Triển khai bảo hiểm xã hội đa tầng hướng tới mục tiêu an sinh xã hội bền vững ở Việt Nam

pdf 18 trang Gia Huy 23/05/2022 3660
Bạn đang xem tài liệu "Triển khai bảo hiểm xã hội đa tầng hướng tới mục tiêu an sinh xã hội bền vững ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftrien_khai_bao_hiem_xa_hoi_da_tang_huong_toi_muc_tieu_an_sin.pdf

Nội dung text: Triển khai bảo hiểm xã hội đa tầng hướng tới mục tiêu an sinh xã hội bền vững ở Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRIỂN KHAI BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐA TẦNG HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU AN SINH XÃ HỘI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM ThS. Nguyễn Xuân Tiệp Khoa Bảo hiểm, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Đoàn Thị Phương Luyến - Dương Thị Lan - Hoàng Linh Chi - Nguyễn Thu Huyền Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt: Phát triển BHXH đa tầng nhằm đáp ứng đa dạng nhu cầu tham gia của NLĐ và gia tăng mức lương hưu cho người cao tuổi, góp phần đảm bảo an sinh xã hội bền vững đã trở thành xu thế chung trên thế giới. Mức sống của người dân Việt Nam đang được cải thiện nhanh chóng; khoa học và công nghệ đang được ứng dụng mạnh mẽ vào hiện đại hóa hệ thống BHXH. Ngoài ra, Việt Nam hiện đang bước vào giai đoạn chuyển dịch cơ cấu dân số nhanh chóng, và thuộc nhóm nhanh nhất trên thế giới. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh triển khai hệ thống BHXH đa tầng đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hơn bao giờ hết. Từ khóa: BHXH, BHXH đa tầng, ASXH bền vững 1. GIỚI THIỆU 1.1. Lý do lựa chọn đề tài Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định đời sống nhân dân và phát triển bền vững đất nước. Cải cách, hoàn thiện và phát triển chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài hướng tới mọi người dân đều được đảm bảo ít nhất là mức sống tối thiểu. Nghị quyết số 28-NQ/TW năm 2018 về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội đã khẳng định quan điểm: “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững ”. Nổi bật trong những nội dung đổi mới đó là việc đẩy mạnh triển khai hệ thống BHXH đa tầng 225
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA đã đem lại nhiều kết quả lạc quan. Tuy nhiên, việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đa tầng đang trong giai đoạn đầu, vẫn còn một vài hạn chế. Việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn ở mức tiềm năng, đặc biệt là độ bao phủ bảo hiểm xã hội tăng không đồng đều và ở mức thấp; chế độ trợ cấp hưu trí cho người cao tuổi không có lương hưu hoặc BHXH hàng tháng chưa đạt được kết quả nổi bật Vì vậy, để chính sách BHXH đa tầng được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả thì việc lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “Triển khai BHXH đa tầng hướng tới mục tiêu ASXH bền vững” có ý nghĩa thực tiễn và lý luận sâu sắc trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài nhằm mục đích: - Khái quát về nền ASXH bền vững, chính sách BHXH đa tầng và mối liên hệ giữa chúng. - Đánh giá thực trạng phát triển BHXH đa tầng và mức độ hiểu biết của người dân về BHXH đa tầng tại Việt Nam. - Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy, mở rộng BHXH đa tầng hướng tới mục tiêu ASXH bền vững. 1.3. Tổng quan nghiên cứu Công tác tổ chức, thực hiện BHXH đa tầng là vấn đề lớn trong chính sách đảm bảo an sinh xã hội bền vững, được Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng và quan tâm. Trong những năm gần đây, có khá nhiều nhà nghiên cứu liên quan đến đề tài này. Cụ thể: Tổng quan các công trình nghiên cứu ngoài nước Bài nghiên cứu của nhóm tác giả Xian, H., & Qin, G (2014), “Does social insurance enrollment improve citizen assessment of local government performance? Evidence from China” (2014) phân tích vấn đề hỗ trợ từ phía Nhà nước có ảnh hưởng đến thiết kế BHXH như thế nào; Bài viết của Castel P. (2005), “Voluntary Defined Benefit Pension System Willingness to Participate the Case of Vietnam” chỉ ra những nhân tố quyết định đến sự tham gia vào hệ thống hưu trí tự nguyện của lao động PCT ở Việt Nam: thu nhập, trình độ học vấn, mức đóng, quyền lợi được hưởng, Tuy nhiên, bài viết chưa nghiên cứu các đối tượng khác như lao động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp hay chưa đề cập đến quá trình tổ chức triển khai BHXH tự nguyện; 226
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2012), “Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai” đã chỉ ra chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành đang gặp phải một số thách thức như sự bất bình đẳng giữa tự nguyện và bắt buộc, tỷ lệ bao phủ thấp trong cả khu vực chính thức và phi chính thức, thiếu sự bền vững về tài chính và năng lực quản lý và thực hiện các chương trình bảo hiểm yếu. Hạn chế nghiên cứu chủ yếu dựa trên số liệu sẵn có và mới chỉ tập trung vào mô hình BHXH đa tầng trợ giúp cho sửa đổi luật BHXH năm 2014. Báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (2013) về ‘‘Các phương án xây dựng hệ thống hưu trí đa tầng ở Việt Nam’’ nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ ‘‘Chế độ hưu trí, tử tuất theo quy định của Luật BHXH - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện’’ do Hoàng Thị Kim Dung, Phó Trưởng ban thực hiện chính sách BHXH, BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm (năm 2014) đã chỉ ra những hạn chế trong chế độ hưu trí, tử tuất và đề xuất những giải pháp khắc phục; Đề tài nghiên cứu ‘‘Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng đảm bảo an sinh xã hội lâu dài’’ của Bùi Sỹ Lợi (2020) đã đưa ra những đánh giá về thiết kế mô hình BHXH đa tầng và đưa ra những đề xuất để sử dụng mô hình hiệu quả trong tương lai. Tuy nhiên, bài nghiên cứu chưa đưa ra đánh giá toàn diện về việc thực hiện, triển khai mô hình BHXH đa tầng. Đề tài nghiên cứu “Mở rộng vững chắc diện bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu bảo đảm ASXH cho người dân’’ của Lâm Văn Đoan (2019) đã chỉ ra những khó khăn đang gặp phải trong việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH: nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trốn đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ; số lượng NLĐ phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện thấp; số lượng rút BHXH một lần ngày càng gia tăng, xu hướng già hóa ở Việt Nam ngày càng tăng. Điều đó sẽ ảnh hưởng lớn đến mục tiêu đảm bảo ASXH cho toàn dân. Nhưng vấn đề đẩy mạnh triển khai mô hình BHXH đa tầng mới chỉ được tác giả đề cập trong mục giải pháp mà chưa đi sâu vào phân tích tính hoạt động hiệu quả của nó. Như vậy, chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu tổng thể tính hiệu quả của việc triển khai hệ thống BHXH đa tầng ở Việt Nam trong thời gian qua cũng như trong tương lai, có chăng mới chỉ nghiên cứu những khía cạnh nhỏ liên quan chủ yếu 227
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA đến BHXH theo mô hình cũ. Xuất phát từ những vấn đề còn khuyết thiếu như đã nêu, nhóm NCKH xin đi vào nghiên cứu đề tài: “Triển khai BHXH đa tầng nhằm hướng tới đảm bảo ASXH bền vững ở Việt Nam” với mục tiêu góp phần lấp đầy khoảng trống còn tồn tại. Nhóm tác giả cho rằng đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tế, đưa ra những giải pháp phù hợp cho công tác tổ chức, thực hiện mô hình BHXH đa tầng hiệu quả trong thời gian tới. 1.4. Cơ sở lý thuyết về BHXH đa tầng hướng tới mục tiêu ASXH bền vững 1.4.1. An sinh xã hội Khái niệm Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong; cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình đông con”. Về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội khi họ không may gặp phải những “rủi ro xã hội” hoặc các “biến cố xã hội” dẫn đến ngừng hoặc giảm thu nhập. Phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội, vì vậy nó mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc, đây cũng là tư tưởng muốn hướng tới sự hưng thịnh và hạnh phúc cho mọi người và cho xã hội. Vai trò của an sinh xã hội ASXH luôn khơi dậy được tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội; đảm bảo công bằng xã hội. ASXH vừa là một nhân tố ổn định, vừa là một nhân tố động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội; ASXH là chất xúc tác giúp các nước, các dân tộc hiểu biết và xích lại gần nhau hơn, không phân biệt thể chế chính trị, màu da và văn hóa. Chức năng cơ bản của an sinh xã hội Đảm bảo duy trì thu nhập liên tục cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội ở mức tối thiểu để giúp họ ổn định cuộc sống. 228
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Tạo lập lên quỹ tiền tệ tập trung trong xã hội để phân phối lại cho những người không may gặp phải những hoàn cảnh éo le. Gắn kết các thành viên trong cộng đồng xã hội để phòng ngừa, giảm thiểu chia sẻ rủi ro và đối phó với những hiểm họa xảy ra. 1.4.2. Bảo hiểm xã hội đa tầng Hiện nay, nhiều tổ chức và học giả nghiên cứu về BHXH đa tầng nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào xây dựng khái niệm hay luận giải cụ thể thế nào là BHXH đa tầng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đều có điểm tương đồng khi bàn về BHXH đa tầng, đó là tập hợp nhiều chế độ BHXH, trong đó mỗi chế độ có mối liên hệ với nhau và cùng hoạt động hướng tới đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân và từ đó góp phần quan trọng trọng việc mở rộng độ bao phủ cả về chiều rộng và chiều sâu. Tiêu biểu là các mô hình sau đây: Bảo hiểm xã hội đa tầng theo ILO - Tầng 1: Các đối tượng ở tầng này được Nhà nước bảo hộ và phần đông trong số họ không có khả năng tham gia đóng BHXH, nhưng rất cần hưởng trợ cấp trong cuộc sống khi gặp phải những rủi ro. Vì vậy, tầng này được gọi là “tầng lưới an toàn” và được thực hiện thông qua cơ chế thuế quốc gia, chủ yếu là để trợ giúp cho những trường hợp khó khăn, những đối tượng yếu thế trong xã hội. - Tầng 2: Dành cho đối tượng làm công ăn lương, có quan hệ lao động. Tài chính chi trả lấy từ nguồn thu từ nguồn tài trợ đóng góp của giới chủ và thợ, và có thể có sự hỗ trợ của Nhà nước. Đây chính là tầng BHXH trong ASXH, thông qua cơ chế đóng góp và hình thành một quỹ chung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. - Tầng 3: Là tầng BHXH tự nguyện dành cho đối tượng có nhu cầu tham gia BHXH nhưng không thuộc đối tượng tham gia bắt buộc và những người đã tham gia nhưng muốn được tiêu chuẩn cao hơn mức tiêu chuẩn bắt buộc. Đây cũng là cơ chế đóng - hưởng, nhưng là cơ chế tự nguyện, theo các khung quy định của Nhà nước. BHXH đa tầng theo Ngân hàng Thế giới (World Bank) - Tầng 0: Dành cho đối tượng không phải đóng góp, bảo đảm mức độ bảo vệ tối thiểu nhằm mục tiêu giảm nghèo cho người cao tuổi, được đảm bảo bằng ngân sách Nhà nước; 229
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA - Tầng 1: Dành cho đối tượng bắt buộc tham gia với các mức đóng góp khác nhau tùy thuộc vào thu nhập, vận hành theo cơ chế tọa thu - tọa chi (PAYG); - Tầng 2: Dành cho đối tượng bắt buộc tham gia với các mức đóng khác nhau tùy theo thu nhập, vận hành theo cơ chế tài khoản cá nhân tượng trưng; - Tầng 3: Dành cho đóng góp tự nguyện dưới nhiều hình thức nhưng về cơ bản là linh hoạt và theo nhu cầu. Tầng 3 bù đắp cho tính cứng nhắc “bắt buộc” trong thiết kế của tầng 1 và 2; - Tầng 4: Hỗ trợ các khoản trợ giúp tài chính hoặc phi tài chính cho NCT: chăm sóc sức khỏe, nhà ở. Bảo hiểm xã hội đa tầng ở Việt Nam Ở Việt Nam đã từng có BHXH theo kiểu đa tầng với hai cơ chế thực hiện là tự nguyện và bắt buộc. Trong Nghị quyết số 28 về cải cách chính sách BHXH, BHXH đa tầng ở Việt Nam bao gồm: - Trợ cấp hưu trí xã hội: Ngân sách Nhà nước cung cấp một khoản trợ cấp cho người cao tuổi không có lương hưu, hoặc BHXH hàng tháng. - BHXH cơ bản (BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện): BHXH bắt buộc dựa trên đóng góp của NLĐ và người sử dụng lao động. BHXH tự nguyện dựa trên đóng góp của NLĐ không có quan hệ lao động. - Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và NLĐ có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn. Như vậy, nội dung và hình thức hệ thống BHXH đa tầng của Việt Nam dù không đồng nhất với những khái niệm đã có trên thế giới, nhưng đã hướng đến những mục tiêu trong xây dựng hệ thống an sinh xã hội mà các tổ chức quốc tế đưa ra; đồng thời phù hợp mục tiêu tăng trưởng bao trùm, nâng cao chất lượng an sinh đang được Ðảng, Nhà nước và dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. 1.4.3. BHXH đa tầng nhằm đảm bảo ASXH lâu dài BHXH là “lưới đầu” đầu tiên, trụ cột quan trọng nhất của hệ thống ASXH Sự vững chắc của hệ thống ASXH ở một quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia đó. Hoạt động BHXH không chỉ đảm bảo vấn đề ASXH mà còn 230
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA gián tiếp kích thích và làm tăng trưởng nền kinh tế. Bởi lẽ, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, BHXH làm cho mọi NLĐ cảm thấy an tâm hơn trong công việc, từ đó nâng cao hiệu quả của sản xuất và làm tăng giá trị sản phẩm trên cơ sở nâng cao hiệu quả của sản xuất. Mục tiêu hướng tới của BHXH đa tầng là đảm bảo thu nhập tối thiểu cho cả NLĐ chính thức và phi chính thức ngay cả khi đang làm việc lẫn khi về hưu. BHXH điều tiết các chính sách trong hệ thống ASXH BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội là những nội dung của chính sách ASXH, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Khi áp dụng mô hình BHXH đa tầng thì số đối tượng tham gia và hưởng BHXH sẽ được mở rộng, từ đó góp phần nâng cao đời sống của NLĐ nói riêng và dân cư nói chung và góp phần làm giảm số đối tượng được hưởng các chính sách ASXH. 2. THỰC TRẠNG VIỆC TRIỂN KHAI MÔ HÌNH BHXH ĐA TẦNG Ở VIỆT NAM 2.1. Thiết kế hệ thống BHXH đa tầng Thực tế, trong xã hội, thu nhập của người dân rất đa dạng, có người thu nhập thấp, trung bình, nhưng có người thu nhập rất cao. Trước đây, Việt Nam chỉ duy trì BHXH cơ bản, tức là NLĐ có tiền lương, đóng BHXH trên nền tiền lương với mức trần nhất định. Đây là hình thức BHXH đơn tầng để đáp ứng cho tất cả. Điều này chưa phù hợp, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của NLĐ trong xã hội. Hệ thống BHXH đa tầng được xây dựng để khắc phục những hạn chế trên. Cụ thể: Tầng thứ nhất là lương hưu xã hội: Trợ cấp cho những người già trên 80 tuổi không có lương hưu, không có BHXH đang được cung cấp bởi Ngân sách Nhà nước. Và cũng có thêm chính sách huy động các nguồn lực xã hội đóng để các đối tượng này có mức hưởng cao hơn; điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách. Tầng thứ hai là BHXH do Nhà nước vận hành bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. BHXH bắt buộc dựa trên đóng góp của NLĐ và người sử dụng lao động. BHXH tự nguyện dựa trên đóng góp của NLĐ không có quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ ngân sách Nhà nước cho nông dân, người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm của NLĐ đối với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội theo lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp từng thời kỳ. 231
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Tầng thứ ba là hưu trí bổ sung sẽ được đóng góp theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và NLĐ có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn. Quỹ này có thể do các cơ quan bảo hiểm ngoài Nhà nước thực hiện. Khi NLĐ nghỉ hưu, họ sẽ được nhận lương hưu từ quỹ của Nhà nước và lương hưu do cơ quan bảo hiểm ngoài Nhà nước chi trả. Có thể thấy, các tầng của hệ thống BHXH đa tầng ở Việt Nam được thiết kế theo hướng đa dạng, linh hoạt nhưng không chồng lấn. Mô hình chủ yếu được thiết kế dựa trên những rủi ro mà mỗi người có thể gặp phải. Để giúp đỡ người dân vượt qua được những rủi ro đó, việc áp dụng mô hình BHXH đa tầng mang tính khả thi và hiệu quả hơn cả so với mô hình BHXH đơn tầng. Như vậy, khi thực hiện hệ thống BHXH đa tầng thì sẽ giúp người dân tiếp cận chính sách BHXH một cách toàn diện, đầy đủ các chế độ hơn. Trước kia, BHXH mới chỉ chú trọng nguyên tắc đóng - hưởng nên 64% những người hưởng lương hưu có mức lương hưu thấp hơn mức bình quân (khoảng 4,5 triệu/tháng) và dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các đối tượng tham gia. Nguyên tắc chia sẻ chưa được chú trọng nhiều, có chăng mới chỉ được thực hiện với BHXH ngắn hạn. Để khắc phục hạn chế đó, trong mô hình BHXH đa tầng đã có kết hợp hài hoà giữa nguyên tắc đóng - hưởng và nguyên tắc chia sẻ trong chính sách hưu trí để thu hẹp khoảng cách lương hưu. Từ đó, khoảng cách về lương hưu sẽ thu hẹp, không còn tình trạng có người hưởng lương hưu ở mức rất cao và có người hưởng mức rất thấp. Hiện Việt Nam đang có khoảng 5-6 triệu người từ 60 đến dưới 80 tuổi không có thu nhập hàng tháng để đảm bảo tuổi già. Do đó, thông qua BHXH đa tầng, chúng ta hướng tới đạt được BHXH toàn dân, nghĩa là trong tương lai 100% người cao tuổi sẽ đều có lương hưu để đảm bảo cuộc sống. Ðiều này có ý nghĩa rất lớn trong bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống người dân. Như vậy, mô hình BHXH đa tầng sẽ giúp ta tăng cường sự liên kết và hỗ trợ giữa các chính sách BHXH; kế thừa và phát triển nguyên tắc điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối với tiền lương của người đang làm việc; giảm khoảng cách lợi ích giữa khu vực công và khu vực tư, và tăng độ bao phủ; điều chỉnh theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia để giảm số lượng hưởng BHXH một lần; thiết kế lại các tham số BHXH để đảm bảo. 232
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.2 Tổ chức, triển khai BHXH đa tầng 2.2.1. Đối tượng tham gia Tầng 1: Dân số Việt Nam đã bước vào thời kỳ già hóa, theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2030, tỷ lệ dân số trên 65 tuổi của Việt Nam sẽ vào khoảng 12,9% và năm 2050 là 23%. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 70% người cao tuổi sống ở nông thôn là nông dân và làm nông nghiệp; trên 70% người cao tuổi không có tích lũy vật chất và chỉ có chưa đầy 30% người cao tuổi sống bằng lương hưu hay trợ cấp xã hội. Chính vì thế, đối tượng hướng tới của tầng 1 chính là nhóm người yếu thế, hoàn toàn không có khả năng đóng góp. Hàng tháng Nhà nước thực hiện chế độ trợ cấp bằng tiền mặt cho người từ 80 tuổi trở lên và người từ 60 tuổi trở lên thuộc hộ nghèo không có lương hưu, trợ cấp BHXH, do ngân sách Nhà nước đảm bảo. Hiện cả nước có hơn 1,7 triệu người cao tuổi đang hưởng chế độ này, bằng 12% số người sau tuổi nghỉ hưu. Có thể thấy, việc triển khai, độ bao phủ còn khá khiêm tốn và mức trợ cấp còn tương đối thấp. Việc triển khai tầng thứ nhất đã cho thấy tính trách nhiệm cao của Nhà nước trong việc sử dụng nguồn ngân sách thuế và chia sẻ lại một phần phúc lợi cho đối tượng yếu thế. Nhưng về lâu dài, để đạt hiệu quả, ta cần xem xét lại điều chỉnh đối tượng hỗ trợ trong việc “thiết kế” tầng thứ nhất. Không phải là trên 80 tuổi mới được hỗ trợ như hiện nay, Nhà nước có thể xem xét hạ độ tuổi nhận hỗ trợ xuống. Đương nhiên, điều này sẽ khiến số đối tượng gia tăng. Tầng 2: Được đánh giá là tương đối quan trọng trong mô hình BHXH đa tầng. Nếu muốn giảm sức ép cho tầng thứ nhất thì đòi hỏi phải có sự vững mạnh của tầng thứ 2 vì nguồn tài chính của tầng thứ 2 được huy động chủ yếu sự đóng góp của NLĐ và người sử dụng lao động. Mục tiêu đề ra của Nghị quyết số 28-NQ/TW phấn đấu đến năm 2021 có 35%, đến năm 2025 có 45%, đến năm 2030 có 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH. Trong đó, nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện vào năm 2021 chiếm khoảng 1%, năm 2025 chiếm khoảng 2,5%; năm 2030 chiếm 5% lực lượng lao động trong độ tuổi. Tính đến năm 2020, toàn quốc có 16,101 triệu người tham gia BHXH, chiếm khoảng 32,6% so với lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 327 nghìn người so với 233
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA năm 2019. Trong đó, số người tham gia BHXH bắt buộc đạt 15,033 triệu người; 1.068 triệu người tham gia BHXH tự nguyện. Điều đáng chú ý ở đây là số người tham gia BHXH tự nguyện tăng 494 nghìn người, gần gấp đôi so với năm 2019, tăng gấp năm lần so với năm 2015, tăng 1,2% so với chỉ tiêu tại Nghị quyết số 28. Khoảng 2,2% lực lượng lao động trong độ tuổi là nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện. Con số này đã vượt chỉ tiêu tại Nghị quyết 28-NQ/TW khi đặt mục tiêu đến hết năm 2021 đạt 1% cho khu vực này, tăng gần gấp năm lần so với năm 2015. Về cơ bản, chỉ tiêu số người tham gia BHXH đã đạt được, nhưng để tiến tới BHXH toàn dân, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được như trên, việc phát triển đối tượng tham gia BHXH vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau: - Vẫn còn nhiều người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc chưa tham gia, nói cách khác, việc thực thi pháp luật về trách nhiệm tham gia BHXH chưa đạt hiệu quả cao. So sánh số NLĐ đã tham gia BHXH với số lao động làm công hưởng lương (tương đương với số lao động thuộc diện tham gia BHXH), thì mới có gần 60% số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. - Số lượng người tham gia BHXH tự nguyện mặc dù có sự gia tăng đột biến trong những năm qua, hoàn thành trước chỉ tiêu theo tinh thần Nghị quyết số 28, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Tỷ lệ tham gia BHXH tự nguyện tăng một phần là do nhiều người đóng BHXH bắt buộc nghỉ hưu trước khi đóng đủ số năm tối thiểu (20 năm), muốn hưởng chế độ hưu trí nên họ tham gia BHXH tự nguyện để đóng đủ số năm còn thiếu. Ngoài ra, hiện mô hình tổ chức của bảo hiểm xã hội còn bất cập, chỉ có mạng lưới cấp Trung ương, tỉnh, thị trấn nhưng xã phường không có nên vẫn còn nhiều khoảng trống trong chiến lược mở rộng độ bao phủ ở các vùng nông thôn. Hơn nữa, việc quy định quyền lợi của NLĐ khi tham gia hình thức BHXH tự nguyện còn chưa được bình đẳng hình thức BHXH bắt buộc. Đây là một trong những nguyên nhân mà số người tham gia BHXH tự nguyện còn rất thấp trong khi tiềm năng mở rộng đối tượng rất lớn. - Điều đáng lưu tâm chính là số người đề nghị hưởng BHXH một lần vẫn có chiều hướng gia tăng, mỗi năm có hàng trăm nghìn người hưởng BHXH một lần. Nếu so sánh giữa số lao động giải quyết hưởng BHXH một lần với số lao động tham gia BHXH tăng mới, thì tỷ lệ này tương đối cao, từ 2016-2019 mỗi năm xấp xỉ 45%, năm 2020 tỷ lệ này tăng lên 73,3%. Nhiều người giải quyết hưởng trợ cấp BHXH một lần 234
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA tăng liên tiếp qua các năm sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc phát triển đối tượng, đối với những người có nguy cơ khó khăn về tài chính khi về già, làm tăng thêm gánh nặng đối với xã hội. Tầng 3: Đối tượng tham gia tầng này còn tương đối thấp, việc áp dụng hưu trí bổ sung mới chỉ ở một số tập đoàn lớn của nước ngoài thực hiện ở VN, chủ yếu hướng tới nhân sự cấp cao. Do Nhà nước chưa quy định khung pháp lý rõ ràng, cụ thể nên việc thực hiện chưa được triển khai hiệu quả. Theo khảo sát mới đây của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tại 700 doanh nghiệp thì có đến 70% doanh nghiệp sẵn sàng tham gia loại hình bảo hiểm hưu trí bổ sung áp dụng hình thức đãi ngộ NLĐ về khoản lương hưu bổ sung trong tương lai để khuyến khích họ làm việc lâu dài cho doanh nghiệp, thông qua việc trích lập quỹ hưu trí bổ sung từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp để chi trả lương hưu bổ sung cho NLĐ khi họ hết tuổi lao động. Chính vì vậy, việc thu hút và mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở tầng thứ 3 hứa hẹn đầy triển vọng trong tương lai gần. 2.2.2. Phương thức hoạt động Việc đơn giản hóa thủ tục tham gia thông qua áp dụng công nghệ thông tin cũng là một định hướng cải cách nhằm tăng tính hấp dẫn cũng như nâng cao mức tuân thủ của NLĐ trong việc tham gia BHXH. Ngoài ra, việc áp dụng các kỹ thuật công nghệ hiện đại cũng đã và đang giúp cơ quan BHXH theo dõi chặt chẽ hơn, tối giản các giấy tờ cần thiết nhằm đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của người tham gia. Cụ thể: Về cải cách thủ tục hành chính Bộ Thủ tục hành chính (TTHC) của ngành BHXH đã được cắt giảm từ 114 thủ tục (năm 2015) đến 2019 còn 27 thủ tục; số giờ thực hiện TTHC cho người dân và doanh nghiệp giảm từ 335 giờ/năm (năm 2015) xuống còn 147 giờ (năm 2019). Bên cạnh đó, công tác cải cách hành chính trong nội bộ ngành được đẩy mạnh. Đến nay, toàn bộ văn bản đến của ngành BHXH Việt Nam đều được số hóa, xử lý văn bản qua phần mềm trong phạm vi toàn ngành, thực hiện mục tiêu văn phòng không giấy tờ, tiết kiệm chi phí in ấn, phát hành văn bản. Cùng với đó, năm 2019, ngành BHXH đã tích hợp, liên thông các phần mềm nghiệp vụ nhằm kiểm tra, đối chiếu dữ liệu, cấp sổ BHXH, thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) với phần mềm xét duyệt hồ sơ hưởng và chi trả các chế độ BHXH. Đồng thời, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Bộ Thông 235
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp chính thức khai trương cơ sở dữ liệu chuyên ngành BHXH và kết nối hệ thống thông tin quản lý hộ tịch qua Trục dữ liệu quốc gia phục vụ liên thông khai sinh, cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi. Đến đầu năm 2020, BHXH Việt Nam đã đạt được các kết quả ấn tượng như: xây dựng được một hệ thống chính phủ điện tử thông suốt trong toàn Ngành; hoàn thành việc cấp mã số định danh BHXH cho 97 triệu người dân, trong đó có gần 86 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT); đã cung cấp 18 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4; trong đó số lượng dịch vụ công mức độ 4 là 12/27 TTHC; cung cấp, phối hợp xác nhận thông tin 9 dịch vụ công trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Thêm vào đó, số hồ sơ đã giải quyết của cơ quan BHXH tính từ ngày 1/1 đến ngày 31/5/2020 là 47.591.872 hồ sơ (đạt 97,45%). Về Áp dụng công nghệ thông tin với BHXH BHXH Việt Nam đã bước đầu xây dựng được hệ sinh thái 4.0 phục vụ người dân với các dịch vụ: dịch vụ tin nhắn, dịch vụ thanh toán trực tuyến, ứng dụng BHXH trên thiết bị di động, hệ thống chatbox hỗ trợ khách hàng; thiết lập fanpage truyền thông trên mạng xã hội, Một dấu mốc quan trọng trong sự kết hợp giữa công nghệ thông tin và BHXH là sự ra mắt ứng dụng VssID (BHXH số) nhằm tạo điều kiện cho người tham gia BHXH, BHYT tiếp cận thông tin, thực hiện các dịch vụ công một cách tiện lợi, dễ dàng, nhanh chóng nhất. Ứng dụng có các tính năng chính như: tra cứu, theo dõi quá trình đóng BHXH, BHYT, BHTN của người sử dụng lao động và NLĐ; quá trình hưởng các chế độ BHXH gồm ốm đau, thai sản, hưu trí, thất nghiệp Với trên 60% dân số sử dụng điện thoại thông minh, việc sử dụng VssID được kỳ vọng sẽ phổ cập rất nhanh, từ đó từng bước thực hiện việc thay thế Sổ BHXH, Thẻ BHYT giấy như hiện nay. Tuy nhiên, một vấn đề luôn được quan tâm là ứng dụng CNTT. Theo phản ánh từ các đơn vị, địa phương, việc hoàn thiện, nâng cấp một số phần mềm nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý; hệ thống phần mềm phục vụ quyết toán tập trung còn phát sinh lỗi, một số số liệu giữa các phần mềm chưa liên thông Vậy nên ứng dụng CNTT vẫn cần tiếp tục lắng nghe ý kiến đóng góp của người dân, hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng nhu cầu và mong muốn không chỉ từ các cấp quản lý, đơn vị BHXH, mà còn của cả NLĐ. 236
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.2.3. Đánh giá công tác quản lý thu chi quỹ BHXH Bảng 1. Tình hình thu chi BHXH giai đoạn 2016- 2019 Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu 2017 2018 2019 A Quyết toán thu BHXH 1 BHXH bắt buộc 194.576 221.167 245.747 2 BHXH tự nguyện 1.121 1.233 2.327 B Quyết toán chi quỹ BHXH 1 Chi quỹ ốm đau, thai sản 23.166 26.264 30.540 2 Chi quỹ Quỹ Tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp 632 743 850 3 Chi quỹ hưu trí, tử tuất 109.775 128.870 147.104 C Nợ đọng 5.737 5.349 5.381 Nguồn: BHXH Việt Nam Số thu của BHXH bắt buộc và tự nguyện đều gia tăng qua từng thời kỳ. Điều này chứng tỏ đối tượng tham gia BHXH ngày được mở rộng hơn, có thể là tình trạng nợ đóng, trốn đóng BHXH đã giảm qua từng năm. Giai đoạn 2016-2019 cho thấy số người được giải quyết chế độ BHXH tăng đều. Năm 2016, số tiền chi BHXH là 140.427 tỷ đồng, đến năm 2019 là 186.836 tỷ đồng, tương ứng tăng 46.409 tỷ đồng. Điều đó thể hiện được vai trò sử dụng nguồn tài chính của quỹ đã góp phần giúp cho người tham gia bảo hiểm vượt qua được rủi ro, khó khăn gặp phải, nhanh chóng ổn định cuộc sống. Trong đó, chi quỹ hưu trí, tử tuất chiếm áp đảo trong năm 2019 là 147.104 tỷ đồng, sau đó đến số người hưởng chế độ ốm đau, thai sản và các chế độ khác. Các số liệu trên cho thấy tỷ lệ số chi trên tổng số thu có xu hướng tăng, giảm tùy từng năm. Về cân đối thu chi, quỹ hưu trí và tử tuất luôn là nội dung trọng tâm trong 237
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA hoạt động tài chính của các chính sách BHXH. Theo dự đoán của ILO, từ năm 2031 đã phải sử dụng một phần nguồn Quỹ HT-TT tồn tích để chi trả. Từ năm 2031 trở đi, khoản chi trả sẽ bao gồm số tiền đóng góp BHXH trong năm cộng với phần tiền tồn tích của Quỹ HT-TT và đến năm 2050, quỹ sẽ hết khả năng thanh toán. Như vậy là, việc cân đối dài hạn Quỹ HT-TT là hết sức cần thiết đối với hệ thống BHXH, nhất là trong giai đoạn đang điều chỉnh hợp lý quan hệ đóng - hưởng, tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ của người Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, số tiền nợ đọng BHXH giai đoạn 2017-2019 có xu hướng giảm qua từng năm. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu vẫn còn ở mức cao làm ảnh hưởng xấu đến nguồn quỹ BHXH; công tác chi trả BHXH cho NLĐ bị chậm trễ và có thể gây vỡ quỹ trong dài hạn nếu như tình trạng nợ đọng BHXH vẫn ở mức cao. Tuy đã đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi như vậy nhưng trong công tác quản lý chi vẫn còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Nguồn chi trả thuộc ngân sách Nhà nước thường bị động do cấp trên chuyển về chậm. Việc tổ chức vận chuyển tiền ở các địa phương, công tác bảo quản ở các nơi chi trả chưa đảm bảo, dễ xảy ra mất mát, thâm hụt. Từ đây cần có những giải pháp thích hợp cho việc tăng cường hiệu quả công tác quản lý quỹ BHXH đa tầng nước ta trong tình hình hiện nay cũng như trong tương lai, đảm bảo việc tăng trưởng và ổn định quỹ, ổn định xã hội. 2.2.4. Công tác truyền thông BHXH đa tầng Điểm tích cực Những năm gần đây, công tác truyền thông về BHXH đã được chú trọng, có những bước tiến phát triển thông qua đổi mới cả về nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền. - Đổi mới về nội dung tuyên truyền: Chủ động đổi mới nội dung tuyên truyền, chuyển từ việc chú trọng tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách, pháp luật BHXH sang truyền thông chuyên sâu về lợi ích, vai trò, ý nghĩa, tính nhân văn, ưu việt của chính sách BHXH. - Đổi mới về hình thức tuyên truyền: Triển khai đồng loạt nhiều kênh truyền thông khác nhau; áp dụng linh hoạt các hình thức truyền thông phù hợp với đặc điểm vùng miền, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, tâm lý từng nhóm dân cư; thực hiện truyền thông trên mạng xã hội theo chiến dịch, đăng tải các tin, bài, phóng sự, phim ngắn, video, clip, viral clip, motion graphic, infographic nhằm lan tỏa nội dung, ý nghĩa, lợi ích của các chế độ BHXH. 238
  15. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA - Đổi mới về phương pháp tuyên truyền: Chủ động đổi mới phương pháp truyền thông theo hướng linh hoạt đáp ứng kịp thời với bối cảnh thực tiễn; kết hợp giữa tuyên truyền thường xuyên và truyền thông theo chiến dịch. Mặt hạn chế Mặc dù có những bước tiến về gia tăng đối tượng tham gia bảo hiểm, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế: - Công tác tuyên truyền vận động thời gian qua chưa thực sự phù hợp với loại lao động phi chính thức, đặc biệt ở những vùng nông thôn khó tiếp cận thông tin. - Chi phí thù lao khai thác đối tượng tham gia còn thấp, chưa linh hoạt như các doanh nghiệp bảo hiểm thương mại khác, chưa khuyến khích đại lý để vận động đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. - Công tác truyền thông chính sách BHXH tuy có nhiều đổi mới nhưng chưa thường xuyên liên tục và sâu rộng nên người dân chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng và lợi ích lâu dài của chính sách BHXH. - Việc truyền thông về BHXH mới dừng lại ở tầng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện chứ chưa hướng đến truyền thông tại tầng trợ cấp hưu trí xã hội và bảo hiểm hưu trí bổ sung. 3. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 3.1 Kiến nghị Đối với Quốc hội Sửa đổi, bổ sung một số bất cập trong Nghị quyết số 28-NQ/TW năm 2018: Hoàn thiện khung pháp lý về việc tham gia đóng và hưởng ở tầng 3 (hưu trí bổ sung) và quy định chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ hưu trí một lần; đồng thời, mở rộng đối tượng hưởng lương hưu xã hội theo lộ trình; điều chỉnh tăng mức trợ cấp hưu trí xã hội để đảm bảo mục tiêu chống đói nghèo cho người cao tuổi không có lương hưu. Đối với Chính phủ - Ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp, NLĐ đóng hưu trí bổ sung cho NLĐ qua giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cá nhân; - Tiếp tục hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi BHXH. 239
  16. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Đối với các Bộ, ban ngành liên quan - Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH đa tầng; - Xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; - Phối hợp với ngành BHXH Việt Nam tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHXH đa tầng; - Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại. Đối với ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Sửa đổi bổ sung chức năng nhiệm vụ cho cơ quan BHXH để tương thích với việc chuyển đổi sang mô hình BHXH đa tầng; - Tăng cường hiệu quả đầu tư các quỹ BHXH, mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao (có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của quỹ thông qua ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững); - Xây dựng bộ chỉ tiêu theo dõi và đánh giá việc thực hiện các tầng của BHXH đa tầng; - Thực hiện nghiêm túc chức năng quản lý nhà nước và quản trị bộ máy thực hiện chính sách BHXH, đặc biệt ở địa phương. 3.2. Đề xuất giải pháp Thứ nhất, đổi mới tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH nói chung và BHXH đa tầng nói riêng Xây dựng chiến lược, kế hoạch truyền thông đa phương tiện về BHXH đa tầng; xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên chuyên nghiệp; đổi mới cả về hình thức lẫn nội dung tuyên truyền; phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm thương mại trong tuyên truyền, tư vấn tham gia BHXH đa tầng. Thứ hai, tăng cường sự kết nối và hỗ trợ lẫn nhau giữa chế độ BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện Thiết kế các gói BHXH tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để NLĐ có nhiều lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ BHXH tự nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi dễ dàng giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc, hướng tới chuyển đổi hoàn toàn BHXH tự nguyện thành BHXH bắt buộc. 240
  17. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa hệ thống quản lý Ứng dụng CNTT đóng vai trò then chốt nhằm: đơn giản hóa thủ tục hành chính, loại bỏ các giấy tờ liên quan không cần thiết; đảm bảo tính chính xác nhanh chóng kịp thời, thuận tiện; góp phần đảm bảo công khai minh bạch về quyền lợi và nghĩa vụ của đối tượng tham gia; giảm thiểu chi phí quản lý, Thứ tư, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát quỹ thu - chi hàng tháng hàng quý Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát của các cơ quan chức năng cần được phối hợp nhịp nhàng và diễn ra thường xuyên thì hoạt động BHXH đa tầng sẽ đi đúng hướng và đạt được mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, giúp tránh tình trạng trốn đóng, nợ đóng, trục lợi; Thứ năm, phát triển công tác nghiên cứu khoa học và mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BHXH đa tầng Công tác nghiên cứu khoa học về hệ thống BHXH đa tầng có vai trò rất quan trọng, giúp cho các nhà hoạch định và thực thi chính sách có luận cứ khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách cũng như việc thực thi chính sách có hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII (2018), Nghị quyết số 28- NQ/TW năm 2018 về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội 2. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2012), Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai 3. Bùi Huy Nam (2020), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 4. Bùi Sỹ Lợi (2020), Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng đảm bảo an sinh lâu dài, Tạp chí Tài Chính, Số 730, Tr.6-9 5. Giang Thanh Long, Đỗ Thị Thu (2020), Mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện: thực tiễn quốc tế và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, Số 215, Tr.44-55,13 241
  18. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 6. Lâm Văn Đoan (2019), Mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, Tạp chí Khoa học Chính trị, Số 02, Tr.63 – 66 7. Lưu Quang Tuấn (2020), Giải pháp gia tăng số lượng lao động phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội, Tạp chí Tài Chính, Số 730, Tr.23-26 8. PGS.TS. Nguyễn Văn Định (2013), Giáo trình An sinh xã hội, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 9. PGS.TS. Nguyễn Văn Định (2013), Giáo trình Bảo hiểm, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 10. Tạp chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2018), Cần bình đẳng tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ, truy cập ngày 12/03/2021 từ: binh-dang-tuoi-nghi-huu-giuanam-va-nu-825afff1.aspx. 11. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (2013), Các phương án xây dựng hệ thống hưu trí đa tầng ở Việt Nam’ 12. Trịnh Khánh Chi (2019), Hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính - Quản trị Kinh doanh, Số 16, Tr.41-48 242