Phát triển hoạt động tài chính vi mô hướng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam đến năm 2020

pdf 14 trang Gia Huy 24/05/2022 940
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển hoạt động tài chính vi mô hướng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam đến năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphat_trien_hoat_dong_tai_chinh_vi_mo_huong_toi_tai_chinh_toa.pdf

Nội dung text: Phát triển hoạt động tài chính vi mô hướng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam đến năm 2020

  1. PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VI MÔ HƯỚNG TỚI TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 ThS.NCS. Đào Lan Phương1 Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Lâm nghiệp Tóm tắt Tài chính toàn diện ngày càng khẳng định vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của c c nước đặc biệt là các quốc gia đang ph t triển. Tại Việt Nam, tài chính vi mô (TCVM) không chỉ là công cụ giảm nghèo mà còn được nhìn nhận là một phần không thể thiếu của hệ thống tài chính nhằm đảm bảo phổ cập đến các nhóm thu nhập thấp những dịch vụ an toàn, bền vững và theo nhu cầu vốn sẵn có cho c c đối tượng khác trong hệ thống. Phát triển tài chính vi mô là tiền đề cho tăng cường tài chính toàn diện tại Việt Nam. Tuy nhi n, để TCVM có thể phát triển tương xứng với tiềm năng và là “trợ thủ đắc lực” cho tài chính toàn diện tại Việt Nam thì cần phải có nhiều giải ph p và chương trình hành động cụ thể hơn nữa từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như từ chính bản thân các tổ chức TCVM. Từ khóa: Tài chính toàn diện, tài chính vi mô, tổ chức tài chính vi mô, Việt Nam. 1. Đặt vấn đề Việt Nam đã thóat khỏi “ngưỡng nghèo” và gia nhập nhóm thu nhập trung bình của thế giới từ năm 2010. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới năm 2015, Việt Nam là một trong 25 quốc gia có 75% dân số không được tiếp cận các dịch vụ tài chính; chỉ khoảng 50% doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tiếp cận được vốn vay của ngân hàng. Tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính bởi tất cả mọi người hay còn gọi là tài chính toàn diện có ý nghĩa rất quan trọng và hữu ích đối với tất cả các cá nhân, doanh nghiệp, giúp tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao năng lực và bảo đảm hoạt động kinh tế của họ. Tài chính toàn diện cũng hỗ trợ tăng cường ổn định tài chính và phát triển kinh tế trên diện rộng, giúp đảm bảo tăng trưởng toàn diện. Tài chính toàn diện yếu kém có thể khiến nền kinh tế tăng 1 Emai: lanphuong83vfu@gmail.com 385
  2. trưởng chậm và bất bình đẳng về thu nhập kéo dài do nhóm thu nhập thấp chiếm phần lớn dân số không được tiếp cận tài chính. Với vai trò quan trọng, tài chính toàn diện ngày càng được Ngân hàng Thế giới và Chính phủ các nước ủng hộ trong những năm gần đây. Tại Việt Nam, Chính phủ có kế hoạch khởi động Chiến lược Tài chính Toàn diện Quốc gia (NFIS) vào năm 2018 nên ngay từ bây giờ việc chuẩn bị cho kế hoạch trên là hết sức cần thiết. Sau gần 30 năm hoạt động TCVM ở Việt Nam đã được nhìn nhận như một công cụ đắc lực đóng góp đáng kể vào thành công của Chương trình Giảm nghèo Quốc gia giúp nước ta đạt được tỷ lệ giảm nghèo vô cùng ấn tượng từ 58% vào năm 1993 xuống chỉ còn 4,5% vào năm 2015 (Báo cáo Chính phủ trình Quốc hội tháng 11/2015). Thông qua việc cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính đa dạng - như tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, bảo hiểm cho các hộ nghèo và thu nhập thấp và các doanh nghiệp nhỏ. Tài chính vi mô chứng minh cho khái niệm người có thu nhập thấp có khả năng thóat khỏi cảnh đói nghèo nếu được tiếp cận với các dịch vụ tài chính. Có thể khẳng định rằng Phát triển TCVM là tiền đề cho tăng cường tài chính toàn diện vì nó tập trung phục vụ phần đa dân số không có khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính. Vì vậy, việc lập biểu đồ lộ trình cho tài chính toàn diện Việt Nam cần có đánh giá về tình hình ngành TCVM, đồng thời nhìn lại những nỗ lực trước đây và hiện nay của Việt Nam trong phát triển ngành TCVM, là nền tảng quan trọng để thúc đẩy tài chính toàn diện. Đây chính là bối cảnh dẫn đến chủ đề được lựa chọn của bài viết này. 2. Thực trạng hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam hiện nay Với dân số hơn 90 triệu trong đó 65% sống ở nông thôn có tỷ lệ hộ nghèo chiếm 95% cả nước; 97% số doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thị trường Việt Nam là một “mảnh đất màu mỡ” cho dịch vụ TCVM phát triển. Điểm khác biệt nhất của thị trường TCVM Việt Nam so với các nước khác là sự tồn tại song song hai cách tiếp cận do Nhà nước dẫn dắt và cách tiếp cận dựa vào thị trường trong cung cấp các dịch vụ TCVM đến các hộ nghèo và hộ gia đình nông thôn. Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) do Nhà nước sở hữu và quản lý tồn tại song song với 2 ngân hàng thuộc sở hữu 386
  3. Nhà nước nhưng hoạt động theo định hướng thị trường là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNN&PTNT) và Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX); cùng với 1.147 Quỹ Tín dụng Nhân dân (QTDND) hoạt động dựa vào các thành viên; 4 Tổ chức Tài chính vi mô (TCTCVM) được cấp phép; khoảng 50 chương trình/dự án tài chính vi mô (DA/CTTCVM) bán chính thức lớn, và trên 250 dự án tài chính vi mô nhỏ hơn (DATCVM). Các TC/CT/DATCVM chủ yếu do các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể, các quỹ xã hội của chính quyền địa phương và các nhà tài trợ sở hữu hoặc hỗ trợ. Quá trình phát triển thị trường TCVM Việt Nam bắt đầu bằng sự thay đổi lý luận từ quan điểm truyền thống về TCVM như là một công cụ giảm nghèo thông qua cung cấp tín dụng cho người nghèo sang quan điểm cấp tiến rằng TCVM là một phần không thể thiếu của hệ thống tài chính nhằm đảm bảo phổ cập đến các nhóm thu nhập thấp những dịch vụ an toàn, bền vững và theo nhu cầu vốn sẵn có cho các đối tượng khác trong hệ thống. Tuy nhiên, các sản phẩm tài chính dành cho các nhóm thu nhập thấp vẫn chủ yếu là tín dụng, thông qua các chương trình cho vay chính sách xã hội được trợ cấp của NHCSXH, tiết kiệm bắt đầu được triển khai nhưng vẫn ở quy mô nhỏ. Các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm vi mô chưa phát triển đầy đủ. Có thể thấy được Thị trường TCVM đang phát triển của Việt Nam qua việc cung cấp các dịch vụ sau: Dịch vụ tín dụng vi mô: Tại Điều 7, Thông tư số 07/2009/TT-NHNN có quy định: “Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tài chính quy mô nhỏ đối với một khách hàng tài chính quy mô nhỏ không được vượt quá 30 triệu đồng”. Theo đó, tín dụng vi mô tại Việt Nam được hiểu là những khoản tín dụng với giá trị không lớn hơn 30 triệu đồng. Mức độ mở rộng tiếp cận theo chiều rộng tính trên cả quy mô giá trị dịch vụ và số lượng khách hàng của ngành TCVM Việt Nam là rất ấn tượng (Bảng 1), trong đó hai ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước là NHCSXH và NHNN&PTNT vẫn thu hút tới 79% trong tổng số khách hàng vi mô và 86% dư nợ cho vay vi mô tính tới cuối năm 2015. NHCSXH tiếp tục chiếm ưu thế nổi bật trong cung cấp tín dụng vi mô với khoảng 6,9 triệu người đi vay vi mô (chiếm 71% thị phần), và dư nợ cho vay ở mức 6,25 tỷ USD (chiếm 77% thị phần) tính tới cuối năm 2015. Tiếp theo là NHNN&PTNT và 387
  4. Hệ thống QTDND. Tính đến cuối năm 2015, hệ thống QTDND hiện có 1,2 triệu khách hàng vay vi mô (chiếm 12% tổng thị phần) và dư nợ tín dụng vi mô ở mức 1,67 tỷ USD (chiếm 19% thị phần). Bảng 1: Tổng quan về số lƣợng khách hàng và dƣ nợ ngành tài chính vi mô Việt Nam, 2013 - 2015 Số lƣợng khách hàng vay Tổ chức Dƣ nợ cho vay (triệu USD) vốn (triệu) % % trên trên 2013 2014 2015 2013 2014 2015 tổng tổng 2015 2015 NHCSXH 6,98 6,9 6,9 71% 5.350 6.093 6.256 70% NHNN&PTNT 1,49 0,93 0,78 8% 1.390 945 767 9% QTDND/NHHTX 1,12 1,23 1,2 12% 1.262 1.477 1.673 19% Các TC/CT/DATCVM 0,77 0,8 0,8 8% 189 198 198 2% Tổng cộng 10,09 10,42 9,68 100% 8.223 8.713 8.894 100% Nguồn: (ABD, 2016) và tính toán của tác giả Thị phần khách hàng của tất cả các TCTCVM được cấp phép và các CT/DATCVM chưa được cấp phép mặc dù bằng với NHNN&PTNT ở mức 8%, nhưng dư nợ cho vay chỉ chiếm con số rất nhỏ là 2% thị trường. Tuy nhiên, các hoạt động của các TC/CT/DATCVM đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây dưới sự hỗ trợ của Chính phủ và trợ giúp của ADB. Có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng của các TC/CT/DATCVM về số lượng khách hàng cũng như dư nợ cho vay còn rất chậm, cho thấy các TC/CT/DATCVM còn hoạt động rất yếu ớt trên thị trường TCVM. Đối với hầu hết các TCTCVM, đặc biệt là các TCTCVM mới thành lập, hoạt động tín dụng còn nhiều hạn chế một phần là do ảnh hưởng của quy mô tiết kiệm nhỏ và nguồn tài trợ không nhiều. Dịch vụ tiết kiệm: So với sản phẩm tiết kiệm tại các NHTM thì số lượng sản phẩm tiết kiệm vi mô không đa dạng nhưng mang nhiều đặc tính riêng để 388
  5. phục vụ đối tượng nghèo, thu nhập thấp. Các TCTCVM cung cấp 2 loại tiết kiệm chính là tiết kiệm bắt buộc (chỉ có các TCTCVM mới áp dụng hình thức này, đây là một dạng đảm bảo tăng tính liên kết và trách nhiệm giữa các thành viên tham gia) và tiết kiệm tự nguyện. Chính sách tiết kiệm không hạn chế mức cho dù chỉ là vài nghìn đồng nhưng phải gửi thường kỳ tại buổi họp nhóm/ cụm nhằm tạo ý thức, thói quen và nghị lực thực hiện. Ngoài ý nghĩa thông thường này, tiết kiệm còn là điều kiện để thành viên tiếp cận được vốn vay. Sau một thời gian gửi tiền thành viên sẽ được vay vốn với mức cao gấp nhiều lần số dư tiết kiệm. Mức tiết kiệm bắt buộc tùy thuộc cách tính của mỗi tổ chức, thông thường theo giá trị khoản vay (từ 1-1,5%) hoặc theo giá trị tuyệt đối đóng góp hàng tháng (3 - 10 nghìn đồng). Hoạt động huy động tiết kiệm vi mô hiện tại còn tương đối nhỏ bé so với tín dụng. Trong số các TCTCVM, chỉ có 4 TCTCVM chính thức là TYM, M7-MFI, TCVM Thanh Hóa và mới đây là CEP được phép huy động tiết kiệm tự nguyện một cách rộng rãi từ dân cư (theo Luật các TCTD 2010). Các TCTCVM bán chính thức huy động tiết kiệm rất hạn chế chủ yếu dưới hình thức tiết kiệm bắt buộc. Khoản tiết kiệm bắt buộc thường được xem như là khoản đảm bảo một phần cho khoản vay vi mô của khách hàng và chỉ được rút ra khi đã thanh toán đầy đủ các khoản vay. Dịch vụ tiết kiệm tự nguyện cũng chỉ được các TCTCVM NGO cung cấp một cách hạn chế vì các tổ chức này có mạng lưới hoạt động nhỏ, nguồn vốn hoạt động chủ yếu là nguồn tài trợ miễn phí hoặc chi phí thấp từ bên ngoài nên không thể cạnh tranh trong việc thanh toán theo lãi suất thị trường cho các khoản tiết kiệm. NHCSXH huy động tiết kiệm tự nguyện từ dân cư và phân chia danh mục sản phẩm tiết kiệm thành 3 loại: tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm cho người nghèo. Tuy về bản chất cả 3 loại tiết kiệm này vẫn chỉ thuộc 2 nhóm: tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không kỳ hạn nhưng sự phân loại trên nhằm mục đích phân biệt 3 loại sản phẩm có đặc tính khác nhau về phương thức, thời hạn hay đối tượng khách hàng. Trước năm 2009, NHCSXH chỉ triển khai cung cấp sản phẩm tiết kiệm tự nguyện kỳ hạn và không kỳ hạn, trong đó, người dân sẽ phải đến trực tiếp gửi tiết kiệm tại trụ sở của ngân hàng và số tiền tối thiểu gửi là 100.000 VND. Năm 2009, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) lần đầu tiên triển khai sản phẩm tiết kiệm cho 389
  6. người nghèo thông qua Tổ tiết kiệm và vay vốn. Sản phẩm tiết kiệm này cho phép người dân nghèo được gửi tiền tiết kiệm với những khoản tiền nhỏ (từ 1.000 đồng) và có thể gửi trực tiếp tại các tổ tiết kiệm - vay vốn tại địa phương cho tổ trưởng hoặc nhân viên của NHCSXH mà không cần phải giao dịch tại trụ sở ngân hàng như trước. Bảng 2 cho thấy, NHCSXH dẫn đầu số lượng khách hàng gửi tiết kiệm, với 6 triệu người, chiếm 70% thị phần. Tuy nhiên, tổng lượng tiền gửi chỉ đứng vị trí số 2, với 12% thị phần, xếp sau hệ thống các Quỹ TDND với 70% thị phần tiền gửi. Các TC/CT/DATCVM có thị phần không đáng kể trên thị trường tiết kiệm vi mô xét cả về số lượng khách hàng (chiếm 7%) và quy mô tiền gửi (chiếm 2%). Các TCTCVM được cấp phép cung cấp các dịch vụ tiết kiệm nhưng sức cạnh tranh không cao do chi phí vận hành tương đối lớn. Trong khi đó, các CT/DATCVM bán chính thức cũng huy động khoản tiết kiệm nhỏ chủ yếu thông qua các hình thức tiền gửi bắt buộc mà chỉ có thể được rút khi khách hàng trả đủ các khoản nợ. Bảng 2: Tổng quan về tiết kiệm vi mô chính thức ở Việt Nam Đơn vị: triệu Tổ chức Số khách hàng tiết kiệm vi mô Tổng lƣợng tiền gửi (USD) % % trên trên 2013 2014 2015 2013 2014 2015 tổng tổng 2015 2015 NHCSXH 6,88 5,4 6 70% 133 147 341 12% NHNN&PTNT 1,05 1,05 0,4 5% 1.164 1.164 206 7% NHHTX/ Các QTDND 1,23 1,44 1,2 14% 22,9 1.837 2.018 70% Công ty TKBĐ/LPB) 0,31 0,32 0,33 4% 204 241 267 9% Các TCTCVM 48 2% 0,56 0,62 0,62 7% 48 48 (chính thức & bán CT) Tổng 9,73 8,83 8,55 100% 1.381,5 3.437 2.880 100% Nguồn: (ABD, 2016)và tính toán của tác giả 390
  7. Dịch vụ bảo hiểm: Bảo hiểm vi mô có nguồn gốc từ TCVM và đã được triển khai độc lập với chương trình TCVM từ cuối những năm 90 tại Việt Nam. Mặc dù nhiều hộ gia đình nông thôn vẫn còn hiểu sai về bảo hiểm vi mô, hoạt động này hiện nay đã được công nhận là quan trọng và là một loại hình bảo vệ xã hội đối với người nghèo, nhóm người dễ bị tổn thương nhất sau các cú sốc kinh tế gây ra do chết chóc, bệnh tật và mất mát tài sản. Các cơ chế đối phó thông thường của các hộ nghèo chống chọi với những thay đổi trong cuộc sống - chẳng hạn như dựa vào tiền tiết kiệm, vay, và / hoặc bán tài sản - có thể đẩy họ vào tình cảnh nghèo hơn mà không có các biện pháp bảo vệ rủi ro với giá cả phải chăng và dễ dàng tiếp cận như bảo hiểm vi mô. Theo báo cáo của Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm - Bộ Tài chính năm 2015, tại Việt Nam chưa có khái niệm pháp lý trong các luật bảo hiểm hiện tại về bảo hiểm vi mô và bảo hiểm cho khách hàng thu nhập thấp do các sản phẩm bảo hiểm được phân loại theo các hoạt động bảo hiểm (tức là nhân thọ và phi nhân thọ), chứ không theo phân đoạn thị trường. Một vài công ty bảo hiểm cung cấp sản phẩm thiết kế đặc biệt cho các nhóm khách hàng thu nhập thấp. Khách hàng, kể cả người nghèo, có thể tự do lựa chọn sản phẩm dựa trên nhu cầu. Đáng chú ý nhất là Công ty CP Bảo hiểm Bảo Việt Nhân thọ, cung cấp nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chi phí thấp, bảo hiểm vật nuôi và bảo hiểm sức khỏe. Các công ty khác như AIA chuyên môn hóa trong cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ tín dụng theo các hợp đồng đại lý với các ngân hàng. Prudential có sản phẩm bảo hiểm cho phụ nữ và trẻ em dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, còn nhiều nguyên nhân khiến cho các nhà Bảo hiểm chính thức vẫn cảm thấy e dè khi cung cấp sản phẩm này như chi phí cao; ít hoặc không có lợi nhuận; và cản trở lớn nhất chính là việc phải tìm được kênh phân phối thích hợp (như: các TCTCVM tổ chức cộng đồng, tổ chức an sinh xã hội, ). Hiện nay, tại Việt Nam có hơn 380.000 đại lý bảo hiểm chính thức và các hoạt động thông qua hệ thống của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng như các tổ chức tương tự để tăng tiếp cận cho người dân có thu nhập thấp tại khu vực xa xôi - khó khăn đang được khuyến khích phát triển. Bộ Tài chính cũng đang tiếp tục phát triển các sản phẩm bảo hiểm cho mạng lưới an sinh xã hội và người nghèo như các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp. 391
  8. Bảng 3: Các hoạt động bảo hiểm cho khách hàng thu nhập thấp (tính đến tháng 8/2015) Số lƣợng hợp Doanh Giai Tên công Tỉnh/khách đồng có hiệu thu (Phí đoạn SSTT ty bảo hàng mục lực/ tổng HĐ bảo Ghi chú hoạt hiểm tiêu hiểm thu động (tính đến tháng 8/2015) đƣợc) Tỷ lệ duy trì chính sách: 49,8%; Tổng tiền đã thanh Các hội viên toán: 4,5 tỷ. Kể từ HLHPN tại Có hiệu lực: 21 Manulife tháng 9, 15 tỷ Manulife hợp tác với 19 tỉnh thành 73.959 2009 19 HPN các tỉnh, thường xuyên sửa đổi các quy trình và tăng hoa hồng cho các đối tác HPN. Prudential đã ngừng Phụ nữ cung cấp sản phẩm 2011- nghèo ở Huế, nay do chi phí vận 22 Prudential 3.102/3.144 1,8 tỷ 2013 Quảng Trị , hành cao (so với mức Khánh Hòa phí bảo hiểm thu được). Dịch vụ bảo hiểm vi Công nhân mô chưa được cung 33 Daiichi tại các khu cấp kể từ khi được công nghiệp Bộ Tài chính chấp thuận. Nguồn: ADB, 2016 Dịch vụ thanh toán, chuyển tiền: Cần khẳng định luôn rằng không phải mọi tổ chức cung ứng TCVM đều được cung cấp dịch vụ thanh toán và cung cấp mọi thể thức thanh toán, tùy thuộc theo quy định của từng quốc gia. Theo Luật TCTD Việt Nam thì chỉ có ngân hàng mới được cung ứng dịch vụ thanh toán. Cùng với quyền rút tiền mặt và quyền viết séc, dịch vụ thanh toán còn bao gồm cả việc chuyển tiền. Các khách hàng TCVM chủ yếu ở khu vực nông thôn, họ thường cần tới dịch vụ chuyển tiền, nhất là khi xu hướng đô thị hóa khiến cho nhiều cư dân nông thôn di chuyển ra thành thị hoặc nước ngoài để sinh sống, và thường xuyên gửi tiền về để chu cấp cho những người ở nhà. Để cung cấp dịch vụ chuyển tiền, các tổ chức cung ứng phải có thể thực hiện nếu là ngân hàng thương mại hoặc phải có một hệ thống chi nhánh hoặc mối quan hệ đại lý rộng rãi với một hoặc nhiều ngân hàng. Đối với các TCTCVM, dịch 392
  9. vụ thanh toán nói chung vẫn còn nhiều hạn chế về số lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ và số lượng tham gia thực hiện thanh toán. Mặc dù NHCSXH cũng cung cấp các dịch vụ chuyển tiền cho khách hàng, nhưng hoạt động này bị giới hạn bởi cơ sở hạ tầng chỉ tập trung vào cung cấp dịch vụ tín dụng tập trung và điểm giao dịch một vài lần/tháng. Tuy nhiên, môi trường cạnh tranh sẽ tạo điều kiện cho hộ gia đình nông thôn nghèo có thể tiếp cận các dịch vụ với mức giá cả phù hợp và hợp lý và giá cả phải chăng. Điều này có thể được cải thiện hơn nữa nếu hệ thống QTDND thực hiện cung cấp một loạt các dịch vụ tương tự, do các quỹ này hiện đang hiện diện tại cấp xã phường. Trong số các ngân hàng thương mại, NHNN&PTNT và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt (LPB) hiện đang có vị thế tốt nhất trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng có chất lượng, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền do quy mô chi nhánh và mạng lưới phòng giao dịch rộng khắp (LPB gắn kết chặt chẽ với các phòng giao dịch bưu điện), và việc ứng dụng các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng công nghệ theo định hướng phù hợp nhất cho phần lớn khách hàng TCVM. Tuy nhiên, các khuôn khổ pháp lý cho ngân hàng kỹ thuật số cũng như ngân hàng đại lý còn rất mới mẻ, vì vậy đây vẫn là trở ngại lớn cho việc khai thác các tiềm năng, cung cấp những dịch vụ thanh toán và chuyển tiền cho các khách hàng TCVM. Có thể thấy rằng ngành TCVM Việt Nam đã có những động thái tích cực để thực hiện mục tiêu phát triển đồng hành cùng cả hệ thống tài chính nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện. Tuy nhiên, để TCVM có thể phát triển tương xứng với tiềm năng và là “trợ thủ” đắc lực cho tài chính toàn diện tại Việt Nam thì cần phải có nhiều giải pháp và chương trình hành động cụ thể hơn nữa từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như từ chính bản thân các tổ chức TCVM. 3. Tổng quan về tài chính toàn diện tại Việt Nam Mặc dù đạt thành tích tốt trong công tác giảm nghèo, tài chính toàn diện tại Việt Nam (được đánh giá chủ yếu dựa trên mức độ tiếp cận tài khoản chính thức) đã có những tiến bộ nhất định song nhìn chung vẫn thấp so với các nước láng giềng trong ASEAN và các nước thu nhập trung bình thấp. Những năm gần đây tỷ lệ người trưởng thành ở Việt Nam có tài khoản ngân hàng chính thức đã gia tăng đáng kể, từ 21,3% năm 2012 lên 31% năm 393
  10. 2015 tương đương như Philippines và Indonexia (Bảng 4). Đây là kết quả của sự nỗ lực nhiều mặt từ phía Chính phủ như: (i) mở rộng hệ thống tài chính chính thức. Trong giai đoạn 2011-2015, Ngân hàng Nhà nước cho phép thành lập 64 chi nhánh ngân hàng và 185 phòng giao dịch. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng đã có 2.300 chi nhánh ngân hàng và văn phòng giao dịch của NHNN&PTNT, 11.000 điểm giao dịch của NHCSXH, 10.000 phòng giao dịch TKBĐ, và 1.147 QTDND ở các khu vực nông thôn (NHNN, 2015). Tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng khá cao trong giai đoạn 2011-2015 với 8,85% (NHNN, 2015); (ii) những nỗ lực của Chính phủ và NHNN trong phát triển các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt thông qua một số biện pháp như ban hành Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về việc thanh toán không dùng tiền mặt và 6 thông tư hướng dẫn của NHNN. Hệ thống thanh toán liên ngân hàng hợp nhất cũng được thành lập vào tháng 4 năm 2015 (NHNN, 2015); (iii) phát triển kinh tế nói chung với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam trên 5% giai đoạn 2011 - 2015 (Ngân hàng Thế giới, 2015), (iv) GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng đáng kể trong những năm qua từ 1.373 USD lên 2.011- 2.032 USD năm 2014 (Focus Economics, 2015). Kết quả là, số lượng khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng đa dạng ngày càng tăng, đặc biệt đối với các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền. Bảng 4: Tỷ lệ ngƣời trƣởng thành có tài khoản tại một tổ chức tài chính chính thức Quốc gia 2012 (%) 2015 (%) Việt Nam 21,4 31 Malaysia 66,2 80,7 Philippines 26,6 31,3 Indonesia 19,6 36,1 Thái Lan 72,7 78,1 Trung Quốc 63,8 78,9 Singgapo 98,2 96,4 Các quốc gia Đông Á và Thái Bình Dương 54,9 69 (chỉ các quốc gia đang phát triển) Nhật Bản 96,4 96,6 Chung (thế giới) 50,5 61,5 Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2012 2015), Đo lường Tài chính toàn diện: Cơ sở dữ liệu toàn cầu Findex Bảng 5 cho thấy, việc sử dụng tài khoản ngân hàng trong các nhóm phân theo giới tính, thu nhập, độ tuổi và trình độ học vấn nhìn chung đều tăng lên 394
  11. trong năm 2015 so với năm 2012, nhưng với tốc độ khác nhau giữa các nước. Các quốc gia càng phát triển thì sự chênh lệch giữa các nhóm càng nhỏ hơn, và khoảng cách này ngày càng được thu hẹp trong những năm qua. Việc sử dụng tài khoản ngân hàng tại Việt Nam và Philippines ở mức độ tương tự, trong khi Thái Lan có sự phát triển hơn nhiều. Tại Việt Nam, người nghèo sử dụng ít tài khoản hơn so với người giàu (18,74% so với 39,46%). Phụ nữ, thanh niên và người có trình độ học vấn cao cũng sử dụng tài khoản ngân hàng nhiều hơn so với nam giới, người lớn tuổi và người có học vấn thấp. Trong số các nhóm thu nhập, nhóm người giàu sử dụng tài khoản ngân hàng nhiều hơn so với nhóm người nghèo và tình hình này sẽ không thay đổi trong thời gian tới tại Việt Nam. Tỷ lệ khách hàng thu nhập thấp chiếm 18,7% (nhóm dân số trên 15 tuổi) trong năm 2015, gấp đôi so với năm 2012, trong khi tỷ lệ này ở người giàu là 39,5% năm 2015 so với 29,5% năm 2012. Cả hai nhóm đều sử dụng tài khoản ngân hàng chủ yếu với mục đích nhận tiền lương, nhưng người giàu còn dùng tài khoản cho mục đích kinh doanh. Điều này phần nào phản ánh việc người nghèo bị loại trừ khỏi các dịch vụ tài chính dưới cả 2 hình thức là tự loại trừ và bị xã hội loại trừ. Hiện trạng này cũng xảy ra ở các nước khác. Bảng 5: Tài khoản tại một tổ chức tài chính năm 2015 theo nhóm khách hàng (% tuổi 15+) Giới tính Thu nhập Tuổi Trình độ học vấn Nghèo Giàu Người Thanh Tiểu học Trung học Nữ Nam nhất 40% nhất 60% lớn tuổi niên trở xuống trở lên Việt Nam 31,86 29,82 18,74 39,46 28,91 37,44 15,34 40,02 Đông Á và Thái Bình Dƣơng 66,72 70,78 60,73 74,22 70,50 60,26 63,60 76,28 (nƣớc đang phát triển) Quốc gia dƣới thu nhập 35,46 48,05 32,38 48,08 44,97 33,41 30,20 53,74 trung bình Philippines 33,88 21,97 14,92 37,13 33,37 13,86 15,18 33,47 Thái Lan 75,44 81,24 71,97 82,34 79,76 70,55 73,20 85,36 Cambodia 10,68 14,94 8,83 15,29 12,54 12,59 10,54 28,31 Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2012 2015), Đo lường Tài chính toàn diện: Cơ sở dữ liệu toàn cầu Findex 395
  12. Xét theo nhóm tuổi, Việt Nam khác xa so với các quốc gia trong khu vực khi giới trẻ là khách hàng mục tiêu của các ngân hàng và họ có nhiều tài khoản hơn so với người lớn tuổi. Nhóm thanh niên trẻ sử dụng tài khoản chủ yếu để nhận hỗ trợ của gia đình và trả học phí; trong khi những người lớn tuổi sử dụng tài khoản để nhận tiền công và phục vụ mục đích kinh doanh. Sau cùng, nhu cầu sử dụng tài khoản ngân hàng ở nhóm khách hàng có học vấn cao thường cao hơn tại hầu hết các nước, cho thấy tầm quan trọng của việc tăng cường giáo dục tài chính cho người nghèo để thúc đẩy tài chính toàn diện. Bên cạnh những kết quả đạt được, tỷ lệ tài chính toàn diện tại Việt Nam vẫn còn thua kém nhiều nước trong khu vực như Trung Quốc (78%) và Thái Lan (79%), thấp hơn nhiều so với các quốc gia đang phát triển ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (69%) và mới đạt một nửa so với tỷ lệ chung của thế giới (61,5%) năm 2015. Bên cạnh đó, tỷ lệ này còn có sự phân hóa mạnh giữa nhóm người giàu vào người nghèo. Một số lý do chính khiến cho tỷ lệ tài chính toàn diện của Việt Nam vẫn còn thấp mặc dù đã đạt được mức độ phát triển kinh tế cao, là: (i) Tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính lớn nhất – trong đó chủ yếu là cung cấp tín dụng cho khách hàng thu nhập thấp – vẫn là NHCSXH với sự can thiệp mạnh từ Chính phủ thông qua trợ cấp và cho vay các mục tiêu chính sách xã hội; trong khi sự tham gia của khu vực tư nhân còn hạn chế. (ii) Các TCTCVM có mức độ tiếp cận cộng đồng rất thấp và vẫn còn kém phát triển trong 20 năm qua, với ít hơn 2% tổng dư nợ cho vay và 4% tổng số khách hàng (iii) Các tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM chủ chốt (NHCSXH, hệ thống NHHTX/QTDND, các TCTCVM) có năng lực tài chính hạn chế, với tổng tài sản chỉ tương đương 3,5% tổng tài sản của toàn hệ thống tài chính (iv) Các sản phẩm tài chính dành cho các nhóm thu nhập thấp vẫn chủ yếu là tín dụng, thông qua các chương trình cho vay chính sách xã hội được trợ cấp của NHCSXH, tiết kiệm bắt đầu được triển khai nhưng vẫn ở quy mô nhỏ. Các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm vi mô chưa phát triển đầy đủ. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp phát triển hoạt động tài chính vi mô nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam một lần nữa được khẳng định. 396
  13. 4. Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tài chính vi mô hƣớng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam đến năm 2020 Việt Nam còn thua xa nhiều nước trong khu vực trong tiến trình thúc đẩy tài chính toàn diện. TCVM lại là nền tảng cho tài chính toàn diện tại Việt Nam. Vì vậy, để phát triển hoạt động TCVM hướng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Thứ nhất, cần tạo lập môi trường chính s ch và ph p lý thuận lợi để hỗ trợ ph t triển thị trường TCVM theo hướng thị trường và thúc đẩy tài chính toàn diện nhằm tạo sân chơi bình đẳng để mở rộng sự lựa chọn nhà cung cấp và dịch vụ TCVM cho khách hàng. Hiện nay, Thị trường TCVM vẫn còn có sự can thiệp của Chính phủ và thống lĩnh thị trường thông qua NHCSXH và còn thiếu các quy định liên quan đến sự phát triển dịch vụ của TCVM, tài chính toàn diện như quy định đối với các dịch vụ tài chính số giúp giảm chi phí, mở rộng khả năng tiếp cận và phát triển dịch vụ: bảo đảm bảo vệ quyền lợi và an toàn của khách hàng hay Luật Bảo hiểm không đưa ra định nghĩa về bảo hiểm vi mô, Vì vậy, đây được coi là giải pháp quan trọng cần phải được thực hiện trước tiên để “cởi trói” cho ngành TCVM qua đó giúp cho TCVM có thể phát triển bền vững theo định hướng thị trường, là “hạt nhân” quan trọng thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam. Thứ hai, cần tăng cường củng cố năng lực quản lý gi m s t TCVM của c c cơ quan quản lý nhà nước. Sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ tài chính số đã tạo ra nhiều lỗ hổng trong công tác giám sát. Vì vậy, cần tăng cường kỹ năng cũng như năng lực của các cơ quan quản lý để đáp ứng sự phát triển mới nhất của các dịch vụ tài chính số. Thứ ba, cần tăng cường năng lực c c tổ chức tín dụng hoạt động TCVM, tạo điều kiện cung cấp dịch vụ toàn diện, bền vững, gi cả phù hợp và đ p ứng nhu cầu kh ch hàng thu nhập thấp. Hoạt động trong một thị trường phân đôi (theo định hướng nhà nước và cơ chế thị trường) và sân chơi bình đẳng, năng lực của các tổ chức TCVM còn hạn chế hoặc yếu kém như NHCSXH tiếp tục phụ thuộc vào nguồn vốn Chính phủ với gánh nặng tài chính không bền vững và ngày càng tăng. Ngân hàng HTX và hệ thống QTDND với mức tăng trưởng chậm về độ tiếp cận, nguồn lực và dịch vụ, chưa phát huy hết tiềm 397
  14. năng sẵn có. Vai trò của các tổ chức, CT/DATCVM vẫn rất thấp dù có tiềm năng lớn do mối quan hệ thị trường. Thứ tư, hỗ trợ ph t triển cơ sở hạ tầng cho ngành TCVM hướng tới tài chính toàn diện. Mặc dù cơ sở hạ tầng cho ngành đã được xây dựng nhưng chưa đạt được tiềm năng đầy đủ. Trung tâm TCVM Học viện Ngân hàng chưa đạt được vai trò là trung tâm kiến thức cho Ngành. Hệ thống trao đổi thông tin tín dụng vi mô được thiết lập tại Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nhưng mức độ sử dụng còn thấp. Cần nâng cao hiểu biết về tài chính; nhận thức về các nguyên tắc và mục tiêu của tài chính toàn diện cho các tổ chức. Tài liệu tham khảo 1. ADB (2016), Việt Nam tăng tốc ph t triển khu vực tài chính vi mô hướng tới tài chính toàn diện. Hà Nội: Nhóm tư vấn ADB TA 8587- VIE. 2. Chính phủ (2015), Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội, tháng 11/2015 3. Duflos, E. (2016), 20 năm ph t triển tài chính toàn diện tại Đông Á và Th i Bình Dương, CGAP, 05/01/2016, financial-inclusion-east-asia-and-pacific; truy cập ngày 11/1/2016. 4. Focus Economics (2015), GDP/đầu người economics.com /countries/vietnam 5. NHNN – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009), Thông tư số 07/2009/TT- NHNN ngày 17 tháng 4 năm 2009 của NHNN Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ. 6. NHNN – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2015), B o c o Kết quả Kiểm tra, Gi m s t, T i cơ cấu và Quản lý Nợ xấu năm 2015 và một số nhiệm vụ chính năm 2016, Báo cáo Hội nghị tổng kết năm ngành Ngân hàng số 350/BC-NHNN ngày 24/12/2015. 7. Ngân hàng Thế giới (2012 & 2014), Đo lường Tài chính toàn diện: Cơ sở dữ liệu toàn cầu Findex. 8. 9. Ngân hàng Thế giới (2012 & 2015), S ch số liệu về Tài chính toàn diện. 10. Ngân hàng Thế giới (2015), Tốc độ tăng trưởng GDP 398