TPP với sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam

pdf 13 trang Gia Huy 24/05/2022 3050
Bạn đang xem tài liệu "TPP với sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftpp_voi_su_phat_trien_cua_nganh_ngan_hang_viet_nam.pdf

Nội dung text: TPP với sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam

  1. TPP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Diệu Chi1 Tóm tắt Tham gia TPP là một trong những cơ hội quan trọng góp phần phát triển ngành ngân hàng của nhiều quốc gia thành viên. Đối với Việt Nam, TPP được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, góp phần tạo những bước đột phá trong thời kỳ hội nhập mới. Ngành ngân hàng cần nắm bắt những cơ hội này một cách nhanh chóng, kịp thời để biến cơ hội TPP thành hiệu quả thiết thực. Bài viết đề cập tới thực trạng ngành ngân hàng Việt Nam, những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh gia nhập TPP. Từ đó, bài viết đề xuất một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam khi gia nhập TPP và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ khóa: Hiệp định TPP, ngành ngân hàng 1. Khái quát về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương Khi tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam có cơ hội tiếp cận nguồn thị trường chung rộng lớn với gần 800 triệu người tiêu dùng và 40% GDP toàn cầu (Bộ Tài chính, 2015). Đây được coi là cơ hội lớn cho nhiều ngành kinh tế của Việt Nam, trong đó có ngành ngân hàng. Tuy nhiên, cùng với cơ hội đó, TPP cũng đặt ngành ngân hàng Việt Nam đối mặt với rất nhiều thách thức khi có sự tham gia của những định chế tài chính hùng mạnh trên thế giới cùng gia nhập thị trường. Cơ hội song hành cùng thách thức đã, đang và sẽ tạo ra một “cuộc chiến” thực sự buộc ngành ngân hàng Việt Nam phải nâng cao sức mạnh nội lực, tăng khả năng cạnh tranh để có thể đứng vững trên thị trường. TPP, viết tắt của từ Trans-Pacific Partnership Agreement (Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương), là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Việt Nam, Mỹ và Nhật Bản. Hiện nay, một số quốc gia như 1 Trường Đại học Kinh Tế Quốc dân. Email: ndchi226@gmail.com 343
  2. Hàn Quốc, Colombia, Costa Rica, Indonesia, Đài Loan, Thái Lan, và nhiều nước khác cũng đang có ý định tham gia vào TPP. Ban đầu, TPP xuất phát từ một thỏa thuận giữa Singapore, Chile, New Zealand và Brunei vào năm 2009, trước khi Hoa Kỳ quyết định tham gia và dẫn đầu. Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. TPP hướng tới thực hiện thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các quốc gia, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay các vấn đề liên quan tới an toàn lao động TPP được xem là sẽ góp phần làm thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia thành viên thông qua việc sử dụng các biện pháp giảm (thậm chí là loại bỏ hoàn toàn trong một số trường hợp) các hàng rào thuế quan giữa các nước, giúp tăng cường trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Cùng với tăng cường dòng chảy vốn, TPP cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nhóm 12 thành viên. Hiện nay, các quốc gia thành viên của TPP tạo ra khoảng 40% GDP của cả thế giới và 26% lượng giao dịch hàng hóa toàn cầu (VCCI, 2015). Tham vọng của Hoa Kỳ là đưa TPP thành điểm chốt mới của mình tại khu vực châu Á sau nhiều năm Mỹ đã tham gia quá sâu vào khu vực Trung Đông. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ cũng mong muốn sử dụng TPP để tạo nên một nền kinh tế hợp nhất trong khu vực có thể làm đối trọng với sự phát triển quá nhanh của Trung Quốc. Quá trình đàm phán TPP là một quá trình dài với rất nhiều cuộc họp ở nhiều cấp khác nhau. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán thực sự chỉ bắt đầu từ năm 2010 và được thống nhất vào năm 2012. Từ năm 2010 đến 2013, tổng cộng đã có 19 vòng đàm phán chính thức diễn ra (VCCI, 2015). Trong đó có vòng đàm phán thứ 7 được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh trong các ngày từ 15 đến 24/6/2011. Trong 2 năm gần đây là 2014 và 2015, tiếp tục có nhiều cuộc đàm phán cấp Bộ trưởng và cấp trưởng đoàn đàm phán diễn ra tại nhiều quốc gia. TPP bao gồm nhiều vấn đề không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả trong các lĩnh vực môi trường, sở hữu trí tuệ Do đó bất đồng là điều không thể tránh khỏi. Trước khi bước vào đợt họp ở Atlanta, những vấn đề mấu chốt nhất còn vướng mắc trong quá trình đàm phán bao gồm thời gian bảo hộ độc quyền đối với thuốc sinh học, cơ chế tiếp cận thị trường bơ sữa và linh kiện ô tô. Ngoài ra, TPP còn tác động đến nhiều khía cạnh khác. Thỏa thuận này yêu cầu các quốc gia thực hiện luật lao động và môi trường chặt chẽ hơn, củng cố rào chắn pháp lý cho các công ty dược, kéo dài thời kỳ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Hay nói cách khác, những thỏa thuận thương mại hiện đại như TPP bao hàm rất nhiều vấn đề bên ngoài phạm trù thương mại. 344
  3. Bên cạnh đó, TPP cũng đang gây nhiều tranh cãi bởi các cuộc đàm phán được thực hiện bí mật. Các nhóm lợi ích dường như đang kết nối với nhau với mong muốn tiếp cận với lượng thông tin nhiều hơn và có nhiều cơ hội gây ảnh hưởng hơn lên quá trình đàm phán. Mặc dù phản đối TPP, các tổ chức công đoàn ở Mỹ lại coi TPP là một cơ hội để buộc các đối tác thương mại của Mỹ cung cấp nhiều quyền lợi hơn cho người lao động. Họ cho rằng tự do hóa thương mại nếu không đi kèm với các tiêu chuẩn khắt khe về quyền của người lao động sẽ khiến người lao động Mỹ mất đi lợi thế cạnh tranh. Sau 5 năm đàm phán, nhiều thời điểm tưởng như bế tắc, 12 nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương cuối cùng đã đạt thỏa thuận về hiệp định thương mại lớn nhất thế giới tại vòng đàm phán vừa kết thúc ở thành phố Atlanta, bang Georgia, Mỹ. TPP được kỳ vọng chính là con đường để mở ra tương lai tăng trưởng mạnh mẽ cho các quốc gia thành viên. 2. Ngành tài chính ngân hàng Việt Nam trong hội nhập TPP Hiệp định TPP là một Hiệp định theo mô hình FTA thế hệ mới không chỉ tập trung vào tự do hóa đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa mà còn mở rộng đối với lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, trong đó có các ngành dịch vụ tài chính ngân hàng. Các nước TPP phải cam kết tuân thủ các nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ theo cách tiếp cận, chọn bỏ, hay loại trừ những lĩnh vực được đưa vào danh mục bảo lưu có chọn lọc. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm cam kết đối với dịch vụ chứng khoán, bảo hiểm và đầu tư. Các cam kết thuộc chương dịch vụ tài chính của Hiệp định TPP tạo ra 3 thành tố cơ bản hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng ở Việt Nam gồm: (i) Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm đảm bảo đầy đủ lợi ích của các nhà đầu tư; (iii) Đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định (Bộ Tài chính, 2015). Một là, cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa. So với cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa bổ sung đối với một số loại hình dịch vụ mới nhằm tạo cơ hội tiếp cận thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như: (i) mở cửa dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; (ii) dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch 345
  4. vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng; (iii) mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới. Hai là, cam kết về cơ chế bảo hộ với nhà đầu tư nước ngoài. Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng kết hợp với nghĩa vụ bảo hộ đầu tư thông qua việc bổ sung các nghĩa vụ cam kết liên quan đến bảo hộ đầu tư như cơ chế giải quyết tranh chấp, nguyên tắc đối xử tối thiểu MST. Trong đó, cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định chi tiết theo các cấp độ: nhà nước với nhà nước và nhà đầu tư với nhà nước, đặc biệt cơ chế nhà đầu tư với nhà nước cho phép đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Quy trình giải quyết tranh chấp được quy định rõ ràng, cụ thể đảm bảo tính minh bạch và có hiệu quả. Ba là, cam kết về đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng cho các nước. TPP cho phép các nước áp dụng các ngoại lệ cần thiết, tạo ra không gian chính sách gồm các biện pháp thận trọng, các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định, an toàn. TPP cũng ràng buộc nghĩa vụ các nước thành viên phải tuân thủ nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” trong việc điều hành chính sách đối với các ngành dịch vụ, theo đó nếu Việt Nam điều chỉnh, sửa đổi quy định pháp luật trong nước theo hướng tự do hóa hơn, thông thoáng hơn so với mức cam kết ban đầu thì sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc, không ban hành chính sách quay trở lại mức cam kết ban đầu. Các nước TPP phải đảm bảo thực hiện các quy trình thủ tục cấp phép nhanh chóng và thuận tiện, tuân thủ thời gian phê duyệt hồ sơ cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài không quá 120 ngày. Tuy nhiên, do các thành viên trong TPP có trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau, cũng như mối quan tâm tới các vấn đề cũng khác nhau, nên về cơ bản đàm phán dịch vụ tài chính - ngân hàng vẫn còn một số vấn đề chưa đạt được sự thống nhất gồm: (1) Vấn đề đưa mua sắm chính phủ và trợ cấp chính phủ vào chương dịch vụ tài chính; (2) Cơ chế ràng buộc các nước thành viên khi tiến hành sửa đổi các biện pháp bảo lưu thì việc sửa đổi và mức độ sửa đổi sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc mức độ tự do hóa thị trường của nước đó, (3) Nghĩa vụ cấp phép dịch vụ tài chính mới cho bất kỳ nước thành viên TPP nào không gắn với việc sửa đổi luật trong nước, và (4) Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước sở tại. Tuy nhiên, với những cam kết đã có trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán được kỳ vọng sẽ tạo 346
  5. điều kiện thuận lợi, thúc đẩy các cơ hội đầu tư, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Thực trạng ngành ngân hàng Việt Nam Trong vài năm trở lại đây, ngành ngân hàng đã triển khai đồng bộ các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD). Đặc biệt, năm 2015 là năm bản lề, nền kinh tế cộng hưởng bởi nhiều khó khăn và thách thức, song ngành ngân hàng vẫn đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả. Trong 2 năm qua, 2014 và 2015, ngành ngân hàng đã khẳng định vị thế là đầu tàu vốn của nền kinh tế khi luôn đảm bảo sẵn sàng đáp ứng các nhu vốn cho cả nền kinh tế. Lượng tiền cung ứng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành phù hợp theo mục tiêu hỗ trợ ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối, kiểm soát lạm phát nhưng vẫn đảm bảo hài hòa với các mục tiêu giảm lãi suất, tăng tín dụng hợp lý, hỗ trợ các TCTD đầu tư trái phiếu chính phủ và xử lý nợ xấu. Tổng phương tiện thanh toán đến cuối năm 2015 tăng 13,55% so với năm 2014, phù hợp với các yếu tố kinh tế vĩ mô, tiền tệ và các giải pháp điều hành của NHNN. Theo đó, mặt bằng lãi suất giảm nhưng huy động vốn vẫn tăng đã tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Trong năm 2015, NHNN duy trì ổn định lãi suất điều hành, trần lãi suất huy động bằng VND, kết hợp với điều chỉnh giảm trần lãi suất USD, đảm bảo duy trì chênh lệch hợp lý giữa lãi suất VND và lãi suất USD. Để tạo điều kiện giảm lãi suất, NHNN tiếp tục giữ ổn định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND. Các TCTD trên cơ sở nhu cầu vốn của thị trường cân đối điều chỉnh giảm lãi suất cho vay so với trần quy định điều tiết thanh khoản của các TCTD hợp lý để tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay một số chương trình tín dụng ngành, lĩnh vực xuống mức khoảng 6,5 - 6,6%/năm, đồng thời NHNN cũng yêu cầu các TCTD rà soát giảm lãi suất cho vay của các khoản vay cũ về mức lãi suất cho vay hiện hành. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 0,3 - 0,5%/năm so với cuối năm 2014. Tỷ giá hối đoái được duy trì ổn định, giảm đáng kể mức chênh lệch giữa tỷ giá thị trường chính thức và tỷ giá thị trường chợ đen. Chính sách điều hành tỷ giá theo tỷ giá trung tâm thay vì tỷ giá thị trường liên ngân hàng được xem là điểm sáng trong việc giữ vững ổn định thị trường ngoại hối của NHNN. Sự chênh lệch tỷ giá giữa thị 347
  6. trường chợ đen và thị trường chính thức dần được thu hẹp. Nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân được đáp ứng do các nguồn ngoại tệ được tập trung vào các TCTD. Với chính sách chống Đô la hóa của NHNN trong việc giảm lãi suất tiền gửi đô la Mỹ về mức 0% đối với các tổ chức và cá nhân, đã góp phần thay đổi thói quen và tâm lý nắm giữ đồng Đô la Mỹ của người dân Việt Nam. Qua đó, vị thế của VND được đảm bảo, niềm tin của giới đầu tư nước ngoài cũng như trong nước tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, ngay từ đầu mỗi năm, NHNN cũng chủ động công bố về mục tiêu điều hành tỷ giá trong năm để định hướng thị trường, thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ trên thị trường. Từ quý IV/2011, để kiểm soát kỳ vọng, góp phần ổn định tỷ giá, NHNN thường xuyên chủ động đưa ra các cam kết về việc duy trì ổn định tỷ giá trong từng thời kỳ với mức biến động 1% giai đoạn cuối năm 2011 và 1 - 2%/năm cho các năm từ 2012 - 2015. Tuy có giai đoạn thị trường đã diễn ra những biến động, nhưng những biến động đó đã được NHNN dự báo và vẫn nằm trong kế hoạch và chủ động đề ra ngay từ đầu năm 2013, đó là ổn định tỷ giá trong biên độ tăng không quá 2 - 3%. Vào tháng 8/2015, NHNN cũng đã chủ động thay đổi cách thức điều hành tỷ giá với cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm. Theo đó, tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hằng ngày, có điều chỉnh tăng, giảm và giá niêm yết của các TCTD vẫn theo biên độ dao động +/-3%. Tỷ giá trung tâm do NHNN công bố hằng ngày được điều chỉnh tăng giảm dựa trên 3 cơ số tham chiếu, đó là: diễn biến tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; diễn biến đồng tiền của các nước có quan hệ thương mại và đầu tư lớn đối với Việt Nam; các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ. Với những thay đổi cách thức điều hành tỷ giá này đã thể hiện bước đi rất chủ động, nắm bắt thực tiễn thị trường để thực hiện chủ trương xuyên suốt của NHNN là ổn định thị trường ngoại tệ, nâng cao vị thế của VND, giảm tình trạng đô la hóa theo hướng chuyển dần quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ. Tính đến cuối năm 2015, tín dụng tăng 17,29%, cao hơn mức tăng của cùng kỳ giai đoạn 2011 đến 2014. Dòng vốn tín dụng tiếp tục được phân bổ hợp lý, hướng tới các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các ngành, lĩnh vực ưu tiên của chính phủ 348
  7. (cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đến tháng 12/2015 tăng 11% ). 349
  8. Biểu đồ 1. Tình hình tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015 60.00% 50.00% 51.39% 40.00% 37.73% 30.00% 30% 29.80% 14.16% 20.00% 19.20% 8.91% 10.00% 17.29% 9.89% 12.51% 0.00% 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Nguồn: Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Mức độ thanh khoản VND của hệ thống các TCTD tiếp tục được đảm bảo và bắt đầu có dư thừa, sẵn sàng đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thị trường tiền tệ ổn định, thông suốt nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp cung ứng tiền, phối hợp công cụ hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, các TCTD tăng cường xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tài sản, chú trọng hơn trong quản trị rủi ro thanh khoản, đảm bảo an toàn hệ thống Thị trường vàng tự điều tiết theo quy luật cung cầu, NHNN không phải sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vàng can thiệp, bình ổn thị trường vàng miếng, tình trạng vàng hóa tiếp tục được ngăn chặn, góp phần ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối và ổn định kinh tế vĩ mô. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tín dụng của phần đông các TCTD đều giảm rõ rệt trong năm 2015 và kỳ vọng tiếp tục giảm trong năm 2016. Tính đến cuối năm 2015, trên 90% TCTD đã hoàn thành mục tiêu đưa nợ xấu về mức dưới 3%, chỉ có một vài TCTD thuộc nhóm các công ty tài chính và cho thuê tài chính nhận định tỷ lệ nợ xấu của đơn vị mình còn ở mức trên 3%. 350
  9. Biểu đồ 2. Tình hình nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2005 - 2015 140 4.50% 4.08% 4.00% 120 3.61% 3.53% 3.50% 100 3.23% 3.25% 3.10% 3.00% 2.60% 80 2.52% 2.50%2.50% 2.05% 60 1.97% 2.00% 1.50% 40 1.00% 20 0.50% 0 0.00% 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Quy mô nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Nguồn: Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt Đến 31/12/2015, VAMC đã mua được 107 nghìn tỷ đồng, giá trị trái phiếu 99.180 nghìn tỷ đồng. Lũy kế từ năm 2013 đến hết năm 2015, tổng nợ xấu VAMC đã mua là 245 nghìn tỷ đồng, dư nợ gốc với số trái phiếu phát hành là 207 nghìn tỷ đồng góp phần đưa tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2015 chỉ còn hơn 2,5%. Bên cạnh đó, đến cuối năm 2015, VAMC đã phát mại tài sản đảm bảo, thu hồi nợ đạt 17.780 nghìn tỷ đồng. Kết quả từ tháng 10/2013 đến hết năm 2015, tổng số nợ thu hồi, xử lý đạt 22.780 nghìn tỷ đồng, đã xử lý được hơn 9% tính trên nợ gốc, còn tính trên trái phiếu đặc biệt đạt trên 10%. Như vậy, trong 2 năm trở lại đây, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, NHNN đã thể hiện sự chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ và phù hợp với sự thay đổi lớn của tình hình thực tế. Những kết quả đạt được cho thấy những nỗ lực của NHNN cũng như toàn bộ nền kinh tế trong quá trình cải tổ hệ thống tài chính góp phần xây dựng một nền tài chính ngân hàng phát triển ổn định và bền vững. 4. Cơ hội và thách thức của ngành ngân hàng Việt Nam trong hội nhập TPP 4.1. Cơ hội Một là, hội nhập TPP góp phần nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên thị trường tài chính khu vực và thế giới. Bởi khi Việt Nam tham gia vào TPP, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ buộc phải thực hiện các cam kết điều hành và thực thi các chính sách tiền tệ minh bạch hơn, thực hiện đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá theo cơ chế thị trường, phù hợp với các thông lệ quốc tế. 351
  10. Hai là, hội nhập TPP là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Thông qua việc cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, buộc loại bỏ dần các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính của Nhà nước cho các NHTM trong nước. Nhờ đó, các NHTM trong nước sẽ phải tự vận động, nâng cao năng lực hoạt động của mình bởi không còn sự hỗ trợ của NHTW và Chính phủ, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các TCTD trong nước. Ba là, tham gia vào TPP có nghĩa là mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, là cơ sở thu hút các dòng vốn đầu tư tài chính, công nghệ và kỹ năng quản trị điều hành hiện đại của thế giới vào lĩnh vực tài chính ngân hàng. Việc gia nhập TPP tạo cơ hội cho các NHTM trong nước có điều kiện tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. Vì thế, các ngân hàng sẽ tăng cường hợp tác để chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến và thực hiện khai thác thị trường hiệu quả hơn. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các ngân hàng trong nước cũng tạo cơ hội phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, thông qua hội nhập sâu rộng vào quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng và các loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Việc quan tâm đến tiến trình TPP của ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam là cần thiết vì đây vẫn là cơ hội rất lớn để hệ thống ngân hàng Việt Nam thoát khỏi tình trạng yếu kém hiện nay và phát triển ổn định, bền vững trong kỷ nguyên hội nhập mới. 4.2. Thách thức Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập TPP nói riêng bên cạnh những cơ hội, cũng đặt ra không ít những thách thức về cạnh tranh, đảm bảo an ninh và sự ổn định của nền tài chính tiền tệ Việt Nam. 352
  11. Một là, sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa khối ngân hàng ngoại và ngân hàng nội. Tham gia vào TPP là bước ngoặt yêu cầu Việt Nam và các nước tham gia phải cho phép các tập đoàn tài chính nước ngoài bán dịch vụ của mình sang thị trường các quốc gia thành viên khác mà không cần phải thành lập chi nhánh nếu các công ty trong nước tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Điều này đồng nghĩa với việc không cần phải có thủ tục cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập ngân hàng con (100% vốn nước ngoài). Với các cam kết ký trong TPP, thị trường Việt Nam sẽ có nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng hơn từ các ngân hàng nước ngoài trên thị trường trong nước, đem lại nhiều cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng trong nước hơn. Nhưng chính điều này sẽ buộc các ngân hàng thương mại nội địa khi không còn mức bảo hộ cao như trước phải cạnh tranh khốc liệt hơn không chỉ ở thị trường trong nước mà cả trên phạm vi thị trường khu vực và quốc tế. Hai là, hệ thống ngân hàng Việt Nam trước áp lực tăng vốn và năng lực tài chính Thế mạnh vượt trội của ngân hàng ngoại bên cạnh sự đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ còn là tiềm lực tài chính hùng mạnh. Khi gia nhập TPP, Việt Nam phải tuân thủ các thỏa thuận về nâng các tiêu chuẩn hoạt động đối với hệ thống ngân hàng, trong đó đề cập tới khả năng và năng lực tài chính của tổ chức. Để đạt được các tiêu chuẩn của hội nhập, các NHTM phải nâng vốn điều lệ, tăng cường đầu tư xây dựng trụ sở, đầu tư cho công nghệ, mở rộng mạng lưới hoạt động và tăng năng lực tài chính nhằm nâng cao cạnh tranh và đảm bảo các hệ số an toàn vốn (hệ số CAR), đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng hợp lý. Ba là, thách thức nữa đặt ra đối với các ngân hàng Việt Nam là vấn đề quản trị rủi ro. Trong khi nhiều ngân hàng thuộc các nước thành viên TPP đang ở giai đoạn cuối của việc áp dụng hệ thống quản trị rủi ro theo Basel II (Hiệp ước do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng thiết lập) và tiệm cận dần với Basel III thì phải đến năm 2018, 10 ngân hàng thương mại Việt Nam mới hoàn thành thí điểm thực hiện Basel II. Điều này đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam phải nỗ lực nâng cấp chuẩn mực quản trị, hướng đến thông lệ quốc tế tốt hơn để đủ năng lực, tự tin tham gia vào “sân chơi” TPP, hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và quốc tế. Bốn là, nguy cơ các ngân hàng nội địa bị thâu tóm bởi các định chế tài chính 353
  12. nước ngoài tăng cao. Việc nới tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của khối ngoại trong các tổ chức tài chính nội địa bên cạnh việc giúp các ngân hàng nội địa có thể dễ dàng tiếp nhận luồng vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, đây lại là sức ép bị thâu tóm và chi phối cũng tăng cao. Viễn cảnh các doanh nghiệp niêm yết trong lĩnh vực sản xuất - thương mại đã từng bị nhà đầu tư nước ngoài chi phối, thao túng có thể lặp lại đối với lĩnh vực ngân hàng. Và điều này càng có thể xảy ra khi vẫn chưa đưa ra được bài toán giải quyết rõ ràng cho vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng Việt Nam. 5. Đề xuất đẩy mạnh quá trình hội nhập TPP của ngành ngân hàng Việt Nam Một là, Việt Nam cần xây dựng các tổ chức tài chính ngân hàng đủ khả năng cạnh tranh với các tổ chức tài chính quốc tế. Để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng khi mở cửa hội nhập tài chính theo lộ trình cam kết trong các hiệp định thương mại, Việt Nam cần có những tổ chức tài chính ngân hàng đủ khả năng cạnh tranh thông qua việc loại bỏ các tổ chức tài chính yếu kém bằng việc tái cơ cấu, mua bán, sáp nhập. Trên cơ sở đó, thực hiện công tác cải thiện chất lượng các tổ chức tài chính theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện hơn nữa để các tổ chức tài chính nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện thực hiện nhiều thương vụ sáp nhập với tổ chức tài chính nội địa. Hai là, các cơ quan bộ ngành, chức năng quản lý, cần xây dựng chiến lược phát triển hệ thống tài chính Việt Nam cân đối hơn với cấu trúc thị trường tài chính. Trong đó, cần chú trọng xây dựng một thị trường vốn đủ mạnh, đóng vai trò quan trọng trong quá trình huy động và cung cấp nguồn vốn cho doanh nghiệp, từ đó giảm bớt áp lực lên hệ thống ngân hàng. Kiên định với mục tiêu đảm bảo ổn định vĩ mô và an toàn tài chính. Điều này đòi hỏi sự tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin giữa cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan giám sát cũng như giữa các cơ quan quản lý điều hành. Ba là, các cơ quan bộ ngành chức năng cần tăng cường phối hợp và chia sẻ thông tin giữa cơ quan hoạch định và giám sát tài chính giữa các nước trong khu vực nhằm củng cố giám sát tài chính quốc tế. Kiện toàn cơ sở hạ tầng tài chính, tăng cường tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin trên thị trường, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh các chuẩn mực an toàn tài chính quốc tế phù hợp với thực tiễn phát triển và lộ trình hội nhập tài chính khu vực và thế giới. Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một yêu cầu cấp thiết. Trong bất kỳ hoạt động gì, yếu tố con người luôn đóng vai trò quan trọng quyết định sự 354
  13. thành công của các chiến lược hoạt động, do vậy xây dựng một đội ngũ cán bộ đủ tài, đủ đức mới có thể nắm bắt và sẵn sàng tiếp cận được công nghệ ngân hàng tiên tiến, hiện đại, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong việc đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả. Năm là, cần có lộ trình phát triển đảm bảo sự an toàn cho hệ thống tài chính ngân hàng. Hội nhập kinh tế quốc tế cần được thực hiện một cách chủ động, tích cực, thận trọng, có lộ trình đảm bảo cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, bền vững và đáp ứng tốt nhất nhu cầu sản phẩm, dịch vụ tài chính cho khách hàng trong nước và quốc tế. Việt Nam hiện là nước có quan hệ hội nhập sâu rộng với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Chúng ta đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do với nhiều nước lớn như Hàn Quốc, EU, Liên minh kinh tế Á - Âu, Cộng đồng Kinh tế ASEAN - AEC, khối mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) Do vậy, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và TPP nói riêng sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam cũng như thị trường tài chính. Để tận dụng được cơ hội và ứng phó với những thách thức, Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới cách thức hành động và hướng tới xây dựng một nền tài chính phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Tài chính (2015), Thông cáo báo chí về tài liệu họp báo cam kết TPP trong lĩnh vực tài chính, tháng 11/ 2015. 2. Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập kinh tế quốc tế (2015), Hội nhập kinh tế quốc tế: Phải biết định lượng về cơ hội và thách thức, truy cập ngày 15/01/2016 từ . 3. Báo Nhân dân Điện tử (2015), TPP: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, truy cập ngày 15/01/2016 từ mobile_hoinhap/item/27675702.html > 4. Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (2016), Báo cáo triển vọng ngành ngân hàng 2016, truy cập ngày 21/04/2016 . 355