bố không phải xin phép tác giả nhưng phải trả tiền nhuận bút thù lao (Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ) cũng chưa thật hợp lý khi đẩy tác giả vào thế bị động và việc thanh toán quyền tác giả không theo nguyên tắc thương lượng, thỏa thuận, trường hợp này thường không có sự thống nhất về thù lao giữa tác giả và tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm - Việc các đơn vị tự ý sử dụng để làm chương trình không hoặc chưa xin phép, trả thù lao cho tác giả nhất là các chương trình sản xuất karaoke sử dụng số lượng lớn tác phẩm tuy nhiên tìm mọi cách lần lựa việc thanh toán tác quyền gây bức xúc cho các tác giả và các tổ chức bảo vệ quyền tác giả. Hay việc các đơn vị sản xuất chương trình karaoke bán ra thị trường nước ngoài vừa vi phạm phạm vi hợp đồng, vừa tự ý chuyển giao quyền tác giả và đang bị các công ty nước ngoài cho rằng đã vi phạm quyền độc quyền của họ. - Hiện nay trên thị trường Việt Nam đang xuất hiện xu hướng làm chương trình karaoke, Video ca nhạc truyền hình (đây là các chương trình sử dụng các bản nhạc nền của các ca sỹ, nghệ sĩ ) các chương trình này sử dụng khai thác từ các bản đĩa tiếng hoặc đĩa hình, việc sử dụng này cũng đang là vấn đề lớn đối với các cơ quan cấp phép bởi bên cạnh khai thác quyền tác giả thì các quyền liên quan, quyền về hình ảnh của ca sĩ, nghệ sĩ cũng cần được quan tâm bảo hộ. Việc vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan ở Việt Nam sẽ ngăn trở việc thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với những ngành công nghệ cao và sử dụng công nghệ cao vì để thu hút được đầu tư nước ngoài thì các nhà đầu tư phải yên tâm khi tài sản trí tuệ của họ phải được bảo vệ, đây là lợi ích dài hạn sẽ đạt được nếu Việt Nam nghiêm túc thực thi cam kết sở hữu trí tuệ. Theo Bộ văn hoá, thể thao và du lịch, riêng trong năm 2017, đã có hơn 2.400 máy tính tại 63 doanh nghiệp phải chấp hành việc thanh tra, kiểm tra theo đơn yêu cầu xử lý xâm phạm quyền tác giả của chủ sở hữu; trong đó, có 54 doanh nghiệp có hành vi sao chép chương trình phần mềm máy tính mà không được phép của chủ sở hữu; xử lý vi phạm hành chính 1,65 tỷ đồng. Thứ hai, các chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe Việc vi phạm tràn lan các tài sản trí tuệ thời gian qua như bản quyền phần mềm, tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc thể hiện các chế tài xử phạt của Việt Nam chưa nghiêm, chưa đủ sức răn đe người và tổ chức vi phạm, dẫn đến nhờn pháp luật, đây là nguy hại lớn trong dài hạn. Hiện nay, hành lang pháp lý của Việt Nam, trong đó bao gồm Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Luật hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn liên quan khác, đều đã có những quy định tương đối đầy đủ để xử lý các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi cố ý sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình và hành vi phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình mà không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan. Ngoài ra, Bộ Luật Hình sự cũng đã quy định trách nhiệm của pháp nhân khi thực hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả. 1122
- Những hành vi xâm phạm khác chủ yếu bị xử lý dưới hình thức phạt tiền, buộc dỡ bỏ bản sao hoặc tiêu hủy tang vật, theo quy định tại Nghị định số 131/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm mà luật pháp về quyền tác giả và quyền liên quan còn chưa đủ rõ và phụ thuộc nhiều vào ý kiến chủ quan của tòa án. Chẳng hạn, việc định nghĩa ―Bản sao của tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm b ng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào‖ là chưa đủ rõ. Cụ thể, nếu chỉ sao chép một phần không quan trọng của tác phẩm thì có thể không bị coi là sao chép. Ngược lại, nếu sao chép một phần nhỏ hơn nhưng là phần đặc sắc nhất của tác phẩm thì nên bị coi là hành vi sao chép. Tuy nhiên, có thể thấy theo định nghĩa trên thì luật pháp chỉ quy định về ―lượng‖ của hành vi sao chép chứ chưa có quy định về ―chất‖ của hành vi này. Bên cạnh đó, luật pháp nước ta còn chưa bắt kịp với các công nghệ sao chép lậu tinh vi trên môi trường internet. Cụ thể, chưa quy định rõ hành vi một trang web ―nhúng‖ (embed) đường link dẫn đến một bộ phim bị sao chép lậu nhưng được lưu tại một trang web khác có phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với bộ phim đó hay không. Lợi dụng điểm này, rất nhiều các trang web xem phim lậu ở Việt Nam thường chỉ ―nhúng‖ đường link vào trang web của mình để người dùng xem, trong khi bộ phim thực chất được lưu tại máy chủ của một bên thứ ba ở nước ngoài. Rõ ràng, ngoài việc phải tăng mức hình phạt đối với những hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định hiện hành cần phải làm rõ hơn những khái niệm pháp lý nêu trên. Đặc biệt, đối với các quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, cần làm rõ các tiêu chí định tội như ―quy mô thương mại‖, quy trình thu thập chứng cứ đối với các tiêu chí như ―giá trị hàng hóa vi phạm‖ để dễ dàng xác định tội danh cho hành vi xâm phạm quyền tác giả. Thứ ba, pháp luật Việt Nam chưa hoàn toàn tương thích với các tiêu chuẩn của CPTPP về bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan Về tương quan giữa các quyền đối với bản ghi âm, CPTPP quy định quyền được bảo hộ giữa các chủ thể là ngang nhau, và không có sự phân chia thứ bậc giữa quyền tác giả và quyền liên quan. Cụ thể, Điều 18.61 yêu cầu mỗi quốc gia phải quy định rằng trong trường hợp cần sự cho phép từ cả phía tác giả của tác phẩm có trong bản ghi âm và người biểu diễn hoặc nhà sản xuất có quyền sở hữu đối với bản ghi âm đó, sự cho phép của tác giả không thay thế sự cho phép của người biểu diễn hoặc nhà sản xuất và ngược lại. Đây là quy định nhất quán với tiêu chuẩn đa phương theo Hiệp ước của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT), dựa trên thực tế rằng quyền tác giả và quyền liên quan đồng tồn tại đối với bản ghi âm. Đây cũng là quy định có tính tất yếu đối Việt Nam, khi cả CPTPP và EVFTA đều yêu cầu Việt Nam trở thành quốc gia thành viên của WPPT trong một thời hạn nhất định58. Cụ thể, Điều 18.7 khoản 1 của CPTPP liệt kê các điều ước quốc tế mà các thành viên phải phê chuẩn hoặc gia nhập không muộn hơn ngày Hiệp định có hiệu lực, 58 nhung-dieu-can-biet-truoc-them-mua-xuan-2019-d93484.html 1123
- Việt Nam có ba năm59 để gia nhập WPPT kể từ ngày CPTPP có hiệu lực, nghĩa là muộn nhất đến ngày 30/12/2021 đã phải là thành viên của điều ước này. Trước đây, bên cạnh những quy định mang tính căn bản, hướng đến điều chỉnh về mặt nguyên tắc đối với pháp luật quốc gia như trên, TPP cũng đã rất chú trọng việc mở rộng quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan. Những ví dụ điển hình nhất bao gồm độc quyền kiểm soát việc sao chép tác phẩm, cuộc biểu diễn hoặc bản ghi âm của mình theo bất kỳ cách thức hoặc hình thức nào, bao gồm cả dưới hình thức điện tử và quyền thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc quay lén trong rạp chiếu phim (camcording), hay yêu cầu có chế tài cụ thể đối với hành vi xâm phạm các biện pháp kỹ thuật mà chủ sở hữu quyền sử dụng để bảo vệ quyền của mình (TPM) hay thông tin quản lý quyền (RMI). Khi CPTPP được ký kết, các điều khoản về TPM và RMI đã được tạm hoãn, tuy nhiên, các quy định còn lại vẫn tạo thách thức nhất định cho Việt Nam khi nhiều vấn đề vẫn chưa được pháp luật hiện hành trong nước đề cập đến. Hơn nữa, Việt Nam vẫn không thể tránh khỏi nghĩa vụ xây dựng hệ thống bảo hộ TPM và RMI trong tương lai bởi đây vẫn là những nghĩa vụ bắt buộc được quy định trong Hiệp định EVFTA.60 3. Một số thay đổi trong pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ để phù hợp với CPTPP Theo các yêu cầu tại Mục 15, Khoản 74, Điều 18 của Hiệp định CPTPP về các biện pháp chống lạm dụng thủ tục tố tụng thực thi pháp luật liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bằng sáng chế, quyền tác giả và các quyền liên quan và kiểu dáng công nghiệp theo đó một bên nhận được hoặc bị cấm nhận một cách sai trái khoản bồi thường đầy đủ cho thương tích phải gánh chịu; Điều 198 của Luật Sở hữu trí tuệ được bổ sung hai khoản mới sau đây: “4. Tổ chức, cá nhân là bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu được Tòa án kết luận là không thực hiện hành vi xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án buộc nguyên đơn thanh toán cho mình chi phí hợp lý để thuê luật sư hoặc các chi phí khác theo quy định của pháp luật. 5. Tổ chức, cá nhân lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, cá nhân bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên lạm dụng thủ tục đó phải bồi thường cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, trong đó bao gồm chi phí hợp lý để thuê luật sư. Hành vi lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm hành vi cố ý vượt quá phạm vi hoặc mục tiêu của thủ tục này.”61 Để thực thi quyền sở hữu trí tuệ, Khoản 1 Điều 205 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành cũng được sửa đổi bằng cách thêm vào một điểm (c) mới, hiện cho phép xem xét cả ―c) Thiệt hại vật chất theo các cách tính khác do chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với quy định của pháp luật.‖ như là một yếu tố để xác định mức độ thiệt hại do việc xâm phạm quyền 59 Điều 18.83 khoản 4, f(ii), (iii) Hiệp định CPTPP 60 LS. Trần Mạnh Hùng, CPTPP - Những điều cần biết trước thềm mùa Xuân 2019, bài đăng trên Báo Đầu tư online ngày 02/01/2019 61 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ ngày 14/6/2019 1124
- sở hữu trí tuệ gây ra (để tuân thủ Điểm 4, Khoản 74, Điều 18 của Hiệp định CPTPP, dưới hình thức chung). Đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và hành vi xâm phạm một số quyền sở hữu công nghiệp, được hình sự hóa lần lượt theo Điều 225 và Điều 226 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Các quy định này về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của CPTPP, tuy nhiên một số yếu tố cấu thành tội phạm vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể, đơn cử như xác định hành vi xâm phạm thế nào là ―với quy mô thương mại‖, có thể gây ra khó khăn trong quá trình định tội. Thêm vào đó, quy định cơ quan chức năng sẽ chỉ được khởi tố vụ án hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo Điều 226.1 Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của người bị hại hoặc bên có quyền chưa tương thích với quy định của CPTPP. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần sửa đổi Bộ luật Hình sự để đặt trách nhiệm hình sự cho các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh – một trong những nội dung bắt buộc của CPTPP. Mặc dù đã có những sửa đổi, bổ sung kể trên, Luật Sở hữu trí tuệ hiện nay còn nhiều điểm chưa đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo quyền lợi cho số đông chủ thể sử dụng các tài sản sở hữu trí tuệ. Bởi việc gia tăng cơ hội, mức độ và cách thức bảo hộ chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sẽ làm giảm cơ hội và tăng chi phí của các chủ thể sử dụng các tài sản sở hữu trí tuệ trong mối quan hệ với chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Chẳng hạn, một số quy định có nội dung quá cụ thể, dường như vượt cả mức cam kết yêu cầu. Các cam kết trong CPTPP có nội dung khá chung, với lời văn chứa nhiều không gian lựa chọn khi chuyển hóa vào pháp luật nội địa. Trong khi đó một số quy định của Luật Sở hữu trí tuệ lại không tận dụng được các không gian này, thậm chí còn quy định cứng ở mức cao hơn mức CPTPP yêu cầu, có thể gây thiệt hại cho các nhóm người sử dụng sản phẩm ở Việt Nam. Theo khuyến nghị của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), việc chuyển hóa các cam kết CPTPP vào hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ chung của Việt Nam cần được thực hiện thận trọng, theo hướng tận dụng tối đa các điểm mờ trong lời văn các cam kết để có giải thích theo hướng có lợi nhất cho đa số. Đối với các cam kết phức tạp, cần xác định các phương án khả thi, qua đó xem xét lựa chọn phương án phù hợp nhất với bối cảnh Việt Nam, cho phép hài hòa lợi ích giữa các chủ thể quyền và chủ thể sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ đồng thời thúc đẩy sáng tạo ở Việt Nam. Đối với các cam kết rõ ràng, cần tuân thủ phù hợp để tránh các phản ứng từ các đối tác.62 4. Kết luận Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chuyển đổi trình độ phát triển thấp, hội nhập muộn, khoảng cách giữa đòi hỏi và năng lực thực tế của Việt Nam là không nhỏ. Mặt khác, với xuất phát điểm là nền kinh tế chậm và đang phát triển, nếu thực thi đầy đủ các cam kết về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan thì người dân sẽ rất khó tiếp cận với những sản phẩm có giá trị cao, góp phần nâng cao dân trí và khả năng tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. 62 Theo Báo Diễn đàn doanh nghiệp 1125
- Vì vậy, để đảm bảo thực thi các cam kết khi tham gia CPTTP về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng thực sự là một thách thức lớn, cần phải vượt qua thì Việt Nam mới có thể hội nhập toàn diện và phát triển bền vững trong dài hạn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ ngày 14/6/2019 3. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP 4. Kỷ yếu Hội nghị tập huấn phổ biến các quy định về quyền tác giả, quyền liên quan trong Hiệp định CPTPP và pháp luật Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, ngày 12/09/2019 5. LS. Trần Mạnh Hùng, CPTPP - Những điều cần biết trước thềm mùa Xuân 2019, bài đăng trên Báo Đầu tư online ngày 02/01/2019 6. Nguyễn Việt, Cam kết sở hữu trí tuệ phức tạp nhất CPTPP, Báo Diễn đàn doanh nghiệp QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG FTA THẾ HỆ MỚI: TÁC ĐỘNG ĐA CHIỀU TỚI TRIỂN VỌNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM Ths. Phạm Phƣơng Thạc Trƣờng Đại học Ngoại Thuơng Ths. Hồ Ngọc Linh Bộ Công Thƣơng Tóm lược: Năm 2019 đánh dấu bước tiến mới trong chính sách thương mại Việt Nam b ng l ký kết Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Châu Âu (EVFTA). Cùng với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), EVFTA là hai Hiệp định thương mại tự thế hệ mới với mức thuế cam kết xuống 0% đối với tất cả mặt hàng. Tuy nhiên, các quy định “phi thuế quan” trong Hiệp định được coi là điểm nghẽn chủ yếu của Hiệp định. Bài viết này hướng tới cái nhìn đa chiều đối với quy định Quy tắc về xuất xứ (Rules of Origin). Tồn tại hai góc nhìn và đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp cho Việt Nam trong thời gian tới. Từ khoá: Quy tắc xuất xứ, thương mại quốc tế, xuất khẩu, dệt may. 1. Đặt vấn đề Theo thống kê của Ban thư ký WTO, tính đến ngày 01 tháng 5 năm 2018, cả thế giới đã có 673 FTA được các nước thành viên thông báo lên WTO, trong đó có 459 FTA đang có hiệu lực (Văn phòng WTO, 2019). Tầm nhìn về thế giới ―một thị trường‖ (one market) là 1126