Thay chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) bằng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (ifrs): Liệu Việt Nam có sẵn sàng?
Bạn đang xem tài liệu "Thay chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) bằng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (ifrs): Liệu Việt Nam có sẵn sàng?", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- thay_chuan_muc_ke_toan_viet_nam_vas_bang_chuan_muc_bao_cao_t.pdf
Nội dung text: Thay chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) bằng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (ifrs): Liệu Việt Nam có sẵn sàng?
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam THAY CHUẨN MỰC KẾ TỐN VIỆT NAM (VAS) BẰNG CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ (IFRS): LIỆU VIỆT NAM CĨ SẴN SÀNG? #T.S Phan Thị Hồng Đức (PhD, CPA Australia, CIMA, CGMA), - Đại học RMIT, Melbourne, Australia Ths. Nguyễn Thanh Hà (MA, CPA US) - Đại học Quốc tế RMIT Việt Nam, Tp.HCM, Việt Nam Th.s Nguyễn Thị Phước (MA), - Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam Giới thiệu Khi đề cập đến tính chặt chẽ của báo cáo tài chính (BCTC) thì chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) được cơng nhận là tiêu chuẩn tốt nhất để ghi nhận và cơng bố thơng tin kế tốn.Tuy nhiên bộ chuẩn mực này vẫn chưa được tất cả các quốc gia trên thế giới áp dụng, mà nhiều nước hiện nay vẫn sử dụng chuẩn mực riêng. Hơn nữa đa số các quốc gia đã nhận ra những lợi ích khi hội tụ với IFRS đĩ là IFRS phù hợp với thương mại hĩa tồn cầu và thơng tin cung cấp cho các bên liên quan cũng được rõ ràng hơn. Nhưng giữa thực tế và ước muốn vẫn cĩ khoảng cách lớn. Hơn nữa, chuẩn mực kế tốn (CMKT) khi được ban hành địi hỏi phải phù hợp với khuơn khổ thể chế của mỗi quốc gia. Vì vậy để đáp ứng xu hướng các quốc gia cùng sử dụng chung bộ chuẩn mực, các quốc gia sẽ phải thay đổi thực sự hệ thống kinh tế của mình và Việt Nam cũng khơng phải trường hợp ngoại lệ khi muốn theo xu hướng này. Theo Võ (2014) thì các nhà hoạch định chính sách Việt Nam dự kiến sẽ cho áp dụng tự nguyện IFRS từ 2017 và bắt buộc áp dụng IFRS từ 2020 cho tất cả các tổ chức cĩ lợi ích đại chúng (public interest entities) ở Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp (DN) niêm yết, ngân hàng, tổ chức tín dụng, Cty bảo hiểm. Quá trình hội tụ giữa CMKT Việt Nam (VAS) và chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) đã được tiến hành nhưng rất ít người hành nghề kế tốn thực sự hiểu sâu về IFRS. Những người cĩ đánh giá tốt nhất cho việc chuyển đổi từ VAS sang IFRS chính là những người đang hành nghề trong lĩnh vực kế tốn & kiểm tốn. Do đĩ bài viết này trình bày ý kiến khảo sát ba nhĩm người hành nghề kế tốn bao gồm (1) kế tốn viên cơng chứng, (2) kế tốn DN và (3) giảng dạy kế tốn. Tác giả hy vọng kết quả khảo sát này sẽ cho ủy ban soạn thảo CMKT Việt Nam những thơng tin hữu ích để đưa ra các quyết định ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng kế tốn Việt Nam. Bàn về tiếp nhận IFRS, một loạt câu hỏi cần được giải quyết là (1) Liệu IFRS cĩ trở thành CMKT tồn cầu được khơng? (2) IFRS mang lại những lợi ích thực sự nào cho con người cũng như các tổ chức trên tồn thế giới? (3) Những quy định nào cần thay đổi để CMKT quốc gia hội tụ với CMKT quốc tế? (4) Những thay đổi này cần được giải quyết như thế nào trong tất cả các tổ chức? Một số các báo cáo và nghiên cứu học thuật đã nêu ra giải pháp cho vấn đề này. Một số ý kiến ủng hộ IFRS thì cho rằng IFRS chủ yếu ảnh hưởng đến thị trường vốn và nhà đầu tư. Cụ thể Daske và cộng sự (2013) chỉ ra rằng IFRS phù hợp với các quốc gia cĩ thị trường vốn phát triển vì vậy nĩ phù hợp với các nhà đầu tư và giúp cơng khai tài chính được tồn diện và rõ ràng hơn so với CMKT quốc gia. Một số nghiên cứu khác kết luận việc chuyển sang IFRS sẽ làm tăng ảnh hưởng tích cực đến thị trường vốn, tăng tính 54
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam cĩ thể so sánh và đáng tin cậy của BCTC. Tuy nhiên, vấn đề hội tụ với IFRS phải xem xét khả năng tương thích của IFRS với thể chế và mơi trường pháp luật của các quốc gia khác nhau. Mặc dù, IFRS phù hợp với thị trường vốn nhưng hiện vẫn chưa cĩ sự thống nhất hồn tồn đối với nhận định mà một số học giả đã đưa ra như: “các quốc gia mới nổi cĩ thể sẽ khơng lập tức nhận được tác động tích cực từ thị trường vốn vì các quốc gia này đang trong giai đoạn phát triển ban đầu nên chưa cĩ cơ chế bắt buộc tuân thủ hồn tồn”. Tuy nhiên khi càng nhiều nền kinh tế mới nổi tiếp nhận IFRS thì mơ hình tiếp nhận cho mỗi quốc gia là vấn đề đáng quan tâm. Lý thuyết về những yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS trong giai đoạn chuyển tiếp chưa được nghiên cứu nhiều. Việt Nam là ví dụ điển hình cho trường hợp này và đây khơng chỉ là khe hổng nghiên cứu của các quốc gia cĩ nền kinh tế mới nổi mà cịn ở các quốc gia đã cĩ cam kết chuyển đổi sang IFRS. Điều này làm cho “hệ thống kế tốn- accounting ecology” (theo Gernon và Wallace, 1995) trải qua một sự thay đổi hồn tồn. Các cơng bố gần đây của Hiệp Hội Kiểm tốn viên hành nghề Việt Nam (VACPA) và Liên Đồn Kế tốn Châu Á Thái Bình Dương (CAPA) đã nhấn mạnh rằng cần phải cĩ nhiều nghiên cứu hơn vào các nước đang phát triển. Do đĩ nghiên cứu này được thực hiện để đưa ra những nhận định của giới học thuật và những người hành nghề kế tốn khi Việt Nam tiếp nhận IFRS. Cụ thể, nghiên cứu hướng đến trả lời các câu hỏi nghiên cứu (CHNC) sau: 1. Những lợi ích Việt Nam nhận được khi tiếp nhận IFRS là gì? (CHNC 1) 2. Những bất lợi mà Việt Nam trải qua khi tiếp nhận IFRS là gì? (CHNC 2) 3. Những thách thức mà Việt Nam trải qua khi tiếp nhận IFRS là gì? (CHNC 3) 4. Sự sẵn sàng tiếp nhận IFRS của giới hành nghề kế tốn tại Việt Nam như thế nào? (CHNC 4) 5. Liệu giới học thuật và người hành nghề kế tốn tại Việt Nam cĩ nhận định khác nhau khi Việt Nam tiếp nhận IFRS khơng? (CHNC 5) Nghiên cứu này gĩp phần bổ sung thêm vào cơ sở lý thuyết cịn hạn chế tại Việt Nam về các yếu tố ảnh hưởng tiếp nhận IFRS. Đây là một trong số ít nghiên cứu thực hiện khảo sát tồn diện nhận thức của kế tốn viên tại Việt Nam về lợi ích, rủi ro, chi phí và thách thức khi Việt Nam tiếp nhận IFRS. Xu hướng gần đây trong nghiên cứu IFRS dường như tập trung vào các nền kinh tế chủ chốt như các thành viên thuộc liên minh Châu Âu và cĩ rất ít nghiên cứu được thực hiện cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.Số lượng học giả am hiểu về sự hội tụ IFRS tại Việt Nam rất ít. Nếu tốc độ và mức độ hội tụ giữa chuẩn mực quốc gia và tồn cầu cần được cải thiện thì Việt Nam là trường hợp điển hình để IASB nghiên cứu và đưa ra bài học kinh nghiệm tin cậy cho các thị trường mới nổi. Ngồi phần giới thiệu chung, bài viết gồm các vấn đề sau: Sự phát triển của mơi trường pháp lý cho các hoạt động BCTC tại Việt Nam (mục 2); Cung cấp chi tiết dữ liệu thu thập và phương pháp nghiên cứu (mục 3); Kết quả nghiên cứu chung (mục 4) và cuối cùng là trình bày kết luận cũng như những hàm ý của nghiên cứu. Mơi trường BCTC tại Việt Nam Việt Nam là một bối cảnh tuyệt vời để nghiên cứu về sự phát triển khuơn khổ pháp lý kế tốn. Mặc dù, tại Việt Nam kế tốn cĩ lịch sử lâu đời nhưng chế độ kế tốn quốc gia chỉ xuất hiện một vài thập kỷ trở lại đây. Và lĩnh vực kế tốn chuyên nghiệp tại Việt Nam cịn cĩ 55
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam lịch sử non trẻ hơn nữa. Cụ thể, đến tận đầu thập niên 90, Việt Nam mới xuất hiện hai cơng ty kế tốn và kiểm tốn là VACO và AASC do Bộ Tài Chính thành lập và đến 1994, mới cĩ kỳ thi đầu tiên về chứng chỉ kế tốn cơng chứng Việt Nam (VACPA). Cũng trong năm đĩ, chứng chỉ kiểm tốn độc lập cũng được Chính phủ thơng qua. Tuy nhiên, hai thập kỷ qua, Hiệp hội nghề nghiệp kế tốn đã phát triển mạnh mẽ. Đến ngày 31/12/2015 đã cĩ hơn 2.500 hội viên VACPA, chính họ một phần phản ánh bức tranh phát triển kinh tế tại Việt Nam. Khi Việt Nam trở thành thành viên của Đơng Nam Á và nhanh chĩng hội nhập phát triển kinh tế ở cả cấp độ khu vực và tồn cầu thì buộc chế độ kế tốn Việt Nam phải cĩ sự thay đổi tích cực để phù hợp với bối cảnh mới. Việt Nam phải xây dựng CMKT quốc gia theo hướng gần với chuẩn mực tồn cầu là một thách thức cho chế độ kế tốn Việt Nam. Vào thời điểm bài viết này, tại Việt Nam lập BCTC và cơng bố thơng tin là chưa bắt buộc theo IFRS. Tất cả các tổ chức kinh doanh cĩ nghĩa vụ báo cáo theo VAS nhưng giữa VAS và IFRS cĩ sự khác biệt rất lớn. Sự khác biệt lớn nhất chính là, VAS được mơ phỏng theo CMKT quốc tế (IAS) trước năm 2003 và nĩ cũng được điều chỉnh để phù hợp với thực tế kế tốn, tài chính và kinh tế Việt Nam. Theo Pham (2012) mức độ hội tụ tổng thể (hội tụ về chế độ kế tốn) giữa VAS và IFRS đạt trung bình 66%, trong đĩ xét ở khía cạnh thước đo thì mức độ hội tụ đạt đến 75.8% nhưng cơng bố thơng tin thì mức độ hội tụ chỉ cĩ 61.9%. Kết quả nghiên cứu của Phạm (2012) cịn cho thấy về cơng bố thơng tin thì VAS và IFRS cĩ mức độ hội tụ thấp, là do đối với các chuẩn mực mà IASB và VAS đều cĩ thì IASB lại yêu cầu cơng bố thơng tin nhiều hơn. Sự khác biệt giữa VAS và IFRS làm cho người sử dụng báo cáo ở bên ngồi DN lo lắng là BCTC được lập theo VAS khơng đáp ứng đủ nhu cầu thơng tin mà họ cần. Do đĩ, khơng khĩ để tìm thấy một một bộ báo cáo được lập theo cả VAS và IFRS cĩ sự điều chỉnh với VAS. Rất nhiều DN tại Việt Nam đã lập hai bộ báo cáo, một theo VAS là bắt buộc và một là tự nguyện lập theo IFRS cho mục đích báo cáo thơng tin ra nước ngồi. Nghiên cứu này, khơng chỉ là vẽ lại bức tranh hội tụ giữa VAS và IFRS mà cịn là nghiên cứu về tính hợp lý và khả thi của mức độ hội tụ giữa VAS và IFRS. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập dữ liệu của nghiên cứu này là sử dụng bảng câu hỏi khảo sát. Đã cĩ 3.000 bảng câu hỏi được phát ra vào năm 2012, mà đối tượng tham gia khảo sát là những người hành nghề kế tốn chuyên nghiệp. Đối tượng tham gia khảo sát được chia thành 3 nhĩm với 1.000 bảng câu hỏi cho mỗi nhĩm. Nhĩm đầu tiên là các kiểm tốn viên, bởi vì cơng việc của họ cĩ liên quan đến IFRS khi tư vấn hay thực hiện kiểm tốn cho khách hàng. Nhĩm thứ hai gồm kế tốn viên và kế tốn trưởng bởi họ cĩ trách nhiệm chuẩn bị và kiểm tra BCTC cho DN. Nhĩm cuối cùng, là giới học thuật bao gồm những người giảng dạy kế tốn bởi vì họ cĩ kiến thức về IFRS và vai trị quan trọng của họ trong việc truyền tải IFRS cho các kế tốn viên trong tương lai. Cả 3 nhĩm đều được giải thích tầm quan trọng của cuộc khảo sát này. Đầu tiên, thực hiện khảo sát thử nghiệm với 30 người |(10 người cho mỗi nhĩm). Những người tham gia khảo sát thuộc các cấp quản lý khác nhau từ nhân viên mới hành nghề cho đến kế tốn trưởng hay nhân viên kế tốn nhiều kinh năm kinh nghiệm. Đặc biệt, cuộc khảo sát thử nghiệm này, thu được 5 kết quả từ nhân viên Bộ Tài Chính và tổ chức nghề 56
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam nghiệp. Sau khi nhận được phản hồi từ những người thực hiện khảo sát trong giai đoạn thử nghiệm, nội dung bảng câu hỏi được xem xét và điều chỉnh lại. Bảng câu hỏi bao gồm cả loại câu hỏi với nhiều lựa chọn và loại câu hỏi mở. Tổng cộng 728 phiếu trả lời được sử dụng để phân tích, tương ứng tỷ lệ phản hồi là 24% được trình bày trong bảng 1. Bảng 1: Cỡ mẫu và tỷ lệ phản hồi của mỗi nhĩm khảo sát. Nhĩm Số bảng câu hỏi Tỷ lệ phần trăm Đã gửi Nhận về Khơng sử dụng Sử dụng Nhận về Sử dụng Nhĩm 1: Kiểm tốn 1,000 250 71 203 27% 20% viên Nhĩm 2:Kế tốn viên 1,000 435 101 371 47% 37% Nhĩm 3: Học thuật 1,000 242 93 154 25% 15% Tổng 3,000 927 265 728 33% 24% Nguồn: tác giả 4. Kết quả nghiên cứu Một là, Thơng tin cá nhân người trả lời Kết quả bảng khảo sát nhận về cho thấy, nhĩm kế tốn cĩ tỷ lệ trả lời cao nhất là 58%, sau đĩ là nhĩm kiểm tốn 26% và cuối cùng là nhĩm học thuật chỉ 16%. Xét về giới thì tỷ lệ người trả lời cĩ giới tính nam cao hơn so với nữ, 57% trong khi đĩ nữ chỉ 43%. Xét về vị trí cơng việc thì hầu hết người trả lời ở vị trí quản lý hoặc nhân viên lâu năm, chỉ cĩ 4% số người trả lời là nhân viên mới. Phần lớn người phản hồi thuộc hai nhĩm tuổi, nhĩm thứ nhất cĩ tuổi từ 31 đến 40 tuổi, nhĩm này chiếm 45% số người trả lời. Nhĩm thứ hai số tuổi dao động từ 41-50 tuổi và nhĩm này chiếm 19%. Kết quả này hợp lý khi so sánh với số năm kinh nghiệm làm việc của người trả lời. Nhìn chung, đa số người phản hồi cĩ từ 6 đến 15 năm kinh nghiệm. Hai phần ba số người phản hồi là thành viên của ít nhất 1 hội nghề nghiệp. Cụ thể, số người phản hồi là hội viên của VACPA chiếm 32%, kế đến hội viên của VAA chiếm 28%, ACCA chiếm 13% và cuối cùng là CPA Úc chiếm 9%. Đặc biệt, hơn 16% người phản hồi cùng một lúc là thành viên của hai hội nghề nghiệp, một của Việt Nam là VACPA (hoặc VAA) và một của nước ngồi là ACCA (hoặc CPA ÚC). Về kiến thức IFRS thì 48% người trả lời thừa nhận họ tự học IFRS. Các hội nghề nghiệp đề cập ở trên cũng mở các khĩa đào tạo, bồi dưỡng IFRS cho hội viên của họ và sinh viên (chiếm 33%). Những người khảo sát cịn lại cho rằng, họ tiếp cận kiến thức IFRS từ đào tạo nội bộ của DN và/hoặc tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệpvụ. Trong các hội nghề nghiệp, VAA đĩng vai trị chủ đạo trong việc mở các khĩa đào tạo IFRS, chiếm đến 10%, tiếp là ACCA chiếm 9.5%, VACPA chiếm 4% và cuối cùng CPA Úc chỉ 3%. Hai là, Những lợi ích từ tiếp nhận IFRS (CHNC 1) Để khảo sát câu hỏi nghiên cứu thứ nhất (CHNC 1), bảng câu hỏi khảo sát đã mơ tả 14 loại ích lợi khi Việt Nam tiếp nhận IFRS thì cĩ đến 11 loại lợi ích được hơn 50% người trả lời đồng tình. Kết quả được trình bày chi tiết trong bảng 2: 57
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam Bảng 2: Lợi ích từ tiếp nhận IFRS Thứ Loại lợi ích Tỷ lệ người trả lời đồng ý (%) tự Kiểm Tốn Kế Tốn Học Giả Bình quân 1 Tính tin cậy của báo cáo 84% 81% 83% 82% 2 Niềm tin của nhà đầu tư 79% 85% 74% 81% 3 Tính thích hợp của báo cáo 86% 78% 79% 80% 4 Cĩ thể so sánh của báo cáo 86% 78% 78% 80% 5 Niềm tin của cổ đơng 60% 82% 77% 75% 6 Thâm nhập thị trường tồn cầu 77% 86% 79% 75% 7 Nguồn tài chính bên ngồi 60% 74% 69% 69% 8 Giảm chi phí lập 2 bộ báo cáo 67% 63% 58% 63% 9 Chất lượng cao 55% 65% 65% 62% 10 Tính cĩ thể hiểu được của báo cáo 59% 63% 42% 57% 11 Niềm tin của chủ nợ 45% 56% 62% 54% 12 Giảm chi phí phân tích dữ liệu 44% 53% 40% 48% 13 Giảm chi phí huy động vốn 33% 37% 36% 36% 14 Giảm chi phí ban hành chuẩn mực 15% 25% 23% 22% Nguồn: Tác giả Kết quả khảo sát cho thấy, 80% người trả lời cho rằng BCTC lập theo IFRS thì đáng tin, cung cấp thơng tin liên quan và cĩ thể so sánh được. Bênh cạnh đĩ, các lợi ích như “tính cĩ thể hiểu được” và “chất lượng báo cáo cao hơn so với lập theo VAS” cũng nhận được sự thừa nhận khá cáo đĩ là 62% và 57%. Mặc khác, khi IFRS được tiếp nhận cịn mang lại những ảnh hưởng tích cực khác cho DN như: ● Dễ tiếp cận thị trường vốn hơn so với VAS (82%) ● Tăng niềm tin cho những nhà đầu tư tiềm ẩn (81%) ● Tăng niềm tin của cổ đơng (75%) ● Tiếp nhận nguồn vốn bên ngồi dễ dàng hơn so với VAS (69%) ● Cải thiện mối quan hệ với tổ chức tín dụng (54%) Kết quả vừa mơ tả ở trên cịn được kiểm chứng, thơng qua những nhận định mà người tham gia khảo sát đã trả lời cho các câu hỏi mở. Một trong số nhận định đĩ là “ IFRS mang tính tồn cầu hĩa” (R24); “IFRS giúp Việt Nam tham gia thương mại tồn cầu tốt hơn”; “IFRS cĩ khuơn mẫu chuẩn và rất dễ hiểu cho các nhà đầu tư của nhiều quốc gia khác muốn đầu tư vào Việt Nam”(R31). Bên cạnh đĩ, những người trả lời khảo sát cịn nêu thêm các lợi ích tiềm ẩn khác khi tiếp nhận IFRS như “Cơ hội nghề nghiệp cho kế tốn viên và đào tạo ngành kế tốn của các trường Cao Đẳng, Đại học” hoặc “Giúp so sánh kết quả kinh doanh của chi nhánh so với cả tập đồn” (R30), “Giúp xếp hạng tài chính”(R368)và “Giúp tăng danh tiếng cho DN cũng như quốc gia”(R316). 58
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam Một điều đặc biệt là, các cụm từ như “Dễ dàng”, “Một cách dễ dàng” và “Dễ hơn” đã được những người trả lời khảo sát sử dụng rất nhiều để diễn đạt lợi ích mà IFRS mang lại so với VAS. Bảng số 3 trích lược một số nhận định của người trả lời để minh chứng cho việc sử dụng lặp lại nhiều lần các cụm này. Hơn nữa, phát hiện này hồn tồn phù hợp với nghiên cứu của Naoum, Sykianakis và Tzovas (2011), đĩ là một nữa số người trả lời thừa nhận rằng, DN tiếp cận thị trường nước ngồi dễ dàng hơn khi áp dụng IFRS. Bảng 3: Nhận định của người thực hiện khảo sát về lợi ích của tiếp nhận IFRS Mã người trả lời Nhận định R4 IFRS giúp chúng ta tiếp cận thị trường kinh doanh tồn cầu được dễ dàng hơn R7 Dễ dàng hợp nhất báo cáo cho các cơng ty đa quốc gia R135 Được tồn thế giới chấp nhận, dễ dàng tiếp cận với thị trường vốn quốc tế R257 Dễ huy động vốn từ nước ngồi R389 Dễ dàng tích hợp R452 Sẽ dễ được các tổ chức tín dụng cho vay R657 Sự quản lý và giám sát của các cơng ty đa quốc gia cĩ thể sẽ được thực hiện dễ dàng nhờ vào hệ thống chia sẻ BCTC R729 Phân tích dễ dàng hơn Nguồn: tác giả Những câu trả lời từ các câu hỏi mở đã đề cập tính minh bạch là đặc điểm quan trọng của BCTC được lập theo IFRS. Do đĩ, sau đây sẽ trích hai ý kiến đại diện của người trả lời về tính minh bạch đĩ là “Những chuẩn mực tồn cầu giúp cho nhà đầu tư cĩ cái nhìn rõ ràng hơn đối với các DN trong cùng ngành kinh doanh”(R203) và “Chuyển đổi sang IFRS làm tăng tính minh bạch của thơng tin tài chính do đĩ giúp nhà quản lý đưa ra được quyết định” (R208). Hơn nữa, kết quả khảo sát cho thấy, tiếp nhận IFRS tạo ra cơ hội mang tính quốc tế cho các DN Việt đĩ là họ cĩ khả năng tiếp cận thị trường tài chính quốc tế, đây là điều rất khĩ khăn khi áp dụng VAS. Đồng thời tiếp nhận IFRS cũng gĩp phần làm cho thị trường Việt Nam trở nên đáng tin cậy hơn trong hình ảnh quốc tế. Cụ thể, những người trả lời khảo sát cho rằng: “Theo họ thì IFRS nỗ lực tạo ra một bộ tiêu chuẩn kế tốn và BCTC mang tính cĩ thể so sánh hơn, vì vậy cĩ thể cung cấp thơng tin ý nghĩa hơn cho nhà quản lý, nhân viên và đặc biệt quan trọng đối với nhà đầu tư và cộng đồng trên phạm vi rộng. Do đĩ, nĩ giúp các nhà đầu tư nước ngồi hiểu nghiệp vụ kế tốn, kiểm tốn và cách tiếp cận ngân hàng tại các quốc gia khác nhau trên thế giới và giúp họ tuân thủ các thơng lệ quốc tế về hệ thống kế tốn”(R829). Kết quả khảo sát cịn cho thấy, mặc dù, cĩ nhiều khĩ khăn và chi phí liên quan đến chuyển đổi sang IFRS nhưng nhìn chung Kế tốn viên ở Việt Nam vẫn cĩ xu hướng ủng hộ tiếp nhận IFRS. Cụ thể là, người trả lời khảo sát thứ 208 trong nhĩm kế tốn cho rằng: “Cơng ty tơi là một cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khốn Việt Nam. Mặc dù, sẽ cĩ nhiều thách thức cho chúng tơi khi chuyển sang IFRS nhưng chúng tơi vẫn muốn thực hiện bởi vì áp dụng IFRS sẽ làm tăng tính minh bạch BCTC của cơng ty chúng tơi, đồng thời giúp quản lý dịng tiền, vốn và tài sản tốt hơn. Do đĩ sẽ làm tăng niềm tin của cổ đơng đặc biệt là những nhà đầu tư quốc tế” (R208). 59
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam Nhìn chung, cĩ sự ủng hộ mãnh mẽ cho tiếp nhận IFRS ở Việt Nam. Kế tốn viên, kiểm tốn và giới học thuật cĩ suy nghĩ lạc quan về những lợi ích mà IFRS mang lại cho Việt Nam. Lợi ích lớn nhất từ lập báo cáo theo IFRS là, các DN Việt Nam cung cấp BCTC tin cậy và cĩ tính so sánh được. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tiếp nhận IFRS sẽ mang lại cơ hội cho các DN Việt tham gia vào thị trường vốn tồn cầu, từ đĩ làm tăng hình ảnh cho Việt Nam. Ba là, Những bất lợi tiếp nhận IFRS (CHNC 2) Những người tham gia trả lời khảo sát cho rằng, cĩ 14 bất lợi khi tiếp nhận IFRS. Từ kết quả phân tích cho thấy (trình bày trong bảng 4), 14 bất lợi này đã tạo ra những tác động lớn đến Việt Nam khi tiếp nhận IFRS. Bảng 4: Những bất lợi khi tiếp nhận IFRS Tỷ lệ đồng ý (%) Thứ Bất lợi tự Kiểm tốn Kế tốn Học giả Bình quân viên viên 1 Quá phức tạp đối với SME’s 70% 67% 68% 68% 2 Quá phức tạp 75% 59% 67% 65% 3 Tốn thời gian 64% 49% 54% 54% 4 Khĩ hiểu vì khác ngơn ngữ 53% 47% 51% 50% 5 Khơng thể cĩ chuẩn mực chung tồn cầu 50% 48% 43% 48% 6 Chưa được tồn cầu chấp nhận 43% 40% 43% 41% 7 Cĩ sự ảnh hưởng của chính trị 25% 25% 25% 25% 8 Chủ quan 34% 16% 25% 23% 9 Việt Nam khơng tham gia soạn thảo 21% 24% 16% 22% 10 Chi phí cao hơn lợi ích mang lại 15% 16% 28% 18% 11 Thiếu tính chi tiết và các nhân khơng cĩ 21% 15% 15% 17% điều kiện tham gia giải thích 12 Việt Nam sẽ mất kiểm sốt 9% 18% 14% 15% 13 Tăng nguy cơ gian lận của DN 9% 13% 17% 13% 14 Việt Nam khơng yêu cầu áp dụng IFRS 4% 4% 6% 5% Nguồn: tác giả Bảng số 4 cho thấy, bất lợi được nhiều người thừa nhận nhất chính là sự phức tạp của IFRS cho các DNNVV (68% người trả lời đồng ý) và thậm chí IFRS cho các DN khác cũng 60
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam phức tạp khơng kém với 65% số người trả lời thừa nhận. Điều này được thấy rõ hơn qua ý kiến trả lời của một người trong nhĩm kế tốn:“ Việt Nam là quốc gia cĩ nhiều DNNVV, và thực tế là IFRS lại rất phức tạp đối với các DNNVV. Hơn nữa IFRS lại quá phức tạp so với chuẩn mực Việt Nam do đĩ rất khĩ để hiểu nội dung IFRS” (R41) Mặc khác hơn 54% số người trả lời của nhĩm kế tốn cho rằng, áp dụng IFRS tốn thời nhiều thời gian. Cĩ bằng chứng cho thấy, nhĩm kế tốn cĩ suy nghĩ là IFRS tốn thời gian và địi hỏi khối lượng cơng việc nhiều (R718). Điều này hồn tồn ngược lại so với kết quả trả lời của nhĩm kiểm tốn viên, họ cho rằng, áp dụng IFRS tiết kiệm thời gian và nhân lực (R63), giảm khối lượng cơng việc (R797). Cịn giới học thuật thì cĩ quan điểm tương tự nhĩm kiểm tốn viên đĩ là IFRS giúp giảm chi phí nhân lực để lập báo cáo trong bối cảnh tồn cầu (R809). Mức độ tập trung và định hướng khác biệt giữa hai bộ tiêu chuẩn (VAS, IFRS) được xem là yếu tố khơng mong muốn. Nhiều người tin rằng, IFRS hướng tới nhà đầu tư nhiều hơn trong khi đĩ quy định kế tốn Việt Nam hiện hành lại tập trung vào thuế nhiều hơn, chính điều này dẫn đến sự khác biệt lớn trong ghi nhận cũng như yêu cầu cơng bố thơng tin giữa hai bộ tiêu chuẩn. Cĩ thể được minh chứng qua một số ý kiến của người trả lời như sau:“IFRS cĩ thể xung đột với chế độ thuế hiện hành”(R65).“Các quy định kế tốn tài chính phức tạp ở Việt Nam cĩ thể yêu cầu gấp đơi khối lượng cơng việc nếu IFRS được áp dụng”(R718).“Thực thi IFRS là vấn đề mang tính quốc gia, do đĩ chất lượng BCTC cĩ thể khác nhau giữa các quốc gia” (R12). IFRS chỉ đưa ra các xét đốn nghề nghiệp và các khái niệm trên nguyên tắc chung, chính điều này gây khĩ khăn cho phần lớn kế tốn viên ở Việt Nam, bởi vì CMKT Việt Nam xây dựng trên tinh thần đưa ra các quy định cụ thể. Do đĩ, Kế tốn viên buộc phải học kỹ năng mới là giải quyết linh hoạt dựa vào nguyên tắc chung và nĩ được xem là thách thức đối với họ. Hơn nữa, việc chuyển đổi từ VAS sang IFRS cĩ thể làm cho BCTC bị thay đổi kết quả theo hướng từ cĩ lợi chuyển sang bất lợi cho DN hoặc ngược lại. Nhận định này được khẳng định mạnh mẽ bởi phiếu khảo sát số 50 thuộc nhĩm kế tốn, cụ thể như sau:“IFRS cĩ thể tạo ra ảnh hưởng nặng nề cho chủ DN trong giai đoạn hậu IFRS. Kết quả tài chính thay đổi đáng kể. Do đĩ, IFRS khơng nên được tiếp nhận ở Việt Nam”(R50). Nhìn chung, mọi người tham gia khảo sát đều lo lắng những bất lợi và ảnh hưởng mà IFRS tạo ra khi nĩ được tiếp nhận. Các yếu tố như quá phức tạp, tốn thời gian và ít tồn diện là những yếu tố ít mong muốn nhất của lập báo cáo theo IFRS. Bên cạnh đĩ, họ cịn nêu lên một số bất lợi tiềm ẩn khác khi chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS nếu IFRS được áp dụng tại Việt Nam. Bốn là, Thách thức của IFRS (CHNC 3) Bảng câu hỏi khảo sát bao gồm 10 loại thách thức mà DN gặp phải khi tiếp nhận IFRS (bảng 5) thì phần lớn người trả lời (hơn 70%) chọn mức “Đồng ý” cho tất cả các loại thách thức được hỏi. Cụ thể, cĩ 73% số người trả lời chọn “Đồng ý” đối với thách thức “Thiếu thời gian để chuyển ngữ” và 90% chọn “Đồng ý” đối với thách thức “Đào tạo nhân viên thêm”. Thơng tin trong bảng số 5 cũng cho thấy, bình quân 75% số người được hỏi cho rằng thiếu 61
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam hướng dẫn để áp dụng IFRS là một thách thức. Điều này tạo ra rủi ro là IFRS cĩ thể được giải thích theo nhiều cách khác nhau khi được áp dụng tại nhiều đơn vị, do đĩ BCTC cĩ nguy cơ được giải thích gian lận. Bảng 5: Những thách thức khi tiếp nhận IFRS Thứ Thách thức Tỷ lệ trả lời “ đồng ý” (%) tự Kiểm tốn viên Kế tốn viên Học giả Bình quân 1 Tập huấn nhân viên tài chính 90% 76% 81% 81% 2 Cập nhật quy trình kế tốn 86% 77% 71% 79% 3 Tập huấn nhân viên quản lý 85% 74% 76% 78% 4 IFRS chưa phổ biến trong chương 77% 81% 74% 78% trình đào tạo của các ĐH 5 Cập nhật phần mềm 85% 73% 75% 77% 6 Quản lý nhận thức cơng chúng 89% 70% 79% 77% 7 Quản lý cơng việc trong giai đoạn 85% 69% 74% 75% chuyển tiếp 8 Thiếu hướng dẫn đầy đủ khi lần 79% 74% 72% 75% đầu áp dụng IFRS 9 Cập nhật quy trình kiểm tốn 76% 70% 68% 72% 10 Thiếu thời gian chuyển ngữ IFRS 73% 71% 71% 71% sang tiếng việt Nguồn: tác giả Danh sách những thách thức DN gặp cĩ thể được phân thành nhĩm nhỏ như sau: Thách thức về quy trình bao gồm: ● Cập nhật quy trình kế tốn (79% đồng ý) ● Cập nhật quy trình kiểm tốn (72% đồng ý) ● Cập nhật phần mềm (77% đồng ý) Thách thức về đào tạo gồm: ● Đào tạo nhân viên tài chính (81%) ● Đào tạo nhân viên khối quản lý (78%) Thách thức về chuyển giao bao gồm: ● Thiếu hướng dẫn đầy đủ (75%) ● Thiếu thời gian để chuyển ngữ IFRS sang tiếng Việt (71%) ● IFRS chưa cĩ nhiều trong chương trình mơn học của các Đại học Việt nam (78%) Bảng số 5 cho thấy, phần lớn người trả lời (hơn 70%) e ngại rằng thiếu hướng dẫn chi tiết sẽ dẫn đến rủi ro là IFRS được giải thích khác nhau tại các đơn vị khác nhau, khi áp dụng và tăng sự gian lận trong giải thích BCTC. Hơn nữa, kết quả khảo sát cũng cho thấy, nhiều người trả lời khảo sát nhận thấy, BCTC lập theo IFRS đã khơng được thừa nhận bởi hầu hết cơ quan chính quyền tại Việt Nam (R320), họ cịn cho rằng, những quy định hiện hành quá phức tạp và Chính phủ chưa muốn áp dụng IFRS vì nĩ làm suy yếu kiểm sốt và quyền lực của họ đối với các DN Việt Nam (R718). Phần lớn người được hỏi tỏ ra lo lắng DN sẽ gặp 62
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam phải thách thức về đào tạo nhân viên và hướng dẫn sử dụng IFRS. Điều này được minh chứng qua các ý kiến sau: “Hầu hết quản lý cấp cao tại DN hiện tại tuy cĩ qua đào tạo nhưng lại khơng cập nhật thường xuyên kiến thức mới, do đĩ họ gặp khĩ khăn khi phải áp dụng cái mới đặc biệt là CMKT quốc tế. Cịn thế hệ trẻ thì được đào tạo từ các trường Đại học nội địa với kiến thức thường khơng được cập nhật nhanh. Mặc khác, ngay cả giới học thuật cũng khơng hiểu nhiều về IFRS trừ phi họ cĩ tham gia một chương trình đào tạo quốc tế. Nhìn chung, quá trình triển khai IFRS sẽ gặp nhiều khĩ khăn vì hệ thống giáo dục bậc đại học hiện tại ở Việt Nam cịn nhiều bất cập”(R715). Mặc khác, kết quả trả lời khảo sát cịn cho thấy, Việt Nam khơng đánh giá cao về IFRS trong giai đoạn này, vì bản chất của IFRS là chỉ dựa trên nguyên tắc tức là IFRS khơng đưa ra những quy định hay hướng dẫn cụ. Minh chứng qua ý kiến khảo sát sau: “VAS của Việt Nam gần như là đưa ra các quy định chi tiết, cụ thể để xử lý trong khi đĩ IFRS chỉ đưa ra nguyên tắc chung. Vì vậy, nếu chúng ta muốn áp theo IFRS và điều chỉnh VAS thì chúng ta phải đào tạo đội ngũ giáo viên để họ am hiểu sâu về IFRS, từ đĩ họ đào tạo lại các thế hệ sinh viên. Rõ rang, phướng pháp này tốt hơn là chúng ta áp dụng IFRS mà đa số mọi người lại khơng thực sự hiểu biết về IFRS”(R27). Ngồi ra, cịn cĩ nhận định khác được nhiều người khảo sát đưa ra là BCTC dựa trên IFRS khơng được hầu hết các cơ quan chính phủ ghi nhận ở Việt Nam (R320), và chính sách hiện hành của Việt Nam thì quá hức tạp, và chính phủ khơng muốn tiếp nhận IFRS vì cĩ khả năng giảm kiểm sốt đối với các DN Việt Nam (R718). Nhìn chung, kết quả khảo sát cho thấy thách thức lớn nhất khi tiếp nhận IFRS là đào tạo nhân viên tài chính. Thách thức này là đáng kể, tại vì Việt Nam thiếu hướng dẫn triển khai IFRS một cách đầy đủ. Do đĩ, các quy định của IFRS cĩ nguy cơ được giải thích khơng giống tại mỗi đơn vị, như vậy làm cho quá trình triển khai IFRS khơng nhất quán giữa các DN và một số nội dung cĩ thể khơng được tuân thủ. Những người trả lời khảo sát cho rằng, chuyển đổi từ VAS sang IFRS sẽ khơng xảy ra bởi vì Việt Nam khơng ủng hộ IFRS. Năm là, Sự sẵn sàng tiếp nhận IFRS (CHNC 4) Câu hỏi nghiên cứu số 4 (CHNC 4) được thực hiện khá đơn giản, bằng cách so sánh các câu hỏi với nhau và được trình bày trong bảng số 6. Hai phần ba số người khảo sát của cả ba nhĩm cho rằng, họ sẽ xem xét làm theo IFRS nếu như bộ chuẩn mực này được thừa nhận hoặc Việt Nam cĩ yêu cầu (Những cơng ty này từ đây sẽ được gọi là “Cơng ty tự nguyện làm theo IFRS”). Những cơng ty tự nguyện làm theo IFRS được dự đốn chủ yếu là các cơng ty niêm yết hoặc các cơng ty cĩ vốn đầu tư nước ngồi (Vì IFRS được cho là quá phức tạp đối với các DNNVV và chủ yếu yêu cầu áp dụng đối với chi nhánh của các cơng ty đa quốc gia hoặc các cơng ty huy động vốn từ nước ngồi). Như kỳ vọng ban đầu, chỉ một số ít cơng ty tự nguyện làm theo IFRS là cơng ty nhỏ và vừa (chỉ 5%), đa phần là từ các cơng ty cĩ quy mơ trung bình (50%) và từ các cơng ty lớn (45%). Điều ngạc nhiên là trong số các cơng ty tự nguyện làm 63
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam theo IFRS thì đa số là cơng ty tư nhân chiếm 34%, tiếp đến là cơng ty sở hữu Nhà nước chiếm 19%, cơng ty liên kết 8%, cơng ty niêm yết là 15% và cuối cùng là cơng ty cĩ vốn đầu tư nước ngồi 20%. Mặt khác, tỷ lệ người trả lời sẵn sàng tiếp nhận IFRS là khá đồng đều cho cả 3 nhĩm, cụ thể, 66% số người nhĩm kiểm tốn sẵn sàng tiếp nhận IFRS, nhĩm kế tốn là 58% và giới học thuật là 65%. Bảng 6: Sẵn sàng tiếp nhận IFRS tự nguyện? Ý kiến Kiểm tốn Kế tốn Học thuật Tất cả Đồng ý 17% 28% 16% 60% Khơng đồng ý 8% 18% 8% 35% Chưa xác định 1% 3% 1% 5% Tổng 26% 49% 25% 100% Nguồn:Tác giả Kết quả khảo sát cho thấy, ngoại trừ những DN nhỏ thì các DN cĩ quy mơ vừa và lớn ở Việt Nam mặc dù là chủ sở hữu vốn nhưng vẫn sẵn sàng tiếp nhận IFRS. Chẳng hạn như, gần một nửa số người trả lời khảo sát (48%) cho rằng, hiện nay họ phải lập hai hệ thống báo cáo khi làm báo cáo hợp nhất với cơng ty mẹ. Cụ thể, 23% người trả lời cho rằng bên cạnh báo cáo theo VAS thì họ lập thêm một báo cáo điều chỉnh VAS theo IFRS. 15% số người trả lời khác thừa nhận họ đang lập hai báo cáo song song, một theo VAS và báo cáo cịn lại lập theo IFRS. Chỉ 2% số người trà lời tiết lộ họ lập một báo cáo theo VAS và một báo cáo điều chỉnh VAS theo US GAAP và tương tự cũng cĩ 2% số người xác nhận họ lập cả VAS và US GAAP độc lập. Số người cịn lại (10%) thì nhận là họ lập một báo cáo theo VAS và một theo chuẩn mực khác. Từ ý kiến khảo sát những người hành nghề tại Việt Nam (Kiểm tốn viên và Kế tốn) cho thấy, một bộ phận DN Việt Nam mà chủ yếu là DN niêm yết và cĩ vốn đầu tư nước ngồi đã cĩ sự chuẩn bị hoặc thậm chí là sẵn sàng để áp dụng IFRS. Một số ý kiến tiêu biểu của từ cuộc khảo sát như: “Cơng ty của chúng tơi đã áp dụng IFRS được 4 năm” (R368); “Chúng tơi sử dụng cả hai” (R17)hay “Chúng tơi đã áp dụng”(R223). Rất nhiều người tham gia khảo sát bày tỏ sự hào hứng và sẵn sàng lập báo cáo theo IFRS khi chuẩn mực này được thừa nhận tại Việt Nam. Cĩ khoản hai phần ba số người tham gia khảo sát (448 phiếu so với 775) chọn câu trả lời là “Cĩ” khi được hỏi “Liệu Anh/Chị cĩ tự nguyện làm theo IFRS khơng?”, cụ thể, câu trả lời phổ biến của họ là “Cĩ, cơng ty tơi là cơng ty đa quốc gia nên làm theo IFRS sẽ rất tốt cho lập BCTC, vì cĩ thể so sánh BCTC tại Việt Nam với báo cáo của các quốc gia khác trong cùng tập đồn”(R3). Các nghiên cứu cho thấy, các DN cĩ quy mơ lớn hoặc DN nước ngồi thường cĩ xu hướng làm theo IFRS tự nguyện hơn các DN nhỏ hoặc DN tư nhân (Goodwin & Ahmed 2006). Tuy nhiên, nghiên cứu này lại cho kết quả khác. Khác biệt về quy mơ DN và quyền sở hữu khơng phải là yếu tố quyết định DN khơng tự nguyện làm theo IFRS mà lý do chủ yếu khiến DN khơng áp dụng IFRS tự nguyện chính là “Chi phí lớn hơn lợi ích”(R323), “Tốn thời gian”(R250); “Phức tạp và Việt Nam khơng cĩ yêu cầu”(R794), “DN nhỏ”(R888), “Khơng 64
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam yêu cầu khi cĩ huy động vốn bên ngồi”(R294); “Chưa sẵn sàng”(R482) và lý do cuối cùng là “Kinh doanh hộ gia gia đình”(R515). Một số ý kiến cụ thể của người tham gia khảo sát cho thấy tại sao IFRS khơng thể áp dụng tại Việt Nam như sau: “Nếu khơng bắt buộc, chúng tơi sẽ khơng áp dụng bởi vì IFRS phức tạp và khơng phù hợp với phong cách quản lý của hầu hết DN Việt”(R562). “Báo cáo theo IFRS khơng được hầu hết các cơ quan Nhà nước tại Việt Nam thừa nhận (R32). Nhận định của kế tốn viên này, cũng phù hợp với những ý kiến của kiểm tốn viên và giới học thuật, chẳng hạn như “Tốn thời gian và chi phí đào tạo, khơng cĩ lợi nếu DN chỉ hoạt động ở Việt Nam và huy động vốn từ ngân hàng Việt Nam”(R73). Những người tham gia khảo sát đã đưa ra những ý kiến rất xác đáng và nĩ phải được xem xét thận trọng. Hơn nữa, những ý kiến này phần nào phản ánh tâm tư và nguyện vọng của giới hành nghề hiện tại ở Việt Nam. “Triển khai FIRS địi hỏi các cá nhân phải cĩ kiến thức sâu về kế tốn. Tuy nhiên, phần lớn DN Việt cĩ quy mơ nhỏ và vừa, do đĩ mức độ chuyên nghiệp của nhân viên kế tốn trong các DN này chưa đáp ứng yêu cầu của IFRS và họ cũng chưa được đào tạo tốt tại Việt Nam, . IFRS nên áp dụng cho các DN lớn hoặc các DN đa quốc gia. Cịn đối với các DNNVV, họ cần cĩ thời gian để chuyển đổi và nên để họ tự nguyện. Việc bắt buộc áp dụng IFRS đối với DNNVV là khơng cần thiết, làm tốn chi phí và thời gian”(R176). Tĩm lại, kết quả khảo sát phản ánh tâm tư và nguyện vọng của giới hành nghề kế tốn tại Việt Nam. Và đưa ra một tín hiệu cho thấy, IFRS nên được áp dụng tự nguyện tại Việt Nam. DN áp dụng hay khơng áp dụng IFRS dựa trên xem xét các yếu tố như chi phí-lợi ích, quyền sở hữu vốn, quy mơ và các yếu tố khác Sáu là, So sánh nhận định giữa các nhĩm kế tốn Mục đích so sánh là ghi nhận sự khác biệt của các đối tượng trong 3 nhĩm được khảo sát. Kết quả khảo sát cho thấy nhĩm kế tốn DN cĩ quan điểm tích cực nhất về áp dụng IFRS, sau đĩ là học thuật và cuối cùng là kiểm tốn viên. Bảng 7: Tĩm tắt kết quả so sánh của các nhĩm Câu hỏi Tỷ lệ phần trăm mỗi nhĩm nghiên Mơ tả cứu Kiểm tốn Kế tốn Học thuật Bình quân (CHNC) 1 Lạc quan là IFRS mang lại lợi ích 61% 66% 62% 63% 2 Lo lắng về những bất lợi khi tiếp nhận 35% 32% 34% 34% IFRS 3 Lo lắng gặp thách thức phải khi thực 83% 74% 74% 77% thi IFRS 4 Tin rằng IFRS mang lại lợi ích thuần 41% 47% 43% 44% về lâu dài 5 Việt Nam ủng hộ tự nguyện làm theo 65% 57% 64% 60% IFRS Nguồn: tác giả 65
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam Kết quả được mơ tả trong bảng 7 cho thấy, nhĩm kế tốn cĩ suy nghĩ lạc quan hơn về lợi ích của IFRS mang lại so với hai nhĩm cịn lại. Cụ thể, bình quân cĩ 66% người trong nhĩm kế tốn đồng tình với quan điểm này, trong khi nhĩm kiểm tốn chỉ cĩ 62% và nhĩm học thuật là 61% đồng tình. Tương tự, những người làm kế tốn (32%) cũng ít lo lắng hơn so giới kiểm tốn (34%) và học thuật (35%) về những bất lợi của tiếp nhận IFRS. Cịn đối với vấn đề lo lắng những thách thức gặp phải khi tiếp nhận IFRS thì, cả nhĩm kế tốn và học thuật đều cĩ tỷ lệ người đồng tình ngang nhau là 74% trong khi đĩ giới kiểm tốn lại cĩ tỷ lệ đồng tình cao hơn đến 83%. Về lợi ích do IFRS mang lại thì, nhĩm kế tốn (47%) cĩ vẻ lạc quan hơn so với hai nhĩm cịn lại ( 41% cho kiểm tốn và 43 cho khối học thuật. Mặc dù, lo lắng về những trở ngại và thách thức khi tiếp nhận IFRS nhưng phần lớn người tham gia khảo sát (60%) ủng hộ làm theo IFRS tự nguyện ở Việt Nam. Trong đĩ, nhĩm cĩ tỷ lệ ủng hộ cao nhất là kiểm tốn với 65%, tiếp đến là nhĩm học giả với 64% và cuối cùng là nhĩm kế tốn cĩ tỷ lệ thấp nhất chỉ với 57%. 5. Tĩm tắt và kết luận Khảo sát ý kiến rộng rãi 3 nhĩm đối tượng là kế tốn, kiểm tốn và học giả giúp vẽ lên bức tranh tồn diện: Tiếp nhận IFRS tại Việt Nam. Những ý kiến phản hồi từ 3 nhĩm này mang lại những hiểu biết sâu sắc hơn về văn hĩa kế tốn Việt Nam. Với nước đang phát triển như Việt Nam thì, nghiên cứu này cung cấp chứng cứ quan trọng để xây dựng chính sách. Hầu hết, những người tham gia khảo sát đều cho rằng, tiếp nhận IFRS sẽ giúp cho số liệu tài chính tăng thêm tính rõ ràng và cĩ thể so sánh báo cáo với nhau giữa các DN và thậm chí giữa các quốc gia. Người được khảo sát cũng nhận thấy, tiếp nhận IFRS sẽ tạo cơ hội DN Việt và đất nước Việt Nam. Ngồi những lợi ích tiềm tàng IFRS mang lại, những người tham gia khảo sát cũng cân nhắc những bất lợi và ảnh hưởng tiêu cực của IFRS như quá phức tạp, tốn thời gian và ít tồn diện. Bên cạnh đĩ, chi phí phát sinh liên quan đến IFRS là đáng kể vì phần lớn DN Việt cĩ quy mơ nhỏ và vừa. Kết quả khảo sát cịn tiết lộ đào tạo lại nhân viên tài chính để họ thay đổi tư duy từ chỗ xử lý kế tốn theo những quy định cụ thể được ban hành, hướng dẫn từ Bộ Tài chính sang cách tiếp cận hồn tồn khác, đĩ là phải đưa ra các xét đốn nghề nghiệp dựa vào nguyên tắc chung (IFRS). Đây chính là một trong những thách thức lớn nhất. Mặc dù, lập báo cáo theo IFRS được cho là tốn kém thời gian, tiền bạc và cĩ nhiều thách thức nhưng những người tham gia trả lời khảo sát lại lạc quan về lợi ích lâu dài của IFRS mang lại. Chi phí giảm do khơng phải lập báo cáo song đơi được xem là lợi ích lớn. Tuy vẫn cĩ những lo lắng cho các trở ngại và thách thức mà IFRS mang lại nhưng ⅔ người trả lời thừa nhận họ sẵn sàng làm theo IFRS, để cĩ được những lợi ích từ báo cáo theo IFRS, chẳng hạn như tăng niềm tin cho cổ đơng, nhà đầu tư. Vì vậy, dễ dàng tiếp cận thị trường vốn tồn cầu và huy động vốn bên ngồi dễ hơn so với lập báo cáo theo VAS. Tĩm lại, kết quả khảo sát cho thấy, một tín hiệu lạc quan là phần lớn người trong cả 3 nhĩm tham gia thực hiện khảo sát đều thừa nhận IFRS mang lại lợi ích. Bộ phận lo lắng về những bất lợi và thách thức của IFRS chiếm tỷ trọng nhỏ hơn. Từ những kết quả trả lời của các câu hỏi mở trong bảng khảo sát cũng cĩ nhận định tương tự là lợi ích tiềm ẩn của IFRS lớn hơn những bất lợi mà nĩ mang lại. 66
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam Kết quả nghiên cứu khảo sát chỉ ra rằng, tỷ lệ người trong nhĩm kế tốn cĩ quan điểm ủng hộ tiếp nhận IFRS là cao nhất trong cả 3 nhĩm, kế đến là nhĩm học thuật và cuối cùng là nhĩm kiểm tốn. Cụ thể, nhiều nhân viên kế tốn cĩ suy nghĩ lạc quan về lợi ích của IFRS hơn so với số lượng kiểm tốn viên cũng như học thuật. Tương tự, nhĩm kế tốn cũng ít lo lắng đối với những khĩ khăn và thách thức do IFRS mang lại hơn so với hai nhĩm kia. Bên cạnh đĩ, kết quả khảo sát cịn cho thấy, nhĩm kế tốn DN mặc dù ủng hộ IFRS nhưng vẫn dè dặt trong vấn đề: Sẵn sàng tiếp nhận IFRS. Cĩ lẽ, do thực tế nhĩm này đã quen với tư duy xem kế tốn Việt Nam là những quy định bắt buộc, nghĩa là họ luơn luơn hoạch tốn các nghiệp vụ kế tốn theo những hướng dẫn, quy định cụ thể, chi tiết được cung cấp sẵn. Trong khi, IFRS chỉ là nguyên tắc chung và địi hỏi nhiều xét đốn nghề nghiệp của mỗi cá nhân khi xử lý. Cho nên, nhĩm kiểm tốn sẵn sàng cho IFRS hơn vì bản chất cơng việc hiện tại của họ gắn liền với việc đưa ra các xét đốn nghề nghiệp thường xuyên. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là nhĩm học thuật vẫn ủng hộ và sẵn sàng cho tiếp nhận IFRS hơn nhĩm kế tốn. Điều này cĩ lẽ do nhĩm học thuật chuộng kế tốn được hoạch tốn theo nguyên tắc chung hơn theo quy định cụ thể, bởi vì họ cĩ thể giúp sinh viên phát triển khả năng giải quyết vấn đề và tự đưa ra giải pháp mà khơng cần học thuộc mọi quy tắc (Jackling, Howieson & Natoli). Kết quả khảo sát hàm ý một thách thức cho nghành Kế tốn Việt Nam là đảm bảo tồn bộ lực lượng giảng dạy được cập nhật và hiểu sâu sắc đầy đủ IFRS, để cĩ thể truyền tải tốt nhất cho người học. Kết quả của nghiên cứu này, hàm ý nhu cầu xây dựng chương trình đào tạo IFRS, để cung cấp nhân sự am hiểu IFRS cho các DN trên tồn quốc là rất lớn và cấp thiết. Để cĩ thể đảm bảo nhu cầu nhân sự về IFRS cho tồn quốc địi hỏi cần cĩ sự hợp tác và nỗ lực của tất cả các hội nghề nghiệp, cơ quan chuyên mơn, cơ quan quản lý, DN và cơ sở đào tạo. Các Hội nghề nghiệp liên kết với các trường Đại học, để cùng giải quyết nhu cầu đào tạo IFRS khơng những cho người đang hành nghề kế tốn muốn cập nhật IFRS, mà cịn cho cả sinh viên là những kế tốn viên trong tương lai. Nếu Việt Nam tiếp nhận IFRS thì sẽ cĩ sự thay đổi đáng kể trong đào tạo và bồi dưỡng kế tốn. Hầu hết, các trường dạy kinh doanh và các chương trình đào tạo kế tốn đều thiếu giảng viên cĩ bằng cấp và kinh nghiệm IFRS để dạy tốt IFRS. Ngoại trừ những kiểm tốn viên làm việc cho các cơng ty kiểm tốn lớn như Big Four, phần lớn kiểm tốn viên làm việc trong các cơng ty kiểm tốn tư nhân và nội địa chưa từng được đào tạo để kiểm BCTC làm theo IFRS. Để giải quyết tình trạng thiếu đào tạo và bồi dưỡng IFRS cho những người hành nghề kế tốn chuyên nghiệp thành cơng phải nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế (như Big Four, World Bank, The IFAC, The IASB) cũng như cơ quan chính phủ và học giả trên tồn quốc. Kiến nghị các hội nghề nghiệp kết hợp với nhĩm bốn cơng ty kiểm tốn Big Four tập trung vào dịch và chỉnh sửa chương trình đào tạo hiện hành của Ủy Ban Giáo Dục của Liên Đồn Kế tốn Quốc tế (IFAC) để thiết lập một chường trình đào tạo IFRS chất lượng cao, phục vụ nhu cầu đào tạo IFRS riêng biệt tại Việt Nam. Khi nhận được sự ủng hộ thích đáng từ trong nước cũng như quốc tế, Big Four và các hội nghề nghiệp nên cung cấp các chương trình đào tạo cho kế tốn, nhân viên tài chính và quản lý của tất cả DN khơng kể quy mơ, ngành nghề, cũng như cĩ niêm yết hay khơng. Hạn chế của nghiên cứu này là trong quá trình khảo sát chỉ sử dụng duy nhất 1 bảng câu hỏi cho cả 3 nhĩm khảo sát. Tất cả những người tham gia khảo sát trả lời 1 bảng câu hỏi tại cùng một mốc thời gian và cỡ mẫu khảo sát khơng đại diện cho tổng thể. Do đĩ, để khắc 67
- n trÞ - Kinh nghiƯm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViƯt Nam phục những hạn chế này trong tương lai cĩ thể thức hiện các nghiên cứu tiếp theo như nghiên cứu cách IFRS được nhận thức và sử dụng bởi nhà đầu tư, mơ giới tài chính, bên cho vay và cơ quan quản lý. Kết hợp hài hịa hai phương pháp định tính và định lượng mang lại những hiểu biết liên quan đến IFRS tốt hơn cho các nền kinh tế như Việt Nam. Tài liệu tham khảo Ahmed, AS, Neel, M & Wang, D 2013. Does Mandatory Adoption of IFRS Improve Accounting Quality? Preliminary Evidence. Contemporary Accounting Research, vol. 30, no. 4, pp. 1344–1372. Al-Akra, M, Eddie, IA & Ali, MJ 2010. The influence of the introduction of accounting disclosure regulation on mandatory disclosure compliance: Evidence from Jordan. The British Accounting Review, vol. 42, no. 3, pp. 170-186. Beuselinck, C, Joos, P, Khurana, I & Van der Meulen, S 2009. Mandatory IFRS Reporting and Stock Price Informativeness. SSRN eLibrary. Braun, GP, Haynes, CM, Lewis, TD & Taylor, MH 2015. Principles-based versus rules-based accounting standards: the effects of auditee proposed accounting treatment and regulatory enforcement on auditor judgement and confidence. Research in Accounting Regulation. Brochet, F, Jagolinzer, AD & Riedl, EJ 2013. Mandatory IFRS Adoption and Financial Statement Comparability. Contemporary Accounting Research, vol. 30, no. 4, pp. 1373–1400. Brüggemann, U, Hitz, J-M & Sellhorn, T 2013. Intended and Unintended Consequences of Mandatory IFRS Adoption: A Review of Extant Evidence and Suggestions for Future Research. European Accounting Review, vol. 22, no. 1, 05 Jan 2013, pp. 1-37. Chen, CJ, Ding, Y & Xu, B 2010. Convergence of Accounting Standards and Foreign Direct Investment. Finance and Corporate Governance Conference 2011 Paper. Daske, H & Gebhardt, G 2006. International Financial Reporting Standards and Experts’ Perceptions of Disclosure Quality. Abacus, vol. 42, no.3. Daske, H, Hail, L, Leuz, C & Verdi, R 2008. Mandatory IFRS Reporting around the World: Early Evidence on the Economic Consequences. Journal of Accounting Research, vol. 46, no. 5, pp. 1085-1142. Daske, H, Hail, L, Leuz, C & Verdi, R 2013. Adopting a Label: Heterogeneity in the Economic Consequences Around IAS/IFRS Adoptions. Journal of Accounting Research, vol. 51, no. 3, pp. 495-547. DeFond, M, Hu, X, Hung, M & Li, S 2011. The impact of mandatory IFRS adoption on foreign mutual fund ownership: The role of comparability. Journal of Accounting and Economics, vol. 51, no. 3, pp. 240-258. Hail, L, Leuz, C & Wysocki, P 2010b. Global Accounting Convergence and the Potential Adoption of IFRS by the U.S. (Part II): Political Factors and Future Scenarios for U.S. Accounting Standards. Accounting Horizons, vol. 24, no. 4, pp. 567-588. Joos, Philip PM & Leung, E 2013. Investor perception of potential IFRS adoption in the United States. The Accounting Review. Vol. 88, no. 2, pp.577-609. Kilic, M, Uyar, A & Ataman, B 2014. Preparedness for and perception of IFRS for SME: evidence from Turkey. Accounting and Management Information Systems. Vol. 13, no. 3, pp. 492-519. Lee, E, Walker, M & Christensen, H 2008. Mandating IFRS: its Impact on the Cost of Equity Capital in Europe. ACCA Research Report, vol. 105. Peng, S & van der Laan Smith, J 2010. Chinese GAAP and IFRS: An analysis of the convergence process. Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, vol. 19, no. 1, pp. 16-34. Pham, HH 2012. A Comparative Study of Vietnamese and International Accounting Standards, PhD Thesis. School of Accounting, Curtin University, Curtin University, pp. 217. Poudel, G, Hellman, A & Perera, H 2014. The adoption of International Financial Reporting Standards (IFRS) in a non-colonized country: the case of Nepal. Advances in Accounting, incorporating Advances in International Accounting. Vol. 30, pp.209-216. Sacarin, M, Bunea, S & Girbina MM 2013. Perceptions of accounting professionals on IFRS application at the individual financial statement: Evidence from Romania. Accounting and Management Information Systems. Vol. 12, no. 3, pp.405-423. Yapa, PWS, Krial, D & Joshi, M 2015. The adoption of ‘International Accounting Standard (IAS) 12 Income Taxes’: Convergence or divergence with local accounting standards in selected ASEAN countries? Australasian Accounting, Business and Finance Journal, vol. 9, no. 1 (7), 2015. 68