Từ lợi thế so sánh đến lợi thế cạnh tranh: Nghiên cứu tổng hợp từ lý thuyết cạnh tranh huỷ diệt sáng tạo
Bạn đang xem tài liệu "Từ lợi thế so sánh đến lợi thế cạnh tranh: Nghiên cứu tổng hợp từ lý thuyết cạnh tranh huỷ diệt sáng tạo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tu_loi_the_so_sanh_den_loi_the_canh_tranh_nghien_cuu_tong_ho.pdf
Nội dung text: Từ lợi thế so sánh đến lợi thế cạnh tranh: Nghiên cứu tổng hợp từ lý thuyết cạnh tranh huỷ diệt sáng tạo
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TỪ LỢI THẾ SO SÁNH ĐẾN LỢI THẾ CẠNH TRANH: NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP TỪ LÝ THUYẾT CẠNH TRANH HUỶ DIỆT SÁNG TẠO Trương Trọng Hểu Trường ĐH Kinh tế-Luật (ĐGQG TP.HCM); NCS. ĐHQG Yokohama, Nhật Bản hieutt@uel.edu.vn TÓM TẮT Thương mại quốc tế phát triển phản ánh sự thịnh hành của cơ sở lý thuyết về lợi thế so sánh. Nhưng chính sự hiện diện của thương mại nội ngành mang lại cho nó không ít thách thức. Lợi thế cạnh tranh và cạnh tranh năng động vì vậy trở thành mục tiêu, cả về phát triển kinh doanh, thương mại, kinh tế và hoạch địch chính sách. Từ kết quả nghiên cứu tổng hợp về các khái niệm và lý thuyết nền tảng về cạnh tranh năng động, bài viết giới thiệu một vài gợi ý bước đầu về mặt chính sách đối với quá trình hoàn thiện chính sách chống độc quyền ở Việt Nam. Từ khóa: Cạnh trnah, cạnh tranh năng động, hủy diệt sáng tạo, chống độc quyền ABSTRACT The progress of international trade can provide an illustration for the contribution of comparative advantage theory. However, it has had challenges in front of existence of intra-trade. Comparative advantage as well as dynamic competition theories has become the basic for business performance, trade activies and economy and policy making. This writing bases on the review of notions of dynamic competition for some policy implications and initial suggestion for antitrust regulation in Vietnam. Keywords: Competition, dynamic competition, creative destruction, antitrust. 1. Đặt vấn đề Thương mại quốc tế phát triển phản ánh sự thịnh hành của cơ sở lý thuyết về lợi thế so sánh. Nhưng chính sự hiện diện của thương mại nội ngành mang lại cho nó không ít thách thức. Rõ ràng, nhiều nước vẫn có thể cùng sản xuất và cùng tồn tại trong cùng một thị trường sản phẩm, dù lợi thế so sánh thiên thuộc về một nền kinh tế nào đó. Sự lựa chọn của Việt Nam trong lựa chọn và phát triển chính sách khoa học công nghệ, cũng như tạo lực để nghiên cứu, sản xuất và thương mại sản phẩm công nghệ cao có thể là một minh chứng cho sự trượt bỏ lợi thế so sánh để tiệm cận với thị trường cạnh tranh năng động trong thị trường sản phẩm chung: sản phẩm công nghệ. Đó là bức tranh sinh động của thị trường cạnh tranh – độc quyền này khiến Paul Krugman (Nobel Kinh tế năm 2008) day dứt và dấn thân. Sản phẩm đầu ra mà ông mang lại cho lý thuyết thương mại mới chính là lợi thế cạnh tranh. Sức ép cạnh tranh là có thực, cạnh tranh hoàn toàn là lý tưởng và độc quyền hoàn toàn khó bề vĩnh cửu. Nên để cạnh tranh, các hãng, cùng ngành, cần nghiên cứu, sáng tạo và tạo ra tính khác biệt cho sản phẩm. Sự khác biệt hóa giúp sản phẩm thống lĩnh thị trường, thậm chí trở thành độc quyền, và tồn tại. Và đương nhiên, sức mạnh đó có thể bị phôi rữa bởi quá trình khác biệt hóa của một sản phẩm cạnh tranh khác. Nhưng điều quan trọng là, từ một tiếp cận về lợi thế so sánh mới, thương mại biết đến một lợi thế so sánh mới. Đó là lợi thế cạnh cạnh, là lợi thế cạnh tranh tự tạo. Sáng tạo vì vậy ngày càng trở nên quan trọng, và cạnh tranh ngày càng phát triển thêm nhiều biến thế, đặc biệt là từ hình thái cạnh tranh tĩnh (static 45
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng competition) sang hình thái cạnh tranh mới – cạnh tranh năng động (dynamic competition)1. Chính sự xuất hiện và thịnh hành của hình thái cạnh tranh này đã mang lại nhiều hàm ý mới về mặt định hình chính sách cạnh tranh và chống độc quyền. 2. Nghiên cứu tổng hợp lý thuyết cạnh tranh mới Sự xuất hiện, hưng thịnh rồi lụi tàn lập tức của nhiều ông lớn công nghệ phần nào phản ánh mức độ khắc nghiệt của nền khoa học kĩ thuật ngày càng tiến bộ và đổi mới. Với Gary Becker (Nobel kinh tế năm 1992), chính sự định hình của các tên tuổi mới là minh chứng cho một phần của cạnh tranh năng động, chủ thuyết được định hình từ những năm 1980s trên cơ sở những ý tưởng ban đầu mà Joseph A. Schumpeter đã sớm vạch ra ngay trước lúc qua đời. 2.1. Hủy diệt sáng tạo Hủy diệt sáng tạo (creative destruction) là khái niệm tiền đề được J.A. Schumpeter đưa ra từ những năm 1950s. Trên cơ sở nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa Mác về sự tích lũy và thay thế của cải dưới dạng tư bản,2 Schumpeter đã phát triển và mô tả “cơn lốc hủy diệt sáng tạo” như “một quá trình liên tục biến đổi về công nghiệp để cải cách cấu trúc nền kinh tế từ bên trong; liên tục hủy diệt cái cũ cũng như liên tục sáng tạo cái mới”.3 Theo cách diễn giải của Ricardo J. Caballero (giải thưởng Risch Medal cùng với Eduardo Engel năm 2002), hủy diệt sáng tạo là cơ chế đổi mới sáng tạo không ngừng các sản phẩm và quy trình mà theo đó một sản phẩm mới sẽ thay thế cho một sản phẩm đã lỗi thời. Điều quan trọng là tiến trình sản xuất đó không chỉ lan tỏa rộng khắp, có tầm vĩ mô; đối với cả quá trình phát triển trong dài hạn và những biến đổi kinh tế nhất thời lẫn các thay đổi về mặt cấu trúc và chức năng của thị trường. Thậm chí, xét về dài hạn, tiến trình hủy diệt sáng tạo có thể chiếm hơn 50% mức tăng hiệu suất. Ở cấp độ chu kỳ kinh doanh, quá trình tái cấu trúc thường thuyên giảm trong giai đoạn suy thoái kinh tế và điều này sẽ làm tăng chi phí đáng kể cho các quá trình đào thải (downturns).4 Đương nhiên, những trở ngại cho tiến trình hủy diệt sáng tạo sẽ mang lại những hệ lụy cho nền kinh tế vĩ mô, cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn.5 Thực tế, lý thuyết này sau đó một lần nữa được minh chứng bởi những thay đổi ở Mỹ, Nhật Bản và tây Âu vào những năm 1980s hay tại Trung Quốc và Ấn Độ những năm 1990s. Trên nền tảng công nghệ mới, các công ty, cấu trúc và lực lượng lao động có chuyên môn cũ đã bị xóa sổ, thay vào đó là sự xuất hiện của các tổ chức công nghiệp và các mối quan hệ lao động mới. Đáng chú ý, việc ứng dụng công nghệ thông tin và internet với sự giảm thiểu đáng kể về chi phí giao dịch chính là sự thay đổi nổi trội về mặt số lượng lẫn chất lượng cả khu vực kinh tế công và tư. Thú vị là, một mặt phát triển ngoại tác (external growth) của các công ty lớn thông qua việc thâu tóm các công ty khác tạo nét đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản hiện đại, một mặt lại có sự xuất hiện của các công ty nhỏ mỗi ngày, chủ yếu bởi chính các nhân viên điều hành của các công ty lâu đời đang hoạt động.6 1 Các nghiên cứu ở Việt Nam thường gọi là “động”, ví dụ như “năng lực động” (dynamic capabilities). 2 Arnold Heertje, “Creative Destruction (Schumpeterian Conception),” in The New Palgrave Dictionary of Economics (London: Palgrave Macmillan UK, 2017), 1–2. 3 Joseph Alois Schumpeter, Capitalism, Socialism and Democracy, Retrieved 23 November 2011 (Routledge, 1976), 82–83. 4 Ricardo J. Caballero, “Creative Destruction,” in The New Palgrave Dictionary of Economics (Editted by Durlauf, Steven N.; Blume, Lawrence E.) (London: Palgrave Macmillan UK, 2017), 1–5. 5 Ricardo J Caballero and Mohamad L Hammour, “Creative Destruction and Development: Institutions, Crises, and Restructuring,” Working Paper (National Bureau of Economic Research, August 2000); Caballero, “Creative Destruction.” 6 Heertje, “Creative Destruction (Schumpeterian Conception).” 46
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Cuộc cạnh tranh vì vậy càng trở nên thú vị, khốc liệt và liên tục. Hủy diệt sáng tạo thật sự là tiến trình tạo ra giá trị. Và điều này mở ra một kênh mới cho quá trình cạnh tranh, trong lựa chọn sinh tồn hay diệt vong. Hay nói cách khác, đó là cuộc cạnh tranh bằng “cái mới”; và sáng tạo khi đó là để hủy diệt, nhưng hủy diệt để sinh tồn. Nhưng tồn tại khó lòng bất biến, vì sáng tạo không ngừng. Khắc nghiệt, nhưng đó là đời thực, và cũng là thị trường thực. Vậy nên, Paul Krugman đã phải dầm mình vào những nghiên cứu đầy thử thách với mô hình thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền, thay vì đốt bỏ thời gian vào các phân tích thuần túy lý thuyết của mô hình thị trường cạnh tranh hoàn hảo hay độc quyền hoàn toàn. Thực ra, hoạt động thương mại có thiên hướng chuyển sang mô hình cạnh tranh mang tính độc quyền (monopolistic competition) và dựa vào quy mô từ khá sớm, như các phân tích của Robinson, Chamberlin từ những năm 1930s và các nghiên cứu của Lancaster, Spence, Dixit và Stieglitx những năm 1970s. Nhưng có thể nói, các bài viết của Krugman (và Helpman) kể từ năm 1985 và sau đó đã có những mô tả rõ nét hơn, và đặc biệt phát triển trên bình diện rộng hơn là thương mại quốc tế.7 Với Paul Krugman, cạnh tranh để độc quyền. Nhưng độc quyền khó bề vĩnh cửu. “Sản phẩm được làm khác biệt” (diferentiiated products) hay chính là đa dạng hóa và khác biệt (dị biệt) hóa sản phẩm để cạnh tranh, tiến tới độc quyền vì vậy trở thành nhu cầu cốt tử trong chiến lược kinh doanh và quản trị của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, cách tiếp cận đa dạng và tăng cường đa dạng hóa sản phẩm để mang lại độ thỏa dụng theo mức thay thế của sản phẩm có vai trò quan trọng,8 và ngược lại chiến lược cạnh tranh về giá không còn được khuyến khích và trở nên thoái trào.9 Chính điều đó quyết định đến sự hiện diện và phát triển của thương mại nội ngành, nơi các nhà sản xuất vẫn có thể sống tốt với các sản phẩm tương tự mà không cần đến lợi thế so sánh hay sản phẩm khác nhau hoàn toàn theo trường phái Ricardian hay mô hình Heckscher – Ohlin. 2.2. Tình huống cạnh tranh giữa Microsoft, Apple và Google Cuộc rượt đuổi không mỏi mệt giữa Microsoft, Apple, Google và các tay chơi mới gần đây là minh chứng sống động cho tiếp cận này. Đó là lý đo để Gary Becker lựa chọn “cuộc chiến” giữa Microsoft và Apple để phân tích10. Từ khoảng hơn năm năm trước, đặc biệt là khi Steve Ballmer chính thức nói lời chia tay, Microsoft cùng hệ điều hành Windows bắt đầu trượt ngã khỏi ngôi vị thống trị thị trường máy tính cá nhân. “Mạng lưới kinh tế” (economic network) đã không còn là lợi thế để Microsoft nắm lấy từ 90% đến 95% số lượng máy tính cài đặt Windows trên toàn thế giới. Không thể phủ nhận rằng, kể từ khi máy tính liên kết, không gì thuận lợi bằng nếu người tiêu dùng mua chiếc máy tính có cài Windows, vì hầu hết các máy tính khác cũng sử dụng Windows. Nhưng sự phát triển của Internet ngay sau đó đã thay đổi thế giới. Apple xuất hiện ngay lập tức đã giúp người tiêu dùng thoát khỏi sự lệ thuộc vào máy tính, và quan trọng hơn là đã trở thành nhà cải cách quan trọng trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Micorosft vì vậy chẳng thể tiếp tục nhìn mãi cái bóng to lớn trên vách mà lầm tưởng rằng mình vĩ đãi. Nhưng có họ đã khá muộn màng để bắt đầu một cuộc cạnh tranh mới. Và đương nhiên, Microsoft dần dà đánh mất ngôi vị thống trị và ngay cả Microsoft Explorer cũng chẳng bảo toàn được vị thế của mình. Theo Gary Becker, chính sự miễn cưỡng để “chiếm lĩnh” thị trường phần mềm máy tính đã khiến Microsoft chậm 7 Tine Helene Birkeland, “Trade Theory and Intraindustry Trade: Data from European Trade 1970 – 2010” (Master Thesis, University of Oslo, 2012), 12. 8 Xem thêm: Birkeland, 13. 9 K. J. Lancaster, “Non-Price Competition,” in The New Palgrave Dictionary of Economics (London: Palgrave Macmillan UK, 2016), 1–4. 10 Becker, “Dynamic Competition and Anti Trust Policy,” The Becker-Posner Blog (blog), September 2, 2013, 47
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng chạp trong việc tạo lập các sản phẩm mới cho phép truy cập trực tiếp vào Internet. Và quan trọng hơn, Microsoft đã đánh giá thấp tầm quan trọng của điện thoại thông minh và các thiết bị truy cập Internet cho đến khi buộc phải giật mình tỉnh ngộ và tiếp tục chiến đấu không mệt mỏi để có thể có được những cải thiện vượt trội như thời gian gần đây. Nhưng rồi, Google xuất hiện. Chẳng lâu sau, chàng tân binh đã có thể thế chỗ Apple để trở thành cái tên dẫn đầu mới trong lĩnh vực công nghệ, và đặc biệt đã thống lĩnh thị trường tìm kiếm thông tin qua internet. Và rồi, hệ điều hành Android, chiếc xe không người lái, kính Google hay hàng loạt các sản phẩm cải tiến khác gần đây chính là những công cụ sáng tạo tạo nên sức mạnh của “ông trùm” Google. 2.3. Cạnh tranh năng động Cùng với “hủy diệt sáng tạo” của J.A. Schumpeter, trường phái kinh tế học Áo là những đại diện tiếp theo tạo nền nền tảng lý thuyết mới với tên gọi là cạnh tranh năng động. Đó là lý thuyết phân tích thị trường năng động (dynamic market), và lý giải cách mà mỗi doanh nghiệp trong một thị trường năng động như thế đã hành động, phản xạ, tiến và lùi như thế nào. Các nhà kinh tế học Áo, tiêu biểu là John Maurice Clark, đã cho rằng cạnh tranh của thị trường như là một quy trình năng động (dynamic process) (thay vì trạng thái tĩnh) trong tìm kiếm lợi nhuận sẽ phá vỡ trạng thái ổn định của thị trường, và vì vậy thị trường sẽ không giờ đạt trạng thái cân bằng, trừ khi không có cạnh tranh.11 Đây là điều minh chứng cho sự chống lại của các nhà kinh tế học Áo với những phân tích về sự cân bằng của trường phái kinh tế tân cổ điển. Thậm chí, với tiếp cận nhấn mạnh một tiến trình kinh tế liên tục, các nhà kinh tế học Áo còn phủ nhận các tư tưởng cạnh tranh hoàn toàn.12 Thậm chí, để làm rõ điều này, trường phái kinh tế học Áo còn đưa ra khái niệm “sự khai phá trong kinh doanh” (entrepreneurial discovery). Khi cơ hội thị trường xuất hiện, doanh nghiệp có thể sẽ thành công trong việc định hướng việc phân chia nguồn lực để từ đó có những quyết định đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Từ đó, tiếp cận về sự năng động sẽ tiếp tục nhấn mạnh đế hành vi cạnh tranh từ đổi mới sáng tạo, như là phản ứng năng động trước nhất hay là căn bản.13 Điều khá thú vị là những phân tích mới mẻ cũng được phản ánh trong tư tưởng và lý thuyết kinh tế của Marx, và điều đó theo Willi Semmler cho thấy tính năng động trong cạnh trang của trường phái mac-xit. Cụ thể, chính Marx cũng đã từng khẳng định rằng, “các công ty độc quyền cần được xem như những trường hợp ngoại lệ vì đó chỉ là ‘độc quyền tạm thời’ (temporary monopolies) khi cầu vượt xa cung trong ‘một khoảng thời gian nhất định’ hoặc do sự độc quyền tự nhiên dựa trên việc sở hữu đất đai hoặc tài nguyên thiên nhiên”. Theo Marx, trong” sản xuất, tái cơ cấu công ty và thay đổi về mặt kỹ thuật (technical change) chính là “vũ khí” (weapon) chính yếu của quá trình cạnh tranh.14 Rõ ràng, đây là các tiếp cận quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển của J.A. Schumpeter và nhiều nhà kinh tế học Áo khác sau này. Nhìn vào thực tế nêu trên giữa các đại gia công nghệ, Becker cũng xem quá trình tiệm tiến đó là một phần của cạnh tranh năng động, khác với hình thái cạnh tranh tĩnh (static competition). Ở đó, chính lợi nhuận lớn của các công ty có sức mạnh đã thúc đẩy việc tham gia của các đối thủ cạnh tranh mới. Chừng nào lợi nhuận của những công ty đang nắm giữ sự độc quyền còn hấp dẫn thì chừng đó còn có sự tham gia của các 11 Jianbin Zhang and Dan Gao, “Review on the Research of Dynamic Competition Theory,” Journal of Human Resource and Sustainability Studies 02 (November 12, 2014): 247. 12 Paul J. McNulty, “Competition, Austrian,” in The New Palgrave Dictionary of Economics (London: Palgrave Macmillan UK, 2017), 1–3. 13 Zhang and Gao, “Review on the Research of Dynamic Competition Theory,” 247. 14 Willi Semmler, “Competition: Marxian Conceptions,” in The New Palgrave Dictionary of Economics (London: Palgrave Macmillan UK, 2016), 1–5. 48
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng công ty mới. Cạnh tranh trở thành một tiến trình “đóng-mở” (open-ended process) sáng tạo, kiểm nghiệm và phản hồi nhằm tiệm cận mục đích cuối cùng là tìm ra dịch vụ, chi phí hay mức giá hợp lý nhất.15 Quan trọng là, những đối thủ mới sẽ không có khả năng cạnh tranh hiệu quả bằng cách cung cấp các sản phẩm và dịch vụ giống sản phẩm và dịch vụ của các công ty lớn, vì họ không có sẵn mạng lưới lẫn lợi thế kinh tế về quy mô. Cho nên, lựa chọn khôn ngoan là sáng tạo ra các sản phẩm tương tự khác để có thể dành lấy đi một phần thị trường cũng như doanh thu của các công ty thống lĩnh. Bằng chứng, không giống như Microsoft, Apple đã không quan tâm cũng như không có hào hứng để ôm trọn thị trường của Microsoft mà đã tung ra Iphone, Ipod, Ipad rồi mới đến Mac và IOS sau này để len lỏi và dần dần thay thế sự lựa chọn của người tiêu dùng về phía mình. Mấu chốt của cạnh tranh năng động vì vậy chính là sự khác biệt, ý tưởng mới lạ và khả năng sáng tạo khi đã đủ trải nghiệm. Theo nghiên cứu của Fabrizio thì lợi thế cạnh tranh bền vững của đoanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào khả năng phát triển kiến thức, sáng tạo quá trình và khai thác khối kiến thức đó một cách hiệu quả. Và chính năng lực sáng tạo sẽ giúp doanh nghiệp kiến tạo giá trị cho sản phẩm và dịch vụ tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh nhưng kết quả nghiên cứu của Terziovski.16 Nói tóm lại, cạnh tranh từ sản phẩm mới, công nghệ mới, nguồn cung ứng mới và mô hình tổ chức mới có ý nghĩa rất quan trọng, như Schumpeter đã từng tổng kết. Những công ty còn sống sót và phát triển sau đó chính là những công ty tiên phong trong việc tìm ra nhu cầu thật sự của người tiêu dùng cùng cách thức tốt nhất để làm ra sản phẩm đó. Thậm chí, các hãng cũng cần phải đủ tỉnh táo để từ bỏ hay thêm thắt các dịch vụ, nâng cấp sản phẩm theo công nghệ mới hay thậm chí phải thay đổi giá cả khi điều kiện thị trường thay đổi. Thay đổi chiến lược kinh doanh mau chóng cũng được nhắc đến như một mưu lược sáng tạo mang lại nhiều ý nghĩa cho môi trường hủy diệt để sinh tồn. 3. Vài hàm ý cho chính sách chống độc quyền 3.1. Tình huống thị trường Việt Nam Cuộc giằng co giữa các tay chơi trên thị trường Việt Nam có vẻ cũng không biệt gì so với cuộc chiến khốc liệt giữa các đại gia quốc tế. Tranh cãi ồn ào giữa Vinasun và Grab hay taxi công nghệ gần đây là minh chứng điển hình. Không khó để nhận ra những lợi thế của Grab (và cả Uber trước đó) về vốn, chiến lược marketing, quản trị lẫn mức độ công nghệ hóa sản phẩm. Nhưng không thể không kể đến nhân tố quan trọng trong chiếm lĩnh thị trường thành công của taxi công nghệ là độ nhạy và khả năng dự liệu trước nhu cầu của người tiêu dùng. Quan trọng hơn, mô hình kinh doanh nền tảng lưỡng diện (two side platform) mang lại quá nhiều lợi thế cho taxi công nghệ. Đến mức, Grab chằng có vẻ gì suy yếu dù có quá nhiều tay chơi taxi công nghệ “nội địa” mới xung trận sau đó nhờ Grab có được lợi thế ngoại tác mạng lưới từ mô hình được gầy dựng từ trước. Chắc hẳn, nhiều nhà kinh doanh mưu lược của Việt Nam không quá xa lạ với định hướng của chủ thuyết cạnh tranh năng động. Nhưng có vẻ, không phải bất kỳ tay chơi nào cũng nắm bắt, hay ít ra khai thác được nó, thậm chí là còn chút ít ù lì và khinh địch như Microsoft đã từng. Hệ quả là những cuộc đối đầu về mặt pháp lý tiếp tục bị trượt dài mà khó có thể tìm được đường ra. 3.2. Định vị lại chính sách chống độc quyền Tương tự Apple hay Google, Microsoft từ thời hoàng kim cũng đã đối diện với rất nhiều vụ kiện, cả về cạnh tranh lành mạnh lẫn độc quyền. Các tranh cãi tốn kém và bầm dập trong lựa chọn chính sách cũng kéo dài dai dẳng. 15 Becker, “Dynamic Competition and Anti Trust Policy.” 16 Dẫn theo: Nguyen Phuc Nguyen, “Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Động Của Các Doanh Nghiệp: Nghiên Cứu Trong Lĩnh Vực Du Lịch,” Tạp Chí Kinh Tế & Phát Triển 225, no. II (March 2016): 101. 49
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Becker cho rằng, phán quyết của các cơ quan tư pháp cho các cáo buộc nêu trên không khiến các bị đơn thay đổi mà thậm chí còn đẩy hãng này rời xa mục tiêu đổi mới sáng tạo ban đầu. Chính sách cạnh tranh vì vậy cần được định vị trong bối cảnh cạnh tranh năng động, thay vì tiếp tục được thiết kế trong không gian hạn hữu của cạnh tranh tĩnh. Đế chế taxi truyền thống cần phải từ bỏ sự thống trị hay tiếp tục liên minh tạo sức ép thị trường như đã từng hoặc là taxi công nghệ cần phát huy vai trò hay quay về với một sản phẩm taxi cũ từng có trên thị trường là những lựa chọn nghiệt ngã và đều phải trả giá. Các bài toán về hiệu quả và phúc lợi vì vậy luôn luôn được chú ý. Liệu chính quyền có thể để thị trường tự rượt đuổi và thanh lọc theo những hấp lực về doanh thu và lợi nhuận độc quyền là một câu hỏi chính sách quá khó. Becker lẽ dĩ nhiên cho rằng, không cần thiết phải tốn quá nhiều thời gian và chi phí để chống lại các công ty độc quyền với giả thuyết về khả năng các công ty đối thủ mới sẽ xuất hiện để “bào mòn” lợi nhuận độc quyền của các công ty lớn. Becker thậm chí còn tuyên bố, có thể để các công ty lớn tạm thời chi phối quyền lực kinh tế như Marx đã từng tuyên bố. Đương nhiên, sự lý giải của Becker đã mở rộng ra với xu thế phát triển chung của thị trường ở thời điểm mới. Nhưng “tạm thời” sẽ là bao lâu, và liệu có phải tình trạng độc quyền đó không làm hao tổn lợi ích của người tiêu dùng khi khả năng xuất hiện các công ty đối thủ mới chỉ tồn tại ở dạng giả thuyết hay chỉ là các bằng chứng kinh nghiệm vừa thấy. Chính nỗi lo lắng này đã lý giải về sự tồn tại tiếp tục của chính sách chống độc quyền cùng với sự gia tăng theo thời gian số lượng các phán quyết. Nhưng tư duy giá, lợi nhuận, tiền thuê hay lương được quyết định qua cạnh tranh và tiến hành kiểm soát cạnh tranh qua các yếu tổ đó dựa trên cá mối quan hệ giữa sản xuất và phân phối mà thiếu nhìn nhận về các cơ chế phối hợp về mặt kinh tế và xã hội một cách trực tiếp và rõ ràng là cách tiếp cận cũ.17 Rõ ràng, việc xem xét yếu tố giá một cách tách bạch cần được thay thế bởi cách đánh giá mức độ tác động của chất lượng và tính năng của sản phẩm hay hiệu quả thị trường. Phê bình khung giá của Grab, taxi công nghệ hay các sản phẩm từ dịch vụ nền tảng khác mà quên đi đặc trưng cơ chế giá không trung lập (non-neutral price strategy) của mô hình kinh doanh sẽ không mang lại ý nghĩa, thậm chí phiến diện. Ngược lại, cần thận trọng với chính sách yêu cầu các nền tảng cởi mở hơn để tháo bỏ mức độ độc quyền vì nó có thể dẫn đến quá trình độc quyền hóa cho chính công ty đó do các tay chơi mới không còn hứng thú để sáng tạo và gia nhập thị trường. Hay sự kiểm soát, phân biệt đối xử và thậm chí nỗ lực cài “khóa” sản phẩm, dịch vụ cần phải được đánh giá kỹ lưỡng theo tinh thần cân bằng hợp lý (rule of reason) để tránh sai lầm hay thủ tiêu động lực cạnh tranh. Theo Alan Hughes, cạnh tranh cần được phân tích trên cơ sở sự tiếp cận tiến trình năng động gắn kết với những thay đổi về mặt cấu trúc dựa từ các hành vi của thị trường chủ phải dựa trên trạng thái của vấn đề. Những ước muốn thị trường hoàn thiện với hiệu quả Pareto khá mông lung. Quy tắc giá cả phù hợp thực ra chỉ đúng với từng trường hợp cụ thể và thậm chí trong một chừng mực nào đó còn bị làm chệch đi so với chi phí biên. Lý thuyết về cái tốt thứ nhì vì vậy cần được xem xét trong định hình chính sách cạnh tranh.18 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Becker. “Dynamic Competition and Anti Trust Policy.” The Becker-Posner Blog (blog), September 2, 2013. becker.html. [2] Birkeland, Tine Helene. “Trade Theory and Intraindustry Trade: Data from European Trade 1970 – 17 John Eatwell, “Competition, Classical,” in The New Palgrave Dictionary of Economics, ed. Palgrave Macmillan (London: Palgrave Macmillan UK, 2008), 1–6. 18 Alan Hughes, “Competition Policy,” in The New Palgrave Dictionary of Economics (London: Palgrave Macmillan UK, 2016), 1–5. 50
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 2010.” Master Thesis, University of Oslo, 2012. [3] Caballero, Ricardo J. “Creative Destruction.” In The New Palgrave Dictionary of Economics (Editted by Durlauf, Steven N.; Blume, Lawrence E.), 1–5. London: Palgrave Macmillan UK, 2017. [4] Caballero, Ricardo J, and Mohamad L Hammour. “Creative Destruction and Development: Institutions, Crises, and Restructuring.” Working Paper. National Bureau of Economic Research, August 2000. [5] Eatwell, John. “Competition, Classical.” In The New Palgrave Dictionary of Economics, edited by Palgrave Macmillan, 1–6. London: Palgrave Macmillan UK, 2008. [6] Heertje, Arnold. “Creative Destruction (Schumpeterian Conception).” In The New Palgrave Dictionary of Economics, 1–2. London: Palgrave Macmillan UK, 2017. [7] Hughes, Alan. “Competition Policy.” In The New Palgrave Dictionary of Economics, 1–5. London: Palgrave Macmillan UK, 2016. [8] Lancaster, K. J. “Non-Price Competition.” In The New Palgrave Dictionary of Economics, 1–4. London: Palgrave Macmillan UK, 2016. [9] McNulty, Paul J. “Competition, Austrian.” In The New Palgrave Dictionary of Economics, 1–3. London: Palgrave Macmillan UK, 2017. [10] Phuc Nguyen, Nguyen. “Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Động Của Các Doanh Nghiệp: Nghiên Cứu Trong Lĩnh Vực Du Lịch.” Tạp Chí Kinh Tế & Phát Triển, ĐH Kinh Tế TP.HCM 225, no. II (March 2016): 99–107. [11] Schumpeter, Joseph Alois. Capitalism, Socialism and Democracy. Retrieved 23 November 2011. Routledge, 1976. [12] Semmler, Willi. “Competition: Marxian Conceptions.” In The New Palgrave Dictionary of Economics, 1–5. London: Palgrave Macmillan UK, 2016. [13] Zhang, Jianbin, and Dan Gao. “Review on the Research of Dynamic Competition Theory.” Journal of Human Resource and Sustainability Studies 02 (November 12, 2014): 246. 51