Tác động của đô la hóa đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của đô la hóa đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tac_dong_cua_do_la_hoa_den_dieu_hanh_chinh_sach_tien_te_cua.pdf
Nội dung text: Tác động của đô la hóa đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ LA HÓA ĐẾN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM Bùi Phan Nhã Khanh Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng khanhbpn@gmail.com TÓM TẮT Đô la hóa là hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, trong đó có Việt Nam, gây khó khăn cho việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng. Bài viết này đánh giá tình trạng đô la hóa của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua, phân tích tác động của tình trạng đô la hóa đến việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp trong thời gian tới. Từ khóa: Đô la hóa, chính sách tiền tệ, thị trường ngoại hối, tín dụng ngoại tệ, tiền gửi ngoại tệ 1. Giới thiệu Đô la hóa là hiện tượng ngoại tệ được sử dụng rộng rãi thay thế một phần hoặc hoàn toàn nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền. Mức độ Đô la hóa thể hiện thông qua: Đô la hóa thay thế tài sản; Đô la hóa phương tiện thanh toán, Đô la hóa thông qua định giá, niêm yết giá. Trong đó, Đô la hóa thay thế tài sản biểu hiện thông qua tình trạng người dân cất giữ tài sản bằng ngoại tệ thay thế các tài sản bằng nội tệ như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng như là cách thức để bảo vệ tài sản của mình khỏi sự mất giá của đồng nội tệ. Đô la hóa phương tiện thanh toán thể hiện thông qua mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. (Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tỷ lệ ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2) trên 30% là mức độ đô la hóa cao). Đô la hóa thông qua sử dụng ngoại tệ để thanh toán, định giá, và yết giá thông qua các giao dịch thanh toán bất hợp pháp, định giá bằng ngoại tệ rất khó lường, nhất là đối với những nền kinh tế tiền mặt nhưng đây lại là vấn đề cơ bản của hiện tương đô la hóa. Trong những điều kiện cụ thể, đô la hóa có thể phát huy những mặt tích cực như góp phần tăng cung ngoại tệ hoặc làm chỗ dựa cho nền kinh tế khi đồng bản tệ bị mất giá, thiếu sự ổn định. Tuy nhiên, nếu tình trang đô la hóa kéo dài và với mức độ cao thì đô la hóa sẽ gây tác hại đối với nền kinh tế và trong tổ chức, điều hành chính sách vĩ mô mất đi tính chủ động, làm giảm hiệu quả cảu chính sách tiền tệ, rủi ro tiền tệ có khả năng tăng cao ảnh hưởng đến sự an toàn ổn định của hệ thống ngân hàng, hệ thống tiền tệ của quốc gia, điều hành quản lý ngoại hối kém hiệu lực và hiểu quả, kiểm soát dòng vốn, cán cân thanh toán gặp nhiều khó khăn, uy tín quốc gia và giá trị đồng nội tệ suy giảm. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam không nằm ngoài xu hướng hội nhập tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như tạo vị thế cho các quốc gia trên trường quốc tế. Tuy nhiên, khi luồng vốn tự do di chuyển thì nền kinh tế đối mặt với tình trạng đô la hóa. Tác hại của tình trạng đô la hóa đối với nền kinh tế Việt Nam đã và đang là một trong những vấn đề bức bách. 2. Thực trạng "đô la hóa" ở Việt Nam Đô la hóa tiền gửi. Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng ngoại tệ trong giao dịch, buôn bán bắt đầu được quan tâm từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi cho vay bằng ngoại tệ. 179
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Nguồn:Thống kê của IMF (Đvt: triệu USD) Hình 1. Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán ở Việt Nam giai đoạn 1992 đến quý 1 - 2014 Hình 2. Lượng kiều hối vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2011 Mức độ đô la hóa tiền gửi ở Việt Nam có xu hướng giảm xuống từ khoảng 20% đến trên 30% trong những năm 90 xuống dưới 20% hiện nay. Phân tích theo các giai đoạn, mức độ đô la hóa biến động: Giai đoạn 1992-1996, giai đoạn khá ổn định, nguyên nhân do lợi tức của VND cao hơn nhiều so với lợi tức của USD, nhu cầu ngoại tệ cho các giao dịch kinh tế đối ngoại chưa cao khi mở cửa nền kinh tế, lượng ngoại tệ của dân cư gửi tại ngân hàng không đáng kể; từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, lợi tức của VND thấp hơn so với lợi tức của USD, khu vực dân cư và các doanh nghiệp có xu hướng chuyển sang nắm giữ bằng USD, do đó, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán tăng lên và ở mức khoảng 30% trong giai đoạn 2000 - 2001; từ năm 2002 đến 2007, đô la hóa có xu hướng giảm trở lại nhờ lợi tức của VND hấp dẫn hơn ngoại tệ, mức biến động của tỷ giá không lớn (tỷ giá chỉ tăng khoảng trên 6% trong vòng 5 năm từ 2002 - 2007 nhờ cung ngoại tệ dồi dào, nhất là cung ngoại tệ từ việc thu hút vốn nước ngoài); từ năm 2008 đến nay, mức độ đô la hóa khá ổn định (khoảng 15%). Theo IMF nếu tỷ lệ này vượt quá 50% thì mức độ đô la hóa nền kinh tế được coi là ở mức cao, trung bình là từ 15% - 30% còn nếu tỷ lệ này ở mức dưới 15% thì coi là "đô la hóa" thấp. Cũng theo tiêu chí này, tỷ lệ ngoại tệ gửi vào hệ thống ngân hàng như Việt Nam là có thể chấp nhận được. Đô la hóa tiền mặt. Tuy nhiên, tỷ lệ "đô la hóa" được đánh giá thông qua việc thống kê tỷ lệ tiền gửi bằng đồng đô la trên tổng lượng tiền gửi thông qua hệ thống ngân hàng, theo công thức FCD/M2. Chỉ tiêu này chỉ chính xác đối với những nước phần lớn giao dịch thanh toán thực hiện qua ngân hàng. Đối với Việt Nam, nơi có tỷ lệ sử dụng tiền mặt lớn, FCD/M2 chưa thực sự phản ánh đầy đủ và chính xác về tình trạng "đô la hóa". Đó mới chỉ là ngoại tệ trong ngân hàng còn một lượng ngoại tệ rất lớn đang trôi nổi trong dân cư, ẩn chứa những nguy cơ mất kiểm soát, ngoại tệ có thể tham gia sâu rộng vào các chức năng của nội tệ. 180
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" Theo thống kê của IMF, lượng ngoại tệ tiền mặt đưa vào lưu thông ngoài từ kênh chuyển tiền kiều hối ra liên tục tăng (hình 2), trong giai đoạn từ năm năm 2000 - 2011, tổng lượng kiều hối vào Việt Nam khoảng 50 tỷ USD nhưng huy động vào hệ thống ngân hàng không thể lên đến con số này, như vậy tính từ năm 2000 tới nay, có một lượng lớn ngoại tệ tiếp tục nằm trong lưu thông dưới dạng này hay dạng khác. Thêm vào đó, ở Việt Nam việc xác định lượng ngoại tệ càng khó hơn khi tình trạng buôn lậu và tham nhũng đang diễn ra hằng ngày, trong sự kiểm soát còn lỏng lẻo và thiếu thống nhất của cơ quan quản lý Nhà nước. Không chỉ vậy, tâm lý cất trữ ngoại tệ, sử dụng ngoại tệ trong thanh toán khi mua hàng hóa, dịch vụ trong dân hiện vẫn còn rất lớn và phổ biến. Do đó, để đánh giá chính xác tình hình "đô la hóa" cần phải dựa trên nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là lượng ngoại tệ thực sự được sử dụng trong giao dịch, thanh toán. Đô la hóa tín dụng. Nguồn: Thống kê của IMF & NHNN (Đvt: nghìn tỷ đồng) Hình 3: Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ và tín dụng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán ở Việt Nam giai đoạn 2004 - Q1/2014 Hình 4: Tốc độ tăng trưởng tiền gửi ngoại tệ và tín dụng ngoại tệ ở Việt Nam giai đoạn 2004 - Q1/2014 Tín dụng ngoại tệ có mối liên hệ chặt chẽ với tiền gửi ngoại tệ, nó phụ thuộc vào quyết định đầu tư của doanh nghiệp, cá nhân và của chính quyết định huy động vốn và đầu tư của ngân hàng thương mại (NHTM). Đối với các doanh nghiệp, việc lựa chọn cách thức mua hay vay ngoại tệ phụ thuộc vào so sánh lãi suất phải trả khi đi vay bằng VND và ngoại tệ. Còn đối với các ngân hàng, nguồn vốn ngoại tệ huy động được dùng để cấp tín dụng ngoại tệ, gửi tại các ngân hàng nước ngoài hoặc bán lấy VND cũng phụ thuộc vào mức độ rủi ro ngoại hối, lợi ích giữa cho vay bằng VND hay ngoại tệ có lợi ích hơn, chênh lệch lãi suất trong nước và quốc tế, vấn đề thanh khoản, cân đối vốn ngoại tệ 181
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Tín dụng ngoại tệ tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2008 - 2010 và tiếp tục duy trì ở mức cao trong sáu tháng đầu năm 2011 buộc NHNN phải thực hiện những biện pháp can thiệp quyết liệt nhằm ổn định tỷ giá và phải chấp nhận chi phí rất lớn. Từ năm 2011, niềm tin vào tiền đồng được cải thiện. Cơ cấu tiền gửi các TCKT và dân cư bằng VND chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn huy động và tăng trưởng cao hơn tiền gửi bằng ngoại tệ. Cân đối nguồn và sử dụng ngoại tệ cũng cải thiện. Đến cuối năm 2013 tỷ lệ cho vay/ huy động bằng ngoại tệ nằm trong khoảng 80% giúp giảm phụ thuộc vào nguồn ngoại tệ từ nước ngoài, qua đó hạn chế rủi ro về tỷ giá và lãi suất. Tín dụng ngoại tệ có dấu hiệu tăng trở lại trong 6 tháng đầu năm 2014, tăng 9,35% so với cuối năm 2013, tuy nhiên trong bối cảnh tín dụng tiền đồng không tăng thì tín dụng ngoại tệ tăng có thể xem là dấu hiệu khởi sắc khi nền kinh tế vẫn đang phục hồi rất chậm. 3. Tác động của đô la hóa đến điều hành và thực thi chính sách tiền tệ Đô la hóa gia tăng đặt thách thức đối với việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, từ khâu thống kê các tổng lượng tiền, xác định các mục tiêu cũng như sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để truyền tải tác động nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng. Cơ cấu lượng tiền cung ứng ở Việt Nam hiện nay chỉ thống kê ở mức độ M2 còn gọi là tổng phương tiện thanh toán, bao gồm: M1 (lượng tiền mặt trong lưu thông + tiền gửi không kỳ hạn bằng VND của các tổ chức kinh tế và dân cư tại các tổ chức tín dụng - TCTD) + tiền gửi có kỳ hạn VND + tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và dân cư tại các TCTD. Với cơ cấu như vậy, khi còn tình trạng đô la hóa bằng tiền mặt, việc đo lường M2 sẽ bị hạn chế bởi không thể tính toán lượng ngoại tệ tiền mặt tham gia vào lưu thông. Khi đó, việc tính toán lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm để kiểm soát M2 tăng trưởng phù hợp với tăng trưởng kinh tế và lạm phát gặp khó khăn; mối quan hệ giữa M2 với giá cả, sản lượng, cụ thể ở các chỉ tiêu như chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) và tăng trưởng kinh tế (GDP) cũng trở nên méo mó. Đô la hoá cao ảnh hưởng đến vòng quay tiền tệ khi các giao dịch thanh toán trong nền kinh tế tăng lên không thể kiểm soát, không thống kê được, do vậy, vòng quay tiền tệ được tính toán theo công thức V= GDP/M2 sẽ không chính xác và sẽ nhanh hơn vòng quay thực tế, từ đó sẽ dẫn dến sự xác định mối quan hệ định lượng giữa M2 với P và Y không chính xác, qua đó ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách tiền tệ. Trong nền kinh tế bị đôla hoá, ngoại tệ là một chứng khoán có tính thanh khoản cao nên cầu tiền tệ VND chịu tác động rất nhạy cảm với sự thay đổi lãi suất quốc tế. Mặt khác, đôla hoá làm tăng cầu ngoại tệ gây sức ép đẩy tỷ giá. Để đạt mục tiêu ổn định tỷ giá, NHTƯ phải bán ngoại tệ, nếu như không có giải pháp đẩy VND ra sẽ gây ra sự khan hiếm tiền VND (thực trạng này đã xảy ra vào quý I và quý II/2001). Như vậy, đôla hoá làm cầu tiền VND không ổn định. Do đô la hoá có những ảnh hưởng đến M2, đến vòng quay tiền tệ và hàm cầu tiền nên ngoài những ảnh hưởng tích cực đến CSTT, như góp phần cải thiện tăng độ sâu của trung gian tài chính, giảm chi phí in tiền, tạo điều kiện cho việc chu chuyển, lưu thông hàng hoá quốc tế, nó có những ảnh hưởng tiêu cực đến thực thi CSTT: Thứ nhất, đô la hóa làm giảm hiệu quả kiểm soát tiền tệ của NHTW. Việc kiểm soát M2 thông qua điều hành lượng tiền cơ sở (MB) khó khăn hơn vì: (i) Tổng phương tiện thanh toán bao gồm cả VND và ngoại tệ nên số nhân tiền tệ của hai đại lượng này biến động khác nhau tùy thuộc vào diễn biến lãi suất, tỷ giá, tâm lý găm giữ ngoại tệ ; (ii) Với tình trạng đô la hóa tồn tại, khối tiền MB sẽ kém quyền lực hơn là trong điều kiện nền kinh tế không có tình trạng đô la hóa, do vậy, khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN gặp khó khăn. Nếu như không có hiện tượng đô la hoá thì cứ 1 đồng của NHNN đưa ra lưu thông thì tạo ra 2 đồng của M2, còn nếu có tiền gửi ngoại tệ trong 182
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" M2, thì sự tăng của M2 không phải là 2 mà lớn hơn 2 tuỳ thuộc vào tỷ trọng ngoại tệ trong M2. Thực tế trong năm 2005 và 2006, MB tăng chậm nhưng M2 tăng nhanh. Qua xem xét số liệu thực tế cho thấy đôla hoá có tác động trực tiếp đến hệ số tạo tiền, đôla hoá càng cao thì hệ số tạo tiền càng lớn và mức độ chênh chệch giữa hệ số tạo tiền M2 với hệ số tạo tiền M2 - tiền gửi ngoại tệ khoảng cách càng xa và hệ số tạo tiền không ổn định. Do vậy, điều hành CSTT để đạt được mức tăng của M2 theo định hướng, thông qua sự tăng giảm MB nhiều khi không đạt được kết quả như mong muốn. Thứ hai, khi tồn tại tình trạng đô la hóa cả bên tài sản Nợ (tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng) và bên tài sản Có (tín dụng ngoại tệ) thì dễ dẫn đến những mất cân đối về loại tiền, luôn có sự dịch chuyển giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, đặc biệt, khi lãi suất và tỷ giá có nhiều thay đổi. Đối với những nước có thâm hụt thương mại và cán cân vãng lai kéo dài thì mất cân đối ngoại tệ luôn bị đe dọa vì thường xuyên có sự dịch chuyển giữa tiền gửi USD và tiền gửi VND. Số liệu lịch sử cho thấy thời kỳ 1995 - 1997, hệ thống ngân hàng có tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tiền gửi ngoại tệ ở mức 103 - 147% nhưng giảm mạnh xuống còn khoảng 45 - 50% trong giai đoạn 1999 - 2002 và bắt đầu tăng mức trên 90% thời gian gần đây. Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế còn bị đô la hóa, hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ hạn chế và tác động rất phức tạp, làm cho việc thiết lập cơ chế chuyển tải chính sách tiền tệ khó khăn hơn. Ví dụ, tình trạng đô la hóa có thể gây tác động tiêu cực đến việc thực thi chính sách tỷ giá củ NHNN. Trên thực tế, sự điều chỉnh tăng tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu ở Việt Nam không những tăng gánh nặng nợ cho doanh nghiệp nhập khẩu mà còn gây thiệt hại cho chính các doanh nghiệp xuất khẩu vì các doanh nghiệp này cũng có dư nợ tín dụng ngoại tệ. Hay trong trường hợp NHNN muốn thực thi chính sách tiền tệ mở rộng, giảm lãi suất thị trường để kích thích đầu tư, tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi có tình trạng đô la hóa, khi lãi suất thị trường giảm, thay vì vay vốn để đầu tư và tiêu dùng, người dân có vay nội tệ để mua ngoại tệ ngay tại trong nước nếu họ cho rằng tỷ giá có xu hướng tăng. Điều này khiến mục đích của việc giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế khó có thể đạt được. Thứ tư, đô la hóa gây áp lực và gia tăng chi phí can thiệp của NHNN ngay cả khi tổng thể nền kinh tế không bị mất cân đối cung cầu ngoại tệ vì các khu vực của nền kinh tế có xu hướng găm giữ ngoại tệ. Một nền kinh tế không có sự găm giữ ngoại tệ, Ngân hàng Trung ương chỉ bán ngoại tệ khi các khu vực trong nền kinh tế đã giao dịch với nhau nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại khác, ngay cả khi tổng thể nền kinh tế có dư cung ngoại tệ, NHNN vẫn phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Số liệu trong báo cáo thường niên của NHNN cho thấy, trong năm 2009, luồng vốn nước ngoài vào ròng lớn hơn thâm hụt cán cân vãng lai, phản ánh nền kinh tế có thặng dư ngoại tệ. Tuy nhiên, trên thực tế, tài sản Có ngoại tệ ròng của NHNN giảm tới gần 8,2 tỷ USD và từ tháng 5/2011 NHNN đã phải bán ra 1,65 tỷ USD. Một trong những nguyên nhân là do các khu vực của nền kinh tế găm giữ ngoại tệ, không bán cho hệ thống ngân hàng nhưng mặt khác, lại có nhu cầu mua ngoại tệ, tạo căng thẳng trên thị trường ngoại hối, kết quả là NHNN phải can thiệp trên thị trường ngoại hối với mức độ lớn để đáp ứng cho nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Nếu ngoại tệ được thông suốt giữa các khu vực, cung cầu ngoại tệ cho các giao dịch tự định tự cân đối được, NHNN không cần phải bán ra. 4. Giải pháp nhằm khắc phục tình trạng đô la hóa ở Việt Nam Đầu tiên, từ cuối năm 2011 đến nay, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện ổn định hệ thống tài chính. Lần đầu tiên trong vòng 10 năm trở lại đây, Việt Nam duy trì ổn định kinh tế vĩ mô trong hơn 2 năm liên tiếp, như lạm phát giảm xuống còn 6,8% trong năm 2012, 6,0% trong 2013. Thị trường ngoại hối cũng có những diễn biến khá tích cực, trong năm 2013, cung ngoại tệ dồi dào, dự trữ ngoại hối tăng, tỷ giá tiếp tục được duy trì ổn định giúp cho tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ giảm. 183
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Nguồn: Thông kê của ngân hàng thế giới - WB Hình 5. Tỷ giá VND/USD giai đoạn 1992 - Q1/2014 Hình 6. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2006 -2013 Đồng thời, để giảm dần tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, chủ trương của NHNN không khuyến khích người dân gửi USD và NHNN sẽ điều hành theo hướng chuyển dần từ quan hệ vay mượn sang quan hệ mua bán ngoại tệ. Theo đó, lãi suất huy động USD đã được hạ xuống mức thấp hơn tiền gửi bằng VND rất nhiều. Tuy nhiên, do USD vẫn có vị thế là ngoại tệ mạnh, khả năng thanh toán rộng nên tạo ra tâm lý kỳ vọng đồng USD sẽ luôn tăng giá. Lộ trình chống đô la hóa sẽ kéo dài đến năm 2020, nhưng hiện Chính phủ đã thực hiện thông qua việc tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ và đưa ra danh mục không được phép cho vay ngoại tệ, giảm lãi suất huy động tiền gửi bằng ngoại tệ đối với cá nhân và DN. Trong giai đoạn 2011 - 2013, quyết tâm thực hiện mục tiêu này, một số quy định đã được đề ra: Thông tư 20/2011/TT-NHNN quy định những hạn mức chặt chẽ hơn về việc mua và bán ngoại tệ bằng tiền mặt của cá nhân với các tổ chức tín dụng được phép. Thông tư 07/2012/TT-NHNN điều chỉnh tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày của các tổ chức tín dụng từ + 30% giảm xuống còn + 20% vốn tự có. Điều luật này sẽ hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Các thông tư 09/2011/TT-NHNN, thông tư 14/2011/TT-NHNN, thông tư 14/2013/TT- NHNN quy định lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD khiến cho việc nắm giữ USD mang lại ít lợi nhuận hơn việc nắm giữ VND. NHNN yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các khoản tiền gửi bằng USD cao hơn so với bằng VND. NHNN can thiệp vào thị trường ngoại tệ khi cần thiết bằng việc trực tiếp tham gia mua bán ngoại tệ và cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá mức 1% đến 2%. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2013 được ban hành với hàng loạt sửa đổi nhằm quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2014: (i) 184
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" Khắc phục những bất cập của quy định hiện hành, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; (ii) Tạo khuôn khổ pháp lý hoàn thiện, đầy đủ hơn điều chỉnh hoạt động ngoại hối của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế; (iii) Đảm bảo phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Kết quả, với chủ trương và các biện pháp quyết liệt như vậy từ NHNN đã khiến cho tính hấp dẫn của ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD giảm xuống. Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán tiếp tục giảm, còn khoảng dưới 15%, dự trữ ngoại hối tăng gấp hai lần so với cuối năm 2011, tín dụng bằng ngoại tệ giảm, kéo theo hiện tượng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ, cũng giảm đi đáng kể, góp phần quan trọng giúp cho vị thế tiền đồng, niềm tin vào tiền đồng được nâng lên. Ngoài ra, hiện tượng niêm yết bằng đồng USD tại các khách sạn, trung tâm mua sắm hay việc niêm yết mua bán bằng USD với một số mặt hàng như ô tô, bất động sản, đồ điện tử đã giảm đáng kể. 5. Kiến nghị Tuy nhận định chung về diễn biến tình trạng đô la hóa trong những năm trở lại đây gói gọn trong từ tích cực nhưng để duy trì những thành quả này về dài hạn, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, không chỉ các giải pháp từ hệ thống ngân hàng, mà cần có nhiều giải pháp được thực hiện bởi nhiều cơ quan chức năng của nhà nước, ý thức của từng doanh nghiệp và từng người dân. Cụ thể: - Về phía các cơ quan quản lý, cần có những đánh giá về tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó có những chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, phù hợp với mục tiêu hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. - Điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá cần theo hướng tăng lợi ích nắm giữ VND ở mức hợp lý để khuyến khích sử dụng đồng nội tệ, hạn chế sử dụng ngoại tệ. Công cụ có thể sử dụng là tăng dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ cao hơn nhiều so với dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi, hay trần lãi suất đối với tiền gửi ngoại tệ, thu hẹp quy mô tín dụng ngoại tệ, để hạn chế việc sử dụng lãi suất để cạnh tranh thu hút tiền gửi ngoại tệ. NHNN cần sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế chuyển dần từ cơ chế huy động và cho vay ngoại tệ sang quan hệ mua bán ngoại tệ. - Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành trong việc giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối trên phạm vi cả nước, thuộc mọi thành phần kinh tế, phải đảm bảo xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cần có chế tài xử phạt nặng đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối. Đặc biệt, nghiêm cấm giao dịch bằng ngoại tệ trên lãnh thổ VN, ngoại trừ các tổ chức kinh doanh được phép thu ngoại tệ. Bên cạnh đó, đi đôi với việc giám sát và xử lý nghiêm việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối, đảm bảo trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, các NHTM, tổ chức kinh tế cần tăng phí đổi tiền lên cao để người dân hạn chế nắm giữ ngoại tệ, chuyển sang nắm giữ VND. - Cuối cùng là ý thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong việc thực hiện nghiêm các quy định pháp luật ngoại hối. Có như vậy, kinh tế vĩ mô mới ổn định, tác động tốt tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2004, Giáo trình Tài chính Quốc tế, NXB Thống kê. [2] Báo cáo thường niên và một số thông tin, bình luận đăng tải trên website chính thức của NHNN VN. [3] Báo cáo tổng quan thị trường tài chính năm 2013 của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. [4] Thống kê Tài chính quốc tế (IFS) của IMF. Số liệu thống kê của WB 185