Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức
Bạn đang xem tài liệu "Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_cau_truc_he_thong_ngan_hang_viet_nam_co_hoi_va_thach_thu.pdf
Nội dung text: Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ThS. Phạm Thanh Hà, Lê Thị Thu Phương, Ngô Thị Thu Mai Trường ĐH Kinh tế và QTKD Thái Nguyên TÓM TẮT Quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bắt đầu được tiến hành theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Có thể thấy rằng Việt Nam đang có cách tiếp cận chủ động trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu một cách hiệu quả nhất trong điều kiện chưa có nguy cơ khủng hoảng hay suy thoái nghiêm trọng. Tuy nhiên, xét trên giác độ lý luận và thực tiễn, vẫn còn nhiều vấn đề có liên quan đến đối tượng, biện pháp, lộ trình, những cơ hội, thách thức và các nhân tố ảnh hưởng trong quá trình tái cấu trúc cần phải được nghiên cứu, bổ sung và cụ thể hóa. Trong bài viết này tác giả đưa ra một số nội dung về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, những cơ hội và thách thức trong quá trình thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Việt Nam để giúp các ngân hàng không bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán do khánh kiệt về vốn và khôi phục năng lực của hệ thống ngân hàng giúp thúc đẩy nền kinh tế nhanh hồi phục. Từ khóa: Tái cấu trúc, hệ thống ngân hàng 1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng do chất lượng tài sản kém, khó khăn về thanh khoản, chất lượng lợi nhuận thấp, yếu kém về quản trị và về quản lý rủi ro. Do vậy, Chính phủ cần phải nhanh chóng đưa ra được chương trình tái cơ cấu ngành để giúp các ngân hàng không bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán do khánh kiệt về vốn và khôi phục năng lực của hệ thống ngân hàng giúp thúc đẩy nền kinh tế nhanh hồi phục. Kinh nghiệm của nhiều nền kinh tế cho thấy, các quốc gia thường chỉ tiến hành tái cấu trúc khi có những vấn đề điển hình nổi lên trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của các NHTM nói riêng. Báo cáo nghiên cứu của WB đã chỉ ra một số động cơ của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hay nói cách khác, một quốc gia sẽ tiến hành tái cấu trúc khi vấp phải những vấn đề đối với hệ thống ngân hàng của mình. Trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, tái cấu trúc toàn bộ hệ thống ngân hàng - tài chính là một trong ba trụ cột của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Việc cụ thể hóa chủ trương trên đã được thực hiện thông qua đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011- 2015” ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích 2.1.1. Đối tượng tái cấu trúc Đối tượng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. * Xét theo nghĩa rộng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là quá trình tái cấu trúc tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống, bao gồm: - Ngân hàng trung ương; - Hệ thống ngân hàng thương mại; - Hệ thống ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển; và - Hệ thống các tổ chức tín dụng vi mô. 97
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG * Xét theo nghĩa hẹp, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chỉ bao gồm việc giải quyết những vấn đề của một trong những cấu phần nói trên của hệ thống, hoặc thậm chí là một ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ ngay trong điều kiện hệ thống ngân hàng vẫn đang hoạt động hiệu quả (Waxman, 1998). Đối tượng quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống NHTM và các TCTD chính là NHNN và để có thể tái cấu trúc toàn diện hệ thống NH, việc tái cấu trúc/cải cách NHNN cũng cần được đặt ra trong dài hạn, chứ không phải chỉ tập trung vào tái cấu trúc hệ thống NHTM. Thêm vào đó, các ngân hàng như Ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng phát triển Việt Nam cũng cần được tái cấu trúc lại cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. 2.1.2. Các giải pháp thực hiện tái cấu trúc Theo khảo sát tại 24 quốc gia thực hiện tái cấu trúc của IMF (Dziobek, 1998), mỗi quốc gia có những phương pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng với mức độ thành công khác nhau. Trong đó, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại đòi hỏi kết hợp nhiều biện pháp, thường là các biện pháp như: - Chính phủ bơm vốn hoặc mua cổ phiếu để nắm giữ quyền quản lý; - Đóng cửa các ngân hàng không có khả năng tồn tại một cách có trật tự (đồng thời chi trả bảo hiểm tiền gửi hoặc bán phần hoạt động tốt cho ngân hàng khác); - Sáp nhập các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài; - Sáp nhập ngân hàng trong nước với nhau; - Thành lập công ty quản lý tài sản; - Thay đổi cơ cấu sở hữu ngân hàng (ví dụ: tư nhân hóa). Có hai nhóm giải pháp đang được tập trung thực hiện ở Việt Nam đó là: sáp nhập các ngân hàng trong nước với nhau và khuyến khích các NH nước ngoài nắm giữ cổ phần tại các NH trong nước, tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Điều này chứng tỏ cách làm của Việt Nam cũng khá phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, đánh giá về mức độ hiệu quả của hai nhóm giải pháp này còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Giải pháp được đánh giá đạt mức hiệu quả cao nhất là sáp nhập các NH mạnh với các NH yếu để vực các NH yếu. 2.1.3. Lộ trình tái cấu trúc Trong ngắn hạn: Việc xác định chính xác và xử lý nợ xấu được coi là ưu tiên hàng đầu cho các biện pháp ngắn hạn để tái cấu trúc NH hiện nay, tiếp theo là tăng vốn tự có và cải thiện lòng tin của dân chúng đối với hệ thống NH, cuối cùng là giải pháp phân loại NH để kiểm soát tín dụng. Rõ ràng, một trong những quan ngại lớn nhất của giới chuyên gia và lãnh đạo NH vẫn là việc xác định chính xác tỷ lệ nợ xấu và xử lý nợ xấu, để có thể bắt đúng bệnh và đưa ra liều thuốc chữa bệnh phù hợp.Tuy nhiên, có chuyên gia cho rằng, việc tăng vốn tự có sẽ tạo ra một áp lực buộc các NH nhỏ tìm mọi cách chỉ để đáp ứng yêu cầu về vốn tự có tối thiểu, trong khi năng lực quản trị điều hành của họ chưa kịp thay đổi với quy mô tổng tài sản tăng lên gấp 20 lần với mỗi đồng vốn tự có tăng lên (1 NH tăng vốn tự có từ 2.000 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng, có nghĩa là có khả năng tăng tổng tài sản lên 20.000 tỷ đồng). Một chuyên gia cho rằng, điều này đã đặt các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng cổ phần nông thôn và ngân hàng quy mô nhỏ, phải chạy đua với nhau để tăng quy mô vốn một cách rất gấp gáp trong khi năng lực quản trị cần có cho một ngân hàng quy mô lớn hơn nhiều đã không theo kịp. Vẫn bộ máy quản trị ngân hàng cũ và những con người cũ nhưng quản trị một ngân hàng có quy mô lớn lại hoạt động trong môi trường cạnh tranh hơn. Hệ quả là khi nền kinh tế rơi vào bất ổn thì các yếu kém bắt đầu lộ ra mà hậu quả là những gì mà công cuộc tái cấu trúc cần phải giải quyết. Do vậy, thay vì quy định vốn tự có tối thiểu, cơ quan quản lý, giám sát NH có thể đưa ra quy định về CAR tối thiểu, và có cơ chế giám sát cụ thể vừa đảm bảo khả năng an toàn hoạt 98
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" động cho NH, vừa tạo điều kiện để các NH chủ động trong việc tăng hay giảm quy mô phù hợp với năng lực quản trị của mình. Trong dài hạn: Theo đánh giá về các biện pháp dài hạn, ưu tiên hàng đầu được dành cho giải pháp nhằm tăng cường năng lực thanh tra giám sát của NHNN và năng lực quản trị điều hành (corporate governance) của các NHTM. Điều này hoàn toàn phù hợp với những yếu kém của hệ thống NHTM hiện nay. Tuy nhiên, đối với giải pháp nâng cao năng lực thanh tra giám sát của NHNN lại liên quan đến việc tái cấu trúc/cải cách NHNN, mà trong bản đề án không được đề cập đến một cách cụ thể chi tiết. Bên cạnh đó, cũng có một số chuyên gia cho rằng cần cải thiện năng lực quản lý, điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Điều này cũng không ngạc nhiên khi rất nhiều chuyên gia cho rằng một trong những lý do khiến rất nhiều NHTM gặp khó khăn về thanh khoản hay tín dụng, ngoài những nguyên nhân chủ quan, còn có nguyên nhân khách quan từ sự điều hành mang tính tình thế, chính sách đi sau thực tế của NHNN. 2.1.4. Cơ quan thực hiện tái cấu trúc Vấn đề cơ quan nào đóng vai trò lãnh đạo triển khai tái cấu trúc cũng quan trọng. Tại Thái Lan, Ủy ban tư vấn tái cấu trúc tài chính được thành lập để ban hành các hướng dẫn cần thiết. Ủy ban này do Thứ trưởng Bộ tài chính đứng đầu và bao gồm thành viên từ NHTW, bộ tài chính và khu vực tư nhân. Tương tự như vậy, tại Indonesia, cơ quan tái cấu trúc ngân hàng Indonesia lãnh đạo việc tái cấu trúc gồm các thành viên của các cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, xét về thực tế, Ngân hàng Trung ương thường không tham gia lãnh đạo trực tiếp mà chỉ đóng vai trò tham gia. John Hawkins (1999) đã thực hiện khảo sát về tái cấu trúc của 24 quốc gia cho thấy nếu Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm tái cấu trúc, thì hệ thống ngân hàng thay đổi chậm và như vậy tái cấu trúc hệ thống ngân hàng khó đạt hiệu quả cao. Ở Việt Nam, phần lớn các chuyên gia cho rằng cơ quan chịu trách nhiệm chính thực hiện tái cấu trúc ngân hàng nên là NHNN. Một số ít ý kiến lại cho rằng đó nên là Bộ tài chính, hoặc nên thành lập một Ủy Ban tái cấu trúc ngân hàng, trực thuộc Chính phủ, như kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc. Các chuyên gia cũng đưa ra những thuận lợi khi NHNN là đơn vị đầu mối thực hiện tái cấu trúc vì NHNN là đơn vị trực tiếp quản lý hệ thống NH, họ dễ dàng trong việc tiếp cận thông tin để nắm rõ thực trạng hoạt động của hệ thống (phân loại NH để kiểm soát tăng trưởng tín dụng), dễ dàng sử dụng các biện pháp hành chính trong việc thúc đẩy các giải pháp tái cấu trúc (khuyến khích các NH lớn hỗ trợ/mua lại các NH nhỏ). Tuy nhiên, cũng nhiều ý kiến chỉ ra những hạn chế của mô hình này là: + Thông tin không minh bạch và chỉ có nội bộ NHNN nắm được kế hoạch tái cấu trúc trước khi đưa ra công bố công khai. + Thiếu sự kết hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan, như Bộ Tài chính, Ủy Ban giám sát tài chính quốc gia, + Chi phí tái cấu trúc không xác định được chính xác, + Có thể dẫn đến mâu thuẫn lợi ích hoặc nảy sinh vấn đề lợi ích nhóm. Có thể nói, việc NHNN là cơ quan đầu mối thực hiện tái cấu trúc hệ thống NH như hiện nay cũng có những ưu điểm nhất định, tuy nhiên mô hình này vẫn tiềm ẩn những rủi ro nhất định. 2.2. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp thống kê mô tả. - Phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp lịch sử, logic. 99
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 3. Thảo luận kết quả và đánh giá 3.1. Những cơ hội khi tái cấu trúc Ngân hàng Từ năm 2011 đến nay, Chính phủ đã triển khai nhiều hoạt động để tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng, quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM được cho là đang có nhiều thuận lợi do kinh tế vĩ mô chuyển biến khả quan. Cuối năm 2011, khu vực các NHTM và TCTD trong nước bắt đầu bộc lộ nhiều rủi ro tiềm ẩn có tính hệ thống như lãi suất cho vay tăng cao, thanh khoản của hệ thống NHTM gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh dẫn đến hiệu quả và lợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng giảm sút. Thực tế này đặt ra yêu cầu ngành ngân hàng cần phải nhanh chóng tiến hành tái cơ cấu hoạt động của toàn hệ thống. Các chuyên gia tham dự hội thảo "Chuyển động kinh tế vĩ mô và triển vọng tái cấu trúc ngân hàng thương mại" cho rằng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là khâu then chốt trong tái cơ cấu nền kinh tế. Để hỗ trợ cho quá trình tái cấu trúc hệ thống các TCTD và NHTM, Chính phủ đã thông qua một số chính sách chiến lược, như Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015 thông qua ngày 1/3/2012; Đề án Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) thông qua ngày 31/5/2013. Hoạt động tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã được triển khai nhanh chóng, có thể nói đó là những việc làm đầu tiên để triển khai chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế của Chính phủ. Các biện pháp được thực hiện từ năm 2011 đến nay đã giúp hoạt động ngân hàng bước đầu được cơ cấu lại theo hướng lành mạnh hơn. Tính thanh khoản của hệ thống NHTM cơ bản được bảo đảm, lãi suất liên ngân hàng được duy trì ở mức ổn định. Xử lý căn bản những TCTD yếu kém, xử lý một phần nợ xấu, cơ cấu lại một bước nhỏ sở hữu các NHTM. Chương trình tái cấu trúc chia làm 3 giai đoạn và được khởi động từ cuối năm 2011. Trong đó giai đoạn đầu tiên là TCT một số ngân hàng có nguy cơ khủng hoảng thanh khoản, đồng thời khắc phục thiếu hụt thanh khoản của toàn hệ thống. Kết quả có một số ngân hàng được sáp nhập hoặc NHNN đưa vào dạng giám sát đặc biệt đã được tái cấp vốn. Có thể nói, cho đến nay giai đoạn 1 là củng cố thanh khoản đã thành công. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng hiện khá ổn định. Mặc dù vẫn còn một số ngân hàng khó khăn nhất định về thanh khoản, nhưng vấn đề này không trở thành một nguy cơ cho toàn hệ thống nữa. Đầu năm 2012, NHNN cũng đã khởi động giai đoạn 2 của quá trình TCT. Bắt đầu từ việc chấn chỉnh lại thị trường tiền tệ liên ngân hàng; chấn chỉnh thị trường tín dụng, đặc biệt đưa ra các hạn mức tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống cũng như từng nhóm TCTD. Đồng thời, NHNN cũng bắt tay vào xử lý nợ xấu. NHNN đã ra hàng loạt chỉ thị và tập trung chủ yếu vào việc tái cơ cấu lại nợ, trong đó biện pháp được tập trung chủ yếu là giãn nợ và khoanh nợ cho một số DN khó khăn còn có khả năng phục hồi và phát triển. Bên cạnh đó, NHNN cũng yêu cầu các TCTD trích lập dự phòng rủi ro đủ và đúng theo quy định, từ đó có thể sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ. Trên thực tế năm 2012, các NHTM đã sử dụng khoảng trên 40.000 tỷ đồng dự phòng rủi ro để XLNX và cũng đã giãn nợ cho các DN còn có khả năng tồn tại và phát triển với tổng trị giá khoảng trên 200 nghìn tỷ đồng. Điều này làm cho nợ xấu giảm xuống nhanh, đến nay theo thông báo của NHNN chỉ còn khoảng 6%. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã trình một dự án tổng thể về xử lý nợ xấu trong đó có việc thành lập công ty AMC vào quý II/2013. Trong năm 2012, NHNN cũng đã xây dựng các chương trình về hiện đại hóa các TCTD. Đây là phần việc thuộc giai đoạn 3 - giai đoạn tái cấu trúc tổ chức và hoạt động. Trong đó có một số trọng tâm như: TCT hệ thống TCTD về mặt tổ chức và quản lý theo mô hình quản trị DN của 100
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" OECD; TCT lại hệ thống quản trị rủi ro; chấn chỉnh và xây dựng mới các sổ tay tín dụng; dự thảo về áp dụng các chuẩn mực quốc tế về kế toán và báo cáo tài chính và đặc biệt là sửa đổi quyết định 493 về phân loại tài sản và trích lập dự phòng rủi ro. Ngoài ra, NHNN cũng đang chuẩn bị hàng loạt các quy định về tỷ lệ an toàn cho hoạt động ngân hàng; các chỉ thị về hệ thống giám sát từ xa theo chuẩn của CAMELS hay áp dụng các nguyên tắc về quản trị rủi ro và an toàn hệ thống của Basel II, một phần Basel III. Như vậy có thể thấy chương trình TCT hệ thống các TCTD là một trong những chương trình được khởi động một cách thực tế với những bước đi khá tích cực. Nhiệm vụ trước mắt còn khá nặng nề nhưng chúng tôi tin chương trình này sẽ được thực thi một cách đầy đủ trong những năm tới đây. Song, quá trình tái cơ cấu các TCTD và NHTM đã và đang gặp phải một số khó khăn, thách thức không nhỏ. Hoạt động xử lý nợ xấu mới chỉ bắt đầu, thực hiện còn chậm và thiếu triệt để. Và, quy mô nợ xấu của toàn hệ thống hiện ở mức rất cao, điều này đòi hỏi cần phải huy động nguồn lực lớn để xử lý. Việc công bố số nợ xấu của các TCTD còn thiếu chính xác và chưa công khai, minh bạch. 3.2. Thách thức đặt ra Năm 2012, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới vô vàn khó khăn, hệ thống ngân hàng có nhiều thách thức, tái cấu trúc ngân hàng đã được thực hiện thông qua việc sáp nhập, phân nhóm ngân hàng Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng sẽ khó hơn rất nhiều tại các nước đang phát triển bởi một số lý do cơ bản: i) thiếu cơ sở luật pháp, khoa học và năng lực thể chế cho việc tái cấu trúc hệ thống (ví dụ như cơ chế xử lý tài sản); ii) tỷ lệ các ngân hàng ở trong tình trạng thiếu thanh khoản và có tài sản xấu chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống ngân hàng, số lượng ngân hàng hoạt động hiệu quả để có khả năng mua lại, thâu tóm ít hơn nhiều so với số lượng các ngân hàng yếu kém; iii) hệ thống ngân hàng có thể phức tạp hơn, bao gồm cả các ngân hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân. Những ngân hàng nhà nước có thể hoạt động với một cơ chế bảo lãnh ngầm đối với người gửi tiền. Những tuyên bố của Chính phủ về việc không bảo đảm cho các ngân hàng tư nhân có thể tạo ra việc rút tiền khỏi những ngân hàng này, đặc biệt nếu Chính phủ đóng cửa một số ngân hàng và gây ra sự nghi ngờ về sự lành mạnh của những ngân hàng khác trong hệ thống. - Các yếu tố kinh tế vĩ mô bất ổn: So với những năm trước đây, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong thời gian qua đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 chỉ đạt 5,03%, thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra từ đầu năm và thấp nhất kể từ năm 1999 trở lại đây. Sau giai đoạn tăng trưởng cao trên 8% từ năm 2005 đến 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu giảm xuống từ năm 2008 trở lại đây. Đến năm 2011 và 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Cambodia, Lào, Myanmar. Thời kỳ tăng trưởng nóng đi kèm với lạm phát cao và việc chính sách tài khóa, tiền tệ thắt chặt trong năm 2011 đã khiến cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2012 và có thể là năm 2013, 2014 tiếp tục phải gánh chịu nhiều hệ lụy. Kết quả là hàng tồn kho trong nền kinh tế tăng mạnh dẫn đến nhiều doanh nghiệp- vốn là đối tượng khách hàng quan trọng nhất của hệ thống ngân hàng- phải thu hẹp sản xuất, ngừng hoạt động, thậm chí giải thể. - Nợ xấu gia tăng: Nợ xấu gia tăng đang là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đến sự phát triển và tính bền vững của hệ thống các ngân hàng Việt Nam. Theo số liệu báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở mức 3,1% trong năm 2011 đã tăng vọt lên mức 8,86% trong năm 2012 (tăng 211%). Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2012 thấp hơn nhiều so với những năm trước trong khi tỷ lệ nợ xấu tăng rất cao đã phản ánh nợ xấu chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đồng thời cho thấy chất lượng tín dụng đang theo chiều hướng xấu. Theo báo cáo đầu năm 2012 của Fitch Ratings, cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế, trong nhiều năm con số nợ xấu của Việt Nam cao hơn rất nhiều (thậm chí 3-4 lần) so với con số được báo cáo chính thức từ cơ quan quản lý. Sự chênh lệch này xuất phát 101
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG từ sự khác biệt trong phân loại nợ theo VAS (chuẩn mực kế toán Việt Nam) và IFRS (chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế) đồng thời nhằm “làm đẹp” báo cáo tài chính và giảm trích lập dự phòng rủi ro để tăng lợi nhuận mà nhiều ngân hàng đã “giấu nợ xấu”. Môi trường kinh doanh xấu đi cùng với khả năng quản trị rủi ro yếu kém đã làm suy giảm chất lượng tín dụng và do đó gia tăng nợ xấu trong hoạt động ngân hàng. Một nguyên nhân quan trọng của vấn đề này là việc lạm dụng đòn bẩy tài chính đã khiến các doanh nghiệp này phải đối mặt với nhiều rủi ro khi thị trường tài chính có biến động tiêu cực, đặc biệt là trong các trường hợp thắt chặt tín dụng. - Tỷ lệ an toàn vốn thấp: Nhìn chung, quy mô vốn của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn còn rất mỏng. Những ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất toàn hệ thống như Agribank, Vietcombank, Vietinbank hay BIDV cũng chỉ vào khoảng trên 800 triệu USD, thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu vực (như Ngân hàng Bangkok Thái Lan hơn 3 tỷ USD, Ngân hàng Mandiri của Indonesia hơn 2 tỷ USD, Ngân hàng Maybank của Malaysia hơn 4 tỷ USD). Cùng với đó, tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng Việt Nam (hiện nay vào khoảng hơn 11%) mặc dù đã đáp ứng đủ yêu cầu về an toàn vốn tối thiểu theo yêu cầu của NHNN (9%), nhưng vẫn thấp hơn nhiều nếu so sánh với mức bình quân 13,1% của các ngân hàng khu vực Châu Á Thái Bình Dương (gồm 52 ngân hàng thuộc 10 nước) và tỷ lệ 12,3% của các ngân hàng các nước trong khu vực. Mặt khác, Basel III còn quy định tỷ lệ giới hạn đối với vốn cấp 1 và vốn cổ phần phổ thông- điều mà quy định của Việt Nam hiện chưa đề cập đến. Hơn nữa, các chuẩn mực đo lường vốn và phân loại tài sản của Basel III khắt khe hơn nhiều so với quy định hiện hành của Việt Nam. Một đặc điểm đáng chú ý là hiện nay tỷ lệ đòn bẩy vốn của các ngân hàng Việt Nam vẫn ở mức cao. Vì vậy, mặc dù hệ số an toàn vốn tự có trên tài sản có rủi ro cũng như vốn tự có trên tổng tài sản có sự cải thiện, tuy nhiên theo khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số an toàn vốn CAR ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống NHTM. Giá trị hệ số an toàn vốn CAR phụ thuộc rất lớn vào mẫu số là tài sản rủi ro, tuy nhiên yếu tố này có thể tăng nhanh chóng trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn, khiến cho hệ số CAR có thể sụt giảm, không phát huy được vai trò cảnh báo và phòng ngừa rủi ro. Do đó, tính an toàn thực chất của ngân hàng được phản ánh rõ nét hơn qua tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản. - Vai trò trung gian của hệ thống ngân hàng kém hiệu quả: Sau nhiều năm đóng vai trò là trái tim bơm vốn cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam vốn có truyền thống thâm dụng vốn, trong thời gian gần đây, chức năng trung gian tín dụng của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng đáng kể. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng âm trong 5 tháng đầu năm và cả năm chỉ tăng khoảng 8,91% so với năm 2011. Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp giảm do nhiều doanh nghiệp giải thể, tình hình tài chính doanh nghiệp suy yếu kết hợp với lãi suất vay ngân hàng tuy có giảm nhưng lãi suất thực vẫn ở mức cao so với khả năng sinh lời của doanh nghiệp khiến cho các doanh nghiệp khó tiếp cận với vốn ngân hàng. Ngoài ra, nguồn cung vốn tín dụng bị hạn chế do chính sách phòng thủ của ngân hàng trước bối cảnh nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng liên tục. - Khuôn khổ giám sát và quản lý yếu: Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển vô cùng nhanh chóng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của nền kinh tế trong những năm gần đây. Sự phát triển nhanh chóng đó đã khiến cho hành lang pháp lý cũng như công tác giám sát của các cơ quan quản lý tỏ ra không bắt kịp sự thay đổi, dẫn đến việc không kịp thời điều chỉnh và ngăn chặn được những xu hướng phát triển tiêu cực của hệ thống. Hầu hết nội dung giám sát mới chỉ mang tính định lượng mà chưa có những qui định mang tính định tính về mức độ rủi ro và khả năng quản trị rủi ro của NHTM. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của NHNN đối với các NHTM chủ yếu vẫn chỉ mang tính theo dõi, giám sát một cách riêng lẻ với từng ngân hàng mà chưa thấy được các xu hướng chung của cả hệ thống, đồng thời cũng chưa chú trọng vào hoạt động cảnh báo sớm cho các NHTM. 102
- HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" - Lòng tin vào hệ thống ngân hàng suy giảm: Một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự tin tưởng của công chúng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng, đồng thời cũng giúp cho NHNN đưa ra những quyết định chính sách kịp thời chính là vấn đề minh bạch, chính xác của thông tin. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, hệ thống thông tin về tiền tệ và ngân hàng còn nhiều yếu kém. Đó là việc “xào nấu” thông tin, làm đẹp báo cáo tài chính để che đậy nợ xấu, các khoản lỗ; che dấu tỷ trọng tín dụng vào các lĩnh vực nhiều rủi ro; đi đêm lãi suất với khách hàng; thông tin không kịp thời Kết quả là sự suy giảm lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, thể hiện ở việc người dân có thói quen nắm giữ vàng hay ngoại tệ. Mặc dù trong thời gian gần đây vốn dân cư chảy vào hệ thống có xu hướng gia tăng nhưng chủ yếu là do sự hạn chế trong hiệu quả của các kênh đầu tư khác như chứng khoán hay bất động sản. Ngoài ra, những vấn đề tiêu cực xuất phát từ những giao dịch thiếu minh bạch liên quan đến sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng đã tác động không nhỏ làm giảm sút niềm tin vào hệ thống. Nhiều ngân hàng trong một thời gian dài đã được sử dụng như là “sân sau” của doanh nghiệp, thực hiện việc cho vay vào những dự án đầu tư dài hạn, rủi ro cao nhưng kém hiệu quả kinh tế. Cùng với việc thiếu minh bạch trong các thông tin tài chính, cơ cấu sở hữu chồng chéo và không rõ ràng đã tạo bất ổn và thiếu lòng tin cho phía đối tác của ngân hàng cho dù họ là người đi vay, cho vay hay người gửi tiền. Tóm lại, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một quá trình phức tạp, nhạy cảm với nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt, trong bối cảnh của một nước đang chuyển đổi như Việt Nam. Mặc dù, đang có cách tiếp cận chủ động trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu một cách hiệu quả nhất trong điều kiện chưa có nguy cơ khủng hoảng hay suy thoái nghiêm trọng nhưng để thực hiện thành công quá trình này thì cả về lý thuyết, thông lệ quốc tế và cả thực tiễn Việt Nam đã chỉ ra rằng cần làm rõ và giải quyết rất nhiều những vấn đề liên quan để có thể thực hiện thành công quá trình này./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Báo cáo thường niên của các NHTM VN (từ năm 2009 đến năm 2013). [2] Đỗ Thiên Anh Tuấn (2012), “Những vấn đề từ đề án tái cấu trúc”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 15/4/2012. [3] Đức Huy (2011), Hệ thống ngân hàng Việt: “Rất cần một cuộc đại tu”!, truy cập từ http: // www dantri.com.vn. [4] Luật các Tổ chức tín dụng (2010). [5] Ngân hàng Nhà nước (2011), Ðề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015”. [6] Phạm Hằng (2011), Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, truy cập từ [7] Võ Trí Thành (2012), “Tái cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam – vấn đề và định hướng giải pháp chính sách”, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân, 4/2012. [8] Vũ Thành Tự Anh ( 2012), “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam”, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân, 4/2012. [9] Tạp chí Ngân hàng 2011, 2012, 2013 [10] Website http: www.dantri.com.vn [11] Website http: www.baomoi.com.vn [12] Website http: www.tailieu.com.vn [13] Website http: www.luatvietnam.com.vn [14] Website http: www.sbv.gov.vn 103