Luận văn Tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại của Việt Nam

pdf 139 trang hoanguyen 5340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_ty_gia_hoi_doai_thuc_va_can_can_thuong_mai_cua_viet.pdf

Nội dung text: Luận văn Tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại của Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH WωX PHẠM HỒNG PHÚC TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THỰC VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009
  2. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ thầy cô và bạn bè. Đầu tiên, tôi xin chân thành gởi lời cảm ơn đến cô Ngọc Trang, người đã rất tận tình góp ý, cung cấp nhiều tài liệu tham khảo, động viên tôi trong suốt quá trình hướng dẫn tôi làm luận văn. Tôi cũng hết sức biết ơn em Khang, Duy, Quý, anh Tuấn, thầy Huy Hoàng, những người đã hết lòng động viên góp ý và cung cấp một số tài liệu bổ ích giúp tôi hoàn thành luận văn. Tôi đặc biệt cảm ơn em Khang đã hết sức nhiệt tình giúp tôi hoàn thiện việc xử lý số liệu thống kê, đóng góp rất nhiều ý kiến cho luận văn và cũng xin cảm ơn vì những lời động viên của em. Cuối cùng, cho tôi xin gởi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô đã tận tình truyền đạt những kiến thức nền tảng trong ba năm tôi theo học cao học. Lâu lắm rồi con (em) mới có dịp bày tỏ lòng biết ơn của mình đến những người thân trong gia đình: ông bà, cha mẹ, các anh em những người đã dành những điều kiện tốt nhất giúp con (em) có thể hoàn thành luận văn này.
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin có lời cam đoan danh dự rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự giúp đỡ của cô hướng dẫn và những người mà tôi đã cảm ơn; số liệu thống kê là trung thực và nội dung, kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện nay. TP.HCM, ngày 30 tháng 07 năm 2009 Tác giả Phạm Hồng Phúc
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. KHUNG LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 5 1.1 Tỷ giá hối đoái 5 1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái 5 1.1.2 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 5 1.1.3 Tỷ giá hối đoái thực 6 1.1.4 Cơ chế tỷ giá 10 1.2 Cán cân thương mại (TB) 14 1.2.1 Khái niệm 14 1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại 15 1.3 Tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại 17 1.3.1 Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thương mại 17 1.3.2 Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiện Marshall-Lerner 20 1.4 Một số mô hình hồi quy liên quan đến tỷ giá, xuất nhập khẩu và lạm phát 21 1.4.1 Mô hình hồi quy tỷ giá theo chênh lệch lạm phát 21 1.4.2 Mô hình mối liên hệ giữa % thay đổi trong trong xuất khẩu và % thay đổi trong giá trị đồng tiền 21 1.4.3 Mô hình tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu chịu sự tác động của tỷ giá thực 22 CHƯƠNG 2. TÍNH TỶ GIÁ THỰC VÀ ĐO LƯỜNG TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ THỰC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 24 2.1 Tính tỷ giá thực song phương của một số đồng tiền so với USD 24 2.1.1 Tính tỷ giá thực song phương 24 2.1.2 Phân tích mức độ định giá của từng đồng tiền 25 2.2 Tính tỷ giá thực đa phương (REER) 27 2.3 Phân tích và đánh giá kết quả tính REER 31 2.3.1 Phân tích kết quả tính REER 31 2.3.2 Đánh giá tỷ giá thực đa phương 33 2.4 Mô hình hồi quy xuất nhập khẩu theo tỷ giá 34 2.4.1 Tác động của tỷ giá VND/USD đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 34 2.4.2 Tác động của tỷ giá thực đối với tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu 37 2.4.3 Dự báo tỷ giá vào cuối năm 2009, năm 2010 42 CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM 47 3.1 Mục tiêu của chính sách tỷ giá 47 3.2 REER là thước đo tổng hợp vị thế cạnh tranh thương mại quốc tế không hoàn hảo 48 3.2.1 Các hạn chế về mặt kỹ thuật của REER 49
  5. 3.2.2 Sự mơ hồ trong việc áp dụng REER 49 3.3 Biến động tỷ giá thời gian qua 50 3.4 Cơ chế tỷ giá từ sau khủng hoảng tài chính châu Á 54 3.4.1 Cơ chế tỷ giá 54 3.4.2 Tranh luận xung quanh vấn đề tỷ giá thực và chính sách điều hành tỷ giá của NHNN 56 3.4.3 Nhận định về các biện pháp quản lý tỷ giá của NHNN 58 CHƯƠNG 4. GỢI Ý CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM MỤC TIÊU DUY TRÌ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA VIỆT NAM 62 4.1 Chính sách tỷ giá đáp ứng ngang giá sức mua so với rổ tiền tệ 62 4.1.1 Neo tiền đồng vào một rổ ngoại tệ 62 4.1.2 Sử dụng REER như là dụng cụ để đo lường mức độ định giá của tỷ giá hiện tại 63 4.1.3 Bề rộng của dải băng tỷ giá 65 4.2 Điều hành tỷ giá nhằm mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa đồng thời cung cấp môi trường ổn định cho phát triển kinh tế 66 4.2.1 Điều chỉnh tăng tỷ giá trong thời gian sắp tới 66 4.1.2 Không tiến hành phá giá mạnh đồng nội tệ 67 4.1.3 Vấn đề lựa chọn mức tỷ giá cho năm 2009 và năm 2010 69 4.2.4 Giảm bớt vai trò của tỷ giá trong việc duy trì khả năng cạnh tranh của hàng hóa. 73 4.2.5 Các biện pháp khác 74 4.3 Tiếp tục lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát nhưng tăng dần “nồng độ” thả nổi và thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối 75 4.3.1 Những lý do cho việc kiểm soát tỷ giá 75 4.3.2 Sự cần thiết của việc kết hợp giữa thả nổi và quản lý tỷ giá ở Việt Nam giai đoạn hiện nay 76 4.3.3 Thả nổi tỷ giá hơn nữa 77 4.3.4 Hoàn thiện cơ chế quản lý và thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển 82 KẾT LUẬN 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 PHỤ LỤC 1: DỮ LIỆU THỐNG KÊ 90 PHỤ LỤC 2: BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC VÀ KẾT QUẢ HỒI QUY 95
  6. DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1.1: Can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm kéo giảm tỷ giá (nâng đỡ đồng nội tệ) khi cầu ngoại tệ tăng) 11 Hình 1.2: Hiệu ứng đường cong J 18 Hình 2.1: Đồ thị tỷ giá thực song phương các đồng tiền so với USD 22 Hình 2.2: Đồ thị tỷ giá thực đa phương gia đoạn 1999-2008 27 Hình 2.3: đồ thị biểu diễn tỷ giá thực đa phương và tỷ số xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 – 2008 28 Hình 2.4: Tỷ giá thực đa phương gia đoạn 2000-2008 30 Hình 2.5: Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với xuất khẩu 33 Hình 2.6: Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với nhập khẩu 33 Hình 2.7: Đồ thị biểu diễn tỷ giá danh nghĩa VND/USD từ năm 1999 đến 2010 43 Hình 3: Đồ thị biểu diễn đường đi của tỷ giá BQLNH và tỷ giá do NHTM công bố từ quý 1 năm 1999 đến quý 4 năm 2008 (tỷ giá VND/USD) 47 DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1 Tỷ giá bình quân liên ngân hàng và tỷ giá bán của NHTM 87 Bảng 1.2 Chỉ số GDP theo quý – từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2008 88 Bảng 1.3 Xuất nhập khẩu và tỷ giá theo quý 89 Bảng 1.4 Tỷ giá thực đa phương theo quý, kỳ gốc 1999, lạm phát Việt Nam và lạm phát trung bình của các nước và vùng lãnh thổ có tham gia rổ tiền 90 Bảng 2.1 Tỷ giá thực song phương của nội tệ so với USD 92 Bảng 2.2 Bảng xếp hạng mức độ định giá cao của các đồng tiền trong “rổ tiền” 92 Bảng 2.3a Kết quả tính tỷ giá thực đa phương kỳ gốc năm 1999 93 Bảng 2.3b Kết quả tính tỷ giá thực đa phương kỳ gốc năm 2000 98 Bảng 2.3c Kết quả tính tỷ giá thực đa phương kỳ gốc quý 1 năm 1999 101 Bảng 2.3d Kết quả tính tỷ giá thực đa phương kỳ gốc quý 1 năm 2000 116 Bảng 2.4 Kết quả hồi quy xuất khẩu theo tỷ giá 125
  7. Bảng 2.5 Bảng kết quả hồi quy nhập khẩu theo tỷ giá như sau: 125 Bảng 2.6a Kết quả hồi quy tỷ số xuất trên nhập khẩu theo tỷ giá thực song VND/USD và GDP 126 Bảng 2.6b Kết quả mô hình hồi quy giới hạn. 126 Bảng 2.7a Kết quả hồi quy tỷ số xuất khẩu theo GDP và tỷ giá thực đa phương. 127 Bảng 2.7b Kết quả mô hình hồi quy giới hạn. 128 Bảng 2.8 Các chỉ tiêu dự báo cho năm 2009 39 Bảng 2.9 Kết quả hồi quy REER theo chênh lệch lạm phát 128 Bảng 2.10 REER dự báo của các quý năm 2009, 2010 42
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Vấn đề nghiên cứu Mức tỷ giá hiện nay có phù hợp đối với nền kinh tế Việt Nam hay chưa? Mục tiêu nào mà chính sách tỷ giá cần phải đạt được: đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa hay cung cấp một môi trường ổn định để phát triển? Xung quanh các vấn đề trên có nhiều quan điểm rất khác nhau. Ngoài ra, cách thức mà ngân hàng nhà nước (NHNN) can thiệp vào quá trình hình thành và vận động của tỷ giá cũng là một đề tài gây tranh cãi. Có ý kiến cho rằng NHNN cần phải phá giá mạnh tiền đồng so với mức tỷ giá hiện tại để nâng cao khả năng cạnh của hàng hóa xuất khẩu và đề xuất thả nổi hoàn toàn tỷ giá để thị trường tự định đoạt mức tỷ giá phù hợp. Tuy nhiên cũng có ý kiến ngược lại, đó là chính sách tỷ giá cần phải ổn định (tức tỷ giá sẽ cố định hơn) để ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát. Để đánh giá mức độ phù hợp đối với nền kinh tế của mức tỷ giá hiện nay cần phải có một cơ sở khoa học để so sánh nó. Theo đó, NHNN nên xác định mức tỷ giá mục tiêu cho nền kinh tế. Ở mức tỷ giá này có thể giải quyết một số vấn đề như khả năng cạnh tranh của hàng hóa hay ổn định môi trường vĩ mô hay một số mục tiêu khác của chính phủ. Tỷ giá thực, nhất là tỷ giá thực đa phương do được điều chỉnh theo chênh lệch lạm phát của Việt Nam với các đối tác nên nó có thể là một mức tỷ giá mục tiêu thích hợp để NHNN tiến hành đánh giá mức độ phù hợp của mức tỷ giá hiện tại phục vụ cho một vài mục tiêu đã nói ở trên, nhất là mục tiêu đảm bảo khả năng cạnh tranh cho hàng hóa. Hiện tại, có một số mô hình để xác định tỷ giá mục tiêu như mô hình của nhà kinh tế Sebastian Edwards (1988) ước lượng tỷ giá thực cân bằng dài hạn; mô hình kinh tế vĩ mô mở, theo mô hình này các khu vực kinh tế, thị trường tài chính, thị trường tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô được liên kết lại trong một tổng thể nhằm đánh giá tác động của các chính sách đối với nền kinh tế, nó cũng cho phép đánh giá những tác động của chính sách tỷ giá đối với cán cân vãng lai, cán cân vốn; mô hình cân bằng đối nội và cân bằng đối ngoại; mô hình tỷ giá thực cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hóa
  9. 2 Trong khuôn khổ luận văn này tác giả trình bày một trong những phương pháp kể trên để xác định tỷ giá mục tiêu, đó là mô hình tỷ giá thực đa phương (hay còn gọi là tỷ giá thực hiệu lực). Sở dĩ tác giả chọn tỷ giá thực đa phương là vì nó phù hợp với thị trường tiền tệ sơ khai của Việt Nam. Tỷ giá này được kỳ vọng như là một căn cứ quan trọng để NHNN điều chỉnh tỷ giá hướng về mức tỷ giá có ngang giá sức mua nhằm duy trì vị thế cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, đồng thời có thể đảm bảo tỷ giá đạt mức cân bằng dài hạn. Tính cấp thiết của đề tài Việc công bố một cơ sở khoa học để xác định tỷ giá hiện tại có đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam hay không là việc làm rất cần thiết. Vả lại, hiện tại Việt Nam chưa có cơ quan nào công bố tỷ giá thực, một số đề tài của một vài nhà nghiên cứu tài chính tiền tệ có đề cập tới vấn đề này. Tuy nhiên, do tỷ giá thực có sự biến động mạnh trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nên vào từng thời điểm khác nhau có thể sẽ có cách nhận định về chính sách tỷ giá rất khác nhau. Do đó việc cập nhật tỷ giá thực và đánh giá lại những tác động của nó đối với nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và có chính sách tỷ giá phù hợp với từng thời kỳ là cần thiết. 2. Mục tiêu của đề tài Nhằm đóng góp thêm một góc nhìn, một quan điểm đối với biến động tỷ giá và chính sách điều hành tỷ giá hiện tại của ngân hàng nhà nước Việt Nam, tác giả tiến hành tính tỷ giá thực và đánh giá tác động của nó lên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng có những phân tích đánh giá mức độ tin cậy của tỷ giá thực đa phương trong việc xác định tiền đồng có bị định giá cao hoặc thấp hay không và mức độ tác động của nó đối với khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Tiếp theo, thông qua tỷ giá thực, tác giả cũng đưa ra các nhận định về chính sách tỷ giá, những tác động của chính sách tỷ giá đối với khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, đưa ra những dự báo về tỷ giá và một số gợi ý cho chính sách điều hành tỷ giá tại Việt Nam nhằm bảo đảm hàng hóa Việt Nam có ngang giá sức
  10. 3 mua so với các đối tác thương mại chủ yếu. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất một vài biện pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản tỷ giá phù hợp với trường hợp Việt Nam, từ đó tạo ra môi trường thuận lợi giúp tỷ giá có thể hoàn thành tốt vai trò của mình đối với nền kinh tế, trong đó có vai trò là công cụ hỗ trợ duy trì khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trong mậu dịch quốc tế. 3. Đối tượng nghiên cứu Tỷ giá tiền đồng so với một số đồng tiền của các đối tác thương mại lớn với Việt Nam. Tỷ giá nội tệ của các đối tác này so với đồng USD. Chỉ số CPI, giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại lớn nói trên. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam và các đối tác thương mại. Trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tỷ giá của đồng tiền một số nước và vùng lãnh thổ với Việt Nam đồng (tiền đồng) và với đô la Mỹ. Đồng tiền của các nước và vùng lãnh thổ này được chọn tham gia rổ tiền tệ để tính tỷ giá thực với tiền đồng và với USD theo năm. Trong rổ tiền này có 10 đồng tiền được chọn, đó là đồng SGD (Singapore), THB (Thái Lan), TWD (Đài Loan), KRW (Hàn Quốc), JPY (Nhật), CNY (Trung Quốc), EUR của Đức và Pháp, USD (Mỹ). Ngoài ra, khi tính tỷ giá thực đa phương theo quý, tác giả chỉ chọn tỷ giá của 7 đồng tiền trong số 10 đồng tiền trên do khó khăn trong việc tìm kiếm dữ liệu. Số liệu xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại, chỉ số CPI của Việt Nam và các đối tác, tỷ giá của Việt Nam đồng với các đối tác này được thu thập trong khoảng thời gian từ quý 1 năm 1999 đến quý 4 năm 2008. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, mô tả thống kê, phân tích định lượng và hồi quy. Từ các nguồn dữ liệu từ Tổng cục thống kê (GSO), Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VCB), Bộ tài chính, Quỹ Tiền tệ quốc (IMF), ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các
  11. 4 trang thông tin điện tử của các tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Bộ lao động Mỹ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) công bố trong khoảng thời gian 10 năm từ 1999 đến 2008, tác giả tiến hành tổng hợp số liệu, tính toán tỷ giá thực đa phương của Việt Nam, tỷ giá thực song phương của đồng tiền của các quốc gia đối tác (các đồng tiền được sử dụng trong rổ tiền tệ tính tỷ giá thực đa phương) so với đồng đô la Mỹ. Đầu tiên, tác giả tính toán và so sánh tỷ giá thực của Việt Nam đồng và mười đồng tiền trong rổ tiền (bao gồm cả đô la Mỹ) với đô la Mỹ, xem xét mức độ định giá của các đồng tiền này so với đồng đô la trong khoảng thời gian từ 2000 đến 2008. Tiếp theo, tác giả tính tỷ giá thực đa phương và căn cứ trên tỷ giá này đưa ra các nhận xét về chính sách tỷ giá hiện hành và đánh giá mức độ định giá của đồng Việt Nam so với rổ tiền tiền tệ đã chọn. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành kiểm định mối quan hệ giữa tỷ giá và xuất nhập khẩu của Việt Nam, qua đó đánh giá mức độ tác động của tỷ giá đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Kết cấu của luận văn gồm bốn chương: Chương I: Khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại. Chương II: Tính tỷ giá thực và đo lường tác động của tỷ giá thực đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Chương III: Biến động tỷ giá và nhận định về cơ chế tỷ giá của Việt Nam. Chương IV: Gợi ý chính sách tỷ giá nhằm mục tiêu duy trì khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
  12. 5 CHƯƠNG I. KHUNG LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 1.1 Tỷ giá hối đoái 1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái giữa hai nước là mức giá tại đó đồng tiền của một nước có thể biểu hiện qua đồng tiền của nước khác. Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái một mặt nó phản ánh sức mua của đồng nội tệ, mặt khác nó thể hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. 1.1.2 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được sử dụng hàng ngày trong giao dịch trên thị trường ngoại hối, nó chính là giá của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng. • Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương là giá cả của một đồng tiền so với một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến chênh lệch lạm phát giữa hai nước. • Tỷ giá danh nghĩa đa phương (NEER–Nominal Efective Exchange rate) NEER không phải là tỷ giá, nó là một chỉ số được tính bằng cách chọn ra một số loại ngoại tệ đặc trưng (rổ tiền tệ) và tính tỷ giá trung bình các tỷ giá danh nghĩa của các đồng tiền có tham gia vào rổ tiền tệ với tỷ trọng tỷ giá tương ứng. Tỷ trọng của tỷ giá song phương có thể lấy tỷ trọng thương mại của nước có đồng nội tệ đem tính NEER so các nước có đồng tiền trong rổ được chọn. Gọi t = 0 là kỳ gốc, (t = 0,1,2, i) là các thời kỳ nghiên cứu. 0 0 0 E1, E 2, E n, là tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n trong rổ tiền tệ tại thời điểm t = 0 (kỳ gốc). i i i E1, E 2, E n, tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n trong rổ tiền tệ tại thời điểm t = i. w1, w2, . wn là tỷ trọng thương mại của đồng tiền các nước. Nếu so sánh tỷ giá danh nghĩa so với kỳ gốc, ta có: - Tại thời kỳ t=0: Chỉ số tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với ngoại tệ thứ n 0 0 0 là e n = E / E n.
  13. 6 - Tại thời kỳ t=i: Chỉ số tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với ngoại tệ thứ n i i i là e n = E / E n. n ∑ei .w NEER = j j i J=1 1.1.3 Tỷ giá hối đoái thực Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh bởi tương quan giá cả trong nước và ngoài nước. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng hay giảm không nhất thiết phải đồng nghĩa với sự gia tăng hay giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Như vậy, tỷ giá hối đoái thực là một phạm trù kinh tế đặc thù và việc phân tích tỷ giá hối đoái thực sẽ là một vấn đề cần được quan tâm. 1.1.3.1 Tỷ giá thực song phương (RER) là tỷ giá danh nghĩa1 đã được điều chỉnh theo mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước, nó là chỉ số thể hiện sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Vì thế có thể xem tỷ giá thực là thước đo sức cạnh tranh trong mậu dịch quốc tế của một quốc gia so với một quốc gia khác. + Tỷ giá thực song phương ở trạng thái tĩnh Tỷ giá thực song phương được xét tại một thời điểm. Ta có công thức tính như sau: E. Pf E Er = = Ph /Pf Ph Trong đó: ° E: Tỷ giá danh nghĩa tính bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. ° Ph: Mức giá trong nước. ° Pf: Mức giá nước ngoài. Trong công thức trên, tử số là giá cả hàng hóa được quy về đồng nội tệ và đem chia cho mẩu số là giá hàng hóa trong nước (cũng được tính bằng nội tệ). Vì thế tỷ giá thực là một chỉ số so sánh mức giá nước ngoài so với mức giá trong nước. - Nếu Er = 1, ta nói rằng đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ có ngang giá sức mua. 1 Có hai phương pháp niêm yết tỷ giá - phương pháp yết giá gián tiếp: ngoại tệ là đồng tiền yết giá, nội tệ là đồng tiền định giá; phương pháp yết giá trực tiếp: nội tệ là đồng tiền yết giá, ngoại tệ là đồng tiền định giá. Trong suốt luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp yết giá trực tiếp để tính toán.
  14. 7 - Nếu Er >1, đồng nội tệ được định giá thấp. Khi đồng nội tệ định giá thấp, về lý thuyết sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. - Nếu Er <1, đồng nội tệ được định giá cao, giá hàng hóa trong nước sẽ cao hơn giá hàng hóa ở nước ngoài. Do đó, ngược lại với trường hợp trên, đồng nội tệ định giá cao sẽ hạn chế xuất khẩu và tăng nhập khẩu. + Tỷ giá thực song phương ở trạng thái động Hiện nay không có quốc gia nào công bố giá của một rổ hàng hóa, cho nên tỷ giá thực ở trạng thái tĩnh chỉ mang ý nghĩa lý thuyết. Vì vậy, người ta sử dụng tỷ giá ở trạng thái động để tính toán sự vận động của tỷ giá thực từ thời kỳ này sang thời kỳ khác thông qua việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa với chênh lệch lạm phát giữa hai quốc gia có đồng tiền đem so sánh. Tại thời điểm t: CPI ft t t 0 e = e 0 100% 0r ht CPI0 Trong đó: t - e 0 = Et/E0 là chỉ số tỷ giá danh nghĩa thời điểm t so với thời điểm 0. t r r - e 0r = E t/ E 0 là chỉ số tỷ giá thực thời điểm t so với thời điểm 0. ft - CPI0 là chỉ số giá ở nước ngoài thời điểm t. ht - CPI0 là chỉ số giá ở trong nước thời điểm t. 1.1.3.2 Mối quan hệ giữa tỷ giá thực và tỷ giá có ngang giá sức mua Tỷ giá có ngang giá sức mua chính là tỷ giá thực (Er) có trị số bằng 1. Do tỷ giá danh nghĩa được giao dịch trên thị trường ngoại hối thường lệch khỏi ngang giá sức mua nên tỷ giá thực có thể lớn hơn, nhỏ hơn 1. Lúc này đồng tiền có thể được định giá thấp hay cao so với ngang giá sức mua. Vì vậy, khi tỷ giá danh nghĩa tăng hay giảm không nhất thiết phải đồng nghĩa với sự gia tăng hay giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế, các nhà quản lý nghiên cứu và dự báo ngang giá sức mua để cố gắng kéo tỷ giá về vùng ngang giá sức mua nhằm đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế hay phục vụ cho các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Theo lý thuyết, ngang giá sức mua giữa hai đồng tiền chính là cơ sở để hình thành tỷ giá giao dịch trên thị trường. Do đó, dự báo ngang giá sức mua để điều
  15. 8 chỉnh tỷ giá sao cho trong quan hệ mậu dịch quốc tế không có quốc gia nào bị thiệt khi có chêch lệch lạm phát giữa các quốc gia. Nếu có ngang giá sức mua, tỷ giá danh nghĩa của đồng tiền một nước so với tất cả các đồng tiền khác sẽ biến động ngang với chênh lệch lạm phát của nước đó so với lạm phát của các nước khác. Người ta dùng ngang giá sức mua để đánh giá biến động của đồng tiền trong tương lai. Giá trị mới của tỷ giá giao ngay của một đồng tiền nào đó (St+1 ) sẽ là một hàm của tỷ giá giao ngay ban đầu (St )và chênh lệch lạm phát: (1+ Ih ) St+1 = St [1+ - 1] (1+ I ) f Trong đó: Ih là tỷ lệ lạm phát trong nước và If là tỷ lệ lạm phát nước ngoài Công thức tính gần đúng: S t+1 = St [1+ (Ih – If )] + Phương pháp tính tỷ giá có ngang giá sức mua vào thời điểm năm thứ n so với năm gốc Vào cuối năm thứ n, tỷ giá sẽ phải tăng hay giảm một tỷ lệ nào đó so với năm cơ sở được chọn trước để đáp ứng ngang giá sức mua. Căn cứ vào chỉ số giá công bố hàng năm so với năm trước, chúng ta có thể tính được tỷ giá có ngang giá sức mua ở năm thứ n. h f Gọi CPIt , CPIt lần lượt là chỉ số lạm phát trong nước và nước ngoài năm t. E0, Et lần lượt là tỷ giá năm 0 (thường chọn làm năm cơ sở) và tỷ giá năm t. + Năm 0: tỷ giá là E0 được cho trước. h f + Năm 1: Tỷ giá E1 = E0 x CPI1 / CPI1 (1) h f + Năm 2: Tỷ giá E2 = E1 x CPI2 / CPI2 (2) Thế (1) vào (2) ta có: h f h f h h f f E2 = E0 x CPI1 / CPI1 x CPI2 / CPI2 = E0 x CPI1 CPI2 / CPI1 CPI2 + Năm thứ n tỷ giá (theo thuyết ngang giá sức mua) sẽ là h h h h CPI1 . CPI2 . CPI3 . CPIn E = E0 n f f f f CPI1 . CPI2 . CPI3 . CPIn
  16. 9 Công thức này dễ sử dụng vì trong niên giám thống kê có công bố số liệu và các tổ chức tài chính quốc tế cũng cung cấp số liệu chỉ số CPI hàng năm của các nước trên các trang web của mình và người dùng có thể truy cập miễn phí. 1.1.3.3 Tỷ giá thực đa phương hay tỷ giá thực hiệu lực (REER) Tỷ giá thực song phương chỉ cho chúng ta biết được sự lên giá hay xuống giá của đồng nội tệ so với một đồng ngoại tệ. Ngày nay, quan hệ thương mại là đa phương, một nước có quan hệ buôn bán với rất nhiều nước trên thế giới. Vấn đề được đặt ra là tại một thời điểm nhất định làm sao có thể biết được đồng nội tệ lên giá hay giảm giá so với các đồng tiền của các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch, hay nói cách khác là làm sao để có thể biết được tương quan sức mua hàng hóa của đồng nội tệ với các đồng ngoại tệ để làm cơ sở đánh giá tác động của tỷ giá đối với cán cân thương mại của quốc gia? Để có cái nhìn toàn diện hơn về vị thế cạnh tranh của hàng hóa trong nước với các đối tác thương mại khác người ta dùng tỷ giá thực đa phương (tỷ giá trung bình). Tỷ giá thực đa phương là một chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia và là cơ sở để đánh giá đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp. Chỉ số này rất hữu ích cho việc đạt được mục tiêu thích hợp trong cơ chế tỷ giá hỗn hợp giữa linh hoạt và cố định. Vì vậy, nó được nhìn nhận như là dữ liệu cơ bản cho quá trình thực thi chính sách. Tỷ giá thực đa phương được tính toán để định ra giá trị thực của đồng nội tệ so với các ngoại tệ (rổ ngoại tệ). Bằng cách điều chỉnh tỷ giá theo chênh lệch lạm phát quốc nội so với lạm phát các đối tác tác thương mại, ta sẽ có tỷ giá thực song phương với từng đồng ngoại tệ. Sau đó xác định quyền số (mức độ ảnh hưởng đối với tỷ giá thực thông qua tỷ trọng thương mại của từng đối tác với quốc gia có đồng tiền tính REER). Gọi t = 0 là kỳ gốc, (t =0,1,2, i) là các thời kỳ nghiên cứu. 0 0 0 Gọi E 1, E 2, E n, là tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n trong rổ tiền tệ tại thời điểm t = 0 (kỳ gốc). i i i E1, E 2, E n, tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n trong rổ tiền tệ tại thời điểm t = i.
  17. 10 - Tại thời kỳ t=i, so với kỳ gốc: Chỉ số tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với i i 0 ngoại tệ thứ n là e n = E n / E n. t CPIn là chỉ số giá của đối tác n thời điểm t so với thời điểm 0. CPIt là chỉ số giá ở trong nước thời điểm t so với thời điểm 0. - Tính tỷ trọng thương mại: t Gọi I n là kim ngạch nhập khẩu của nước có đồng tiền được tính tỷ giá thực đa phương với đối tác thương mại thứ n. t En là kim ngạch xuất khẩu của nước có đồng tiền được tính tỷ giá thực đa phương với đối tác thương mại thứ n. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của các nước trong “rổ tiền” (Wt) n t t t W = ∑ (I j + E j) J=1 w1, w2, . wn là tỷ trọng thương mại của các đối tác. Tỷ trọng thương mại của đối tác thứ n: t t I n + E n w t = n n t t ∑ (I j + E j) J=1 - Chỉ số giá tiêu dùng bình quân: n i Pw = ∑ wj . CPI j J=1 CPIi - Tỷ giá thực đa phương: n i i REER = ∑e j.wj .CPI j J=1 CPIi Khi REER lớn hơn 100, đồng nội tệ bị định thấp, ngược lại REER nhỏ hơn 100 bị định giá cao, REER bằng 100 đồng nội tệ có ngang giá sức mua so với “rổ tiền tệ” 1.1.4 Cơ chế tỷ giá 1.1.4.1 Khái niệm Cơ chế tỷ giá hối đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
  18. 11 Cơ chế tỷ giá hối đoái: là tất cả những quy định pháp luật do chính phủ và ngân hàng trung ương quy định để điều tiết, quản lý thị trường ngoại hối. 1.1.4.2 Phân loại cơ chế tỷ giá • Tỷ giá hối đoái cố định là một kiểu chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một rổ tiền tệ, hay với một thước đo giá trị khác, như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định. Trong cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, chính phủ, bằng các chính sách tài chính tiền tệ sẽ cố gắng neo tỷ giá lại ở một giá trị nhất định nhằm ổn định thị trường tránh những biến động bất ngờ gây khó khăn cho nền kinh tế hay để hỗ trợ cho một quan điểm phát triển nào đó chẳng hạn định giá thấp nội tệ để hỗ trợ cho chính sách phát triển hướng về xuất khẩu. Khi cầu ngoại tệ tăng từ D đến D’ tạo áp lực làm tỷ giá hối đoái tăng từ e0 đến e1, ngân hàng trung ương sẽ bán ra ngoại tệ từ quỹ dự trữ ngoại hối làm tăng cung ngoại tệ từ S đến S’ và tỷ giá được kéo giảm trở lại tại điểm e’, mức cung sẽ dừng lại khi ngân hàng trung ương (NHTW) đạt được mục tiêu đã định. Các mục tiêu của ngân hàng trung ương có thể là cố định tỷ giá (kéo tỷ giá về sát e0), phá giá đồng nội tệ (NHTW mua vào ngoại tệ tăng cung đồng nội tệ, đây là chính sách đẩy đường cung ngoại tệ S sang trái) và ngược lại là chính sách nâng giá đồng nội tệ. Hình 1.1 Can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm kéo giảm tỷ giá (nâng đỡ đồng nội tệ) khi cầu ngoại tệ tăng. Tỷ giá S S’ e1 e’ e0 D’ D Lượng ngoại tệ tăng
  19. 12 Theo hình 1.1, khi cầu ngoại tệ tăng từ D sang D’ tạo áp lực tăng tỷ giá lên e1, chính phủ sẽ sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối, bán ra ngoại tệ để thu lại đồng nội tệ, đồng nội tệ tăng giá tỷ giá giảm lại (cân bằng tại e’). Cơ chế này đòi hỏi dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương phải đủ mạnh để có thể can thiệp hiệu quả khi có sự biến động tỷ giá. Một số ý kiến của các chuyên gia cho rằng tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc, đồng tiền không thể hiện giá trị thị trường thực và làm méo mó các tín hiệu và thông tin để thị trường điều chỉnh đúng hướng. Cơ chế này không khuyến khích doanh nghiệp tự bảo vệ mình trước những rủi ro độ nhạy cảm giao địch đối với tỷ giá do không có bất ổn tỷ giá, từ đó làm trì trệ sự phát triển và hoàn thiện của thị trường các sản phẩm phòng ngừa rủi ro biến động giá trị tiền tệ. Tỷ giá hối đoái cố định sẽ làm lây nhiễm lạm phát và thất nghiệp từ quốc gia này sang các quốc gia khác. Khi tỷ giá cố định, do lạm phát tăng cao đồng nội tệ bị định giá cao làm giá hàng hóa trong nước tăng nên quốc gia có lạm phát cao hơn sẽ có xu hướng nhập khẩu hàng hóa; ngược lại, quốc gia có lạm phát thấp sẽ giảm bớt nhập khẩu từ quốc gia lạm phát cao. Theo lý thuyết cung cầu, cầu hàng hóa ở quốc gia lạm phát thấp (đồng nội tệ bị định giá thấp) sẽ tăng vượt khả năng cung hàng hóa làm giá cả hàng hóa của quốc gia này tăng kéo lạm phát tăng lên. Hay nói cách khác, nước có lạm phát cao đã lây nhiễm sang nước có lạm phát thấp làm tăng lạm phát ở nước này. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định khá tốn nhiềm tiềm lực của chính phủ (phải có đủ dự trự ngoại hối đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết), cơ chế này làm cho chính sách tiền tệ mất hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. • Cơ chế tỷ giá thả nổi hay còn gọi là cơ chế tỷ giá linh hoạt là một cơ chế trong đó tỷ giá do các lực thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của chính phủ. Theo cơ chế này các doanh nghiệp phải dành thời gian và tiềm lực để quản lý rủi ro do giao động tỷ giá.
  20. 13 Trong cơ chế tỷ giá thả nổi giá, tỷ giá tự do thay đổi theo cung cầu ngoại tệ, chính phủ không can thiệp vào thị trường ngoại hối. Trong cơ chế này, khi tỷ giá hối đoái tăng thì đồng nội tệ giảm giá và ngược lại. Đồng tiền của quốc gia có lạm phát thấp sẽ tăng giá và ngược lại, đồng tiền của nước có lạm phát cao hơn sẽ giảm giá. Điều này đã làm cho cán cân thương mại giữa hai quốc gia cân bằng trở lại và đảm bảo có ngang giá sức mua giữa các quốc gia có tham gia thương mại quốc tế. • Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết là một cơ chế tỷ giá hối đoái hỗn hợp giữa thả nổi và cố định. Trong thực tế rất ít quốc gia thả nổi hoàn toàn đồng tiền của mình do quá bất ổn. Trong cơ chế thả nổi có quản lý, ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ công bố một mức tỷ giá nào đó và thường xuyên điều chỉnh theo những thay đổi trong cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối quốc gia, sự phát triển của thị trường ngoại hối không chính thức. Ngoài ra, tỷ giá cũng sẽ được điều chỉnh theo quan điểm của NHTW nhằm phục vụ cho các mục tiêu đã được định trước, ví dụ như mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu hay mục tiêu ổn định giá cả và lạm phát Trong cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát, tỷ giá được điều tiết theo quan hệ cung cầu ngoại tệ nhưng nếu tăng vượt mức giới hạn cho phép, có khả năng ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế, chính phủ sẽ dùng dự trữ ngoại hối và các chính sách kinh tế khác để can thiệp. 1.1.4.3 Cách phân loại cơ chế tỷ giá mới của IMF2 IMF đưa ra hệ thống phân loại cơ chế tỷ giá mới gồm 3 nhóm chính là (1) cơ chế neo cố định (hard pegs), cơ chế điển hình hiện nay trên thế là “chuẩn tiền tệ” với các quốc gia đã từng áp dụng gồm Achentina, Estonia, Lithuania (2) cơ chế neo linh hoạt gồm: cố định truyền thống: tỷ giá chỉ giao động trong một biên độ hẹp, khoảng 1%; cơ chế con rắn tiền tệ: tỷ giá có thể giao động trong biên độ rộng hơn. 2 TS Trần Ngọc Thơ và các thành viên (2006) “Phương pháp tiếp cận cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu cấp bộ.
  21. 14 (3) thả nổi, bao gồm thả nổi có điều tiết không công bố trước và thả nổi hoàn toàn. Trong cơ chế thả nổi hoàn toàn chính sách tiền tệ độc lập với chính sách tỷ giá. Mỹ là quốc gia điển hình cho cơ chế thả nổi hoàn toàn. + Một số cơ chế tỷ giá hỗn hợp giữa thả nổi và cố định Neo có điều chỉnh. Là cơ chế tỷ giá mà tỷ giá được điều chỉnh với một mức độ rất nhỏ xoay quanh một ngang giá được ấn định trước. Các ngang giá này được điều chỉnh dần và mỗi lần điều chỉnh với lượng nhỏ (thường là có thông báo trước). Cơ chế neo tỷ giá vào rổ tiền tệ với dải băng được ấn định trước. Theo cơ chế này tỷ giá sẽ được điều chỉnh theo một rổ các đồng tiền mạnh với quyền số phản ánh các quan hệ thương mại của nước có đồng tiền được neo với các đối tác. Các cơ chế này phù hợp với các nước có thị trường tài chính chưa phát triển đầy đủ. Ngoài ra, còn có các sự kết hợp khác giữa thả nổi và cố định tùy vào đặc điểm của từng nước. 1.2 Cán cân thương mại (TB) 1.2.1 Khái niệm Cán cân thương mại là một thành phần chủ yếu trong cán cân vãng lai (bao gồm cán cân thương mại, cán cân dịch vụ và chuyển nhượng đơn phương). Cán cân thương mại ghi lại các hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Khi xuất khẩu ghi dấu +, khi nhập khẩu ghi dấu - Chênh lệnh giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa gọi là giá trị xuất khẩu ròng. Xuất khẩu ròng còn thể hiện chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước. Cán cân thương mại thặng dư khi xuất khẩu ròng mang dấu dương, thể hiện giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị nhập khẩu, ngược lại là thâm hụt thương mại. Ta có: TB = X – M Trong đó: TB là cán cân thương mại. X là giá trị xuất khẩu. M là giá trị nhập khẩu. Cán cân thương mại thăng dư khi (X – M) > 0; ngược lại, cán cân thương mại thâm hụt khi (X – M) < 0.
  22. 15 Vì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai và xuất khẩu ròng bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này. Vì vậy, sự thặng dư hay thâm hụt tài khoản vãng lai có quan hệ chặt chẽ với thâm hụt hay thặng dư cán cân thương mại. Tài khoản vãng lai thặng dư khi xuất khẩu ròng, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Khi mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn một quốc gia sẽ phải tìm nguồn tài trợ cho mức thâm hụt này, có thể là vay mượn nước ngoài để bù đắp làm tăng thêm số nợ ròng nước ngoài. Hoặc quốc gia cũng có thể bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai bằng cách sử dụng của cải nước ngoài đã được tích lũy từ các năm trước. Một nước có tài khoản vãng lai thâm hụt là nước nhập khẩu tiêu dùng hiện tại và phải xuất khẩu tiêu dùng trong tương lai (nước đi vay sẽ phải trả nợ); ngược lại quốc gia có thặng dư tài khoản vãng lai là nước xuất khẩu tiêu dùng hiện tại và nhập khẩu tiêu dùng trong tương lai (vị thế nước cho vay sẽ thu hồi nợ sau) Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hơn 5% GDP, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh. 1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân (GDP) Thu nhập thực tế (đã điều chỉnh theo lạm phát) tăng làm gia tăng mức tiêu thụ hàng hóa. Một sự gia tăng trong chi tiêu hầu như phản ánh một mức cầu gia tăng đối với hàng hóa nước ngoài. Vì vậy, GDP tăng đã làm nhập khẩu có xu hướng tăng. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP tăng thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ảnh hưỏng của tỷ giá hối đoái Nếu các yếu tố không đổi, một sự gia tăng trong giá trị đồng nội tệ có thể làm cán cân thương mại xấu đi. Đồng nội tệ tăng giá làm giá hàng hóa trong nước
  23. 16 trở nên đắt tương đối so với hàng nước ngoài, điều này gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Đồng nội tệ mất giá (đồng nội tệ được định giá thấp) có thể giúp cải thiện cán cân thương mại. Đứng trên khía cạnh của nhà xuất khẩu, đồng nội tệ giảm giá làm hàng nội rẻ tương đối so với hàng ngoại. Ngược lại, đối với nhà nhập khẩu, nội tệ giảm giá làm giá cả hàng hóa nhập khẩu đắt tương đối so với hàng nội. Điều này gây khó khăn cho hàng hoá nước ngoài trên thị trường nội địa và là lợi thế cho hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới, dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng tăng. Từ những lý lẽ trên, chúng ta thấy rằng tỷ giá hối đoái (đã được điều chỉnh theo chênh lệnh lạm phát giữa hai quốc gia) có mối quan hệ nghịch biến với cán cân thương mại, hay nói cách khác xuất khẩu ròng là một hàm của tỷ giá hối đoái thực. Lạm phát cũng có ảnh hưởng đến cán cân thương mại của một nước thông qua việc làm tăng hay giảm giá trị đồng tiền của một quốc gia. Khi lạm phát một nước tăng cao so với đối tác, trước tiên do giá hàng hóa trong nước tăng nên người tiêu dùng trong nước sẽ chuyển sang sử dụng hàng hóa nước ngoài làm nhập khẩu tăng, kéo theo nhu cầu đối với ngoại tệ tăng làm đồng ngoại tệ tăng giá. Thứ hai, giá cao cũng làm giảm sút nhu cầu hàng hóa của nước ngoài đối hàng trong nước (giảm xuất khẩu), từ đó làm ngoại tệ tăng giá do nguồn cung giảm. Hai lực thị trường này sẽ làm tăng giá trị đồng ngoại tệ hay nói cách khác là đồng tiền của nước có lạm phát cao đã bị giảm giá để bù lại mức chênh lệch lạm phát, từ đó không làm tăng nhu cầu đối với hàng hoá nhập khẩu và làm cho lạm phát của một nước sẽ ít có tác động lên nước khác. Tuy nhiên, nếu các lực thị trường này đủ lớn và nếu có sự can thiệp của chính phủ làm tỷ giá nội tệ/ngoại tệ tăng cao hơn tốc độ tăng giá hàng hóa trong nước so với nước ngoài thì hàng hóa trong nước sẽ có giá rẻ hơn giá nước ngoài và khi đó ta gọi đồng nội tệ được định giá thấp, cán cân thương mại được cải thiện. Ngược lại, nếu tỷ giá tăng không đủ bù lạm phát thì đồng nội tệ sẽ bị định giá cao và cán cân thương mại bị xấu đi. Ngoài ra, cán cân thương mại còn bị ảnh hưởng bởi các biện pháp của chính phủ như chính sách bảo hộ mậu dịch. Nhằm bảo vệ hàng hóa trong nước trước sự cạnh tranh của hàng ngoại, chính phủ có thể tăng thuế hàng nhập khẩu.
  24. 17 Động thái này làm tăng giá hàng ngoại nhập, hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng, từ đó cán cân thương mại cũng có thể được cải thiện (nếu các điều kiện khác không thay đổi). 1.3 Tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại 1.3.1 Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thương mại Nhân tố tỷ giá chỉ tác động đến cán cân thương mại và dịch vụ, các bộ phận còn lại của cán cân thanh toán không chịu ảnh hưởng của những thay đổi của tỷ giá. Ngoài ra, do phạm vi nghiên cứu là tác động của tỷ giá đối với cán cân thương mại nên sau đây tác giả chỉ trình bày nội dung tác động của phá giá đối với cán cân thương mại mà thôi. Phá giá tiền tệ là làm giảm giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác. Phá giá sẽ làm tăng tỷ giá danh nghĩa kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Khi tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính theo đồng nội tệ tăng được gọi là hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối lượng. Cán cân thương mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái nào trội hơn. Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước tương đối cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn: các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh nghiệp trong nước chưa huy động đủ nguồn lực để sẳn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong ngắn hạn, cầu hàng nhập khẩu không nhanh chóng giảm còn do tâm lý người tiêu dùng. Khi phá giá, giá hàng nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu dùng có thể lo ngại về chất lượng hàng nội hay trong nước chưa có hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm cho cầu hàng nhập khẩu chưa thể giảm ngay.
  25. 18 Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và số lượng hàng nhập cũng không giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội hơn hiệu ứng số lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi. Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng trong nước với hàng nhập. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời gian tập hợp đủ các nguồn lực để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện. Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn. Đường biểu diễn hiện tượng này giống hình chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng đường cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 – 1987, thì ban đầu cán cân vãng lai xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải thiện. Hình 1.2 Hiệu ứng đường cong J Cán cân vãng lai Thặng dư (+) 0 Thời gian Thâm hụt (-) Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong dài, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện.
  26. 19 Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại trong lý thuyết hiệu ứng đường cong J: - Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Đối với các nền kinh tế đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả. - Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Đối với các nước phát triển tỷ lệ hàng hóa đủ chuẩn tham gia thương mại quốc tế cao nên hiệu ứng giá cả có thời gian tác động lên cán cân thương mại thường là thấp. Ngược lại, các nước đang phát triển tỷ trọng loại hàng hóa này nhỏ, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác động đến cán cân thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải thiện cán cân thương mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển. - Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước. Nếu tỷ trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu. - Mức độ linh hoạt của tiền lương. Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có được từ phá giá tiền tệ. - Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước. Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt lên của hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo,
  27. 20 mức độ gia tăng số lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài. 1.3.2 Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiện Marshall-Lerner Phương pháp hệ số co giãn do 2 tác giả Alfred Marshall và Abba Lerner áp dụng lần đầu và được Joan Robinson (1973), Fritz Machlup (1955) mở rộng. Phương pháp này dựa trên một số giả thiết: Cung và cầu hàng hóa có hệ số co giãn hoàn hảo, nghĩa là ứng với mỗi mức giá nhất định thì nhu cầu hàng hóa xuất nhập khẩu luôn luôn được thỏa mãn. Nội dung của phương pháp này chủ yếu phân tích những tác động của phá giá lên cán cân vãng lai. Hệ số co giãn xuất khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá thay đổi 1% dX/X ηx = dE/E Hệ số co giãn nhập khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá thay đổi 1% dM/M ηm = dE/E Điều kiện Marshall-Lerner phát biểu rằng, để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thanh toán, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co giãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co giãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1, (ηx + ηm>1). Điều kiện này đặt theo tên của hai học giả kinh tế đã phát hiện ra nó, đó là Alfred Marshall và Abba Lerner. Một số nghiên cứu thực nghiệm về độ co giãn cho thấy rằng trong dài hạn (từ hai đến ba năm) tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn 1, tức phá giá có tác động đến xuất nhập khẩu. Theo khảo sát thực nghiệm của Goldstein và Kahn (1985) thì tổng hệ số co giãn trong dài hạn (dài hơn hai năm) luôn lớn hơn 1, trong khi trong ngắn hạn (dưới 6 tháng) nó có xu hướng tiến gần đến 1. Nhìn chung, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng hệ số co giãn xuất khẩu và hệ số co giãn nhập khẩu trong ngắn hạn nhỏ hơn trong dài hạn. Vì vậy, điều kiện Marshall-Lerner chỉ
  28. 21 có thể được duy trì trong dài hạn (TS. Nguyễn Văn Tiến (2005), “Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở”, xuất bản lần thứ tư, nhà xuất bản Thống Kê). Có quan điểm cho rằng các nước đang phát triển thường phụ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu nên độ co giãn giá của cầu hàng nhập khẩu là nhỏ (tức trị giá nhập khẩu sẽ không giảm bao nhiêu khi phá giá nội tệ). Các nước phát triển có thị trường xuất khẩu tương đối có tính cạnh tranh nên độ co giãn cầu hàng xuất khẩu có thể lớn hơn (tức giá trị xuất khẩu tăng mạnh khi phá giá nội tệ). Điều này hàm ý rằng phá giá ở các nước phát triển sẽ có tác động cải thiện cán cân thương mại mạnh hơn so với các nước đang phát triển hay nói cách khác, việc phá giá là một giải pháp có thể cải thiện thâm hụt thương mại ở quốc gia này nhưng có thể sẽ không có tác động ở quốc gia khác. Nó cũng khuyến cáo các quốc gia đang phát triển nên thận trọng khi sử dụng biện pháp phá giá mạnh đồng nội tệ của mình nhằm kích thích xuất khẩu. 1.4 Một số mô hình hồi quy liên quan đến tỷ giá, xuất nhập khẩu và lạm phát 1.4.1 Mô hình hồi quy tỷ giá theo chênh lệch lạm phát St = α + µPt + µ*P*t + εt Trong đó: St: tỷ giá P*t: chỉ số giá tiêu dùng nước ngoài. Pt : chỉ số giá tiêu dùng trong nước. µ, µ*: hệ số hồi quy. εt: sai số. 1.4.2 Mô hình mối liên hệ giữa % thay đổi trong trong xuất khẩu và % thay đổi trong giá trị đồng tiền CEXP = b0 + b1(CDM t-1) + b2(PCGNPt-1) + ut CEXP: % thay đổi của xuất khẩu trong kỳ quan sát CDM t-1: % thay đổi của tỷ giá trong kỳ (độ trễ 1 kỳ) (PCGNPt-1): % thay đổi của tổng sản phẩm quốc dân (độ trễ 1 kỳ) b0, b1, b2: hệ số hồi quy. u t: sai số.
  29. 22 Mô hình này có thể thêm bất kỳ biến độc lập nào khác nếu các biến đó có thể có các tác động đến giá trị xuất khẩu. 1.4.3 Mô hình tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu chịu sự tác động của tỷ giá thực Mô hình hồi quy của Mohsen Bahmani-Oskooee and Tatchawan Kantipong (2001) Ln(X/M)t = α1 + α1lnY t + α2Y t * + α3lnRER t + α4D + εt Trong đó Ln là logarit tự nhiên. X/M là tỷ trong thương mại. Y là chỉ số thu nhập quốc dân (GDP) trong nước Y* là chỉ số thu nhập quốc dân (GDP) của nước ngoài RER chỉ số tỷ giá thực. Kết luận chương 1 Tỷ giá danh nghĩa là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác, nó là tỷ giá được giao dịch hàng ngày trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá thực song phương (RER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá thực đa phương (REER) hay còn gọi là tỷ giá thực hiệu lực được điều chỉnh theo lạm phát so với các đối tác thương mại có tính đến trọng số thương mại của các đối tác. Tỷ giá thực có thể được xem là thước đo sức cạnh tranh về giá cả trong mậu dịch quốc tế của một quốc gia. Theo cách phân loại truyền thống, cơ chế tỷ giá bao gồm: (1) cơ chế tỷ giá cố định, (2) cơ chế tỷ giá thả nổi và (3) cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Theo cách phân loại mới của IMF: (1) cơ chế neo cố định (hard pegs), (2) cơ chế neo linh hoạt; (3) thả nổi, bao gồm thả nổi có điều tiết không công bố trước và thả nổi hoàn toàn. Trong ngắn hạn, phá giá làm giá xuất khẩu rẻ, giá nhập khẩu tăng làm cán cân thương mại tạm thời bị xấu đi được gọi là hiệu ứng giá cả. Trong dài hạn, xuất khẩu rẻ, giá nhập khẩu tăng hơn làm tăng khối lượng xuất khẩu, hạn chế khối lượng nhập khẩu, từ đó làm cán cân thương mại được gọi là hiệu ứng khối lượng. Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn.
  30. 23 Điều kiện Marshall-Lerner: để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thanh toán, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co giãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co giãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1, (|ηx + ηm|>1).
  31. 24 CHƯƠNG 2. TÍNH TỶ GIÁ THỰC VÀ ĐO LƯỜNG TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ THỰC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 2.1 Tính tỷ giá thực song phương của một số đồng tiền so với USD 2.1.1 Tính tỷ giá thực song phương Để xem xét đánh giá mức độ định giá cao hay thấp của đồng tiền của một số đối tác thương mại và tiền đồng so với USD, tác giả tính tỷ giá thực song phương của các đồng tiền này (khoảng mười đồng tiền của các nước và vùng lãnh thổ mà phần tiếp theo tác giả sẽ chọn đưa vào rổ tiền tệ để tính tỷ giá thực đa phương). Số liệu được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy ngoài Việt Nam: về tỷ giá giữa đồng tiền các nước so với USD lấy từ các nguồn như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), cục dự trữ liên bang Mỹ (tại địa chỉ về CPI, tác giả có so sánh với các công bố từ các trang web của bộ lao động Mỹ, trang web www.unstats.un.org của chính phủ Mỹ công bố các số liệu về châu Á, trang web của diễn đàn hợp tác châu Á Thái Bình Dương (APEC) để cập nhật số liệu mới so với các số liệu ước tính thu thập từ các nguồn trong nước. Để tính tỷ giá thực song phương cho từng đối tác thương mại, tác giả chọn kỳ gốc là năm 2000. Chỉ số tỷ giá danh nghĩa được tính bằng cách lấy tỷ giá của từng đồng tiền so với USD ở thời điểm t chia cho tỷ giá ở kỳ gốc và nhân lại với 100. Sau đó, lấy chỉ số tỷ giá danh nghĩa nhân với lạm phát của Mỹ và chia cho lạm phát của từng nước ta được tỷ giá thực. Vì năm 2000 là kỳ gốc nên tỷ giá thực năm này bằng 100. Kết quả tính toán tỷ giá thực song phương của đồng tiền so với đô la Mỹ cho bởi bảng 2.1 của phụ lục 2
  32. 25 Hình 2.1 Đồ thị tỷ giá thực song phương các đồng tiền so với USD 160 140 Singapore 120 Thailand Chinese Taipei 100 Republic of Korea Japan 80 China, People's Republic of Germany 60 France United States 40 Australia Viet Nam 20 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Nguồn: bảng 2.1 của phụ lục 2 2.1.2 Phân tích mức độ định giá của từng đồng tiền Đô la Mỹ cố định bằng 100 cho cả thời kỳ từ 2000 đến 2008. Trên đồ thị đường biểu diễn tỷ giá thực của Mỹ là đường nằm ngang có tung độ là 100. Nếu tỷ giá thực của một đồng tiền nằm phía trên đường này (tỷ giá thực lớn hơn 100) thì đồng tiền đó bị định giá thấp so với USD, ngược lại nếu nằm phía dưới được gọi là định giá cao so với USD. Căn cứ vào tỷ giá thực tính được, tác giả tiến hành so sánh xếp hạng cho tỷ giá thực song phương của từng đồng tiền (Bảng 2.2 của phụ lục 2). Tỷ giá thực một đồng tiền có thứ hạng càng cao (thứ hạng được sắp xếp theo thứ tự, cao nhất là 1 và thấp nhất là 10) có nghĩa là tỷ giá thực song phương của đồng tiền đó càng nhỏ hơn so với tỷ giá thực song phương của các đồng tiền khác. Thứ hạng cao, đồng tiền bị định giá cao và ngược lại, thứ hạng thấp đồng tiền bị định giá thấp hơn so với các đồng tiền khác. Hay nói cách khác, thứ hạng cao chỉ phản ánh mức độ định giá trị thực của đồng tiền này cao hơn mức độ định giá thực của đồng tiền khác khi cùng so sánh với USD (do có RER thấp hơn). Ví dụ đồng đô la Australia (AUD) được xếp hạng nhất từ năm 2004 đến 2008 trong bảng trên vì có tỷ giá thực so với USD thấp nhất, có nghĩa AUD bị định giá cao nhất so với các đồng tiền khác trong “rổ tiền” trong cùng thời gian. Dấu hiệu để biết đồng tiền nào đó bị định giá cao so với USD là khi tỷ giá thực song phương của nó nhỏ hơn 100. Ví dụ, tiền đồng và nhân dân tệ cùng bị định giá thấp so với USD trong năm 2005, nhưng mức độ định giá của tiền đồng cao hơn
  33. 26 Nhân dân tệ do chỉ số tỷ giá thực thấp hơn của nhân dân tệ (101.9 so với 104,96), tỷ giá thực của Việt Nam đứng hàng thứ sáu, Trung Quốc đứng vị trí thứ 7. Từ đồ thị 2.1, ta thấy rằng tỷ giá thực của tiền đồng so với USD giảm dần và có chỉ số thấp nhất vào năm 2008. Với cách lấy kỳ gốc là năm 2000 và tỷ giá được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như các tổ chức tài chính quốc tế, các công bố của các cơ quan tài chính của chính phủ Mỹ như đã nêu ở trên, kết quả tính tỷ giá thực song phương VND/USD (RERVND/USD) có sự khác biệt (dù nhỏ) so với cách thu thập số liệu tỷ giá từ trong nước (có cùng kỳ gốc là năm 2000). Cụ thể nếu tính theo số liệu tỷ giá thu thập trong nước, RERVND/USD có bốn năm liên tiếp từ 2005 đến 2008 dưới 100 (có nghĩa là tiền đồng bị định giá cao), còn nếu tính theo số liệu tỷ giá được thu thập từ nước ngoài, tiền đồng chỉ bị định giá cao trong ba năm cuối. Các năm từ 2002 đến 2004, chỉ số tỷ giá thực VND/USD khá cao (tiền đồng được định giá thấp hơn so với hầu hết các đồng tiền khác, đứng hàng thứ 7 và 8 trên 9 đồng tiền). Đến ba năm cuối của kỳ nghiên cứu, tỷ giá thực của Việt Nam đồng giảm dần, mức độ định giá của tiền đồng đứng hàng thứ 5/9 và thứ 4/9 đồng tiền trong “rổ tiền”. Cũng trong ba năm này, tiền đồng bị định giá cao so với USD. Một vài năm trở lại đây, có sự gia tăng mức định giá cao của tiền đồng so với “rổ tiền”, điều này cho thấy rằng tiền đồng ngày càng tăng giá so với các đồng tiền trong “rổ”. Mặt khác, ba năm trở lại đây tiền đồng liên tục bị định giá cao so với đô la Mỹ (tỷ giá thực của Việt Nam nhỏ hơn 100). Đồng đô la Autralia, Euro, Baht Thái là những đồng tiền bị định giá thực cao nhất tính đến cuối 2008. Đồng won của Hàn Quốc năm 2008 bị mất giá mạnh nhất, tỷ giá đồng won đã tăng 18,23% so với năm 2007 đưa đồng tiền này từ vị trí bị định giá cao đứng hàng thứ ba xuống vị trí thứ bảy so với rổ tiền, nhưng vẫn còn bị định giá cao so với USD. Ngược lại, trong hầu hết thời gian xem xét, đồng yen Nhật là đồng tiền mất giá mạnh nhất so với USD, và mức độ mất giá của nó cao nhất so với các đồng tiền khác trong rổ tiền. (hạng 10 trong tám năm và hạng 9 trong hai năm) Nhìn chung, năm 2008 so với năm 2000, tỷ giá thực EUR/USD giảm 31,68%, AUD/USD giảm 34,93%, CNY giảm 12,93%, BATH/USD giảm 18,67% trong khi đó VND/USD chỉ giảm 13,54%. Tính đến năm 2008, USD đã có quá trình
  34. 27 mất giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền trong rổ, đặc biệt nó đã mất giá rất mạnh so với EUR và AUD. Điều này cho thấy tỷ giá thực giữa USD/VND có thể sẽ thấp hơn tỷ giá thực đa phương, chỉ số này sẽ được tính ngay sau đây. Hay nói cách khác mặc dù tiền đồng bị định giá cao so với USD, nhưng do USD bị mất giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền trong rổ nên tiền đồng có thể sẽ bị định giá thấp hơn nếu so với một rổ tiền. 2.2 Tính tỷ giá thực đa phương (REER) Phần phân tích trên cho thấy phần nào mức độ định giá cao của tiền đồng so với rổ tiền tính cho đến năm 2008, nhất là định giá cao so với đồng USD. Tuy nhiên, những phân tích ở trên chỉ cho thấy những góc nhìn riêng lẻ về giá trị tiền đồng so với từng đồng tiền, nên rất khó để có thể đánh giá tổng hợp về mức độ định giá cao hay thấp của tiền đồng so với các đồng tiền trong rổ. Để có cái nhìn tổng quát hơn về mức độ định giá của tiền đồng so với rổ tiền, tác giả tiến hành tính tỷ giá thực đa phương. Sau đây, tác giả trình bày phương pháp để tính tỷ giá thực đa phương. Chọn năm gốc. Vấn đề chọn năm gốc (năm cơ sở) rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng đến kết quả tính tỷ giá thực. Năm gốc có thể chọn một trong các năm 1992, 1999, 2000, 2001. Lý do được đưa ra ở đây là vì tính từ năm 1986 trở lại đây, năm 1992 là năm có thặng dư mậu dịch, việc xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung đạt nhiều tiến bộ, giá cả nhiều mặt hàng đã theo cơ chế thị trường cạnh tranh, nền kinh tế ổn định; các năm 1999, 2000, 2001 có tỷ lệ thâm hụt mậu dịch là thấp nhất, tỷ lệ xuất khẩu trên nhập khẩu lần lượt là 98,3%, 92,6%, 92,7%, chỉ số giá cả các năm này được xem là rất ổn định, chỉ số giá tháng 12 năm này so với tháng 12 năm trước rất gần 100. Tác giả không chọn năm 1992, mặc dù năm này cán cân thanh toán khá cân bằng, nền kinh tế ổn định vì việc nghiên cứu tỷ giá trong thời gian quá dài sẽ không sát với thực tế. Vì Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế đang chuyển đổi, nên cấu trúc nền kinh tế thay đổi rất nhanh và phức tạp, các biến số vĩ mô thay đổi lớn sẽ rất khó quan sát biến động của tỷ giá. Năm 1999 được chọn là năm gốc vì năm này cán cân thanh toán của Việt Nam khá cân bằng, cũng trong
  35. 28 năm này chính phủ hai lần giảm giá mạnh đồng nội tệ, do đó đã đưa tỷ giá về gần hơn vùng ngang giá sức mua, hay nói cách khác là tỷ giá hiệu lực thực được xem là gần như bằng 100. Năm 1999 cũng là năm không quá xa so với hiện tại, việc thu thập số liệu ít khó khăn hơn do thời gian gần hơn. Một vài nghiên cứu về tỷ giá các tác giả khác cũng chọn năm 1999 là năm gốc. Ngoài ra trong thời gian gần đây, các tổ chức tài chính quốc tế khi công bố số liệu thường chọn năm cơ sở là năm 2000. Xét thấy năm này cũng khá phù hợp với các tiêu chí đã đề ra như không quá xa hiện tại, cán cân thanh toán khá cân bằng , tác giả đã chọn thêm năm cơ sở là năm 2000 khi tính REER do dễ dàng trong việc thu thập số liệu và có thể đem so sánh hai kết quả tính REER ở hai kỳ gốc khác nhau xem có gì khác biệt không. Chọn rổ tiền tệ đặc trưng. Căn cứ vào tỷ trọng thương mại của Việt Nam và đối tác thương mại, tác giả chọn ra các đồng tiền tham gia “rổ tiền” để tính tỷ giá thực đa phương (REER) theo nguyên tắc ưu tiên chọn đồng tiền của các đối tác có tỷ trọng thương mại lớn với Việt Nam. Ngoài ra, các đối tác có sự cạnh tranh trong xuất khẩu với Việt Nam, các đồng tiền mạnh, các đối tác tiềm năng cũng được xem xét trong việc lựa chọn đồng tiền nào tham gia “rổ tiền”. Đô la Mỹ là đồng tiền hiển nhiên có mặt trong rổ tiền do đồng tiền này là đồng tiền mạnh nhất thế giới cho tới thời điểm hiện nay. Đồng Euro cũng là đồng tiền không thể thiếu trong rổ tiền vì nó là một trong những đồng tiền mạnh nhất trên thế giới và vì khu vực sử dụng đồng Euro có giao thương rất lớn với Việt Nam, đồng thời chọn hai quốc gia châu Âu làm đại diện là Pháp và Đức. Kế đến là đồng yen Nhật cũng là một lựa chọn không tranh cãi, do đây là đồng tiền của một quốc gia có nền kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới và Nhật cũng là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Trung Quốc là quốc gia ngoài việc là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, trao đổi thương mại song phương của Việt Nam với Trung Quốc có tỷ trọng lớn nhất và Việt Nam luôn chịu tình cảnh nhập siêu lớn nhất với họ. Từ năm 2001 đến 2008 Việt Nam liên tục nhập siêu với Trung Quốc cứ năm sau lớn hơn năm trước và đến 2008
  36. 29 nhập siêu lên tới trên 11 tỷ đô la! Vì vậy, đồng tiền của Trung Quốc rất đáng được quan tâm trong việc tính tỷ giá thực đa phương. Đồng tiền của các nước ASEAN như Thái Lan, Singapore được chọn do các nước này là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam trong giao thương quốc tế. Tương tự, đồng tiền của Đài Loan và Hàn Quốc đại diện cho các nước phát triển ở châu Á được chọn do kim ngạch xuất nhập khẩu của họ với Việt Nam là rất lớn. Đồng AUD của Australia được đưa vào rổ tiền do AUD là đồng tiền có thể chuyển đổi được và cũng thuộc diện đồng tiền mạnh. Ngoài ra, kim ngạch xuất nhập khẩu trong thời gian nghiên cứu của Australia khá ổn định, riêng các năm 2006, 2007, 2008 đã tăng mạnh, khoảng ba lần so với năm 2003. Chọn quyền số là tỷ trọng thương mại của các đối tác với Việt Nam trong mậu dịch quốc tế (tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại có đồng tiền tham gia vào “rổ tiền”). Thu nhập dữ liệu + Tỷ giá danh nghĩa: Thu thập tỷ giá giữa Việt Nam đồng và các đồng tiền trong “rổ tiền” vào cuối kỳ (năm, quý). Riêng đối với hai nước châu Âu là Pháp, Đức ta chọn tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Euro. + Chỉ số lạm phát: lấy chỉ số giá tiêu dùng của kỳ này so với kỳ trước (năm, quý) + Kim ngạch xuất nhập khẩu: lấy theo từng thời kỳ (cuối năm, quý) giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại. Giá trị xuất nhập khẩu được quy đổi thành đơn vị là triệu USD thống nhất cho các đối tác có giao dịch với Việt Nam. Các bước tính REER + Tính tỷ trọng thương mại. Trước tiên, cộng tất cả các giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam và các đối tác ở từng thời kỳ (Wt). Lấy giá trị xuất nhập khẩu của từng đối tác chia cho tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của tất cả các đối tác ta
  37. 30 được tỷ trọng thương mại của từng đối tác. Tổng các tỷ trọng thương mại này là bằng 1. + Điều chỉnh chỉ số tiêu dùng CPI về kỳ gốc. Chọn kỳ gốc là năm 1999, kỳ gốc có chỉ số CPI là 100. Các chỉ số CPI của các nước lấy theo năm (năm trước bằng 100). CPI điều chỉnh của năm 2000 bằng CPI năm 1999 (bằng 100) nhân với CPI của năm 2000 chia cho 100. CPI điều chỉnh của năm 2001 sẽ bằng CPI của năm 2001 nhân với CPI của năm 2000 đã điều chỉnh về kỳ gốc và chia cho 100. Tương tự, ta tính cho các năm kế tiếp. Lập bảng tính excel ta sẽ dễ dàng tính các chỉ số CPI điều chỉnh của các đối tác thương mại. + Tính chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương của 10 đồng tiền trong rổ tiền với Việt Nam đồng. Kỳ gốc là năm 1999, ta lấy tỷ giá ở thời điểm t chia cho kỳ gốc rồi nhân lại với 100. + Tính tỷ giá thực song phương của Việt Nam đồng với từng đồng tiền trong “rổ tiền”. Lấy chỉ số tỷ giá danh nghĩa nhân với CPI của từng nước tương ứng chia cho CPI của Việt Nam ta được tỷ giá thực song phương của tiền đồng so với đồng tiền của từng đối tác. + Cuối cùng ta có chỉ số REER theo công thức tính như sau: n i i REER = ∑e j.wj .CPI j J=1 CPIi Kết quả tính toán tỷ giá thực đa phương được trình bày ở phần phụ lục 2– bảng 2.3a. Hình 2.2 Đồ thị tỷ giá thực đa phương gia đoạn 1999-2008 120 100 80 60 REER 40 20 0 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Nguồn: Phụ lục 2 – bảng 2.3a
  38. 31 2.3 Phân tích và đánh giá kết quả tính REER 2.3.1 Phân tích kết quả tính REER 2.3.1.1 Khi chọn kỳ gốc là năm 1999 Theo bảng 2.3, REER từ năm 2000 đến 2008 lần lượt là 99,31; 103,18; 106,55; 112,91; 111,61; 101,90; 104,28; 103,53; 93.62 ((phụ lục 2 – bảng 2.3a). Từ kết quả tính toán được, ta thấy trong bảy năm liên tục (trừ năm 2000) tỷ giá thực đa phương luôn lớn hơn 100. Đến năm 2008, lạm phát tăng cao (cao nhất trong mười năm nghiên cứu và cao hơn rất nhiều so với các nước có đồng tiền tham gia rổ tiền) là nguyên nhân chính làm REER của 2008 giảm xuống mức 93,62. Nhìn chung Việt Nam đồng được định giá thấp so với rổ tiền đã chọn trong khoảng thời gian dài, nhưng đến cuối 2008, tiền đồng bị định giá cao vì lý do lạm phát của Việt Nam tăng quá cao (lên đến 23% so với năm 2007) và cao gấp 3,5 lần so với nước có mức tăng cao thứ hai trong nhóm nước nghiên cứu là Singapore (23% so với 6,5%). Nhìn vào hình 2.2 ta thấy rằng từ năm 2000 tỷ giá thực bắt đầu tăng lên và đạt đỉnh ở năm 2003, sau đó giảm dần về gần 100, đến năm 2008 thì giảm dưới 100 (tiền đồng bị định giá cao). Năm 2003 là năm có tỷ giá thực đa phương cao nhất, nhưng cũng là năm có thâm hụt thương mại lớn (tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu là 79,8%) chỉ thấp hơn thâm hụt của năm 2007. Hình 2.3: đồ thị biểu diễn tỷ giá thực đa phương và tỷ số xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 – 2008. 120 100 80 REER 60 X/M 40 20 0 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Nguồn:số liệu xuất nhập khẩu lấy từ Tổng cục thống kê, REER lấy từ phụ lục 2 – bảng 2.3b - Bảng tính tỷ giá thực đa phương (kỳ gốc 1999)
  39. 32 Từ hình 2.3 cho chúng ta thấy rằng có một độ lệch pha giữa tỷ giá thực đa phương và chỉ số xuất trên nhập khẩu: ngay năm chỉ số REER tăng thì chỉ số xuất khẩu trên nhập khẩu giảm, sau một khoảng thời gian nhất định, do tác động của REER tăng chỉ số này mới tăng. Ngược lại, vào năm REER giảm thì ngay năm đó chỉ số xuất khẩu trên nhập khẩu không giảm tương ứng mà có khi còn tăng. Vậy có thể thấy rằng tỷ giá thực đa phương tăng hay giảm sẽ không có tác động ngay lên cán cân thương mại trong năm đó mà nó có tác dụng chậm hơn. Cụ thể, trong trường hợp này, hai năm sau kể từ lúc REER tăng cán cân thương mại mới được cải thiện. Năm 2002, REER tăng so với 2001 (106,55 so với 103,18) thì đến 2005 tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu mới tăng so với năm 2002 (88,26% so với 84,61). Tương tự, năm 2003 REER đạt đỉnh cao nhất là 112,91, nhưng trong năm này cán cân thanh toán vẫn xấu đi so với năm 2002, cho đến năm 2005, 2006 tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu mới tăng lên lần lượt là 88,26%, 88,72%. Ngoài ra, cũng có hiện tượng khi REER giảm từ 111,61 (năm 2004) xuống 101,9 (năm 2005) thì phải đến năm 2007 (hai năm sau khi REER giảm) ta mới thấy tác động xấu lên cán cân thương mại (tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu giảm chỉ còn 77,47%). Ngoài ra, với nền kinh tế Việt Nam, một nước đang phát triển, nhiều mặt hàng trong nước chưa thể sản xuất được hay nếu có sản xuất được đi chăng nữa thì thường có chất lượng thấp, giá thành cao, tỷ lệ hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thấp, tỷ lệ nguyên vật liệu đầu vào có nguồn gốc nhập khẩu cao làm cho khối lượng hàng xuất khẩu tăng không đáng kể, khối lượng hàng nhập khẩu giảm chậm hơn. Tất cả những điều này hàm ý rằng tại Việt Nam, cái gọi là thời gian cán cân thương mại bị xấu đi trong thời gian ngắn hạn khi phá giá tiền tệ (hiệu ứng giá cả trong lý thuyết đường cong J3) sẽ có thể kéo dài hơn và mức độ thâm hụt cán cân thương mại cũng cao hơn so với các nước phát triển. 3 Theo Krugman (1991), người phát hiện ra đường cong J, trong giai đoạn đầu của quá trình phá giá tiền tệ (đồng nội tệ mất giá), cán cân vãng lai trở nên thâm hụt, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai mới cải thiện, hay nói cách khác là khi phá giá tiền tệ cán cân vãng lai xấu đi trong ngắn hạn và được cải thiện trong dài hạn.
  40. 33 Từ những phân tích trên, nhìn chung tác động tỷ giá lên cán cân thương mại có độ trễ khoảng hơn hai năm. Kết quả tính toán và phân tích được nêu ở trên của tác giả có phần phù hợp với lý thuyết hiệu ứng đường cong J. Từ các số liệu lịch sử về tác động của tỷ giá thực đối với cán cân thương mại như trên, giả định là chính sách tỷ giá tiếp tục được điều hành như thời gian qua (tức tỷ giá ít thay đổi và tiền đồng tiếp tục bị định giá cao) và các yếu tố tác động khác lên cán cân thương mại ít thay đổi, ta có thể dự báo rằng đến năm 2010 thâm hụt mậu dịch của Việt Nam sẽ tăng đáng kể so với năm 2008 vì REER 2008 giảm dưới 100 và giảm so với 2007. 2.3.1.2 Khi chọn kỳ gốc là năm 2000 Số liệu REER của các năm từ 2001 đến 2008 lần lượt là 103,39; 106,37; 112,44; 111,19; 101,47; 103,98; 102,91; 90,97 (phụ lục 2 – bảng 2.3b). So với khi chọn kỳ gốc là năm 1999, khi kỳ gốc là năm 2000 tỷ giá thực đa phương không có sự khác biệt đáng kể nào, đường đi của tỷ giá thực đa phương của hai cách chọn kỳ gốc rất giống nhau. Cũng như khi chọn kỳ gốc là năm 1999, khi chọn kỳ gốc là năm 2000, tỷ giá thực đa phương cùng lớn hơn 100 trong tám năm nghiên cứu, chỉ riêng năm 2008 nhỏ hơn 100, thể hiện đồng tiền bị định giá cao trong năm này. Hình 2.4: Tỷ giá thực đa phương gia đoạn 2000-2008 120.00 100.00 80.00 60.00 REER 40.00 20.00 0.00 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Nguồn: Phụ lục: Bảng tính tỷ giá thực đa phương kỳ gốc năm 2000. 2.3.2 Đánh giá tỷ giá thực đa phương Từ hình 2.4 cho chúng ta thấy rằng: mặc dù REER luôn luôn lớn hơn 100 (Việt Nam đồng bị định giá thấp), nhưng cán cân thương mại luôn luôn thâm hụt
  41. 34 trong bảy năm nghiên cứu, cán cân chỉ cải thiện đôi chút khi REER tăng trên 110 (hai năm sau khi REER tăng). Thực tế, con số REER và cán cân thương mại trong giai đoạn nghiên cứu cho thấy tỷ giá thực được định giá thấp trong hầu hết thời gian, trong khi cán cân thương mại thì thâm hụt. Từ bảng tính toán và so sánh tỷ giá thực song phương của các đồng tiền trong rổ với nhau, ta nhận thấy trong hầu hết thời gian nghiên cứu đồng USD đã bị mất giá rất mạnh với hầu hết các đồng tiền tham gia trong “rổ tiền” đã làm cho tiền đồng chỉ bị định giá cao khoảng 9% so với ”rổ tiền” (kỳ gốc năm 2000), hay chỉ 6,38% (kỳ gốc 1999) vào năm 2008. Trong 10 năm nghiên cứu chỉ duy nhất năm 2008 tiền đồng bị định giá cao so với “rổ tiền” do chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam năm này tăng đột biến lên đến 23% cao gấp 3,5 lần so với nước có chỉ số giá tiêu dùng cao nhất trong 10 nước và vùng lãnh thổ có đồng tiền tham gia “rổ tiền” và đứng hàng thứ năm châu Á (ADB – Statistical appendix). Trong khoảng thời gian còn lại từ 2000 đến 2007, REER lớn hơn 100, tiền đồng luôn bị định giá thấp. Lạm phát tăng cao trong những năm gần đây chính là nguyên nhân làm xói mòn khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam so với các đối tác thương mại khác và cho đến năm 2008, tiền đồng bắt đầu bị định giá cao và điều này có thể làm hàng hóa Việt Nam mất dần tính cạnh tranh trên thương trường thế giới. 2.4 Mô hình hồi quy xuất nhập khẩu theo tỷ giá 2.4.1 Tác động của tỷ giá VND/USD đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu Để tiến hành đánh giá những tác động của tỷ giá đối với xuất nhập khẩu, trước tiên tác giả tập hợp dữ liệu tỷ giá USD/VND, trị giá xuất khẩu (đơn vị tính là triệu USD) lấy theo quý từ quý 1 năm 1999 đến quý 4 năm 2008. Số liệu chi tiết :bảng 1.3 của phụ lục 1. Theo lý thuyết, xuất khẩu (Y) có xu hướng tăng khi tỷ giá tăng, nên hệ số hồi quy sẽ mang dấu dương. Mô hình hồi quy có dạng: y = a0 + ax RATE: tỷ giá (VND/USD) EX: trị giá xuất khẩu (triệu USD)
  42. 35 IM: trị giá nhập khẩu (triệu USD) Số quan sát: 40 kỳ Phương pháp hồi quy: phương pháp bình phương bé nhất Sử dụng phần mềm EVIEW để chạy mô hình hồi quy đơn giản này, ta có kết quả hồi quy xuất khẩu, hồi quy nhập khẩu theo tỷ giá (bảng 2.4, 2.5 của phụ lục 2) Sau khi hồi quy chuỗi dữ liệu từ 1999 đến 2008 theo quý (40 quan sát), kết quả và mô hình hồi quy như sau: EX = – 55710 + 4,0799*RATE (2.1) (-8,13431) (9,17434) R2 = 0,688954 IM = – 72434 + 5,2326*RATE (2.2) (-7,0235) (7,8139) R2 = 0,6063 Từ kết quả hồi quy của mô hình (2.1) và (2.2): Cả 2 mô hình có mức ý nghĩa 0%, tức mô hình có độ tin cậy gần 100%. R2 của mô hình (2.1) bằng 0,688954 có nghĩa là 68,9% sự biến thiên của Y (xuất khẩu) được giải thích bởi sự phụ thuộc vào biến số X (tỷ giá) R2 của mô hình (2.2) bằng 0,6063 có nghĩa là 60,63% sự biến thiên của nhập khẩu được giải thích bởi sự phụ thuộc vào biến số tỷ giá. Kiểm định giả thuyết về ý nghĩa các hệ số hồi quy Giả thiết: Ho: hệ số (a) = 0 (Y và X không có quan hệ tuyến tính) H1: a # 0 (Y và X có quan hệ tuyến tính) Bác bỏ Ho nếu |t-stat| > tn-2,α/2 Từ kết quả hồi quy mô hình, ta có: (2.1): |t-stat| = 7,813909 > tn-2,α/2 = 2,3289 (n =40, mức ý nghĩa α =5%). (2.2): |t-stat| = 9,17434 > tn-2,α/2 = 2,3289 (n =40, mức ý nghĩa α =5%). Vì vậy ta bác bỏ giả thuyết Ho, tức xuất nhập khẩu của Việt Nam có quan hệ tuyến tính với tỷ giá. Giải thích mô hình như sau: - Tỷ giá có mối quan hệ tỷ lệ thuận với xuất nhập khẩu.
  43. 36 - Khi tỷ giá tăng 1 đồng thì xuất khẩu sẽ tăng 4,0799 triệu USD - Khi tỷ giá tăng 1 đồng thì nhập khẩu sẽ tăng 5,2326 triệu USD. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu trong nhiều năm qua liên tục tăng nhưng cán cân thương mại vẫn thâm hụt là vì khi tỷ giá tăng xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng, nhưng xuất khẩu tăng ít hơn nhập khẩu. Hình 2.5 Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với xuất khẩu 20000 ) 15000 u USD y = 4,0799x - 55710 ệ 2 10000 R = 0,689 u (tri ẩ t kh 5000 EX ấ Xu Linear (EX) 0 0 5000 10000 15000 20000 Tỷ giá (VND/USD) Nguồn: Asia Regional Integration Center - Ngân hàng phát triển châu Á ADB (tại địa chỉ và Bloomberg LP. Đồ thị trên cho thấy sự biến động của xuất khẩu và tỷ giá có quan hệ đồng biến. Khi tỷ giá tăng 1 đồng xuất khẩu tăng 4,115 triệu USD. Hình 2.6 Đồ thị biểu diễn tác động của tỷ giá đối với nhập khẩu 25000 20000 y = 5,2326x - 72434 u USD) ệ 15000 R2 = 0,6164 IM u (tri u ẩ 10000 Linear (IM) p kh ậ 5000 Nh 0 0 5000 10000 15000 20000 Tỷ giá (VND/USD) Nguồn: Asia Regional Integration Center - Ngân hàng phát triển châu Á ADB (tại địa chỉ và Bloomberg LP
  44. 37 2.4.2 Tác động của tỷ giá thực đối với tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu 2.4.2.1 Mô hình hồi quy tác động của tỷ giá thực song phương đối với xuất nhập khẩu Giả thiết nghiên cứu là tỷ giá thực và và tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu (EXM) có quan hệ đồng biến, nghĩa là một sự gia tăng của tỷ giá thực sẽ tác động làm tăng tỷ số xuất nhập khẩu và tác động của tỷ giá thực có độ trễ bằng 1 quý. Mô hình hồi quy của Mohsen Bahmani-Oskooee and Tatchawan Kantipong: Ln(EXM)t = α1 + α1lnGDPt-1 + α2lnGDP*t-1 + α3lnRERt-1 + εt Trong đó Ln là logarit tự nhiên. EXM là tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu. GDPt-1, GDP*t-1 lần lượt là chỉ số tăng GDP trong nước và GDP của nước ngoài. RER chỉ số tỷ giá thực song phương. Dựa vào mô hình hồi quy trên ta có: Ln(EXM)t = α0 + α1lnGDPus t-1 + α2lnGDPvn t-1 + α3lnRERus t-1 + εt EXM là tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo quý từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2008 (dữ liệu: bảng 1.3 của phụ lục 1). GDPust-1, GDPvnt-1 lần lượt là chỉ số tăng GDP Mỹ và Việt Nam thời điểm quý 2 năm 2000 đến quý 4 năm 2008 (trễ 1 quý so với tỷ số xuất trên nhập khẩu) (dữ liệu: bảng 1.2 của phụ lục 1). RERus: chỉ số tỷ giá thực song phương VND/USD (dữ liệu: bảng 2.3d - phụ lục 2). α0, α1, α2: các hệ số hồi quy. Sau khi hồi quy chuỗi dữ liệu từ năm 2000 đến 2008 theo quý với chỉ số GDP và tỷ giá thực trễ 1 quý, tức chỉ số GDP và tỷ giá thực quý 2 tác động EXM của quý 1. (35 quan sát), ta có kết quả hồi quy tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo tỷ giá thực song VND/USD và chỉ số GDP bằng phần mền EVIEW cho bởi bảng 2.6a của phụ lục 2. Kết quả và mô hình hồi quy như sau: lnEXMt = 41,6939 - 0,3402lnGDPust-1 - 8,1509lnGDPvnt-1 + 0,5575lnRERus (2.3a) (1,2958) (-0,0529) (-2,2374) (2,5092) R2 = 0,3181
  45. 38 Căn cứ vào mức ý nghĩa thống kê t tác giả đã loại biến GDPust-1 (prob=0.9581) do không có ý nghĩa ra khỏi mô hình. Như vậy mô hình hồi quy giới hạn được xem xét tiếp theo sẽ là: Mô hình giới hạn: Ln(EXM)t = α0 + α2lnGDPvn t-1 + α3lnRERus t-1 + εt (2.3b) Kết quả hồi quy giới hạn cho bởi bảng 2.6b của phụ lục 2. Mô hình hồi quy giới hạn như sau: Ln(EXM)t = 40,2525 - 8,1767lnGDPvnt-1 + 0,5562lnRERus t-1 (2.3b) (2,3885) (-2,30114) (2,5592) R2 = 0,3180 Sử dụng kiểm định Wald để kiểm tra khả năng giải thích của mô hình giới hạn Giả thiết: H0: α 2 = α 3 = 0 H1: Ít nhất α i ≠ 0 Ta có F = 7,461122 (bảng 2.6b) > F(0.05, 3, 35) = 2.87418, vì vậy ta bác bỏ giả thiết Ho, tức mô hình có biến giải thích hay mô hình (2.3b) được chấp nhận. Giải thích mô hình như sau: Mô hình giải thích được 31,8% sự phụ thuộc của tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu vào sự biến động của tỷ giá thực VND/USD và tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam. Tỷ số xuất trên nhập khẩu đồng biến với tỷ giá thực và nghịch biến với chỉ số GDP trong nước. Khi RER tăng 1% thì tỷ số xuất trên nhập khẩu sẽ tăng 0,56%. Khi chỉ số GDP trong nước tăng 1%, tỷ số xuất nhập khẩu giảm 8,18%. Kết luận: Khi tỷ giá thực tăng đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, nhưng mức độ tác động thấp. Độ trễ của tác động cho thấy tỷ giá thực VND/USD tăng lên quý này thì quý sau nó mới có tác động cải thiện cán cân thương mại. Trong khi đó, một sự gia tăng của GDP trong nước đã làm tăng nhu cầu nhập khẩu gây ra thâm hụt cán cân thương mại nhiều hơn. Lý do được đưa ra để giải thích cho việc chỉ số GDP trong nước tăng làm gia tăng mạnh nhu cầu nhập khẩu là
  46. 39 GDP gia tăng đã làm tăng nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, máy móc phục vụ cho sản xuất trong nước tăng lên. Điều này cũng phù hợp với lý thuyết tài chính quốc tế. 2.4.2.2 Mô hình hồi quy tác động của tỷ giá thực đa phương đối với xuất nhập khẩu Để đánh giá tác động của tỷ giá thực đa phương đối với tỷ số xuất trên nhập khẩu, ta thay thế tỷ giá thực song phương bằng tỷ giá thực đa phương, chỉ số GDP của nước ngoài (trong quan hệ song phương) bằng chỉ số GDP trung bình có trọng số với trọng số là tỷ trọng thượng mại giữa Việt Nam và các đối tác (tương tự cách tính REER). Riêng đối với mô hình hồi quy có biến số tỷ giá thực đa phương, tác giả không lấy độ trễ tác động của tỷ giá thực và chỉ số GDP. Mô hình hồi quy có dạng: Ln(EXM)t = β 0 + β 1lnGDPw t + β 2lnGDPvn t + β 3lnREER t + εt EXM là tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo quý từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2008. GDPwt, GDPvn t là lần lượt là chỉ số GDP trung bình có trọng số là tỷ trọng thương mại của các đối tác và chỉ số GDP của Việt Nam thời điểm quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2008 (dữ liệu: bảng 1.2 của phụ lục 1). RERR: chỉ số tỷ giá thực đa phương (dữ liệu: bảng 2.3d của phụ lục 2). β0, β 1, β 2, β3: các hệ số hồi quy. Mô hình không có độ trễ. Tác giả đã chạy mô hình với nhiều độ trễ khác nhau và nhận thấy mô hình không có độ trễ có ý nghĩa nhất. Sau khi hồi quy chuỗi dữ liệu từ năm 2000 đến 2008 theo quý (36 quan sát), kết quả mô hình hồi quy ban đầu tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo chỉ số GDP và REER cho bởi bảng 2.7a. Kết quả và mô hình hồi quy như sau: lnEXMt = 16,5949 - 4,7631lnGDPw - 0,1095lnGDPvn + 1,0779lnREER (2.4a) (1,0708) (-2,5073) (0,1095) (2,5913) R2 = 0,3132
  47. 40 Căn cứ vào mức ý nghĩa thống kê t tác giả đã loại biến GDPvn (prob=0,977) do không có ý nghĩa ra khỏi mô hình. Như vậy mô hình hồi quy giới hạn được xem xét tiếp theo sẽ là: Mô hình giới hạn: Ln(EXM)t = β 0 + β 1lnGDPw t + β 3lnREER t + εt (2.4b) Sau khi hồi quy bằng phần mềm EVIEW, kết quả hồi quy giới hạn cho bởi bảng 2.7b. Kết quả và mô hình hồi quy giới hạn như sau: Ln(EXM)t = 16,9825 - 4,7362lnGDPwt + 1,0777lnREER t (2.4b) (2,184985) (-2,9003) (2,6313) R2 = 0,3132 Sử dụng kiểm định Wald để kiểm tra khả năng giải thích của mô hình giới hạn: Giả thiết: H0: β 1 = β 3 =0 H1: Ít nhất β i ≠ 0 Ta có F = 7,525629 (bảng 2.7b) > F(0.05, 3, 35) = 2,866266, vì vậy ta bác bỏ giả thiết Ho, tức mô hình có biến giải thích hay mô hình (2.4b) được chấp nhận. Giải thích mô hình: Mô hình giải thích được 31,32% sự phụ thuộc của tỷ số xuất nhập khẩu vào sự biến động của tỷ giá thực đa phương và tỷ lệ tăng trưởng thu nhập quốc dân trung bình của các đối tác thương mại. Tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu đồng biến với tỷ giá thực đa phương và nghịch biến với chỉ số GDP trung bình. Khi REER tăng 1% thì tỷ số xuất trên nhập khẩu sẽ tăng 1,0777%. Khi chỉ số GDP trung bình tăng 1%, tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu giảm 4,7362%. Nói cách khác, chỉ số GDP trung bình của các đối tác tăng đã làm nhập khẩu Việt Nam tăng lên. Mức độ tác động của tỷ giá thực đa phương đối với việc cải thiện cán cân thương mại cao hơn tỷ giá thực song phương VND/USD.
  48. 41 Có một sự khác biệt rất lớn trong mô hình hồi quy tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo tỷ giá thực và chỉ số GDP. Đó là khi trong mô hình có biến độc lập là tỷ giá thực song phương thì biến độc lập là chỉ số GDP của Việt Nam có ý nghĩa, trong khi chỉ số GDP của đối tác thương mại song phương (ở đây là chỉ số GDP của Mỹ) không có ý nghĩa. Ngược lại, khi trong mô hình có biến tỷ giá thực đa phương thì chỉ số GDP trung bình của các đối tác thương mại có ý nghĩa thống kê, trong khi chỉ số GDP của Việt Nam không có nghĩa. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, khi chỉ số GDP trung bình tăng, có thể đã làm tăng đầu tư nói chung và đầu tư ra nước ngoài nói riêng của các đối tác thương mại với Việt Nam. Do các đối tác này cũng chính là các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam, cho nên một sự gia tăng GDP của họ có thể đã làm tăng dòng chảy vốn đầu tư vào Việt Nam, kéo theo nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị tăng lên, từ đó làm tăng thâm hụt thương mại của Việt Nam. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam trong thời gian gần đây có xu hướng chảy mạnh vào lãnh vực bất động sản. Điều này có thể thúc đẩy tiêu dùng nội địa hơn là làm tăng xuất khẩu, từ đó cũng làm xấu đi cán cân thương mại. Thứ hai, có lẽ do tính chất đa phương trong quan hệ quốc tế của nền kinh tế Việt Nam, nên tốc độ tăng GDP trung bình đã có tác động đến xuất nhập khẩu. Trong khi đó, GDP của Mỹ rất lớn so với GDP của Việt Nam và cấu trúc nền kinh tế của hai quốc gia có sự đối lập: một nước công nghiệp hàng đầu thế giới và một nước đang phát triển nên sự thay đổi của GDP của Mỹ tác động rất ít đến xuất nhập khẩu của Việt Nam. Thứ ba, REER là một đại lượng trung bình nên nó phù hợp với một nhân tố trung bình khác hơn là nhân tố đơn lẽ (trong cùng một mô hình hồi quy gồm nhiều nhân tố tác động). Do đó, có thể tạm thời lý giải vì sao trong mô hình tác động của tỷ giá thực đa phương và chỉ số GDP đến tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu thì chỉ số GDPw có ý nghĩa trong khi chỉ số GDP Việt Nam không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, do phạm vi đã chọn trước tác giả cũng không đi sâu phân tích sự tác động của GDP đến xuất nhập khẩu.
  49. 42 Kết luận: kết quả mô hình cho thấy sự biến động của tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu chịu sự tác động của tỷ giá thực song phương và đa phương và sự tác động này nhỏ. Hay nói cách khác, sự giảm giá thực của tiền đồng so với đồng tiền của các đối tác thương mại chủ yếu làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu thể hiện qua việc tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu tăng. Tuy nhiên, do hệ số xác định của mô hình nhỏ cho thấy rằng ngoài tỷ giá thực, xuất nhập khẩu còn chịu sự tác động rất lớn từ các nhân tố khác. Ngoài ra, từ kết quả hồi quy của các mô hình cũng cho thấy tác động của tỷ giá thực song phương đối với xuất nhập khẩu có độ trễ, trong khi sự tác động của tỷ giá thực đa phương thì không. 2.4.3 Dự báo tỷ giá vào cuối năm 2009, năm 2010 2.4.3.1 Dự báo tỷ giá VND/USD để có ngang giá sức mua so với rổ tiền vào cuối năm 2009, 2010 Về dữ liệu giả định - Lạm phát năm 2009, 2010: dựa trên các dữ liệu dự báo về lạm phát của các quốc gia của IMF và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). - Tỷ trọng thương mại của các đối tác thương mại: giả định tỷ trọng này của các quý trong hai năm 2009, 2010 không thay đổi so với các quý của năm 2008. - Tỷ giá: dựa vào dự báo tỷ giá trong năm 2009 của IMF. Do IMF chỉ công bố mức tỷ giá giả định của đồng tiền các nước so với USD, nên để có tỷ giá VND so với các ngoại tệ còn lại, tác giả lấy tỷ giá VND/USD (mức tỷ giá này tác giả tính theo nguyên tắc là tiền đồng có ngang giá sức mua so với rổ tiền, tức REER bằng 100) nhân với tỷ giá ngoại tệ/USD (IMF dự báo). Tác giả sẽ nói rõ hơn phương pháp tính tỷ giá VND/ngoại tệ ở phần tính tỷ giá để có ngang giá sức mua. Ngoài ra, do IMF chỉ công bố tỷ giá giả định của đồng tiền các nước so với USD vào năm 2009, nên tác giả dùng lý thuyết ngang giá sức mua để dự báo tỷ giá cho năm 2010. Theo lý thuyết ngang giá sức mua, tỷ giá của một đồng tiền so với USD năm 2010 sẽ bằng tỷ giá 2009 nhân với CPI năm 2010 của nước đó và chia lại cho CPI năm 2010 của Mỹ. Bảng 2.8: Các chỉ tiêu dự báo cho năm 2009, năm 2010
  50. 43 Tỷ giá VND/ Tỷ giá VND/ CPI CPI STT Quốc gia Quyền số ngoại tệ 2009 ngoại tệ 2010 2009 2010 1 Xin-ga-po 15.610,86 16.070,00 100,50 102,00 12,13% 2 Thái Lan 537,44 555,97 100,50 101,50 6,30% 3 Đài Loan 594,90 617,23 100,60 101,20 9,83% 4 Hàn Quốc 14,75 15,19 102,00 102,00 8,91% 5 Nhật Bản 214,95 227,06 99,00 99,40 16,89% 6 Trung Quốc 2.678,46 2.784,54 100,80 101,00 20,32% 7 Đức 27.117,00 28.587,20 100,10 99,60 3,58% 8 Pháp 27.117,00 28.190,94 100,50 101,00 1,81% 9 Mỹ 20.700,00 21.756,76 99,10 99,90 14,60% 10 Ô-xtrây-li-a 13.432,84 13.923,47 101,60 101,30 5,62% 11 Việt Nam 104,00 105,00 Nguồn: Dự báo tỷ giá năm 2009 của đồng tiền các nước/USD của IMF. Dự báo CPI các nước Singapore, Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam lấy từ ADB (Statistical appendix – table A8 Inflation (% per year)); các nước còn lại lấy từ IMF. CPI điều chỉnh về năm gốc và dự báo tỷ giá VND/ngoại tệ do tác giả tính. Dự báo tỷ giá USD để có ngang giá sức mua so với rổ tiền - Đầu tiên, ta thế các dữ liệu dự báo và giả định trên vào bảng tính tỷ giá thực đa phương theo năm. Tỷ giá dự báo giữa VND và các ngoại tệ được chuyển đổi thông qua tỷ giá của ngoại tệ đó với USD nhân với tỷ giá VND/USD, với tỷ giá VND/USD được điều chỉnh để có REER bằng 100 (khi điều chỉnh tỷ giá VND/USD thì tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ khác cũng sẽ thay đổi theo). Tiếp theo, ta thử lần lượt các mức tỷ giá USD/VND vào công thức tính REER theo năm (với năm gốc 1999) cho đến khi REER dự báo của năm 2009 đạt 100 thì dừng lại. Tỷ giá 20.700 VND/USD là mức tỷ giá mà ở mức này REER 2009 bằng 100. Hay nói cách khác, nếu tỷ giá VND/USD đạt mức 20.700 VND/USD như trên vào cuối năm 2009 thì tiền đồng có ngang giá sức mua so với rổ ngoại tệ. Tương tự, ta có tỷ giá 21.757 VND/USD là mức tỷ giá vào cuối 2010 để tiền đồng có ngang giá sức mua so với rổ tiền. 2.4.3.2 Dự báo tỷ giá thực đa phương quý 4 năm 2009, 2010 (theo số liệu quá khứ) Hồi quy tỷ giá thực đa phương theo chênh lệch lạm phát:
  51. 44 Về kỹ thuật tính toán, dựa trên lý thuyết ngang giá sức mua để chạy hồi quy tỷ giá theo chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và các đối tác thương mại (lạm phát của các đối tác sẽ tính bình quân theo công thức đã đưa ra ở chương I). Về dữ liệu: bảng 1.4 của phụ lục 1. Từ lý thuyết ngang giá sức mua, ta xây dựng mô hình tác động của lạm phát đối với tỷ giá như sau: REERt = α + α1Pwt – α2Pvnt + ut REERt: tỷ giá thực đa phương Pwt : chỉ số giá tiêu dùng bình quân có trọng số là tỷ trọng thương mại của các nước và vùng lãnh thổ có đồng tiền tham gia rổ tiền. Pvnt: chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam. α: tham số α1, α2: hệ số hồi quy. ut: sai số. Chạy hồi quy tỷ giá thực đa phương theo lạm phát bình quân và lạm phát của Việt Nam. Sau khi hồi quy chuỗi dữ liệu từ năm 1999 đến 2008 theo quý (40 quan sát), kết quả và mô hình hồi quy như sau (kết quả hồi quy: xem bảng 2.9 của phụ lục 2): REER = 20,0267 + 1,3375Pw - 0,4712Pvn (2.5) (1,6433) (9,0111) (-12,3801) R2 = 0,8098 Dấu của hệ số hồi quy phù hợp với lý thuyết ngang giá sức mua. REER đồng biến với lạm phát bình quân và nghịch biến với lạm phát trong nước, nghĩa là lạm phát bình quân của bảy nước có đồng tiền tham gia rổ tiền tăng thì REER tăng, lạm phát trong nước tăng REER giảm. Prob gần bằng không, mô hình có độ tin cậy gần bằng 100%. R2 bằng 0,8098: 80,98% sự biến động của tỷ giá thực đa phương được giải thích bởi lạm phát bình quân và lạm phát trong nước. Kiểm định giả thuyết về ý nghĩa các hệ số hồi quy Giả thuyết: Ho: a = 0 (Y và X không có quan hệ tuyến tính)
  52. 45 H1: a # 0 (Y và X có quan hệ tuyến tính) Bác bỏ Ho nếu |t-stat| > tn-2,α/2 Từ kết quả hồi quy mô hình, ta có: (2.5): |t-stat| = 9,011067> tn-2,α/2 = 2,3289 (n =40, mức ý nghĩa α =5%). (2.5): |t-stat| = 12,38015> tn-2,α/2 = 2,3289 (n =40, mức ý nghĩa α =5%). Vì vậy, ta bác bỏ giả thuyết Ho, tức REER có quan hệ tuyến tính với lạm phát bình quân và lạm phát trong nước. Giải thích mô hình như sau: Khi lạm phát bình quân (của 7 nước và vùng lãnh thổ có đồng tiền tham gia rổ tiền tệ) tăng 1 đơn vị REER tăng 1,3375 đơn vị, khi lạm phát trong nước tăng 1 REER giảm 0,4712. Dự báo tỷ giá quý 4 năm 2009 và quý 4 năm 2010. Giả định rằng tỷ trọng thương mại các quý năm 2009 sẽ bằng tỷ trọng của các quý năm 2008. Sử dụng số liệu dự báo tỷ giá của IMF và ADB trong năm 2009, giả định tốc độ tăng CPI của các quý năm 2009 so với các quý năm 2008 bằng tốc độ tăng của năm 2009, các quý năm 2010 so với các quý năm 2009 bằng tốc độ tăng năm 2010, ta tính được Pw, Pvn trong năm 2009, 2010. Thế các kết quả tính toán Pw và Pvn này vào mô hình hồi quy (2.5), ta có REER dự báo cho các quý năm 2009 và các quý năm 2010. Bảng 2.10 REER dự báo của các quý năm 2009, 2010 Kỳ Q1 09 Q2 09 Q3 09 Q4 09 Q1 10 Q2 10 Q3 10 Q4 10 REER 95,40 90,10 87,42 86,15 93,28 87,72 84,80 83,40 Nguồn: bảng 1.4, do tác giả dự báo bằng mô hình hồi quy. Lấy kết quả tính toán tỷ giá VND/USD để có ngang giá sức mua vào cuối năm 2009 (tỷ giá = 20700 VND/USD, khi REER 2009 = 100), nhân với REER dự báo quý 4 năm 2009, ta có tỷ giá dự báo vào quý 4 năm 2009 là 86,154*20700 = 17.834 VND/USD.
  53. 46 Tương tự, ta có tỷ giá dự báo quý 4 năm 2010 là 83,397* 21.756,76 = 18.144,58 VND/USD. Kết luận: Dự báo tỷ giá bằng mô hình hồi quy vào quý 4/2009 cho mức tỷ giá dự báo là 17.834 đồng/USD. Với mức dự báo tỷ giá VND/USD này thì REER dự báo cho quý 4 năm 2009 là 86,154. Kết quả dự báo cho thấy tiền đồng tiếp tục bị định giá cao nếu NHNN không có thay đổi trong quan điểm điều hành tỷ giá như bấy lâu nay. Tuy nhiên, mức tỷ giá dự báo này khá phù hợp với dự báo của ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển (BIDV). Hình 2.7 Đồ thị biểu diễn tỷ giá danh nghĩa VND/USD từ năm 1999 đến 2010 20,000.00 18,000.00 16,000.00 14,000.00 12,000.00 10,000.00 VND/USD 8,000.00 6,000.00 4,000.00 2,000.00 0.00 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 DB DB 2009* 2010* năm Nguồn: Từ năm 1999 đến năm 2008: tỷ giá VND/USD là tỷ giá bán của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam vào cuối năm; tỷ giá VND/USD năm 2009 và năm 2010 là tỷ giá quý 4 năm 2009 và quý 4 năm 2010 do tác giả dự báo. Kết luận chương hai Do USD có một quá trình mất giá mạnh so với các đồng tiền trong rổ tiền , vì thế tỷ giá thực song phương của VND/USD thấp hơn so với tỷ giá thực đa phương. Tuy nhiên, tỷ giá thực đa phương năm 2008 so với 1999 là 93,62 và so với năm 2000 là 90,97 cho thấy tiền đồng đang bị định giá cao so với rổ tiền tệ. Các phân tích và đánh giá tỷ giá thực cho thấy có sự tác động của tỷ giá thực đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Một vài thời điểm trong suốt quá trình nghiên cứu cho thấy khi REER tăng lên thì hai năm hay ba năm sau tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu của Việt Nam mới
  54. 47 được cải thiện. Điều này cho thấy cán cân thương mại của Việt Nam có thể đã đáp ứng lý thuyết đường cong J Sự tác động của tỷ giá thực song phương VND/USD đối với tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu có độ trễ, trong khi sự tác động của tỷ giá thực đa phương thì không có độ trễ. Mức tỷ giá dự báo cho năm 2009 là là 17834 đồng/USD và 2010 là 18.144,58 VND/USD. Những mức tỷ giá dự báo này làm tiền đồng tiếp tục bị định giá cao. CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM Để có cơ sở đánh giá biến động của tỷ giá, nhận định về chính sách tỷ giá một cách khách quan hơn, trong chương này trước khi đi vào phần mô tả diễn biến của tỷ giá và trình bày quan điểm về chính sách tỷ giá, tác giả trình bày các mục tiêu chính sách tỷ giá và có một số nhận xét về việc sử dụng REER như là thước đo mức độ định giá cao hay thấp của tiền đồng. 3.1 Mục tiêu của chính sách tỷ giá Nền kinh tế toàn cầu quá bấp bênh, luôn đối diện với các cuộc khủng hoảng, bất ổn định Thị trường thế giới là miền đất vô cùng khắc nghiệt nơi mà các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh đến từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật, EU, Hàn Quốc, cạnh tranh dữ dội. Thêm vào đó, thị trường quốc nội nhỏ bé, khả năng cạnh tranh của các công ty Việt Nam kém. Vì hai điều trên, chính phủ Việt Nam buộc phải lựa chọn chính sách kiểm soát tỷ giá để tránh những cú sốc từ bên ngoài, bảo đảm tạo ra một môi trường ổn định để kinh tế phát triển. Mặc dù tỷ giá bị kiểm soát, nhưng chính phủ cần xác định một số mục tiêu của chính sách tỷ giá, để trên cơ sở đó thiết lập cơ chế điều hành tỷ giá. Mục tiêu chính sách tỷ giá có thể tóm tắt lại như sau: đó là mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa quốc nội và mục tiêu cung cấp một môi trường vĩ mô ổn định. Những mục tiêu này tương tác qua lại lẫn nhau, đôi khi chúng ở vào thế đối kháng nhau, buộc NHNN đối diện với sự lựa chọn. Sau đây là một vài mục tiêu cụ thể của chính sách tỷ giá:
  55. 48 (1) Đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa. (2) Ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng bản tệ, ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. (3) Thị trường ngoại hối nói riêng và thị trường tài chính nói chung phải tương đối ổn định không có những biến động lớn để ít có những tác động tiêu cực đến hoạt xuất khẩu, nhập khẩu cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. (4) Bảo đảm có thể kiểm soát được nợ công. (5) Ngăn ngừa khủng hoảng tiền tệ. (6) Hạn chế tác động của những cú sốc từ bên ngoài. (7) Thúc đẩy tăng trưởng, khuyến khích đầu tư nước ngoài đúng mức, qua đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa quốc gia. (8) Tạo những điều kiện tiền đề để Việt Nam đồng có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi, chống hiện tượng đô la hóa quá mức nền kinh tế. Trong các mục tiêu nêu trên, hai mục tiêu đầu là các mục tiêu cơ bản. Mục tiêu thứ ba thực ra là kết quả từ việc thực hiện tốt hai mục tiêu đầu. Các mục tiêu 4, 5, 6: chính sách tỷ giá được điều hành vì mục tiêu phòng ngừa và tránh để xảy ra khủng hoảng. Nếu các mục tiêu từ 1 đến 6 được thực hiện tốt sẽ cung cấp một nền tảng cho tăng trưởng và nâng cao vị thế tiền đồng (mục tiêu 7, 8). 3.2 REER là thước đo tổng hợp vị thế cạnh tranh thương mại quốc tế không hoàn hảo REER là tỷ giá thực hiệu lực được điều chỉnh theo lạm phát so với các đối tác thương mại có tính đến trọng số thương mại của các đối tác, nên có thể nói nó thích hợp hơn so với tỷ giá thực song phương (chỉ tính chênh lệch lạm phát giữa hai đối tác thương mại với nhau) trong vai trò là thước đo mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia, là một trong những cơ sở có thể chỉ ra đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp so với đồng tiền của các đối tác. Ngoài ra REER đặc biệt thích hợp với các nước đang phát triển có nền kinh tế đang chuyển đổi và thị trường tiền tệ kém phát triển. Nó thật sự hữu ích trong việc xác định mức tỷ giá mục tiêu cho chính sách tỷ giá hỗn hợp giữa thả nổi và cố
  56. 49 định. (hiện tại cụm từ này có vẻ thích hợp hơn với trường hợp Việt Nam so với sử dụng cụm từ “chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát”). Tuy nhiên, có một số vấn đề làm cho việc xác định REER trở nên không chắc chắn. 3.2.1 Các hạn chế về mặt kỹ thuật của REER Trước tiên, đó là việc lựa chọn năm cơ sở. Như đã xác định trong phần lựa chọn năm cơ sở cho việc tính REER, khi chọn năm cơ sở khác nhau sẽ cho kết quả tính REER khác nhau. Thứ hai, vấn đề lựa chọn chỉ số giá. (có thể chọn chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất hay lấy mẫu giá ) mỗi chỉ số khác nhau cũng cho kết quả tính REER khác nhau. Thứ ba, trọng số thương mại. Số lượng các đối tác thương mại khác nhau sẽ cũng cho REER khác nhau. Thứ tư, là rổ hàng hóa tính chỉ số giá ở các nước cũng có sự khác nhau làm ảnh hưởng đến REER. Thứ năm, vấn đề chất lượng nguồn dữ liệu, sự khó khăn trong việc tìm kiếm dữ liệu có thể sẽ ảnh hưởng đến chỉ số này. Thứ sáu, ý định chủ quan của người nghiên cứu cũng tác động đến kết quả. 3.2.2 Sự mơ hồ trong việc áp dụng REER Bên cạnh sự hạn chế về kỹ thuật, việc áp dụng REER còn bị tác động bởi tình trạng kinh tế. Vì Việt Nam là nước đang phát triển có thu nhập thấp, cho nên về cấu trúc thương mại, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tập trung chủ yếu là hàng thô (nông sản, thủy sản ), hàng sản xuất theo dây chuyền (dệt may, giày dép, thiết bị điện ) thị trường chính của các sản phẩm này là Mỹ, EU, Nhật. Đối thủ cạnh tranh của Việt Nam không phải là các quốc gia này, mà là các nước đang phát triển giống Việt Nam như ASEAN, Trung Quốc Tuy nhiên, tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các đối thủ này có thể sẽ không đủ để đại diện cho tầm quan trọng của họ trong việc tính chỉ số REER. Tiếp theo, Việt Nam là nước bị đô la hóa rất cao, có nhiều hàng hóa ở Việt Nam thường được định giá bằng USD dù rằng có thể giao dịch bằng tiền đồng.
  57. 50 Ngoài ra, các hàng hóa thô và sản xuất dây chuyền như nói ở trên thường được định danh bằng USD. Sức mạnh của đồng USD còn quá lớn, cho nên ảnh hưởng thật sự của nó trong rổ tiền sẽ lớn hơn nhiều so với tỷ trọng thương mại giữa Việt Nam và Mỹ. Ngoài ra, tỷ giá ngoài việc chịu ảnh hưởng của lạm phát, nó còn phụ thuộc vào nhiều biến số vĩ mô khác của nền kinh tế như lãi suất, thu nhập, kỳ vọng, can thiệp của chính phủ, môi trường kinh tế toàn cầu Các nhân tố này tác động qua lại lẫn nhau vô cùng phức tạp góp phần tạo ra thêm sự mơ hồ của tỷ giá thực (trong phạm vi đã lựa chọn trước tác giả không phân tích các nhân tố này). Do đó, vấn đề tỷ giá cân bằng là không rõ ràng. Vì những lý do trên, tỷ giá được điều chỉnh ở một mức nào đó cũng sẽ có ít có ý nghĩa hơn hay nói cách khác REER là một chỉ số không hoàn hảo của sự cạnh tranh. 3.3 Biến động tỷ giá thời gian qua Sự ảnh hưởng của USD trên thị trường ngoại hối là rất lớn, hầu hết các giao dịch ngoại tệ tại Việt Nam thường sử dụng đồng USD, ngay cả khi chọn niêm yết tỷ giá NHNN cũng chọn đồng USD. Do đó biến động tỷ giá USD/VND có thể dễ dàng quan sát và trong một chừng mực nào đó nó mang tính đại diện cao cho sự biến động của các ngoại tệ khác. Vì vậy, tác giả đã theo dõi diễn biến giá cả của đồng USD trên thị trường để đánh giá những biểu hiện của thị trường tiền tệ và phản ứng chính sách trước xu hướng tiền đồng bị định giá cao. Hình 3 Đồ thị biểu diễn đường đi của tỷ giá BQLNH và tỷ giá do NHTM công bố từ quý 1 năm 1999 đến quý 4 năm 2008 (tỷ giá VND/USD) 20000 18000 16000 14000 12000 TGBQLNH 10000 TGNHTM 8000 6000 4000 2000 0 1 1999 4 1999 3 2000 2 2001 1 2002 4 2002 3 2003 2 2004 1 2005 4 2005 3 2006 2 2007 1 2008 4 2008 Q Q Q Q Q Q Q Q Q Q Q Q Q Q
  58. 51 Nguồn: NHNN, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Dữ liệu: xem phụ lục Trước tiên, tỷ giá bình quân liên ngân hàng và tỷ giá do NHTM niêm yết luôn chênh lệch rất ít thể hiện dải băng tỷ giá là quá hẹp. Điều này rất dễ hiểu vì trong một thời gian dài biên độ tỷ giá do NHNN công bố là rất nhỏ. Thứ hai, tỷ giá do NHTM công bố luôn trườn theo xu hướng đi lên (tiền đồng mất giá liên tục) ngay sát phía trên tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Thứ ba, trên thị trường tự do tỷ giá USD/VND luôn cao hơn tỷ giá chính thức, NHTM luôn sử dụng hết biên độ cho phép trong niêm yết giá USD, xuất hiện hiện tượng cung không đủ cầu ngoại tệ, khách hàng có nhu cầu phải xếp hàng chờ mua USD, có thời điểm thị trường không chính thức có giá chênh lệnh đến hơn 500 đồng/USD so với giá niêm yết của NHTM (quan sát biến động trên thị trường không chính thức trong những tháng cuối năm 2008 và những tháng đầu năm 2009) tạo ra một áp lực tăng tỷ giá. Nhìn chung, thị trường ngoại hối trong một thời gian dài xảy ra hiện tượng khan hiếm ngoại tệ, NHTM phải thường xuyên giao dịch ở mức trần cho phép. Mặc dù tỷ giá bình quân liên ngân hàng được công bố tăng nhưng mức độ tăng thấp hơn so với mức tăng trần của giao dịch tỷ giá của NHTM, có thời kỳ còn đứng im, thậm chỉ giảm. Từ hiện tượng tỷ giá giảm trong hơn ba tháng đầu năm 2008 Trong năm 2008, trên thị trường tỷ giá có những diễn biến trái chiều nhau. Hơn ba tháng đầu năm tỷ giá VND/USD có xu hướng giảm, đồng thời với lạm phát thế giới và trong nước đang rất cao. Thật ra tiền đồng tăng giá so với USD là do đồng USD những tháng đầu năm 2008 đã mất giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác. ”Chỉ trong vòng 4 ngày, chỉ số tỷ giá trung bình của đồng Đôla Mỹ so với rổ các đồng tiền chủ chốt đã giảm tới 2,4% xuống mức 73,55 điểm - là mức thấp chưa từng có kể từ thời điểm chỉ số này bắt đầu được tính toán vào năm 1973.” (Diễn biến tỷ giá và giá vàng từ 25/2 đến 3/3/2008, Trang tin điện tử NHNN Việt Nam) Những tháng cuối năm tình hình lại diễn tiến hoàn toàn ngược lại. Đến cuối năm 2008 tỷ giá VND/USD đã tăng đến khoảng 9% so với đầu năm, có nghĩa là tiền
  59. 52 đồng mất giá 9% so với USD. Do đó, năm 2008 xu hướng là tiền đồng đã mất giá mạnh so với USD và xu hướng này còn tiếp tục cho đến những ngày cuối tháng 3 năm 2009 và dự đoán đến cuối năm 2009 tiền đồng sẽ còn mất giá. Trong ngắn hạn do số lượng hàng xuất khẩu đã được ký kết trước nên tỷ giá giảm sẽ không ngay lập tức làm giảm lượng hàng hóa xuất khẩu, mặc dù nó có thể gây ra một số khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu do doanh thu quy đổi ra tiền đồng bị giảm. Do đó, có thể thấy tỷ giá giảm trong vài tháng đầu năm 2008 chỉ là hiện tượng trong ngắn hạn, không phải là xu hướng chung của tỷ giá trong năm này nên mức độ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu là không đáng kể. Vì NHNN đã neo tiền đồng quá chặt vào đồng USD và ít thay đổi có thể đã tiếp tay cho cơn bão tăng giá lương thực, năng lượng trên thế giới trong năm 2008 tràn vào Việt Nam với cường độ mạnh hơn và ở lại lâu hơn so với các quốc gia khác. Nhìn vào cách thức chính phủ phản ứng với hiện tượng tiền đồng tăng giá vào một số thời điểm trong những tháng đầu năm 2008, ta sẽ thấy một số bất cập của chính sách ổn định tỷ giá quá mức. Khi tỷ giá VND/USD trên đường tuột dốc, tiền đồng lên giá mạnh so với USD, xuất hiện tình trạng dư thừa đô la Mỹ. Lúc này có thể để cho tỷ giá giảm (NHNN vẫn kiểm soát mức độ giảm của tỷ giá) nhằm giảm giá hàng nhập khẩu giúp hạ nhiệt lạm phát đang tăng rất cao trên toàn cầu, hay cũng có thể mua USD vào dự trữ nhằm tăng quỹ dự trữ và giúp thị trường thanh khoản trở lại đồng thời kìm hãm bớt đà giảm quá mức của tỷ giá theo ý đồ ổn định tỷ giá của NHNN. Ngược lại, NHNN một mặt không tiến hành các biện pháp cho phép tỷ giá giảm cũng không mua vào USD làm người ta có cảm giác NHNN đang tìm cách kìm hãm đà đi xuống của tỷ giá nhưng lại ở vào thế bị động. Nếu nhìn từ góc độ một đồng tiền mạnh có thể ngăn cản quá trình định giá cao hàng hóa trong nước, có tác dụng làm giảm bớt áp lực lạm phát do giá nguyên vật liệu nhập khẩu rẻ hơn, thì có lẽ trong những tháng đầu năm 2008 NHNN nên để cho tỷ giá giảm có giới hạn. Vì tỷ giá được giữ khá “ổn định”, trong khi giá cả thế giới tăng cao nên bao nhiêu ảnh hưởng lạm phát từ nước ngoài đã được chuyển hầu hết vào hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.