Xác định và phát triển các ngành kinh tế có lợi thế trong bối cảnh tự do hóa thương mại

pdf 274 trang Gia Huy 19/05/2022 1460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Xác định và phát triển các ngành kinh tế có lợi thế trong bối cảnh tự do hóa thương mại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfxac_dinh_va_phat_trien_cac_nganh_kinh_te_co_loi_the_trong_bo.pdf

Nội dung text: Xác định và phát triển các ngành kinh tế có lợi thế trong bối cảnh tự do hóa thương mại

  1. ISBN: 978-604-84-4316-0 HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP QUỐC GIA XÁC ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ CÓ LỢI THẾ TRONG BỐI CẢNH TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI Đà Nẵng, ngày 29 tháng 03 năm 2019
  2. BAN TỔ CHỨC 1. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Toàn Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Trưởng ban ĐHĐN 2. PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Đồng Trưởng ban Luật, ĐHQG Tp. HCM 3. PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh Phó trưởng ban tế - ĐHĐN 4. PGS.TS. Hoàng Công Gia Khánh Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh Ủy viên tế - Luật, ĐHQG Tp. HCM 5. PGS.TS. Nguyễn Phúc Nguyên Trưởng phòng KH&HTQT – Trường Ủy viên ĐHKT- ĐHĐN 6. PGS.TS. Trịnh Quốc Trung Trưởng phòng QLKH, Trường Đại học Ủy viên Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp. HCM 7. ThS. Nguyễn Đình Hưng Trưởng phòng Kế hoạch – Tài chính, Ủy viên Trường Đại học Kinh tế - Luật BAN NỘI DUNG 1. PGS.TS. Đào Hữu Hòa Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh Trưởng ban tế - ĐHĐN 2. TS. Lê Tấn Lộc Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh Ủy viên tế - Luật, ĐHQG Tp. HCM 3. GS.TS. Nguyễn Thị Cành Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG Ủy viên Tp. HCM 4. PGS.TS. Nguyễn Chí Hải Trưởng Khoa Kinh tế, Trường Đại học Ủy viên Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp. HCM 5. TS. Nguyễn Thị Thúy Giang Trưởng Khoa Kinh tế đối ngoại, Trường Ủy viên Đại học Kinh tế - Luật 6. PGS.TS. Bùi Quang Bình Giám đốc TT Đào tạo và Bồi dưỡng, Ủy viên Trường Đại học Kinh tế 7. TS. Ninh Thị Thu Thủy Trưởng Khoa Kinh tế, Trường Đại học Ủy viên Kinh tế 8. TS. Nguyễn Thị Thủy Trưởng Khoa Kinh doanh quốc tế, Ủy viên Trường Đại học Kinh tế 9. TS. Lê Bảo Phó Trưởng Khoa Kinh tế, Trường Đại Ủy viên học Kinh tế 10. TS. Nguyễn Hoàng Dũng Phó Trưởng Khoa Kinh tế đối ngoại, Ủy viên Trường Đại học Kinh tế - Luật 11. ThS. Phạm Mỹ Duyên Phó Trưởng Khoa Kinh tế, Trường Đại Ủy viên học Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp. HCM 12. ThS. Nguyễn Anh Tuấn Phó Trưởng P.QLKH - Trường Đại học Ủy viên Kinh tế - Luật
  3. MỤC LỤC Stt Tên bài báo Tác giả Trang 1 Đánh giá lợi thế so sánh ngành giày da Việt Nam TS. Lê Tuấn Lộc, ThS. 1 trong khu vực ASEAN thông qua chỉ số lợi thế Nguyễn Văn Nên so sánh hiển thị 2 Đo lường lợi thế cạnh tranh, sản phẩm động lực GS.TS. Nguyễn Thị Cành 9 (chủ lực) và một số kết quả tính toán cho các sản phẩm TP HCM 3 Nâng cao lợi thế cho ngành chế biến gỗ xuất ThS. Nguyễn Văn Nên 19 khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 4 Phát huy thế mạnh về nông nghiệp xanh và du TS Nguyễn Thị Giang 29 lịch sinh thái trong bối cảnh tự do hóa thương mại hiện nay ở Việt Nam 5 Cải cách thể chế tạo động lực cho các ngành có PGS.TS. Phan Đức Dũng 34 lợi thế phát triển trong bối cảnh tự do hóa thương mại 6 Từ lợi thế so sánh đến lợi thế cạnh tranh: Nghiên Trương Trọng Hiếu 45 cứu tổng hợp từ lý thuyết cạnh tranh huỷ diệt sáng tạo 7 Phát triển du lịch Việt Nam trong bối cảnh toàn ThS. Lê Đức Thọ 52 cầu hóa - Thực trạng và giải pháp 8 Cộng đồng kinh tế ASEAN đến và lao động ThS. Nguyễn Tấn Danh 60 ngành du lịch ở nước ta trong bối cảnh tự do hóa thương mại hiện nay 9 Tự do hóa thương mại và triển vọng về công Dương Trường Phúc 70 nghiệp văn hóa ở Việt Nam
  4. 10 Phân tích lợi thế so sánh các ngành sản phẩm TS. Trần Văn Đức 77 của Việt Nam 11 Phát triển lợi thế của ngành nông nghiệp Việt Phan Thị Thu Hà 87 Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại 12 Hiệp định CPTPP cơ hội và thách thức đối với TS. Trần Thị Thanh Xuân 95 năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam 13 Sử dụng ma trận hạch toán xã hội trong việc xác TS. Nguyễn Thị Hương 105 định ngành kinh tế có lợi thế của VN 14 Toàn cầu hóa kinh tế, xu hướng và thách thức PGS.TS - Bùi Văn Trịnh, 116 mới ThS. Đoàn Tuấn Phong 15 Lợi thế so sánh của Việt Nam khi tham gia các ThS.Trần Thị Trang, 122 FTA thế hệ mới ThS. Hoàng Thị Lan Phương 16 Xu hướng tự do hóa thương mại trong hoạt động TS. Phạm Thị Bạch Tuyết 129 xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 17 Hiệu quả sử dụng đầu vào trong sản xuất bắp lai ThS. Lê Văn Dễ, PGS.TS 139 đồng bằng sông Cửu Long: Ứng dụng phương Phạm Lê Thông pháp ước lượng một bước 18 Nghiên cứu tác động của chuyển dịch cơ cấu PGS.TS Nguyễn Mạnh 150 kinh tế ngành đến tình trạng nghèo đói và bất Toàn, PGS.TS Đào Hữu bình đẳng ở Việt Nam Hòa, TS Nguyễn Thị Hương 19 Chính sách phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Nguyễn Duy Tiến, Ths. 167 Việt Nam dưới sự tác động của cuộc cách mạng Nguyễn Thị Lệ công nghiệp 4.0 20 Cơ hội từ hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ PGS.TS. Trần Văn 174 xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với xuất khẩu Quyết, TS. Ngô Thị Mỹ hàng hóa của Việt Nam
  5. 21 So sánh vị thế cạnh tranh xuất khẩu nông nghiệp Phạm Ngọc Ý 180 của Việt Nam và Thái Lan 22 Ngành ngân hàng – Ngành kinh tế lợi thế trong ThS. Tiêu Thị Thanh Hoa 188 cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 23 Phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo có lợi TS. Phan Thế Công, ThS. 196 thế cạnh tranh ở Việt Nam Phạm Đăng Ninh 24 Hàm phản ứng cung NERLOVE của tôm sú ở ThS. Lê Nhị Bảo Ngọc, 208 đồng bằng sông Cửu Long TS. Lê Quang Thông 25 Phát triển nguồn nhân lực cho ngành kinh tế ThS. Nguyễn Thị Lệ 218 mũi nhọn của Việt Nam thời 4.0 – Điển hình ngành công nghệ thông tin 26 Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp việt Nguyễn Thị Hường 225 nam trong điều kiện gia nhập CPTPP 27 Lợi thế của các ngành kinh tế trong bối cảnh tự Nguyễn Thị Kim Anh 238 do hóa thương mại nhìn từ góc độ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 28 Tác động của tự do thương mại lên quy mô của Hoàng Hà 245 nền kinh tế ngầm 29 Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nguyễn Thị Hường 253 Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 30 Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính ổn ThS. Nguyễn Thị Diệu 259 định duy trì lợi nhuận của các doanh nghiệp sản Thanh xuất HTD niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
  6. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng ĐÁNH GIÁ LỢI THẾ SO SÁNH NGÀNH DA GIÀY VIỆT NAM TRONG KHU VỰC ASEAN THÔNG QUA CHỈ SỐ LỢI THẾ SO SÁNH HIỂN THỊ TS. Lê Tuấn Lộc, ThS. Nguyễn Văn Nên Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM loclt@uel.edu.vn, nennv@uel.edu.vn TÓM TẮT Nghiên cứu thực hiện phân tích lợi thế so sánh ngành da giày của Việt Nam và các nước trong khu vực Asean thông qua chỉ số lợi thế so sánh hiển thị. Kết quả cho thấy Việt Nam luôn dẫn đầu, chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngành da giày của tất cả các nước Asean và có khoảng cách rất xa với các nước còn lại trong khu vực. Về tổng thể, chỉ có 3 trong số 10 nước Asean có lợi thế so sánh trong ngành da giày. Tại thị trường Châu Âu, lợi thế so sánh của Việt Nam dẫn đầu cho đến năm 2013 và xếp sau Campuchia từ năm 2014. Tại thị trường Hoa Kỳ, chỉ số lợi thế so sánh Việt Nam luôn tăng đều qua các năm và giữ vị trí dẫn đầu trong khu vực. Tại thị trường này, vị trí của Campuchia đã có sự sụt giảm và không thể cạnh tranh với Việt Nam, chỉ số RCA ngành da giày của Việt Nam đã tăng hơn mười lần so với thị trường thế giới. Kết quả trên cho thấy, bên cạnh việc tiếp cận các thị trường mới như Hoa Kỳ, Việt Nam cũng cần chú ý và giữ vững thị phần, vị thế của mình tại thị trường truyền thống Châu Âu, đặc biệt là tận dụng sự mở của từ FTA với EU, ưu thế mà các nước đang có lợi thế so sánh hơn Việt Nam về ngành da giày trong khu vực không có được. Từ khóa: da giày, Việt Nam, lợi thế so sánh, Asean 1. Giới thiệu Ngành giày da của thế giới đang tiếp tục chuyển đổi việc sản xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, nền chính trị ổn định, hòa bình. Khi gia nhập WTO, thuế quan được cắt giảm theo lộ trình và bãi bỏ, cùng với những chính sách khuyến khích xuất khẩu, sản xuất, Việt Nam trở thành điểm đến cho việc đầu tư của các nhà sản xuất giày da. Ngành công nghiệp da giày Việt Nam đã phát triển rất nhanh và được xem là một trong những ngành công nghiệp chính đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển. Không chỉ tăng trưởng cao về tốc độ, xuất khẩu da giày còn tăng trưởng mạnh tại các thị trường trọng điểm như: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Braxin. Ngành da giày đã có được lợi thế so sánh nhất định trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam phát huy lợi thế giá rẻ trong lao động để phát triển ngành da giày theo hướng gia công trong giai đoạn gần đây đã gặp không ít khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế đã làm tăng giá cả lao động tại Việt Nam. Đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt về nhân công giá rẻ của các nước trong khu vực Asean như Lào và Campuchia. Điều này đặt ra yêu cầu trong việc xác định cụ thể vị trí, lợi thế so sánh về ngành da giày của Việt Nam trong khu vực Asean, để từ đó có những điều chỉnh định hướng, chính sách phát triển cần thiết. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu Các mô hình xác định lợi thế so sánh của quốc gia ở cấp độ ngành hay sản phẩm thông quan chỉ số lợi thế so sánh hiển thị đã được phát triển qua các nghiên cứu của Liesner (1958), Balassa (1965), White (1987), Greenaway và Milner (1993). Nhiều công trình nghiên cứu đã ứng dụng cơ sở lý thuyết và cách thức xác định chỉ số lợi thế so sánh của các nhà nghiên cứu nêu trên để nghiên cứu lợi thế so sánh của các quốc gia ở những nhóm ngành hay sản phẩm cụ thể, như là của Amir Mahmood (2004), Amita Batra & Zeba Khan 1
  7. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng (2005), Widgren & Mika (2005), John Weiss (2005), Rukhsana Kalim (2013), Macleans Mzumara, Anna Chingarande & Roseline Karambakuwa (2012), Lalit Mohan Kathuria (2013), Saiful Islam, Parag Jafar Siddique (2014) Nghiên cứu này sẽ dựa trên công thức tính toán của Balassa (1965) [1] để tính toán chỉ số lợi thế so sánh hiện thị RCA (Revealed Comparative Advantage) đối với ngành da giày của Việt Nam và các nước khu vực Asean. RCA lớn hơn 1 cho thấy quốc gia có lợi thế so sánh, RCA càng lớn thì lợi thế so sánh càng cao và ngược lại. Chỉ số RCA được xác định như sau: Trong đó: : Chỉ số lợi thế so sánh của nước i đối với sản phẩm j : Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của nước i : Tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i : Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của thế giới : Tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới Bên cạnh đó, mô hình của White (1987) [5] là một sự mở rộng mô hình của Balassa. Phương pháp này được tính toán dựa trên nguồn cung xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu của một hàng hóa nhất định trong một quốc gia. Do đó, chỉ số của White phản ảnh được kết quả lợi thế so sánh ròng (trong khi mô hình của Balassa chỉ đề cập đến phần xuất khẩu). Chỉ số lợi thế so sánh theo mô hình này được tính như sau: Trong đó: : Chỉ số lợi thế so sánh của nước i đối với sản phẩm j , : Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm j của nước i , : Tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của nước i : Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j của thế giới : Tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới Theo cách tính toán này, nếu RCA1>1 và RCA2>0 thì chứng tỏ cả hai mô hình đều phản ảnh đúng thực tế và kết quả là quốc gia i có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Tuy nhiên, nếu kết quả không giống nhau thì cả hai mô hình không có tính nhất quán và chưa thể kết luận là sản phẩm j của quốc gia có lợi thế so sánh hay không. Do đó, nghiên cứu này sẽ dựa trên công thức tính RCA - Balassa, đồng thời sẽ sử dụng công thức RCA - White kiểm chứng lại kết quả để từ đó có những nhận định, đánh giá phù hợp nhất với thực tế tại Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ kết quả xuất khẩu các mặc hàng da giày của Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu da giày của thế giới và tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới 2
  8. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng từ nguồn dữ liệu của UN Comtrade. Bộ dữ liệu sẽ được sử dụng để tính toán chỉ số RCA theo công thức của Balassa và White. 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Tổng quan về tinh hình xuất khẩu da giày Việt Nam Về doanh nghiệp sản xuất, với 5128 doanh nghiệp đang hoạt động (số liệu thống kê cuối năm 2017 từ Lefaso), ngành da giày đang là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, thu hút khoảng 1 triệu lao động. Ngành da giày đã mang lại công việc cho một số lượng lớn lao động phổ thông. Song song với các hoạt động thu hút khá lớn nguồn nhân lực thì doanh nghiệp còn tạo ra an sinh xã hội đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Về kim ngạch xuất khẩu, nhiều năm trở lại đây, ngành da giày Việt Nam liên tiếp đạt được những thành quả đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu. Ba năm trở lại đây ngành da giày đã đưa Việt Nam vào trong top 10 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về da giày. Riêng xuất khẩu vào thị trường châu Âu, da giày Việt Nam chỉ đứng thứ 2 sau Trung Quốc. Vị thế này được dự báo sẽ tiếp tục duy trì trong 5 năm tới. Về thị trường xuất khẩu, liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Braxin là các đối tác lớn nhất nhập khẩu giầy dép của Việt Nam. Tổng kim ngạch cộng gộp hàng giày dép xuất sang 5 thị trường chiếm gần từ 75 -80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của cả nước. Với định hướng phát triển dựa trên quan điểm tham gia vào các khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị, trong thời gian qua Việt Nam đã không ngừng đẩy mạnh phát triển công nghiệp ngành da giày, tập trung vào khâu có gia trị gia tăng tiếp theo mà Việt Nam có thể tham gia. Tuy nhiên, điểm yếu của ngành da giày Việt Nam là không phát triển sản xuất giày dép song song với phát triển công nghiệp hỗ trợ như một số nước khác. Cùng với đó là sự yếu kém về công nghệ, thiết bị và thiếu nguồn lực tài chính của doanh nghiệp đã làm cho công nghiệp hỗ trợ da giày Việt Nam không thể cất cánh, từ đó gây khó khăn cho sản xuất thành phẩm khi mà ngành công nghiệp da giày Việt Nam vẫn chủ yếu dựa trên gia công, nguyên phụ liệu chủ yếu phải nhập khẩu với gần 60% nguyên liệu. 3.2. Lợi thế so sánh ngành da giày Việt Nam và khu vực Asean trên thị trường thế giới So với các nước trong khu vực Asean, kim ngạch xuất khẩu ngành da giày của Việt Nam luôn giữ vai trò thống trị quá các năm và đều tăng trưởng mạnh qua các năm. Riêng năm 2009 có sự sụt giảm do khủng hoảng toàn cầu nhưng đã có sự tăng trưởng mạnh trở lại vào những năm sau đó. Với kim ngạch xuất khẩu chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu giày cả khu vực, có thể khẳng định không có một quốc gia nào trong khu vực có thể cạnh tranh được với Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu da giày. Điều này còn một lần nửa được khẳng định thông qua chỉ số lợi thế so sánh trong ngành da giày. Chỉ số RCA – Balassa và RCA – White đều cho thấy trong khu vực Asean, chỉ có 3 nước có lợi thế so sánh cao trong sản xuất và xuất khẩu trong ngành da giày là Việt Nam, Campuchia và Indonesia. Từ gian đoạn 2010-2013, Việt Nam đều có lợi thế so sánh rất cao và luôn dẫn đầu với khoảng cách xa với các nước còn lại. Chiến lược thu hút đầu tư FDI và tận dụng nguồn vốn nước ngoài để giải quyết việc làm đúng hướng đã tạo nên năng lực sản xuất và xuất khẩu giày dép của Việt Nam dẫn đầu trong khu vực. Bảng 1: Chỉ số lợi thế so sánh ngành da giày các nước Asean trên thị trường thế giới Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 RCA - Balassa Campuchia 4,95 6,32 6,00 5,73 12,39 12,45 12,86 13,34 Việt Nam 11,31 11,00 10,31 9,69 9,43 9,46 9,85 10,21 Indonesia 2,48 2,58 2,91 3,10 3,09 3,12 3,16 3,03 Lào 0,98 0,87 1,01 0,81 0,74 0,72 0,69 0,65 Myanmar 1,08 1,92 2,14 1,66 0,72 0,68 0,69 0,62 3
  9. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng RCA - White Campuchia 4,33 5,55 5,09 4,88 11,28 11,33 11,41 12,58 Việt Nam 10,79 10,54 9,87 9,22 8,95 9,02 9,16 9,98 Indonesia 2,21 2,27 2,59 2,74 2,76 2,82 2,86 2,66 Lào 0,82 0,68 0,40 0,56 0,63 0,61 0,57 0,54 Myanmar 0,83 0,87 1,00 0,79 0,66 0,52 0,52 0,49 Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Trade map Tuy nhiên, dù có kim ngạch xuất khẩu cao tuyệt đối trong khu vực nhưng đến năm 2014, Việt Nam không thể cạnh tranh với Campuchia về lợi thế so sánh dựa trên chỉ số lợi thế so sánh hiển thị RCA. Kim ngạch xuất khẩu của Campuchia dù chỉ đứng thứ ba nhưng có xu hướng tăng nhanh hơn Việt Nam. Năm 2014 chứng kiến một sự tăng trưởng đột biến trong kim ngạch xuất khẩu da giày của Campuchia với tốc độ tăng 230%, trong khi Việt Nam chỉ tăng hơn 22%. Điều này làm cho Campuchia vươn lên dẫn đầu mười nước Asean về lợi thế so sánh trong sản xuất và xuất khẩu da giày từ giai đoạn 2014-2017. Hình 1 : Chỉ số RCA – Balassa ngành da giày Việt Nam, Campuchia và Indonesia Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Trade map Kết quả trên cho thấy, lợi thế so sánh của ngành da giày Việt Nam đã giảm dần trong giai đoạn 2010 – 2014 và có sự tăng nhẹ trong những năm gần đây nhưng vẫn còn thấp hơn so với giai đoạn trước. Trong khi đó, Campuhia đã có sự cải thiện rất rõ rệt vị trí của mình trong khu vực. Xu hướng chuyển dịch đầu tư FDI sang Campuchia của những thương hiệu gia công giày dép lớn vì khả năng cạnh tranh về lao động giá rẻ của Việt Nam trong thời gian gần đây giảm đã giúp Campuchia có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần có những chiến lược mới trong phát triển ngành da giày, thay vì tập trung kêu gọi đầu tư vào các khâu gia công tạo ra giá trị gia tăng kém thì nên chú trọng đến các khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị, mà gần nhất là sản xuất các nguyên phụ liệu cho ngành. 3.3. Lợi thế so sánh ngành da giày Việt Nam và khu vực Asean tại Hoa Kỳ, EU Tại thị trường EU và Hoa Kỳ, Việt Nam tiếp tục dẫn đầu khu vực về kim ngạch xuất khẩu da giày. Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu vào hai thị trường này lần lượt chiếm 67% và 78% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Asean. Bảng 2: Tỷ trọng KNXK da giày Việt Nam trong tổng kim ngạch Asean Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Vào thị trường thế giới 55% 57% 58% 58% 60% 61% 60% 62% Vào thị trường EU 62% 60% 61% 60% 62% 64% 64% 67% Vào thị trường Hoa Kỳ 67% 68% 69% 69% 71% 75% 76% 78% Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Trade map 4
  10. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Tại thị trường EU, kết quả phân tích chỉ số RCA – Balassa và RCA – White cho thấy mức độ cạnh tranh đã gia tăng khi xuất hiện thêm Thái Lan là nước có lợi thế so sánh tại thị trường này. Cùng với xu hướng của thị trường thế giới, tại thị trường EU, lợi thế so sánh ngành da giày của Việt Nam cũng ở mức rất cao hơn các nước trong khu vực (ngoại trừ năm 2014 có sự phát triển vượt bậc của Campuchia). Tuy nhiên lợi thế so sánh của Việt Nam kại có xu hướng giảm, trong khi các nước lại có xu hướng tăng. Áp lực cạnh tranh sản xuất, xuất khẩu và định hướng phát triển của các nước trong khu vực đã nâng cao dần vị trí cạnh tranh trong ngành da giày tại thị trường EU trong những năm qua. Đó cũng là thách thức của Việt Nam khi mà EU là thị trường xuất khẩu da giày truyền thống và quan trọng bậc nhất của Việt Nam. Bảng 3 : Chỉ số RCA hàng da giày các nước vào thị trường EU Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 RCA - Balassa Việt Nam 25,85 22,94 20,89 18,49 18,13 18,10 17,95 17,71 Camphuchia 18,02 15,46 13,50 11,33 33,36 33,41 33,86 34,52 Indonesia 10,94 11,44 12,56 12,55 11,88 11,91 12,04 12,27 Thái Lan 2,17 2,04 1,40 1,43 1,38 1,36 1,42 1,41 RCA - White Việt Nam 25,80 22,84 20,79 18,37 18,02 17,98 17,82 17,64 Campuchia 18,00 15,42 13,49 11,25 32,27 32,85 33,14 33,25 Indionesia 10,84 11,34 12,48 12,44 11,77 11,81 11,96 12,07 Thái Lan 2,09 1,97 1,30 1,33 1,23 1,21 1,33 1,31 Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Trade map Đối với thị trường Hoa Kỳ, định hướng phát triển thương mại tự do và đẩy mạnh hợp tác với thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới của Việt nam đã mang lại kết quả khả quan cho công nghiệp Việt Nam nói chung và ngành da giày nói riêng. Tại thị trường Hoa Kỳ, bốn nước Việt Nam, Campuchia, Indonesia và Thái Lan tiếp tục là nhưng nước có chỉ số lợi thế so sánh lớn hơn 1 trong chỉ số RCA – Balassa và RCA - White. Về số liệu tuyệt đối, chỉ số lợi thế cạnh tranh da giày của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ luôn lớn hơn 100, nghĩa là chúng ta có lợi thế so sánh rất lớn tại thị trường này. Trong khu vực Asean, Việt Nam luôn giữ vai trò quán quân và tăng đều lợi thế so sánh qua các năm, kể cả sự phát triển vượt bậc của Campuchia vào năm 2014. Bảng 4: Chỉ số RCA hàng da giày các nước Asean vào thị trường Hoa Kỳ Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 RCA - Balassa Mỹ Việt Nam 114,51 130,07 132,58 126,23 130,27 132,42 134,17 134,86 Camphuchia 9,83 14,26 15,33 19,96 62,56 70,25 72,36 76,38 Indonesia 45,6 50,24 69,26 74,39 75,32 76,12 77,91 77,96 Thái Lan 6,96 6,72 5,23 4,81 4,76 4,55 4,56 4,13 RCA - White Mỹ Việt Nam 113,5 129,04 131,87 125,24 129,07 129,42 133,72 133,81 Campuchia 9,5 14,26 15,33 19,95 62,53 68,85 71,12 75,69 Indionesia 45,56 50,13 69,15 74,3 75,2 75,89 76,11 76,07 5
  11. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Thái Lan 6,95 6,71 5,22 4,79 4,74 4,51 4,50 4,06 Nguồn: Tính toán từ dữ liệu Trade map 3.4. Đánh giá vị trí cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam trong Asean từ chỉ số RCA Dựa trên chỉ số lợi thế so sánh hiển thị RCA – Balassa và được kiểm chứng lại bởi chỉ số RCA - White, có thể khẳng định Việt Nam đang có vị trí cạnh tranh rất lớn tại khu vực Asean trong ngành da giày. Thứ nhất, về kim ngạch xuất khẩu da giày, Việt Nam luôn dẫn đầu, chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngành của tất cả các nước Asean và có khoảng cách rất xa với các nước còn lại trong khu vực trên phạm vi toàn thế giới hoặc những thị trường lớn như Hoa Kỳ và EU. Thứ hai, về chỉ số lợi thế so sánh RCA trên phương diện toàn thế giới, chỉ có 3 trong số 10 nước Asean có lợi thế so sánh. Trong đó, da giày Việt Nam có lợi thế so sánh dẫn đầu các nước đến năm 2013 và luôn giữ khoảng cách khoảng 2,5 lần so với Campuchia và 3 lần so với Indonesia. Tuy nhiên, từ sau năm 2014, lợi thế so sánh của Việt Nam đã có đã xếp sau Campuchia do khả năng cạnh tranh về nguồn lao động giá rẻ tại Campuchia đã hút hút mạnh mẽ nhà đầu tư. Thứ ba, về chỉ số lợi thế so sánh RCA xét tại thị trường EU, xuất hiện thêm Thái Lan là nước có lợi thế so sánh. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh của Thái Lan là không đáng kể do mức lợi thế so sánh thấp. Tại thị trường Châu Âu, lợi thế so sánh của Việt Nam dẫn đầu khu vực cho đến năm 2013 và xếp sau Campuchia từ năm 2014. Thứ tư, về chỉ số lợi thế so sánh RCA xét tại thị trường Hoa Kỳ, mặc dù xuất hiện thêm Thái Lan là có lợi thế so sánh nhưng mức độ cạnh tranh cũng không đáng kể với chỉ số RCA rất thấp. Tại thị trường Hoa Kỳ, Việt Nam vẫn giữ vai trò thống trị và tăng trưởng dều đặn về kim ngạch và lợi thế so sánh tại thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới này. 4. Kết luận và gợi ý chính sách Đối với ngành hàng da giày, lợi thế so sánh của Việt Nam luôn ở mức rất cao và chỉ có 3 nước trong Asean có lợi thế trong lĩnh vực này. Tại thị trường thế giới, Mỹ, EU thì Việt Nam luôn dẫn đầu khu vực về lợi thế so sánh trong sản xuất và xuất khẩu da giày (ngoại trừ sự vươn lên của Campuchia từ năm 2014, nhưng vẫn xếp sau Việt Nam tại thị trường Mỹ). Da giày là một ngành công nghiệp truyền thống của Việt Nam và chủ yếu tập trung vào khâu gia công cho thế giới, thu về giá trị gia tăng không cao. Với sự nổi lên của một số quốc gia trong khu vực với lợi thế nhân công giá rẻ (đặc biệt là Campuchia) thì từng bước phát triển ngành da giày thành ngành xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, tự đứng vững trên thị trường thế giới mà không phụ thuộc vào gia công là hướng đi phù hợp cho Việt Nam. Theo đó, phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành da giày là bước đầu tiên và cần triển khai mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam. Điều này là bởi: một là, chúng ta chưa có những thương hiệu mạnh và các nhà phân phối trực tiếp trên thị trường thế giới nên chưa thể tiếp cận vào khâu này trong chuỗi giá trị; hai là, nguồn cung nguyên phụ liệu nội địa rất hạn chế nên Việt Nam vẫn chỉ tập trung vào gia công và vì gia công nên chưa thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển, điều này tạo nên một vòng lẩn quẩn trong quá trình phát triển; ba là, các nước có lợi thế so sánh với Việt Nam trong ngành da giày là Campuchia, Indonesia không tham gia vào hiệp định CPTPP, chưa ký FTA với EU nên Việt Nam có thể được hưởng miễn giảm thuế vào các thị trường này và tăng vị trí cạnh tranh trong khu vực khi mà nguồn nguyên phụ liệu trong nước được đảm bảo để đáp ứng yêu cầu về xuất xứ hàng hóa. Theo đó, các vấn đề mà Việt Nam cần tập trung đẩy mạnh thực hiện trong thời gian tới là: Thứ nhất, về quy hoạch, quỹ đất, hỗ trợ mặt bằng cho doanh nghiệp, xây dựng các khu, cụm công nghiệp (KCCN) tập trung dành riêng cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành da giày hoặc dành riêng một phân khu trong KCCN tập trung cho yêu cầu này. Chính việc tập trung theo yếu tố “địa lý” này hình thành nên cụm liên kết ngành hay cụm ngành da giày, mà ở đó có đầy đủ các cơ sở sản xuất phụ liệu, linh kiện; các sàn giao dịch nguyên phụ liệu; các trung tâm kiểm định chất lượng; các trung tâm đào tạo nhân lực; các trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, thiết kế mẫu mốt Trong đó, cần ưu tiên ở 3 lĩnh 6
  12. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng vực: sản xuất phụ liệu, linh kiện, thiết kế phát triển sản phẩm và kiểm định chứng nhận sản phẩm. Việc tập trung đầu tư vào 3 lĩnh vực trên để gia tăng giá trị và năng lực cạnh tranh của sản phẩm giày dép, da thuộc, chủ động cân đối nguyên phụ liệu trong sản xuất, tiết kiệm chi phí và chủ động về xuất xứ sản phẩm thông qua việc nội địa hóa sản phẩm ở mức độ cao. Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động pháp phát triển thị trường, kết nối cung cầu, tăng cường công tác xúc tiến thương mại thông qua chương trình xúc tiến thương mại, cũng như chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, để giữ vững thị trường xuất khẩu truyền thống (Hoa Kỳ, EU, Nhật) và phát triển thị trường mới (Trung Đông, Châu Phi), tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội quảng bá, giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng trong cả nước và nhà đầu tư nước ngoài đang tìm kiếm cơ hội sản xuất – kinh doanh sản phẩm da giày. Thứ ba, phát triển khoa học công nghệ đặc thù cho ngành da giày, thành lập trung tâm đổi mới và phát triển KHCN ngành da giày để trợ giúp doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua nghiên cứu, đào tạo, thiết kế sản phẩm. Trung tâm đổi mới và phát triển KHCN sẽ tham mưu xây dựng hệ thống chất lượng liên quan đến linh phụ kiện, hệ thống tiêu chuẩn phù hợp để hỗ trợ các doanh nghiệp trên cơ sở xem xét đến các tiêu chuẩn quy định Việt Nam, quy định quốc tế cũng như các tiêu chuẩn sẵn có của các tập đoàn đa quốc gia. Cần xúc tiến thành lập Trung tâm phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành da giày. Trung tâm này không chỉ làm cầu nối giữa Chính quyền với doanh nghiệp, mà còn giữa các doanh nghiệp với nhau, xúc tiến liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với các doanh nghiệp lớn; kết nối các nhà cung cấp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài , đặc biệt là với các doanh nghiệp FDI. Qua đó, các doanh nghiệp da giày Việt Nam có thể học hỏi công nghệ da giày của thế giới, khắc phục tình trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ không học hỏi hay không nhận được chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI (mà nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam sản xuất theo phương thức gia công xuất khẩu). Thứ tư, hình thành cụm ngành da giày các vùng trọng điểm, trên các địa bàn trọng điểm phát triển khu vực phía Nam, miền Trung và phía Bắc phải xây dựng được cụm ngành da giày về lâu dài. Trong đó, yếu tố tập trung về “địa lý” là cần thiết để giúp nganh da giày phát triển có hiệu suất, từ đó tăng năng lực cạnh tranh của ngành. Các nội dung cần thực hiện để xây dựng cụm ngành da giày là: (i) Thu hút doanh nghiệp chủ đạo giữ vai trò là các doanh nghiệp dẫn dắt ngành để tạo tác động lan tỏa; (ii) phân tích thị trường và năng lực cạnh tranh để tập trung vào các sản phẩm định hướng, trên các phân khúc như: giày thể thao, giày vải; giày da nam, nữ các loại; giày thời trang cao cấp; giày y tế và một số giày đặc chủng. ; (iii) xây dựng khu, cụm công nghiệp tập trung là nơi được chọn để xây dựng mô hình cụm liên kết ngành da giày tại các vùng; (iv) Thu hút các doanh nghiệp hỗ trợ và liên quan dựa trên các tiêu chí cụ thể để lựa chọn các doanh nghiệp tham gia cung cấp linh phụ kiện, nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp toàn cầu, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp định hướng xuất khẩu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bela Balassa, Marcus Noland (1989), “Revealed Comparative Advantage in Japan and The United States”, Journal of International economic Integration 4-2 Autumn 1989, 8-22. e- jei.org/upload/1w100053.pdf [2] Greenaway, D. and C. Milner (1993), “Trade and Industrial Policy in Developing Countries: A Manual of Policy Analysis”, The Macmillan Press, esp. Part IV Evaluating Comparative Advantage, 181-208 [3] John Weiss (2005), “Export Growth and Industrial Policy: Lessons from the East Asian Miracle experience”, ADB Institute Discussion Paper, No. 26 [4] Khalid riaz and Hans G. P. Jansen (2012), “Spatial patterns of revealed comparative advantage of Pakistan’s agricultural exports”, Pakistan Economic and Social Review, Volume 50, No. 2 (Winter 7
  13. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 2012), pp. 97-120 [5] Nawaz Ahmad, Rukhsana Kalim (2013), “Changing Revealed Comparative Advantage of Textile and Clothing Sector of Pakistan: Pre and Post Quota Analysis”, Pakistan Journal of Commerce and Social Sciences, Vol. 7 (3), 520-544. [6] UtkuUtkuluand and Dilek Seymen, “Revealed Comparative Advantage and Competitiveness: Evidence for Turkey vis-à-visthe EU/15”, Dokuz Eylül University, Economics Department, İzmir. [7] Vollrath, T.L. (1991). “A Theoretical Evaluation of Alternative Trade Intensity Measure of Revealed Comparative Advantage”, Weltwirtschaftliches Archiv, 130, 265-79. 8
  14. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng ĐO LƯỜNG LỢI THẾ CẠNH TRANH, SẢN PHẨM ĐỘNG LỰC (CHỦ LỰC) VÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ TÍNH TOÁN CHO CÁC SẢN PHẨM TP.HCM GS.TS. Nguyễn Thị Cành Trường ĐH Kinh tế-Luật, ĐHQG-HCM TÓM TẮT Bài nghiên cứu nêu các tiêu chí đo lường sản phẩm cạnh tranh hay sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm chủ lực theo cách phương pháp, quan điểm khác nhau và áp dụng tính toán cho một số sản phẩm tại TP.HCM. Kết quả cho thấy, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cũng là những sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao, và có thể là các sản phẩm động lực có độ lan tỏa lôi kéo và thúc đẩy sản phẩm ngành khác phát triển. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, sản phẩm được bảo hộ cao (thuế nhập khẩu cao), lợi thế cạnh tranh sẽ thấp và ngược lại. Từ khóa: Sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm chủ lực, 1. Cơ sở lý thuyết về lợi thế cạnh tranh và sản phẩm chủ lực Lợi thế so sánh có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nhà kinh tế. Adam Smith là người đầu tiên đưa ra khái niệm lợi thế tuyệt đối, qua đó một quốc gia xuất khẩu một mặt hàng nếu nước đó sản xuất được mặt hàng này với chi phí thấp. David Ricardo sửa lại khái niệm này và đưa ra khái niệm lợi thế so sánh, ông nhận ra rằng những áp lực thị trường sẽ phân bố nguồn lực sản xuất trong một nước vào những ngành có năng lực sản xuất tương đối cao nhất. Lý thuyết lợi thế so sánh của Heckscher và Ohlin dựa vào khái niệm rằng tất cả quốc gia đều có công nghệ tương tự nhưng khác biệt về dự sẵn có cái gọi là nhân tố sản xuất ví dụ như lao động, đất đai, vốn và tài nguyên thiên nhiên. Lý thuyết lợi thế so sánh dựa trên nhân tố sản xuất và những khác biệt về chi phí nhân tố đã đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định cơ cấu thương mại ở nhiều ngành công nghiệp. Theo Michael Porter (1990), lợi thế cạnh tranh được biểu hiện dưới hai dạng cơ bản sau. Thứ nhất, nếu hai sản phẩm cùng chủng loại và có chất lượng ngang nhau thì sản phẩm nào có chi phí sản xuất và giá thành thấp hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Thứ hai, một sản phẩm có tính đặc thù, độc đáo riêng biệt (về mẫu mã, tính năng độc đáo hay giá trị sử dụng ) mà không sản phẩm cùng chủng loại nào khác có được, cho dù giá cả có cao hơn các sản phẩm khác thì nó vẫn có một lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các sản phẩm cùng chủng loại. Ngành sản phẩm chủ lực theo chúng tôi là những ngành sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và những ngành có khả năng lôi kéo thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Sản phẩm chủ lực là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên bình diện quốc gia và quốc tế, là sản phẩm có tỷ trọng giá trị sản lượng cao trong ngành và có tỷ trọng xuất khẩu cao, và có thể là các sản phẩm động lực. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế trong các giai đoạn phát triển phải thể hiện định hướng được các ngành kinh tế chủ lực, và sản phẩm chủ lực. Sản phẩm được coi là chủ lực, theo chúng tôi có thể phải đạt được một số các tiêu chí sau đây: Thứ nhất, phải là những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong các năm gần đây hoặc đối với ngành mới phải có tỷ trọng tiềm năng lớn trong tổng kim ngạch xuất trong tương lai. Điều này lý giải rằng những sản phẩm có vị trí cao trong xuất khẩu là những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 9
  15. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Thứ hai, là sản phẩm xuất khẩu và có đóng góp tỷ trọng cao trong GDP hay trong giá trị gia tăng (GAV) của ngành hoặc trong chỉ tiêu giá trị sản xuất ngành, và của toàn bộ khu vực ngành hay nền kinh tế. Ngoài các ngành kinh tế chủ lực, còn có các ngành kinh tế động lực. Ngành kinh tế động lực ở đây được hiểu là những ngành sản phẩm có mối quan hệ liên ngành thúc đẩy hay lôi kéo các ngành khác phát triển, chẳng hạn các ngành thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội như hàng không, cảng biển, giao thông nói chung, một số ngành công nghiệp chế biến cung cấp đầu vào và sử dụng đầu ra của các ngành khác Sản phẩm có lợi thế cạnh tranh được coi là sản phẩm chủ lực thường phải đạt đa số các tiêu chí sau đây: Thứ nhất, phải là những sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong các năm gần đây hoặc có tỷ trọng tiềm năng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong tương lai, (có khả năng cạnh tranh quốc tế). Thứ hai, là sản phẩm xuất khẩu và có đóng góp tỷ trọng cao trong GDP hoặc trong chỉ tiêu giá trị sản xuất của một quốc gia. Thứ ba, là sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao trong sản phẩm xuất khẩu của vùng và của cả nước. Thứ tư, là sản phẩm tuy có tỷ trọng GDP hoặc giá trị sản xuất (GTSX) nhỏ nhưng sản xuất chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, tức có tỷ lệ doanh thu xuất khẩu cao. Thứ năm, một số tiêu chí được xem xét thêm đó là mối quan hệ đầu vào-đầu ra, như đầu tư vốn, thu hút lao động để gia tăng giá trị sản xuất hoặc xuất khẩu. Chi phí thấp so với sản phẩm cùng loại, có thương hiệu, có thị trường trong nước và quốc tế kể cả trong ngắn hạn và dài hạn. Các tiêu chí này thể hiện ngành hàng sản xuất có hiệu quả hay không, có thể đảm bảo điều kiện phát triển lâu dài và bền vững. 2. Các phương pháp đo lường lợi thế cạnh tranh và khả năng cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm Muốn nhận biết được sản phẩm nào có lợi thế cạnh tranh –là một trong những tiêu chí quan trọng của ngành sản phẩm chủ lực cần phải đo lường lợi thế cạnh tranh và khả năng cạnh tranh. Ở cấp độ sản phẩm, một số nhà kinh tế đã đưa ra các chỉ tiêu đo lường lợi thế cạnh tranh qua các hệ số lợi thế so sánh trông thấy, hệ số bảo hộ hiệu dụng và hệ số chi phí nguồn lực trong nước được trình bày dưới đây. Hệ số lợi thế so sánh trơng thấy (Revealed Comparative Advantage - RCA) Hệ số lợi thế so snh trơng thấy RCA (do nhà kinh tế học Balassa đề xuất vào năm 1965) được tính theo cơng thức sau:  X ij X ij j RCA1 = : (1) X wj  X wj j Trong đó: i là nước i, w là tòan thế giới, với j là sản phẩm j, X là xuất khẩu, M là nhập khẩu. Trong công thức 1, nếu tỉ trọng xuất khẩu của nước i so với thế giới về mặt hàng j (là ) mà lớn hơn tỉ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i so với tổng xuất khẩu của tòan thế giới (là ), tức hệ số RCA1 lớn hơn 1, thì nước i được cho là có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Hệ số này càng cao thì chứng tỏ lợi thế so sánh của sản phẩm j càng cao. Nếu RCA1 mà nhỏ hơn 1 thì nước i được cho là không có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Ví dụ, giả sử tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia ABC chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu của tòan thế giới, trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ABC chiếm 3% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 10
  16. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng tòan thế giới và kim ngạch xuất khẩu thép của ABC chiếm 1% kim ngạch xuất khẩu thép tòan thế giới. Hệ số lợi thế so sánh trông thấy đối với hàng dệt may của quốc gia ABC là 3%/2% = 1,5>1, còn đối với thép là 1%/3% = 0,5<1. Vậy, quốc gia ABC có lợi thế so sánh về hàng dệt may và không có lợi thế so sánh về sản phẩm thép. Công thức 2 dưới đây có tính đến yếu tố này, tức là vừa có xuất khẩu và nhập khẩu trong cùng một ngành sản phẩm. Hệ số RCA2 có gía trị từ -1 (hòan tòan không có lợi thế so sánh) đến +1 (có lợi thế so sánh rõ rệt). Nếu hệ số RCA2 có giá trị lớn hơn 0 thì nước i có lợi thế so sánh ở sản phẩm j, còn nếu hệ số RCA2 có giá trị nhỏ hơn 0 thì nước i có bất lợi thế so sánh ở sản phẩm j. Giá trị RCA2 gần bằng không là tình trạng không rõ ràng. RCA2 = (Xj - Mj)/( Xj + Mj) (2) Trong đó, Xj là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm j và Mj là kim ngạch nhập khẩu sản phẩm j của một quốc gia. Các hệ số RCA trong công thức 1 và 2 ở trên có thể dùng để đánh giá lợi thế so sánh của các ngành sản phẩm khác nhau cho một nước và đồng thời có thể dùng để so sánh giữa các nước với nhau. Một hệ số RCA2 có giá trị lớn hơn 0 thì nước chủ nhà so với nước i có lợi thế so sánh ở sản phẩm j, còn nếu hệ số RCA2 có giá trị nhỏ hơn 0 thì nước chủ nhà so với nước i không có lợi thế so sánh ở sản phẩm j. Hệ số Bảo Hộ Hiệu Dụng (Effective Rate of Protection- ERP) Thuế nhập khẩu là thuế gián thu đánh vào hàng nhập khẩu. Mục đích đánh thuế có thể là để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước, hoặc chỉ đơn thuần là thực hiện chính sách phân biệt đối xử với các đối tác thương mại khác nhau. Dù với lý do gì đi nữa, thì việc đánh thuế nhập khẩu sẽ làm gia tăng giá cả của mặt hàng đó trong nước với một lượng bằng mức thuế. Điều này sẽ làm gia tăng sản lượng sản xuất trong nước bởi vì giá cả tăng lên sẽ làm lợi nhuận tăng lên. Mức thuế suất ghi trong biểu thuế nhập khẩu còn gọi là mức bảo hộ danh nghĩa. Tác động của bảo hộ danh nghĩa lên sản lượng sản xuất trong nước còn tùy thuộc vào thuế nhập khẩu đánh vào đầu vào sản xuất của hàng hóa đó. Nếu thuế đầu vào này cao thì nó sẽ làm giảm bớt tác động gia tăng sản lượng của bảo hộ danh nghĩa, và như vậy, mức bảo hộ thực tế đối với hàng hóa đó là thấp hơn so với mức bảo hộ danh nghĩa cho thấy. Hệ số bảo hộ hiệu dụng là hệ số đo lường mức độ bảo hộ thật của quá trình sản xuất, chứ không chỉ có sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất như hệ số bảo hộ danh nghĩa. Hệ số bảo hộ hiệu dụng của một sản phẩm là chênh lệch giữa giá trị gia tăng tính theo giá trong nước của ngành sản phẩm đó và giá trị gia tăng tính theo giá thế giới rồi chia cho giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. Ngành j sử dụng các đầu vào i, kết hợp với các nhân tố sản xuất (vốn, lao động), tạo ra giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của ngành sản phẩm j. Mức bảo hộ hiệu dụng ej làm tăng trị giá gia tăng trong nước, và được định nghĩa là: * * ej = (V j - Vj)/Vj = V j/ Vj - 1 (3) Trong đó: Vj là trị giá gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới (tức là trong trường hợp không có bất cứ loại thuế * nhập khẩu nào đối với i và j), V j là trị giá gia tăng tính theo giá trong nước (tức là mức giá đó bao gồm thuế nhập khẩu). Việc tính giá trị gia tăng tính theo giá trong nước (V*j) và giá thế giới (Vj) của các ngành sản phẩm phải được dựa vào Bảng cân đối liên ngành (I/O). Hiện nay, chúng ta có Bảng I/O của cả nước năm 1996, 2000 2012 (do Tổng cục Thống kê thực hiện) và Bảng I/O của TP.HCM năm 2000, 2007, 2012 (do Viện Kinh tế / Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM và Cục Thống Kê TP.HCM thực hiện). * Vj và V j được tính như sau: n Vj = GTSXj (1 -  aij) (4) i 1 11
  17. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng n V*j = GTSXj {(1+tj) -  [aij(1+ti)]} (5) i 1 Trong đó: GTSXj là giá trị sản xuất của ngành sản phẩm j tính theo giá trong nước; tj là mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của j (thuế quan đầu ra); ti là mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của các đầu vào i (thuế quan đầu vào), và aij là hệ số chi phí trực tiếp của đầu vào i trong sản xuất sản phẩm j. Như vậy: ej = {(1+tj) - [aij(1+ti)]}/ (1 - aij) - 1 ej = (tj - aijti)/(1 - aij) (6) Trong đó: aij là tổng tất cả hệ số chi phí trực tiếp của đầu vào (1, ,n) trong sản xuất sản phẩm j và aijti là trung bình có trọng số của thuế nhập khẩu danh nghĩa của tất cả các đầu vào (1, ,n) với trọng số là hệ số chi phí trực tiếp tương ứng. Công thức 6 cho thấy rằng khi các điều kiện khác không đổi thì: Hệ số bảo hộ hiệu dụng sẽ cao hơn khi mức thuế quan đầu ra tj cao hơn. Hệ số bảo hộ hiệu dụng sẽ cao hơn khi mức thuế quan đầu vào ti thấp hơn. Hệ số bảo hộ hiệu dụng sẽ cao hơn khi hệ số aij cao hơn. Về mặt lý thuyết thì hệ số bảo hộ hiệu dụng có thể âm, có thể dương và có thể bằng không. Hệ số bảo hộ hiệu dụng thường âm đối với những ngành công nghiệp có thế mạnh xuất khẩu bởi vì khi đó thuế nhập khẩu đối với ngành sản phẩm đó bằng không, trong khi đó đầu vào sản xuất lại phải chịu thuế nhập khẩu. Vì vậy những ngành có mức bảo hộ hiệu dụng âm mà vẫn tồn tại và phát triển được là những ngành có lợi thế cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hệ số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (Domestic Resource Cost - DRC) Có hai phương pháp tính chi phí nguồn lực trong nước. Nội dung của phương pháp thứ nhất tính hệ số chi phí nguồn lực trong nước (Domestic Resource Cost - DRC) của một sản phẩm (hay ngành sản phẩm) là tính chi phí sản xuất theo giá trị của các đầu vào trung gian ở mức giá thế giới và các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội. Ý nghĩa của hệ số DRC là nó phản ánh chi phí thật sự mà xã hội phải trả trong việc sản xuất ra một hàng hóa nào đó. Thuế quan và các rào cản phi thuế quan làm tăng giá của các đầu vào trung gian, làm cho chí phí sản xuất đối với từng nhà sản xuất riêng rẽ khác với chi phí sản xuất chung mà xã hội phải gánh chịu. Do đó, việc loại bỏ các ảnh hưởng của thuế quan và phi thuế quan là nhằm để ước lượng chi phí thật sự mà xã hội phải trả trong việc sản xuất ra háng hóa đó. Trong các nghiên cứu ứng dụng, việc định lượng các ảnh hưởng của phi thuế quan thường rất khó khăn, nên việc định lượng chỉ dừng lại với các ảnh hưởng thuế quan. Chi phí cơ hội của một nhân tố sản xuất được định nghĩa là thu nhập của nhân tố đó khi tham gia vào một hoạt động sản xuất thay thế khác gần nhất. Chi phí cơ hội của vốn thường bằng lãi suất trên thị trường. Đối với các nước nông nghiệp, đông dân, thường các nhà kinh tế tính chi phí cơ hội cho các công nhân công nghiệp ở những ngành phổ thông, không đòi hỏi chuyên môn cao là bằng thu nhập của lao động trong nông nghiệp, hoặc cao hơn mức thu nhập này một ít. Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC) là tỉ lệ giữa chi phí các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội so với trị giá gia tăng theo giá quốc tế. Nếu hệ số DRC nhỏ hơn 1 thì có nghĩa là cần một lượng nguồn lực trong 12
  18. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng nước nhỏ hơn 1 để tạo ra được 1 đồng trị giá gia tăng theo giá quốc tế. Trong trường hợp đó thì sản phẩm hay ngành sản phẩm trên là có lợi thế cạnh tranh. Ngược lại, nếu hệ số DRC lớn hơn 1 thì có nghĩa là cần một lượng nguồn lực trong nước lớn hơn 1 để tạo ra được 1 đồng trị giá gia tăng theo giá quốc tế, và như vậy là không cò lợi thế cạnh tranh. Công thức tính DRC như sau: DRCj = (DCj)/IVAj (7) Trong đó: DCj là chi phí trong nước cho các nhn tố sản xuất theo chi phí cơ hội để sản xuất ra sản phẩm j, IVAj là trị giá gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới. Hệ số DRC càng cao có nghĩa là càng tốn nhiều các nhân tố sản xuất trong nước để tạo ra 1 đồng trị giá gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả. Giả sử thị trường các nhân tố sản xuất là cạnh tranh hòan hảo và không có các hàng hóa phi khả thương, khi đó chi phí các nhân tố sản xuất hiện tại bằng với chi phí cơ hội của chúng, tức là DCj bằng VAj, trong đó VAj là trị giá gia tăng trong nước. Khi đó công thức 7 trở thành: DRCj = (DCj)/IVAj = (VAj)/IVAj Từ công thức 6 tính hệ số bảo hộ hiệu dụng, chúng ta có: ej = (VAj - IVAj)/IVAj = (VAj)/IVAj -1 = DRCj -1 Như vậy: DRCj = ej + 1 (8) Hay: n DRCj = {(1+tj) -  [aij(1+ti)]}/ (1 - aij) (9) i 1 Do đó, nếu tính được hệ số bảo hộ hiệu dụng, ta có thể suy ra hệ số chi phí nguồn lực trong nước tương ứng và ngược lại. Phương pháp thứ hai tính Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (DRC) như sau: Về cơ bản, phương pháp này tính chi phí cơ hội trong việc sản xuất hàng hóa cụ thể ở giá biên giới của cả đầu vào, đặc biệt là đầu vào nhập khẩu và/hoặc khả thương, và đầu ra. Phương pháp này cho thấy cần sử dụng bao nhiêu nguồn lực trong nước, về mặt giá trị, để thu được hay tiết kiệm được một đơn vị ngoại tệ. Một sự so sánh giữa hệ số DRC tính được và một hệ số thích hợp về tỷ giá hối đóai có thể cho chúng ta biết được rằng một quốc gia có được lợi về mặt kinh tế hay không trong việc sản xuất hàng hóa. DRC đo lường tổng chi phí nguồn lực trong nước cần thiết cần có trong một hoạt động để thu được (hay tiết kiệm) một đơn vị ngoại tệ: m FsjVs E j s 1 DRC j (10) U j M j R j Trong đó: DRCj = chi phí nguồn lực trong nước cần có trong hoạt động j; Fsj = số lượng đầu vào thứ s sử dụng trong hoạt động j; Vs = chi phí cơ hội của đầu vào s; Ej = ngoại tác của hoạt động j; Uj = tổng giá trị của hoạt động j tính ở mức giá biên giới và tính bằng ngoại tệ; 13
  19. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Mj = tổng giá trị của tất cả đầu vào nhập khẩu và/hoặc khả thương tính ở mức giá CIF (C: chi phí; I: bảo hiểm; F: vận tải) và tính bằng ngoại tệ; Rj = tổng chi phí cơ hội của tất cả các nhân tố thu được ngoại tệ tính bằng ngoại tệ Tử số của phương trình trên là tổng chi phí nguồn lực trong nước được sử dụng trong hoạt động j tính bằng nội tệ, và mẫu số là tổng ngoại tệ thu được (hay tiết kiệm được) từ cùng hoạt động đó. Vì vậy, thương số là tỷ giá hối đóai ngụ ý tạo ra từ việc thực hiện hoạt động j. Do vậy, nếu giá mờ của tỷ giá hối đóai được ký hiệu là V, thì chúng ta có thể rút ra các kết luận sau: 1. Nếu DRCj = V, thì hoạt động j ở điểm cân bằng; 2. Nếu DRCj V, thì hoạt động j không có lợi thế so sánh. Hệ Số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (DRCC) được định nghĩa bằng DRC chia cho giá mờ (shadow price) của ngoại hối V: DRC DRCC j (11) j V Chúng ta cũng có thể rút ra các kết luận sau: 1. Nếu DRCCj = 1, hoạt động j là cân bằng; 2. Nếu DRCCj 1, hoạt động j không có lợi thế so sánh. Ngòai các phương pháp nêu trên, thường trong phân tích tính cạnh tranh có liên quan đến sự tăng (giảm) của chi phí đầu vào ảnh hưởng đến tăng (giảm) chi phí chung cũng như tác động của nó đến tăng (giảm) sản lượng sản xuất. Hệ số lan toả của các ngành sản phẩm qua Bảng I/O đo lường sản phẩm động lực Các ngành sản phẩm chủ lực đôi khi cũng thể hiện là những ngành sản phẩm động lực. Những ngành sản phẩm động lực là những ngành có hệ số lan tỏa cao lôi kéo hay thúc đẩy các ngành khác phát triển được tính theo bảng I/O qua hệ số liên kết ngược (backward linkages) và liên kết xuôi (forward linkages). Trong nền kinh tế, sự thay đổi cấu trúc của các ngành có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Một số ngành phụ thuộc nhiều vào các ngành khác trong khi đó một số ngành khác chỉ phụ thuộc vào một số ít ngành còn lại. Kết quả là sự thay đổi của một số ngành nào đó sẽ có ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế hơn những ngành khác. Các phân tích I/O thường dựa trên các liên kết ngược (backward linkages) và liên kết xuôi (forward linkages) coi đó là các công cụ đo lường mối liên hệ của một ngành với các ngành khác, với vai trò một ngành sử dụng đầu vào hay một ngành cung cấp đầu vào. Liên kết ngược (Backward linkages) Liên kết ngược dùng để đo mức độ quan trọng của một ngành với tư cách là bên sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ làm đầu vào từ toàn bộ nền kinh tế. Liên kết ngược được xác định bằng tỷ lệ của tổng các phần tử theo cột của ma trận Leontief so mức trung bình của toàn bộ hệ thống sản xuất. Tỷ lệ này gọi là hệ số lan tỏa (Index of the power of dispersion) và được xác định như sau: -1 BLi = ∑ rij (Cộng theo cột của ma trận nghịch đảo Leontief- ( I A ) ) ) Hệ số lan tỏa (liên kết ngược) = n.BLi/ ∑BLi Trong đó: rij là các phần tử của ma trận Leontief n là số ngành trong mô hình Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa là liên kết ngược của ngành đó càng lớn, khi ngành đó phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của toàn bộ các ngành cung ứng sản phẩm vật chất và dịch vụ của toàn bộ hệ thống. 14
  20. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Liên kết xuôi (Forward linkages) Liên kết xuôi hàm ý mức độ quan trọng của một ngành như là nguồn cung cấp sản phẩm vật chất và dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế. Mối liên kết này được xem như độ nhậy của nền kinh tế và được đo lường bằng tổng các phần tử theo hàng của ma trận nghịch đảo Leontief so với mức trung bình của toàn bộ hệ thống sản xuất. Hệ số liên kết xuôi của một ngành được tính như sau: FLi = ∑ rij (Cộng theo hàng của ma trận nghịch đảo Leontief) Hệ số độ nhậy (liên kết xuôi) = Trong đó: rij là các phần tử của một ma trận Leontief n là số ngành trong mô hình Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa liên kết xuôi của ngành đó càng lớn, càng thể hiện sự cần thiết của ngành đó đối với các ngành còn lại. Một số quốc gia đã ứng dụng bảng I/O để lựa chọn ngành kinh tế được ưu tiên đầu tư, các ngành này sẽ phát triển trong trung hạn và đóng vai trò ngành kinh tế động lực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy việc tái cấu trúc các ngành kinh tế, bên cạnh xem xét tỷ trọng của các ngành trong GDP; vai trò của ngành đối với lao động, việc làm, an sinh xã hội, đối với vấn đề môi trường .Các nhà hoạch định chính sách kinh tế có thể dựa vào hệ số lan tỏa và độ nhậy kinh tế như một tham khảo quan trọng trong việc chọn ngành kinh tế trọng điểm. Quan điểm của các nhà kinh tế học A.Hirschman và Ramusse cho rằng: “Ngành kinh tế trọng điểm là những ngành kinh tế có khả năng là động lực thúc đẩy đến sự phát triển của các ngành khác và quá trình phát triển bền vững của quốc gia trong những khoảng thời gian xác định”. 3. Một số kết quả tính toán lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm chủ lực của TP.HCM Lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm TP.HCM theo Hệ số Bảo Hộ Hiệu Dụng (Effective Rate of Protection- ERP) và Hệ số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (Domestic Resource Cost - DRC) (trước thời điểm AFTA 2003 và sau 2003) được phản ánh qua các bảng dưới đây. Dữ liệu sử dụng: Để tính ERP (ej) theo công thức 6 ở Mục 2 cần các thông tin về giá trị sản xuất của ngành sản phẩm j tính theo giá trong nước; tj mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của j (thuế quan đầu ra); ti là mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của các đầu vào i (thuế quan đầu vào), và aij là hệ số chi phí trực tiếp của đầu vào i trong sản xuất sản phẩm j. Các sản phẩm mà chúng tôi chọn khảo sát tính toán gồm gạo, mì ăn liền, tôm đông lạnh và dầu thực vật. Năm 2002 với sự tài trợ của Quỹ Châu Á (Mỹ), chúng tôi đã tiến hành khảo sát chi phí đầu vào của các sản phẩm này, từ đó xác định thuế nhập khẩu đầu vào có trung bình trọng số chi phí các đầu vào. Dựa vào số liệu khảo sát sẽ biết được các loại chi phí đầu vào, qua đó tính hệ số chi phí trực tiếp aij. Dựa vào số liệu khảo sát cùng số liệu thống kê sẽ tính được giá trị sản xuất của ngành sản phẩm. Từ khi TP.HCM có bảng I-O năm 2007, 2012 có thể dựa vào bảng I-O để tính hệ số chi phí trực tiếp aij và giá trị sản xuất cho các năm sau này. Kết quả tính toán lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm TP.HCM thông qua Hệ số Bảo Hộ Hiệu Dụng (Effective Rate of Protection- ERP) và Hệ số Chi Phí Nguồn Lực Trong Nước (Domestic Resource Cost - DRC) cho các giai đoạn được thể hiện qua các bảng 3.1-3.3. Để tính hệ số lan tỏa các các ngành sản phẩm, nghiên cứu sử dụng các bảng I/O năm 2007 và năm 2012 của TP.HCM. Kết quả tính toán: Kết quả tính toán bảng 3.1. cho thấy, các hệ số ERP và DRC tính được đều quá cao (đồng nghĩa với sản phẩm nghiên cứu không có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh). Nguyên nhân là do các sản phẩm này trước năm 2003 được bảo hộ quá mức cần thiết (biểu hiện qua các mức thuế nhập khẩu danh nghĩa đều rất cao, từ 35% đến 50% (chỉ trừ gạo 10%). Bảng 3.1: ERP và DRC của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm trước năm 2003 15
  21. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Sản phẩm ERP=(tj - aijti)/( DRC= ERP + Thuế NK đầu Thuế nhập khẩu Kết luận 1 - aij) 1 vào ti đầu ra tj 1. Gạo 0,100 1,100 10,0% 10,0% Không LTCT 2. Mì ăn liền 1,744 2,744 19,5% 50,0% Không LTCT 3. Tôm đông 2,969 3,969 13,6% 41,7% Không lạnh LTCT 4. Dầu thực vật 3,772 4,772 11,4% 35,0% Không LTCT Nguồn: Tính toán từ kết quả điều tra năm 2002 và bảng thuế suất thuế nhập khẩu Việt Nam đã gia nhập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) và thực hiện Hiệp định Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực chung (CEPT) vào năm 2003, khi đó thuế nhập khẩu của các sản phẩm trên đều phải hạ xuống đến mức từ 0 - 5%. Kết quả tính ERP và DRC khi thuế suất nhập khẩu thay đổi theo CEPT được thể hiện trong bảng 3.2. Theo đó khi thuế suất nhập khẩu giảm xuống dưới 5% thì các sản phẩm nghiên cứu đều có lợi thế so sánh. Bảng 3.2: ERP và DRC của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm sau năm 2003 (Theo CEPT thì ERP=0, DRC=1) Sản phẩm ERP=(tj - aijti)/( DRC= ERP + Thuế NK đầu Thuế nhập khẩu Kết luận 1 - aij) 1 vào ti đầu ra tj 1. Gạo 0,000 1,000 5,0% 4,4% Có LTCT 2. Mì ăn liền 0,000 1,000 4,1% 3,3% Có LTCT 3. Tôm đông lạnh 0,000 1,000 2,6% 2,3% Có LTCT 4. Dầu thực vật 0,000 1,000 4,6% 4,3% Có LTCT Nguồn: Tính toán từ kết quả điều tra năm 2002 và bảng thuế suất thuế nhập khẩu thay đổi sau năm 2003 Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thuế suất 2/4 mặt hàng nhập khẩu đầu ra giảm bằng không, thuế suất của 2/4 mặt hàng nhập khẩu đầu ra bằng 5% dù thuế suất nhập khẩu đầu vào không giảm so với CEPT, vì vậy kết quả tính ERP và DRC trong bảng 3.3 cũng khác so với kết quả bảng 3.2 Bảng 3.3: ERP và DRC của một số sản phẩm ngành công nghiệp thực phẩm sau khi gia nhập WTO khi thuế đầu vào bình quân trọng số từ 0 đến 5% và thuế đầu ra bằng 0 hoặc 5% Sản phẩm ERP=(tj - aijti)/( DRC= ERP Thuế NK đầu Thuế nhập khẩu Kết luận 1 - aij) + 1 vào ti đầu ra tj 1. Gạo -0,392 0,608 5,0% 0% Có LTCT 2. Mì ăn liền 0,087 1,087 4,1% 5% Kg LTCT 3. Tôm đông lạnh -0,233 0,767 2,6% 0% Có LTCT 4. Dầu thực vật 0,112 1,112 4,6% 5% Kg LTCT Nguồn: Tính toán từ kết quả điều tra, bảng I-O 2007 và bảng thuế suất thuế nhập khẩu năm 2007 Bảng 3.3 cho thấy, khi gia nhập WTO, Việt Nam phải gỡ bỏ hàng rào bảo hộ, giảm thuế nhập khẩu đối hàng hóa nhập khẩu theo lộ trình, hai mặt hàng ít bảo hộ là gạo và tôm đông lạnh có lợi thế cạnh tranh cao 16
  22. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng (DRC<1). Đối với mì ăn liền và đầu thực vật, do phần nguyên vật liệu chính của hai sản phẩm này chủ yếu phải nhập khẩu, và mức thuế nhập khẩu đầu ra còn cao (5%) nên lợi thế cạnh tranh không cao. Hệ số lan tỏa. Sử dụng bảng I/O 2007 đại diện cho cấu trúc kinh tế của TP.HCM trong giai đoan 2006 – 2010 và bảng I/O 2012 đai diện cho giai đoạn 2011 – 2015 để tính hệ số lan tỏa cho các ngành, nhóm ngành sản phẩm tại TP.HCM. Kết quả cho thất, một số ngành có sự thay đổi khá nhiều về mức độ lan tỏa (hệ số liên kết ngược BL). Biểu đồ 1 mô tả xếp hạng các ngành sản phẩm của TP.HCM theo hệ số lan tỏa (BL) từ Bảng I-O năm 2007 và Bảng I-O năm 2012. Theo biểu đồ 1, những ngành có hệ số lan tỏa cao cho cả hai giai đoạn là những ngành xuất khẩu cao của TP.HCM, và cũng có lợi thế cạnh tranh cao khi đã vượt qua các giai đoạn tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường. Theo nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ IX nhiệm kỳ 2010-2015, có bốn nhóm ngành sản phẩm mà TP.HCM xây dựng thành bốn nhành trọng yếu chủ lực là (1) Công nghệ thông tin, điện tử; (2) Hóa chất và sản phẩm từ hóa chất, nhựa, cao su; (3) Chế biến lương thực, thực phẩm; (4) Cơ khí chế tạo. Trong đó ba nhóm sản phẩm đầu đều có tỷ trọng xuất khẩu cao (chiếm từ 15%-19% tổng kim ngạch xuất khẩu của TP.HCM), đồng thời có hệ số lan tỏa cao nhất trong các ngành kinh tế của TP. HCM. Tách riêng từng sản phẩm, trong giai đoạn tự do hóa thương mại, thuế nhập khẩu giảm và bằng không nhiều sản phẩm trong bốn nhóm ngành trọng yếu nêu trên cũng có hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC <1). Ngoài ra, một số ngành công nghiệp truyền thống tuy không phải là trọng yếu nhưng lại có tỷ trọng xuất khẩu cao và hệ số lan tỏa cao bao gồm dệt may, giày gia, chế biến đồ gỗ, giấy (tỷ trọng xuất khẩu chiếm từ 17% đến 25% già trị xuất khẩu cùng ngành của cả nước). Lý do TP.HCM không xếp các nhóm ngành này vào công nghiệp trọng yếu, chủ lực là vì, các ngành này là những ngành thâm dụng lao động, gây ô nhiễm môi trường cao, trong khi TP.HCM có định hướng xây dựng thành trung tâm dịch vụ, và phát triển các ngành công nghệ cao, ít gây ô nhiễm môi trường. Biểu đồ 1 : Xếp hạng các ngành của TP.HCM theo hệ số lan tỏa tính toán từ Bảng I-O năm 2007 và Bảng I-O năm 2012 Tài chính-Tín dụng 0.547 Quản lý Nhà nước, ANQP 0.598 SX phân phối điện, nước 0.603 Giáo dục-đào tạo 0.609 Kinh doanh bất động sản,tv 0.659 Thương nghiệp 0.717 Công nghiệp khai thác 0.85 Hoạt động khoa học 0.86 Vận tải, kho bãi 0.916 Các ngành dịch vụ khác 0.932 Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 1.036 Các ngành công nghiệp khác 1.037 Năm 2012 Khách sạn, nhà hàng 1.079 Năm 2007 Giày da 1.101 SX giường, tủ, bàn ghế, SP từ gỗ 1.107 Sx sp từ chất khoáng phi kim loại 1.155 Dệt may 1.161 Xây dựng 1.166 Cơ khí chế tạo 1.217 In 1.27 Chế biến lương thực, thực phẩm 1.323 Giấy 1.324 Hóa chất-Cao su-Nhựa 1.34 Điện tử-công nghệ thông tin 1.393 0 0.2 0.4 0.6 0.8 1 1.2 1.4 1.6 Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ bảng I/O 2007 và bảng I/O 2012 17
  23. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 4. Kết luận và hàm ý chính sách Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tác động của tự do hóa thương mại đã làm tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp chế biến tại TP.HCM. Tuy nhiên lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm trọng yếu của TP.HCM thấp như sản phẩm cơ khí (tỷ trọng xuất khẩu thấp); Các ngành công nghiệp trọng yếu của TP.HCM đều có hệ số lan tỏa lớn hơn 1- thể hiện tính chất đúng của ngành là thúc đẩy các ngành khác phát triển, tuy nhiên hệ số lan tỏa bình quân của năm 2012 thấp hơn năm 2007 .Hệ số lan tỏa của một số ngành sản phẩm giảm trọng yếu giảm sau 5 năm như điện tử, công nghệ thông tin, hóa chất, cao su nhựa. Dù có hệ số lan tỏa không đo lường đóng góp trực tiếp của các ngành vào tăng trưởng kinh tế, nhưng các ngành kinh tế có hệ số lan tỏa cao sẽ có đóng góp gián tiếp vào tăng trưởng các ngành kinh tế khác và tăng trưởng kinh tế chung do thúc đẩy và lôi kéo các ngành khác phát triển. Dù các ngành sản phẩm của TP.HCM có lợi thế cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập, tự do hóa thương mại, nhưng tỷ trọng xuất khẩu một ngành công nghiệp truyền thống đang giảm dần do nhiều doanh nghiệp dệt may, giày da, giấy gỗ đang chuyển ra các tỉnh khác do TP.HCM đang cấu trúc lại các ngành công nghiệp chế biến, loại dần những ngành sản phẩm gây ô nhiễm đối với thành phố đông dân nhất cả nước. Mặt khác, bốn ngành sản phẩm trọng yếu đều có chi phí trung gian cao và gia tăng theo thời gian. Để cạnh tranh được hệ số chi phí trung gian phải giảm. Nguyên nhân chi phí trung gian cao là do nhiều ngành hàng phải nhập khẩu đầu vào với chi phí hàng nhập khẩu cao. Muốn giảm chi phí, các doanh nghiệp phải sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước đảm bảo chất lượng cao chi phí thấp. TP.HCM cần thúc đẩy các chương trình đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để hạn chế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp trọng yếu theo hướng nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm chi phí nhập khẩu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Michael E. Porter, On Competition, Harvard Business Review,1984; [2] Michael E. Porter Competitive Advandage, New York Press,1985 [3] Michael Porter “The Competitive Advantage of Nations”, The MacMillan Press Ltd., London and Basingstoke (1990) [4] Cockburn, J. et al. (1998) , ‘Measuring Competitiveness And Its Sources: The Case Of Mali’s Manufacturing Sector’, African Economic Policy Paper Discussion Paper No.16 [5] Farrel, M.J. (1957), "The Measurement of Productive Efficiency," Journal of Royal Statistical Society, Series A (General), Vol. 120, 253-281. [6] Institute of Economics (2001) ‘Trade liberalization and competitiveness in Vietnam’, Vol. 1-5. Hanoi: Vietnam [7] Institute for Economic Research-HCMC (2002), “Input costs and competitiveness of some foodstuff processing products in HCM city ”, Statistical Publishing House, 2002 [8] Institute for Development Studies of HCMC (2015 ), I/O Tables in 2007 and 2012 [9] World Economic Forum “Global Competitiveness Report 2002”, New York, Oxford University Press, 2003 18
  24. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng NÂNG CAO LỢI THẾ CHO NGÀNH CHẾ BIẾN GỖ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Văn Nên Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM nennv@uel.edu.vn TÓM TẮT Bài viết tập trung đánh giá thực trạng ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ của Việt Nam, đặt trọng tâm vào phân tích nguồn nguyên liệu đầu vào. Theo đó, với tốc độ tăng trưởng trong sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ, dự báo nhu cầu nguồn nguyên liệu gỗ sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới. Nguồn nguyên liệu gỗ nội địa từ rừng trồng của Việt Nam chưa thể đáp ứng được nhu cầu do chất lượng kém và sản lượng khai thác thấp nên phần lớn phụ thuộc vào nguồn cung ứng từ nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ trọng nhập khẩu gỗ nguyên liệu/giá trị xuất khẩu đồ gỗ ngày càng giảm dần cho thấy khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu trong nước cũng đã ngày càng được cải thiện tốt hơn. Yêu cầu về nguồn gốc nguyên liệu hợp pháp cũng được các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng khi mà tỷ trọng nhập khẩu gỗ từ các khu vực có rủi ro pháp lý cao ngày càng giảm. Trong khi đó, diện tích rừng tại Việt Nam đạt được chứng chỉ rừng FSC vẫn còn rất khiêm tốn và đặt ra thách thức cho nguồn nguyên liệu nội địa cho ngành chế biến gỗ Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ khóa: đồ gỗ, chế biến gỗ, nguyên liệu gỗ, xuất khẩu 1. Giới thiệu Theo tổng cục thống kê, năm 2018, kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản Việt Nam đạt 9,382 tỷ USD, chiếm trên 23% kim ngạch xuất khẩu của ngành nông nghiệp, giá trị xuất siêu đạt trên 7,1 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành quốc gia đứng thứ 5 trên thế giới, thứ 2 Châu Á, thứ nhất Đông Nam Á về xuất gỗ và lâm sản. Thị trường xuất khẩu gỗ, lâm sản ngày càng được mở rộng, đến hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các mặt hàng đáp ứng thị hiếu phong phú của người tiêu dùng, chủ yếu là đồ gỗ nội thất chất lượng cao, sản phẩm đồ gỗ ngoại thất. Sự thành công đó có thể xuất phát từ việc Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia cạnh tranh, phát triển lành mạnh. Cũng có thể ngành gỗ thành công là do các doanh nghiệp đã rất năng động, sáng tạo, đầu tư thiết bị công nghệ chế biến gắn với thị trường hay việc mở rộng được thị trường xuất khẩu sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới do nước ta có sự mở cửa ngày càng sâu rộng hơn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu và số liệu thống kê cũng cho thấy ngành chế biến và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế như phụ thuộc nguyên liệu nước ngoài, khâu thiết kế còn yếu, vận hành chuỗi giá trị ngành gỗ còn nhiều điểm nghẽn. Trong số đó, nguồn cung nguyên liệu là một trong những vấn đề khó khăn lớn nhất của toàn ngành khi mà nguồn cung lớn từ Lào bị cắt giảm và nguồn rừng tự nhiên trong nước bị đóng cửa. Với bối cảnh đó, phân tích nguồn cung nguyên liệu cho ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu sẽ đưa ra được những cơ sở quan trọng để đề xuất các các giải pháp góp phần đáp ứng kịp thời nguồn nguyên liệu cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. 2. Tổng quan và phương pháp nghiên cứu Rất nhiều nghiên cứu về chuỗi giá trị ngành hàng đồ gỗ (Jori Uusitalo, 2006; World bank, 2011; Trần Việt Lâm, 2017) đã cho thấy nguồn cung nguyên liệu gỗ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình thúc đẩy sản xuất và tạo ra giá trị cho ngành chế biến và xuất khẩu các sản phẩm gỗ. Sự gia tăng những yêu cầu về chứng minh nguồn góc gỗ nguyên liệu hợp pháp và chính sách đóng cửa rừng tự nhiên đã gia tăng sức ép và ảnh hưởng lên công nghiệp chế biến gỗ của nhiều nước (United nation, 2013; VCCI, 2014). Những 19
  25. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng nghiên cứu cụ thể về ngành chế biến gỗ của Việt Nam cũng đã chỉ ra rằng để phát triển xuất khẩu lâm sản nói chung và đồ gỗ nói riêng, Việt Nam cần tập trung vào chiến lược trồng rừng để cung cấp nguồn nguyên liệu gỗ (Vũ Thị Minh Ngọc và Hoàng Thị Ngọc Dung, 2014). Các nghiên cứu khác của Vũ Thu Hương & cộng sự (2014), Trần Văn Hùng (2015) cũng đã dự báo sự phụ thuộc nguồn nguyên liệu sẽ là những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chế biến và xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam trong thời gian tới. Về phương pháp nghiên cứu, bài viết sử dụng phương pháp định tính với những kỹ thuật như tổng hợp, thống kê dữ liệu, phân tích dữ liệu, đánh giá thực trạng, phỏng vấn ý kiến chuyên gia nhằm đưa ra những kết quả phân tích cụ thể về thực trạng sản xuất chế biến gỗ và nguồn cung nguyên liệu cho chế biến đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam để đề xuất những kiến nghị và giải pháp phát triển. 3. Tổng quan thực trạng sản xuất ngành chế biến gỗ 3.1. Số lượng doanh nghiệp và cơ sở chế biến gỗ Ngành công nghiệp chế biến gỗ và sản phẩm gỗ đã trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đứng thứ 7 sau điện thoại, dệt may, điện tử, giày dép, máy móc và thủy sản (ITC, 2018). Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ đứng đầu Đông Nam Á. Chất lượng sản phẩm đồ gỗ Việt Nam luôn được nâng cao, có khả năng cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong chuỗi giá trị ngành gỗ, các doanh nghiệp và cơ sở chế biến gỗ đóng vai trò hạt nhân. Xét theo tính pháp lý của các chủ thể sản xuất, có thể chia các chủ thể chế biến gỗ thành 3 nhóm: các doanh nghiệp chế biến gỗ, các cơ cở chế biến gỗ nằm trong các làng nghề và nhóm hộ gia đình sản xuất và kinh doanh các sản phẩm gỗ. 3.2. Quy mô doanh nghiệp chế biến gỗ Mặc dù đứng đầu Asean về kim ngạch xuất khẩu gỗ nhưng hầu hết các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ Việt Nam là có quy mô nhỏ và vừa. Xét theo quy mô lao động thì có đến thì chỉ có khoảng 4,5% doanh nghiệp vừa và lớn, còn lại là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Xét theo quy vốn đầu tư, các tỷ lệ các doanh nghiệp vừa và lớn có khoảng 7%. Theo nguồn góc vốn thì số doanh nghiệp có vốn nhà nước chiếm khoảng 5%, doanh nghiệp FDI chiếm 15,2% và doanh nghiệp sở hữu nhân trong nước chiếm 79,8% (VnDirect, 2016, tr.7). Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mặc dù số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI ít hơn rất nhiều so với số lượng doanh nghiệp nội địa nhưng đóng góp của khu vực này cho xuất khẩu các sản phẩm gỗ lại lớn hơn rất nhiều so với tỷ lệ doanh nghiệp, với trung bình khoảng 40% kim ngạch mỗi năm (VCCI, 2014, tr.15). 3.3. Lao động trong ngành chế biến gỗ Theo Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam (2017), quy mô lao động trong ngành chế biến gỗ hiện nay vào khoảng khoảng 300.000 người. Trong số đó, số lượng lao động có trình độ đại học chuyên ngành chế biến lâm sản chỉ chiếm 2-3% (khoảng 6 đến 9 nghìn người), công nhân kỹ thuật chiếm 20-30%, số còn lại là lao động phổ thông. Với số lượng 4.200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến gỗ, trung bình mỗi doanh nghiệp chỉ có khoảng 2 lao động có trình độ đại học trở lên. Trong khi đó yêu cầu số lượng kỹ sư có trình độ đại học cần từ 7-10%/tổng số lao động (20-30 nghìn kỹ sư), như vậy có thể thấy số lượng kỹ sư chế biến lâm sản cần thiết cho ngành phải còn thiếu đến hàng nghìn mỗi năm. Năng suất lao động trong ngành chế biến gỗ ở Việt Nam còn thấp, chỉ bằng 50% của Philippines, 40% năng suất lao động của Trung Quốc và chỉ bằng 20% năng suất lao động của Liên minh Châu Âu (VCCI, 2014, tr.15). Lao động trong các doanh nghiệp biên biến các sản phẩm sơ cấp đều là trình độ đơn giản, bởi tính chất công việc ở khu vực này cũng đơn giản, không đòi hỏi kỹ thuật cao. 3.4. Công nghệ sản xuất Nhìn chung, các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ trong thời gian qua đã có những cải tiến nhất định. Các doanh nghiệp lớn sản xuất đồ gỗ đã đầu tư những dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa các công đoạn. Điều này giúp nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm được nhiều nguyên trong sản xuất hơn. Quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI đặt đã đặt ra yêu cầu cho các doanh nghiệp trong nước phải cải 20
  26. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng tiến công nghệ và vận hành sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng hiện đại. Tuy nhiên, trong khi các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ công nghiệp thường xuyên đầu tư các máy móc thiết bị hoặc công nghệ cho sản xuất thì hầu hết các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ Hoa Kỳ nghệ sử dụng các thiết bị lạc hậu, chưa đáp ứng được các đơn hàng lớn hay thị trường yêu cầu cao về chất lượng và độ chính xác. Bên cạnh các công nghệ sản xuất các dòng sản phẩm đồ gỗ, nhiều công nghệ sản xuất nguyên liệu như sản xuất dăm gỗ, ván gỗ nhân tạo cũng được đầu tư nhằm phù hợp với tính hình sản xuất trong nước và yêu cầu đầu ra các sản phẩm xuất khẩu. 3.5. Năng lực và chủng loại sản xuất Về năng lực sản xuất, với khoảng 4.200 doanh nghiệp và quy mô lao động 300.000 nghìn lao động trên cả nước, hàng năm ngành chế biến gỗ tạo ra giá trị sản xuất lên đến hơn 10 tỷ USD mỗi năm. Năng lực sản xuất trung bình giai đoạn 2010-2018 tăng 5% mỗi năm, kim ngạch xuất khẩu đứng đầu các nước Đông Nam Á, đứng thứ 2 ở châu Á và thứ 5 trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu luôn nằm trong 10 nhóm mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam (ITC, 2018). Tuy nhiên, năng lực trong sản xuất ngành chế biến gỗ của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với mặt bằng chung của thế giới. Mặc dù với số lượng doanh nghiệp và nguồn lao động phục vụ tương đối lớn mà ngành chế biến gỗ Việt Nam là có năng suất lao động thấp hơn do mẫu mã và công nghệ chế biến chưa hiện đại. Về chủng loại sản phẩm, Việt Nam sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm đồ gỗ (mã hàng hóa HS 94) với các sản phẩm đa dạng như đồ gỗ ngoài trời các loại, bàn ghế gỗ, đồ nội thất trong nhà, đồ nội thất văn phòng và các sản phẩm từ gỗ (mã hàng hóa HS 44) như gỗ nguyên liệu, dăm gỗ, ván gỗ nhân tạo, các thành phẩm có nguồn góc từ gỗ, bộ phận gỗ Việt Nam xuất khẩu sản phẩm gỗ đa dạng, sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng các mẫu mã lại hầu như phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Điều đó có nghĩa là mặc dù có năng lực sản xuất nhưng Việt Nam chưa có nhiều thương hiệu đồ gỗ riêng, mà chủ yếu gia thực hiện thụ động theo các mẫu mmax được đặc hàng. Do đó, tuy ngành chế biến gỗ Việt Nam được coi là hội nhập sâu với thị trường quốc tế, chiếm thị phần lớn trên giới nhưng giá trị mang lại chưa tương xứng với khả năng sản, Việt Nam chưa tạo được những sản phẩm đặc trưng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu của thế giới. 3.6. Liên kết và chuỗi cung ứng ngành chế biến gỗ Ngành chế biến gỗ có liên quan đến nhiều tác nhân khác và chuỗi cung ứng bao gồm nhiều tác nhân liên quan. Trong chuỗi cung ứng đồ gỗ, ngoài nghiệp chế biến gỗ bao gồm các công ty, hộ gia đình trồng rừng, khai doanh nghiệp thác gỗ, doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu, doanh nghiệp nhập khẩu và cung ứng nguyên liệu gỗ, doanh nghiệp cung ứng các nguyên liệu phụ trợ khác, doanh nghiệp thương mại. Liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng là một yêu cầu quan trọng để gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực liên quan và gia tăng giá trị gia tăng cho các tác nhân tham gia vào chuỗi cung ứng. Sự thiếu vắng liên kết trong ngành gỗ hiện nay không những làm giảm đi hiệu quả sử dụng nguồn lực, giảm lợi nhuận cho các bên liên quan mà còn làm mất cơ hội thị trường trong trường hợp đáp ứng các yêu cầu đơn hàng lớn từ các đối tác nhập khẩu. Các hiệp hội gỗ đại diện cho các doanh nghiệp của ngành có vai trò quan trọng trong việc hình thành và thúc đẩy liên kết. Tuy nhiên vai trò này hiện đang còn hạn chế, bởi các khó khăn do nguồn lực con người và tài chính, tiếp cận thông tin, thực quyền được trao cho các hiệp hội bởi các cơ quan quản lý. Đặc biệt là mâu thuẫn về lợi ích còn tồn tại giữa các thành viên trong cùng một hiệp hội cũng góp phần làm giảm đi vài trò của hiệp hội trong việc thúc đẩy liên kết trong chuỗi cung ứng. 21
  27. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Hình 1: Chuỗi cung ứng ngành chế biến gỗ Việt Nam Nguồn: (VnDirect, 2016, tr.7) Liên kết trong chuỗi cung ứng ngành chế biến gỗ tại Việt Nam được diễn ra chủ yếu theo các hình thức sau: liên kết trồng rừng, nhập khẩu nguyên liệu – sản xuất chế biến; liên kết sản xuất chế biến nguyên liệu và sản xuất chế biến đồ gỗ thành phẩm; liên kết sản xuất đồ gỗ thành phẩm và doanh nghiệp phân phối. Các mối liên kết trong chuỗi cung ứng ngành chế biến gỗ tại Việt Nam tương đối rời rạc và đứt quảng, vẫn chưa hình thành được một chuỗi liên kết xuyên suốt từ trồng rừng/nhập khẩu – chế biến nguyên liệu – chế biến thành phẩm – thương mại. Quá trình liên kết chưa chặc chẽ là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến năng suất lao động thấp và khả năng cạnh tranh của ngành gỗ nói chung và các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nói riêng của Việt Nam nói riêng chưa có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. 4. Phân tích nguồn nguyên liệu cho chế biến gỗ xuất khẩu 4.1. Nhu cầu nguyên liệu cho chế biến gỗ xuất khẩu Với sự tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu mạnh mẽ trong thời gia, nhu cầu nguyên liệu gỗ cho ngành chế biến gỗ ngày càng gia tăng mãnh mẽ. Với các chủng loại đồ gỗ và các sản phẩm khác từ gỗ được sản xuất của Việt Nam, nguồn nguyên liệu được sử dụng trong ngành chế biến gỗ bao gồm các loại sau: - Nguyên liệu cho sản xuất đồ gỗ: các mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam thuộc nhóm sản phẩm có mã HS94 từ HS9401 đến HS9404 như như đồ gỗ ngoài trời, ghế gỗ, đồ nội thất phòng ngủ, phòng ăn và đồ nội thất văn phòng. Đây là cũng là nhóm sản phẩm có giá trị sản xuất và kim ngạch xuất khẩu chủ yếu trong ngành chế biến gỗ với kim ngạch xuất khẩu trung bình giai đoạn 2010-2017 là 56% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành (UN Comtrade, 2018). Để sản xuất các loại đồ gỗ như trên, ngành chế biến gỗ Việt Nam cần đến các nguyên liệu như: gỗ tròn, gỗ xẻ, sợi gỗ, ván gỗ, ván ép, các nguyên liệu mây tre, nứa cho thủ công Hoa Kỳ nghệ và sản phẩm phụ trợ. Ước tính hiện nay, trung bình Việt Nam cần khoảng 9 triệu m3 gỗ quy tròn mỗi năm cho hoạt động sản xuất các mặt hàng đồ gỗ (Nguyễn Tôn Quyền và cộng sự, 2016, tr.3). - Nguyên liệu cho sản xuất dăm gỗ: hàng năm, Việt Nam cũng sản xuất và xuất khẩu một lượng lớn dăm gỗ. Nguyên liệu cho sản xuất dăm gỗ thuộc mã HS4401 chủ yếu là các loại cây gỗ từ rừng trồng trong nước như keo, tràm và các loại phế liệu sau cưa xẻ. Ước tính hiện nay, trung bình Việt Nam cần khoảng 9,4 triệu m3 gỗ quy tròn mỗi năm cho hoạt động sản xuất dăm gỗ (Nguyễn Tôn Quyền và cộng sự, 2016, tr.3). - Nguyên liệu cho sản xuất các sản phẩm khác từ gỗ: các sản phẩm khác từ gỗ mà Việt Nam xuất khẩu thuộc mã HS44 (trừ dăm gỗ) như đồ lưu niệm, khung tranh, khay sơn mài, chặn giấy, cửa gỗ, ván ghép, tay vịn cầu thang, ván nhân tạo Ước tính hiện nay, trung bình Việt Nam cần khoảng 5 triệu m3 gỗ quy tròn 22
  28. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng mỗi năm cho hoạt động sản xuất các sản phẩm từ gỗ thuộc nhóm này, riêng phần ván nhân tạo chiếm khoảng 3 triệu m3 (Nguyễn Tôn Quyền và cộng sự, 2016, tr.3). Với những số liệu nêu trên, tổng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến đồ gỗ và các sản phẩm khác từ gỗ cho xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 5 năm trở lại đây trung bình khoảng 23,4 triệu m3 mỗi năm. Trong đó, sản xuất dăm gỗ và đồ gỗ có nhu cầu lớn nhất về nguồn nguyên liệu. Hình 2: Tỷ trọng nguyên liệu gỗ (m3) sử dụng trong chế biến gỗ trung bình giai đoạn 2013-2017 Nhu cầu nguồn nguyên cho chế biến các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 38,46% tổng số nguyên liệu gỗ nhưng kim ngạch xuất khẩu mang lại chiếm hơn 55% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Dĩ nhiên không thể so sánh giữa nguyên liệu cho sản xuất dăm gỗ và đồ gỗ xuất khẩu vì giá trị nguyên liệu cho sản xuất các dòng sản phẩm này hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, phần so sánh này cũng phần nào cho thấy được tầm quan trọng và khả năng tạo ra giá trị của sản phẩm tinh chế như đồ gỗ so với chỉ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô có giá trị thấp như dăm gỗ. 4.2. Nguồn nguyên liệu trong nước Với nhu cầu sản xuất đồ gỗ và các sản phẩm từ gỗ xuất khẩu của Việt Nam, nguồn nguyên liệu trong nước có thể cung ứng bao gồm các chủng loại sau: gỗ rừng tự nhiên trong nước; gỗ rừng trồng trong nước; các loại gỗ vườn nhà và các loại gỗ trồng phân tán, gỗ cao su thanh lý; các loại ván nhân tạo; các loại mây, tre, nứa. Theo Báo cáo tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng (Bộ NN&PTNN, 2017, tr.2) tính đến hết năm 2016, tổng diện tích đất có rừng của Việt Nam đạt khoảng 14,37 triệu ha với diện tích rừng tự nhiên là 10,24 triệu ha, chiếm 71,26%, diện tích rừng trồng là 4,13 triệu ha, chiếm 28,74%. Rừng tập trung chủ yếu ở Trung du, miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (AGROINFO, 2017). Tuy nhiên, theo quyết định số 2242/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên giai đoạn 2014-2020, từ năm 2014, phải dừng khai thác chính gỗ rừng tự nhiên (trừ Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đắk Tô, tỉnh Kon Tum và Công ty TNHH MTV Lâm Công nghiệp Long Đại, tỉnh Quảng Bình được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững quốc tế). Giai đoạn 2008 - 2017, sản lượng khai thác gỗ của Việt Nam liên tục tăng, mức tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này đạt 15,11%, trong đó hai khu vực có sản lượng khai thác gỗ lớn nhất, chiếm tới hơn 60% sản lượng gỗ khai thác của cả nước là Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung, Trung du và miền núi phía Bắc (AGROINFO, 2017). 23
  29. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Đvt: nghìn m3 Hình 3: Sản lượng khai thác gỗ giai đoạn 2008 - 2017  Sản lượng khai thác bao gồm gỗ tự nhiên và gỗ rừng trồng Nguồn: Bộ NN&PTNN (2017) Đối với các nguồn cung nguyên trong nước cho chế biến gỗ, sản lượng gỗ rừng trồng mặc dù có tăng lên hàng năm nhưng không đủ điều kiện để chế biến đồ gỗ xuất khẩu. Hầu hết gỗ rừng trồng được khai thác là keo, tràm, bạch đàn có đường kính nhỏ, nhiều mắt chủ yếu được dùng để sản xuất dăm gỗ và ván gỗ nhân tạo, không thể phục vụ cho sản xuất các mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu. Do đó, nguồn cung nguyên liệu trong nước cho sản xuất đồ gỗ hầu như được cung cấp từ các nguồn rừng tự nhiên, ván gỗ nội địa, cây vườn nhà và gỗ cao su thanh lý. Tuy nhiên, từ năm 2017, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hướng dẫn các địa phương không cấp chỉ tiêu, đóng cửa khai thác chính gỗ rừng tự nhiên trên toàn quốc, kể cả các đơn vị đã có chứng chỉ quản lý rừng bền vững quốc tế. Vì thế nguồn cung gỗ tự nhiên trong nước cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu hầu như không còn. Lượng nguyên liệu nội địa còn lại chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn gỗ trồng phân tán trong cả nước đạt khoảng 2,1 triệu m3/năm và lượng cung gỗ từ nguồn các rừng cao su thanh lý hiện ở mức khoảng 3,2 triệu m3/năm (Nguyễn Tôn Quyền và cộng sự, 2016, tr.6). Tuy nhiên, tỷ lệ nguyên liệu nội địa đối với gỗ rừng trồng, gỗ vườn, gỗ cao su được sử dụng cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu chiếm khoản 22,7% (VCCI, 2014, tr.28) với khoảng 3,9 triệu m3/năm, với chủ yếu là nguồn gỗ cao su. Trong thời gian gần đây, các nguồn gỗ vườn, gỗ cao su nội địa của Việt Nam đang dần cạn kiệt do sản lượng khai thác giảm và không đáp ứng yêu cầu về nguồn gốc gỗ cho các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu. Do đó, với nhu cầu sử dụng khoảng 9 triệu m3/năm, phần cung ứng nguyên liệu gỗ cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu hầu như phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài. 4.3. Nguồn nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất đồ gỗ Nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu giữ vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất của ngành, nó bù đấp sự thiếu hụt của nguồn nguyên liệu cung ứng trong nước. Hằng năm, Việt Nam nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu gỗ từ hơn 110 quốc gia trên thế giới (UN Comtrade, 2017) với nhiều chủng loại khác nhau, trong đó tập trung chủ yếu vào gỗ tròn, gỗ xẻ và ván gỗ các loại cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. Với tổng nhu cầu gỗ quy tròn hiện nay khoảng 9 triệu m3/năm và khả năng cung ứng trong nước hiện tại vào khoảng 3,2 triệu m3/năm1, phần còn lại được nhập khẩu từ các quốc gia trên thế giới. Hàng năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 160-170 loài gỗ nguyên liệu, trong đó có 20-30 loài có số lượng nhập khẩu trên 10.000 m3/loài/năm (Tô 1 Nguồn nguyên liệu nội địa được sử dụng trong chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu trung bình 2012-2016: (8,5 triệu m3 rừng trồng + 2,5 triệu m3 rừng phân tán, cây vườn + 3,2 triệu m3 rừng cao su thanh lý) x 22,7% = 3,2 triệu m3 24
  30. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Xuân Phúc, 2016, tr.4). Các loài gỗ nhập khẩu khác nhau cho thấy sự đa dạng trong yêu cầu của khác hàng về nguyên liệu sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. Số lượng nhập khẩu các loại nguyên liệu chính cho sản xuất đồ gỗ trung bình giai đoạn 2012-2016 vào khoảng 7 triệu m3/năm (Nguyễn Tôn Quyền, 2016, tr.7). Trong số đó, cung ứng từ 66,6% đến 77,3% cho sản xuất các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu (VCCI, 2014, tr.28). Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu cho chế biến đồ gỗ xuất khẩu hầu như tăng liên tục qua các năm theo sự tăng trưởng của xuất khẩu đồ gỗ. Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu gỗ Đơn vị tính: nghìn USD Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Gỗ tròn 334,7 324,2 427,2 529,6 513,249 538,4 548,6 Gỗ xẻ 605,4 608,8 803,4 1.218,4 1.144,9 749,3 638,7 Gỗ ván các loại và khác 338,7 350,2 326,8 375,744 398,1 440,3 486,3 Tổng kim ngạch 1.278,9 1.283,3 1.557,5 2.123,8 2.056,2 1.695,2 1.643,6 Nguồn: ITC, 2018 Tuy nhiên, cũng có thế nhận thấy sự giảm rõ rệt của kim ngạch nhập khẩu trong năm 2017 so với giai đoạn trước. Sự sụt giảm này là do giảm nhập khẩu gỗ xẻ, vốn chiếm phần lớn trong giá trị nhập khẩu nguyên liệu, trong khi gỗ ván các loại lại có xu hướng tăng mạnh hơn. Hình 4 thể hiện rõ nét quá sự gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ ngày càng mạnh hơn so với kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu. So sánh sự tương quan giữa xu hướng xuất khẩu đồ gỗ và nhập khẩu nguyên liệu gỗ trong một thời gian dài thì có thể nhận thấy được sự giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Thậm chí nhập khẩu nguyên liệu từ năm 2016 có xu hướng giảm nhưng xuất khẩu đồ gỗ vẫn tăng mạnh mẽ. Nguồn: Dữ liệu từ ITC, 2018 Hình 4: Tương quan kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu đồ gỗ 4.4. Nguồn góc xuất xứ nguyên liệu Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang mang lại những cơ hội tiếp cận và mở rộng thị trường đáng kể cho đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc tăng cường các yêu cầu về tăng trưởng xanh với việc thực thi một loạt các yêu cầu về nguồn gốc gỗ hợp pháp đang trở thành yêu cầu chủ đạo ở nhiều thị trường nhập khẩu các mặt hàng đồ gỗ, như Luật Lacey của Hoa Kỳ, Chương trình Thực thi Luật lâm nghiệp, Quản trị rừng và Thương mại Lâm sản (FLEGT) do EU khởi xướng, các hàng rào kỹ thuật đang tạo ra những thách thức đặc biệt lớn đối với sự phát triển của ngành chế biến gỗ xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng của Việt Nam. 25
  31. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Trong ba nhóm nguyên liệu gỗ nhập khẩu bao gồm gỗ tròn, gỗ xẻ và ván gỗ các loại thì gỗ tròn và gỗ xẻ chiếm tỷ trọng đáng kể, dao động từ 75-80% tổng kim ngạch nhập khẩu (dữ liệu ITC, 2018). Nhóm nguyên liệu này cũng là nhóm bị kiểm soát gắt gao nhất về nguồn góc gỗ hợp pháp trong sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. Trong khi đó, các nguồn ván nhân tạo lại ít bị kiểm soát hơn. Đối với gỗ tròn, chiếm từ 24-30% tổng kim ngạch nguyên liệu gỗ nhập khẩu (dữ liệu ITC, 2018), bao gồm hai nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các loại gỗ từ rừng tự nhiên nhiệt đới được nhập khẩu từ các nước tiểu vùng sông Mê Công (chủ yếu là Lào) và Châu Phi, những khu vực được xem là có tính rủi ro cao về tình pháp lý của nguồn góc gỗ. Nhóm thứ hai là các loại gỗ từ rừng trồng hoặc rừng ôn đới có nguồn góc từ Châu Âu và Bắc Hoa Kỳ, có độ rủi ro thấp về sự hợp pháp của nguồn nguyên liệu. Trong những năm gần đây, xu hướng nhập khẩu gỗ tròn thuộc nhóm 1 có xu hướng giảm, nhất là khi các doanh nghiệp trong nước ý thức được việc phải tìm nguồn gỗ hợp pháp để đáp ứng yêu cầu cho xuất khẩu của các nước và nguồn cung từ Lào giảm đáng kể do chính sách đóng của rừng tự nhiên của nước này.Trong khi đó, các loại gỗ thuộc nhóm 2 lại có lượng nhập khẩu ổn định và có xu hướng tăng dần (Tô Xuân Phúc và cộng sự, 2016). Đối với gỗ xẻ, chiếm từ 46-56% tổng kim ngạch nguyên liệu gỗ nhập khẩu (dữ liệu ITC, 2018), cũng bao gồm hai nhóm chính. Tương tự với gỗ tròn, gỗ xẻ cũng có nguồn góc từ hai nguồn bao gồm từ các rừng nhiệt đới Châu Phi và tiểu vùng sông Mê Công có rủi ro pháp lý cao và các rừng trồng/rừng ôn đới Châu Âu và Bắc Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, nhập khẩu gỗ xẻ nguyên liệu thuộc nhóm có rủi ro thấp cũng có xu hướng tăng và nhập khẩu gỗ xẻ nguyên liệu thuộc nhóm có nguồn góc hợp pháp hơn có xu hướng ổn định và tăng dần. Tuy nhiên, ở cả hai loại gỗ tròn và gỗ xẻ, mặc đang có những dịch chuyển trong cơ cấu gỗ nguyên liệu nhập khẩu từ các các nguồn được cho là rủi ro cao sang các nguồn có độ rủi ro thấp hơn nhưng nguồn nguyên liệu có rủi ro pháp lý cao vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu gỗ. Với tỷ trọng lớn các loài gỗ nhập khẩu từ các nguồn được coi là rủi ro cho thấy một số doanh nghiệp vẫn tiếp tục ưu tiên nhập khẩu gỗ từ các nguồn này. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nhiều doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam không chỉ đối mặt với các rủi ro về mặt pháp lý mà còn sẽ bị ảnh hưởng đến hình ảnh của mình trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu ngày càng khó khăn về phát triển bền vũng của các thị trường tiêu thụ khó tính trên thế giới. 5. Một số gợi ý phát triển Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm đồ gỗ, dự kiến nhu cầu nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới, đặc biệt là trong bối cảnh thuế quan nhập khẩu của các quốc gia dần được loại bỏ theo lộ trình của các FTA mà Việt Nam đã tham gia. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực ngày càng có biện pháp ngặt nghèo hơn nhằm hạn chế xuất khẩu gỗ nguyên liệu. Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung các một số vấn đề cốt lõi sau trong quá trình xây dựng các giải pháp chuẩn bị nguồn nguyên liệu cho chế biến đồ gỗ: Một là, đối với dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu. Công tác dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cần được thực hiện một cách bài bản, khoa học và chi tiết. Với chi tiết các chủng loại đồ gỗ xuất khẩu và nguyên liệu cấu thành chúng, chúng ta hoàn toàn có thể nghiên cứu phương pháp cụ thể để tính toán và dự báo các loại nguyên liệu cần thiết cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu cho những năm tiếp theo. Dự báo nhu cầu nguyên liệu cần cụ thể đến mức độ sản xuất đồ gỗ trong những năm tiếp theo sẽ cần cụ thể những loại gỗ nào và sản lượng bao nhiêu để có thể đáp ứng nhu cầu. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu về chất lượng, yêu cầu về gỗ nguyên liệu cũng cần được thể hiện rõ. Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam nên là đơn vị chịu trách nhiệm trong việc phối hợp với các chuyên gia và đơn vị tư vấn để thực hiện công tác điều tra và dự báo. Kết quả dự báo nhu cầu nguồn nguyên liệu gỗ sẽ là cơ sở quan trọng để tiếp tục xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ trên phạm vi cả nước. Hai là, đối với nguồn nguyên liệu trong nước. Với kết quả dự báo nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ, chúng ta cần rà soát cụ thể khả năng cung ứng của từng loại trong điều kiện thực tế nguồn nguyên liệu của cả nước. Từ đó có những chính sách rõ ràng hơn trong quá trình trồng rừng, khai thác 26
  32. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng và sử dụng triệt để phần nguyên liệu nội địa. Những chính sách có thể tập trung là hạn chế xuất khẩu gỗ thô nguyên liệu, dăm gỗ, chính sách ưu đãi cho đầu tư trồng rừng. Tuy nhiên, việc hạn chế xuất khẩu những loại nào, chú trọng vào phát triển loại nguyên liệu nội địa nào hay cần trồng loại gỗ nguyên liệu nào cũng chỉ có thể thực hiện được nếu công tác dự báo nhu cầu nguyên liệu được hiện bài bản, khoa học và chính xác. Ba là, đối với nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Mặc dù nhập khẩu nguyên liệu gỗ hầu như tăng qua các năm theo sự tăng trưởng sản xuất của ngành chế biến gỗ nhưng tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu/giá trị xuất khẩu đồ gỗ đã giảm rất mạnh theo thời gian. Kết quả trên cho thấy về tổng thể, Việt Nam đã giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu nhập khẩu vẫn là cấu thành quan trọng trong các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, chính phủ cần tạo những điều kiện thuận lợi nhất để nhập khẩu và cung ứng nguyên liệu gỗ cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu sản phẩm gỗ sao cho đáp ứng số lượng, chất lượng và thời gian với giá cả cạnh tranh. Trong số đó, xây dựng cổng thông tin về nguyên liệu gỗ là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp có thể tham khảo các thông tin về nguồn nguyên liệu gỗ, chủ động hơn trong việc nhập khẩu và tránh dự trữ tồn kho nguyên liệu trong thời gian quá dài. Bốn là, đối với nguồn góc xuất xứ nguyên liệu. Đối với nguồn nguyên liệu nội địa, rõ ràng Việt Nam đang đối mặt với nhiều rủi ro pháp lý về chứng chỉ rừng trồng trong nước khi mà tỷ lệ rừng được cấp chứng chỉ FSC chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Nâng cao tỷ lệ rừng được cấp chứng chỉ FSC cần được xem là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong lĩnh vực trồng rừng. Mục tiêu đạt được FSC không phải là thách thức mà chính là cơ hội cho các doanh nghiệp trồng rừng trong thời gian tới để có thể bán được nguồn nguyên liệu của mình. Đối với nguồn nguyên liệu nhập khẩu, xu hướng giảm dần tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu gỗ ở những khu vực có rủi ro pháp lý cao đã thể hiện hướng đi đúng của các doanh nghiệp Việt Nam. Những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam về nguồn gốc nguyên liệu gỗ hợp pháp tiếp tục là động lực cho các doanh nghiệp chuyển dịch nhập khẩu nguyên liệu theo xu hướng này. Do đó, những hỗ trợ của nhà nước trong việc cung cấp thông tin về nguồn gốc nguyên liệu gỗ như xây dựng cổng thông tin về nguyên liệu gỗ sẽ hỗ trợ rất lớn cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu hợp pháp. Cuối cùng, đối với liên kết sản xuất. Tỷ lệ dữ trữ nguyên liệu gỗ của các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ Việt Nam luôn nằm ở mức cao do không chủ động được về nguồn nguyên liệu và thiếu vắng các liên kết sản xuất trong chuỗi giá trị, từ đó dẫn đến chi phí sản xuất cao. Trong điều kiện chưa thể phát triển thành một chuỗi khép kín từ trồng rừng đến thương mại sản phẩm trong chuỗi giá trị ngành gỗ thì trước tiên Việt Nam cần thực hiện liên kết cung cấp nguyên liệu – sản xuất thành phẩm. Liên kết này cũng đã được một số doanh nghiệp thực hiện tuy nhiên chỉ ở cấp độ doanh nghiệp và rời rạc. Hiệp gỗ và hội lâm sản Việt Nam và các Hiệp hội chế biến xuất khẩu đồ gỗ địa phương cần nâng cao vai trò của mình trong việc thúc đẩy thực hiện các liên kết này. 6. Kết luận Với các hiệp định về tính pháp lý và nhu cầu ngày càng tăng cao của nguyên liệu gỗ cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về dự báo nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất, phát triển nguồn cung nguyên liệu nội địa, tăng cường tính hợp pháp trong xuất xứ nguyên liệu, đẩy mạnh liên kết trong sản xuất và các chính sách liên quan đến nhập khẩu nguyên liệu để có thể đáp ứng kịp thời nguồn nguyên liệu cho sản xuất đồ gỗ xuất khẩu, nâng cao lợi thế so sánh của ngành chế biến gỗ Việt Nam trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự do trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] AGROINFO (2017), Báo cáo thường niên ngành gỗ Việt Nam 2016 và triển vọng 2017, Báo cáo thường niên ngành gỗ của Viện Chính sách và Chiến lược - Bộ NN&PTNN. [2] Bộ NN&PTNN (2012), Quyết định 2728-QD/BNN-CB về ban hành Quy hoạch công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. 27
  33. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng [3] Bộ NN&PTNN (2017), Báo cáo tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và giải pháp trong thời gian tới, Hội nghị chính phủ tháng 4/2017. [4] Nguyễn Tôn Quyền và cộng sự (2016), Thực trạng sử dụng nguyên liệu trong chế biến gỗ, Báo cáo nghiên cứu của Viforest, FPA Bình Định và Forest Trend. [5] Trần Văn Hùng (2015), “Thực trạng và giải pháp phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ Đông Nam Bộ”, Tạp chí phát triển và hội nhập, Số 22-tháng 05-06/2015, tr.66-72. [6] Tô Xuân Phúc và cộng sự (2016), Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu 2013-2016, Báo cáo nghiên cứu của Viforest, FPA Bình Định và Forest trend. [7] VCCI (2014), Báo cáo nghiên cứu ngành chế biến gỗ, Dự án Hỗ trợ Hiệp hội thực hiện nghiên cứu chiến lược phát triển ngành. [8] Vũ Thị Minh Ngọc và Hoàng Thị Ngọc Dung (2014), “Thực trạng và một số giải pháp phát triển thị trường lâm sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí khoa học và công nghệ lâm nghiệp, Số 4- 2014, tr151-160. [9] Vũ Thu Hương & cộng sự (2014), “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, Cơ hội và thách thức đối với công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam”, Tạp chí khoa học và công nghệ lâm nghiệp, Số 3-2014, tr136- 144. [10] ITC, Dữ liệu Trade map từ Trung tâm thương mại thế giới được lấy tại: 28
  34. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng PHÁT HUY THẾ MẠNH VỀ NÔNG NGHIỆP XANH VÀ DU LỊCH SINH THÁI TRONG BỐI CẢNH TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Giang Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng TÓM TẮT Việt Nam là quốc gia có rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, từng được kỳ vọng sẽ sớm trở thành một “con rồng” mới ở châu Á, sánh ngang với nhóm 4 con rồng châu Á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore. Tuy nhiên, qua rất nhiều nỗ lực, mục tiêu chúng ta đặt ra tưởng chừng như đạt được trong tầm tay như thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn còn khá xa vời. Vì vậy, chúng ta cần có những điều chỉnh kịp thời trong mô hình phát triển và nâng cao hiệu năng của nhà nước để đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì trệ, kém phát triển, có thể cất cánh trong tương lai gần. Để làm được điều đó, cần xác định đúng những ngành kinh tế mà chúng ta có lợi thế hiện nay là Nông nghiệp xanh và du lịch sinh thái để từ đó có biện pháp đầu tư kịp thời, biến chúng thành bệ đỡ cho sự phát triển bền vững của nước ta trong thời gian tới. Từ khóa: nông nghiệp xanh; du lịch sinh thái; lợi thế; Việt Nam; phát triển bền vững Năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, điều này thực sự tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt nam. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, gia nhập WTO chính là “mở cánh cửa lớn” để Việt Nam bước vào sân chơi toàn cầu. Lẽ tất nhiên, khi tham gia vào “sân chơi” này chúng ta cần phải tuân thủ luật chơi, và một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của WTO là các quốc gia thành viên cần đảm bảo cho “mở cửa thị trường”. Theo đó, chúng ta phải thực hiện mở cửa thị trường quốc gia cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài bằng cách tháo bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, chất lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng cùng với năng suất lao động cũng như giảm thiểu tối đa sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động thương mại bằng các hình thức như trợ giá, bù lỗ. Khi những cơ chế giúp nhà nước có thể che chắn, bảo vệ cho các doanh nghiệp, hàng hóa trong nước sẽ không còn nữa, buộc nhà nước và các doanh nghiệp phải lựa chọn thận trọng các ngành, các lĩnh vực để tập trung nguồn lực đầu tư phát triển trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm. Chiến lược phát triển theo kiểu “gai mít”, tức ngành nào cũng là ngành mũi nhọn, lĩnh vực nào cũng là lĩnh vực trọng điểm sẽ là lựa chọn không hiệu quả. Bởi vậy, việc xác định đúng và trúng lợi thế của quốc gia, để từ đó có sự đầu tư đúng hướng là rất cần thiết, bởi “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Cơ sở lý thuyết của việc xác định lợi thế của một quốc gia trong thương mại quốc tế là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith; Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo và Lý thuyết Heckscher-Ohlin, của hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin trong thế kỷ XX. Theo Smith, các nước nên chuyên môn hóa vào sản xuất những sản phẩm mà nước đó có chi phí sản xuất thấp hơn và sau đó trao đổi những hàng hóa đó lấy những hàng hóa sản xuất bởi những nước khác. Lập luận cơ bản của Adam Smith là một quốc gia không bao giờ nên tự sản xuất những hàng hóa mà thực tế có thể mua được từ các nước khác với chi phí thấp hơn. Theo lý thuyết của Ricardo về lợi thế so sánh, sản lượng tiềm năng của thế giới sẽ lớn hơn nhiều trong điều kiện thương mại tự do không bị hạn chế (so với trong điều kiện hạn chế về thương mại). Lý thuyết của Ricardo gợi ý rằng người tiêu dùng ở tất cả các quốc gia sẽ được tiêu dùng nhiều hơn nếu như không có hạn chế trong thương mại giữa các nước. Lý thuyết Heckscher-Ohlin dự báo rằng các nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa mà sử dụng nhiều hàm lượng những nhân tố dồi dào tại nước đó và nhập 29
  35. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng khẩu những hàng hóa mà sử dụng nhiều hàm lượng những nhân tố khan hiếm tại nước đó. Như vậy, lý thuyết H-O cố gắng giải thích mô hình của thương mại quốc tế mà ta chứng kiến trên thị trường thế giới. Giống như lý thuyết của Ricardo, lý thuyết H-O cho rằng thương mại tự do sẽ mang lại lợi ích. Vậy, lợi thế kinh tế của Việt Nam hiện nay là gì? Kể từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986), kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đổi mới được ghi nhận như là một sự đột phá tư duy ngoạn mục khi đưa nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, các năng lực sản xuất được giải phóng, khu vực tư nhân phát triển, vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, bước vào quá trình CNH và trở thành nước có thu nhập trung bình. Thậm chí, trong giai đoạn giữa thập kỷ 90, báo chí nước ngoài đã ca ngợi những thành tựu đó và có nhiều dự báo Việt Nam sẽ cất cánh trước khi bước vào thiên niên kỷ mới. Thế nhưng, sau đó đà phát triển này đã bị chững lại, và từ năm 2007 đến nay, nền kinh tế bị rơi vào suy trầm, đứng trước khó khăn, thách thức nghiêm trọng chưa từng có kể từ khi đổi mới. Nguyên nhân của thực trạng này được xác định là do mô hình tăng trưởng hiện thời dựa vào những nhân tố giúp Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong thời qua như: khai thác tài nguyên thiên nhiên, tăng vốn đầu tư, nhân lực giá rẻ, đã tới hạn khi hiệu quả đầu tư ngày càng thấp, nguồn tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt, yếu tố nhân lực giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hiện nay. Bởi vậy, cần tìm ra động lực để duy trì và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nếu không, Việt Nam sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, không thể phát triển trong môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Chúng ta xác định được đúng và chính xác lợi thế mà chúng ta có, phát huy lợi thế đó để biến thành động lực, thành chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế. Trước hết, chúng ta cần đánh giá đúng các lợi thế của mình, như: - Về điều kiện tự nhiên, Việt Nam nằm khu vực Đông Nam Á, là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới. Vị trí địa lý của Việt Nam thuận lợi cho phát triển kinh tế: nằm ở ranh giới trung gian tiếp giáp với các lục địa (châu Á & châu Đại Dương) và đại dương (Thái Bình Dương và Đại Tây Dương), án ngữ trên các tuyến hàng hải huyết mạch thông thương như Ấn Độ và Thái Bình Dương, Châu Âu, Trung cận đông và Trung Quốc. Điều đó giúp chúng ta dễ dàng thực hiện sự trao đổi, tiếp cận, giao thoa và cùng phát triển với nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng cả về số lượng và chủng loại, cho phép chúng ta có khả năng phát triển các ngành sản xuất vật chất. - Về điều kiện dân số, Việt Nam là quốc gia đông dân (hơn 90 triệu dân, đứng thứ 2 về dân số trong khu vực Đông nam á và thứ 13 thế giới), có nhiều dân tộc, đa sắc thái về văn hóa. Việt Nam có dân số trẻ, do đó, rất dễ tiếp cận với xu thế hiện đại của kỹ thuật, công nghệ. Đồng thời cũng cần phải khẳng định khả năng chúng ta có thể tự kiến tạo được công nghệ có sức cạnh tranh quốc tế trong bối cảnh hiện nay là không khả thi, do năng lực công nghệ nội sinh của chúng ta còn yếu. Bởi vậy, chúng ta cần tránh những mặt trận mà biết chắc khi tham gia sẽ thất bại như: công nghiệp chế tạo, công nghệ thông tin, điện tử, Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn (SMA), cơ khí chế tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học và tập trung nguồn lực mà hiện chúng ta có kinh nghiệm và lợi thế: nông nghiệp xanh, du lịch sinh thái. 1. Nông nghiệp xanh Tên thế giới, nông nghiệp 4.0 - cách thức sản xuất nông nghiệp hiện đại nhưng thân thiện môi trường đã giúp nền nông nghiệp của nhiều quốc gia phát triển và đạt những thành tựu quan trọng. Tại Mỹ, Brazil, Argentina, nông nghiệp xanh đã giúp nước này giảm tới 50% giá thành sản xuất ngô và đỗ tương. Hiện Việt Nam có 13,8 triệu hộ nông dân, 78 triệu mảnh ruông nhỏ lẻ, ngành này đóng góp 20% GDP, nếu chúng ta thực cơ cấu lại nền nông nghiệp, đẩy mạnh nông nghiệp công nghệ cao thì ngành này sẽ thực sự cất cánh, đưa nền kinh tế nước ta đi lên. Trên thực tế, việc triển khai mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã được một số doanh nghiệp quan tâm và thực hiện. Điển hình như TH True Milk (công nghệ nuôi bò sữa), 30