Phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
Bạn đang xem tài liệu "Phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- phong_chong_rua_tien_tai_viet_nam_trong_boi_canh_toan_cau_ho.pdf
Nội dung text: Phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
- 17. WB (2016), Báo cáo kinh tế Việt Năm năm 2016, truy cập tại %20kinh%20te%20Viet%20Nam%202016%20cua%20WB.pdf PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA TS. Lê Thị Việt Nga1 Tóm tắt Bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thương mại, đầu tư giữa các quốc gia và các khu vực. Tuy nhiên, chính sách thương mại và đầu tư thông thoáng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin cũng là điều kiện thuận lợi cho hoạt động rửa tiền phát triển và trở thành một loại hình tội phạm có tổ chức, xuyên biên giới. Hoạt động rửa tiền khi có điều kiện phát triển mạnh mẽ sẽ gây ra những hệ quả nghiêm trọng cho nền kinh tế.Vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới đã không ngừng nỗ lực hợp tác trong việc sử dụng các biện pháp nhằm phòng, chống rửa tiền. Bài viết này đề cập đến những hệ quả của hoạt động rửa tiền đối với nền kinh tế, hợp tác quốc tế trong việc phòng, chống rửa tiền, thực trạng phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam và những giải pháp để tăng cường phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam trong thời gian tới. Từ khóa: rửa tiền, phòng chống rửa tiền, toàn cầu hóa 1. Hoạt động rửa tiền và những hệ quả đối với nền kinh tế Hầu hết các quốc gia sử dụng khái niệm về rửa tiền được đề cập trong Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần năm 1988 (gọi tắt là Công ước viên 1988) và Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (gọi tắt là Công ước Palermo). Theo đó, rửa tiền (money laundering) được hiểu là: (i) sự chuyển hoán hoặc chuyển nhượng tài sản khi biết tài sản đó có nguồn gốc từ bất kỳ hành vi phạm tội (buôn bán bất hợp pháp ma túy) nào hoặc từ việc tham gia vào hành vi phạm tội đó với mục đích giấu giếm, che đậy nguồn gốc phi pháp của tài sản hoặc tiếp tay cho bất kỳ cá nhân nào có liên quan tới việc thực hiện hành vi phạm tội nói trên để tránh cho người đó phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do hành vi phạm tội; (ii) việc giấu giếm hoặc 1 Trường Đại học Thương mại. Email: vietngalepit@gmail.com 531
- che đậy bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, sự chuyển dịch, các quyền liên quan đến tài sản hoặc quyền sở hữu đối với tài sản khi biết rằng tài sản đó có được từ hành vi phạm tội hoặc từ việc tham gia vào hành vi phạm tội đó, và (iii) việc có được, chiếm hữu và sử dụng tài sản khi tại thời điểm tiếp nhận nó đã biết rằng tài sản này có được từ hành vi phạm tội hoặc từ việc tham gia vào hành vi phạm tội đó. Theo Luật phòng, chống rửa tiền được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 18/6/2012 (có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2013), rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm: a) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự; b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có; c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản. Như vậy, bản chất của rửa tiền là việc làm sạch những đồng tiền phạm pháp, biến những đồng tiền phạm pháp trở thành hợp pháp nhằm che giấu hành vi phạm tội và né tránh những hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội. Rõ ràng, với những động cơ không tích cực như vậy (che giấu hành vi phạm pháp, không muốn gánh chịu hậu quả pháp lý của hành vi đó), nên rửa tiền để lại những hệ quả nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thị trường hàng hóa, dịch vụ và thị trường tài chính có xu hướng nhất thể hóa, các quy định điều chỉnh các giao dịch trên thị trường trở nên thông thoáng hơn, thuận lợi hơn cho các chủ thể kinh doanh. Thêm vào đó, dưới tác động của toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trở nên mạnh mẽ hơn. Đó chính là những nhân tố thúc đẩy, tạo thuận lợi cho quá trình rửa tiền diễn ra không chỉ trong phạm vi của một hay một số quốc gia mà giữa nhiều quốc gia trên thế giới và được gọi là một loại hình tội phạm xuyên biên giới. Vì vậy, hệ quả của hoạt động rửa tiền không chỉ dừng lại đối với hoạt động kinh tế xã hội của một quốc gia mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển chung của nền kinh tế khu vực và thế giới. Xét đối với nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào, rửa tiền có thể để lại những hệ quả lớn như: - Làm gia tăng tội phạm và các hoạt động khác như hối lộ, tham nhũng. Rửa tiền được thực hiện thành công đồng nghĩa với việc những tài sản hay khoản lợi từ hoạt động phạm pháp hay tham nhũng đã được hoán chuyển thành công thành các tài sản 532
- hợp pháp, nguồn gốc phạm tội đã bị che giấu. Điều này làm cho những kẻ phạm tội, tham nhũng càng mong muốn thực hiện rửa tiền nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, rửa tiền sẽ làm gia tăng tội phạm, tham nhũng và hối lộ, đặc biệt ở những quốc gia đang và chậm phát triển – nơi mà còn rất nhiều những hạn chế, yếu kém, khó khăn trong việc phòng và chống rửa tiền. - Làm suy yếu các tổ chức tài chính. Nạn rửa tiền có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với các tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty quản lý đầu tư. Những thiệt hại không chỉ bao gồm những thiệt hại về kinh tế, vật chất mà còn bao gồm thiệt hại về uy tín của các tổ chức đó. Nếu có thông tin, bằng chứng, lập luận cho thấy tổ chức tài chính có dính líu, liên quan đến việc rửa tiền thì dường như uy tín của họ sẽ bị suy giảm đáng kể đối với những khách hàng, các giao dịch giữa khách hàng và các tổ chức tài chính sẽ suy giảm và hoạt động của các tổ chức tài chính sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí sụp đổ. Điều này cũng làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động tài chính quốc gia và quốc tế. - Làm tổn hại nền kinh tế và quá trình tư nhân hóa. Tội phạm rửa tiền có thể thực hiện việc rửa tiền thông qua nhiều phương thức, thủ đoạn, chẳng hạn như thông qua các giao dịch gửi tiền, chuyển tiền ở ngân hàng, thông qua hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế, thông qua các trung tâm giải trí như sòng bạc, casino, thông qua việc thuê lao động không hợp pháp, Nhìn chung tội phạm rửa tiền phải sử dụng những công ty, tổ chức hợp pháp hoặc có vẻ như hợp pháp để giúp cho quá trình chuyển tài sản bất hợp pháp trở thành tài sản hợp pháp khó bị phát hiện nhất. Vì vậy, dường như mục đích của việc đưa tiền phạm pháp vào các giao dịch và các tổ chức có vẻ hợp pháp là để hợp pháp hóa đồng tiền đó nhằm che giấu hành vi phạm tội chứ không phải mục đích sinh lợi. Do đó, khi khối lượng tiền cần được rửa càng lớn thì sẽ làm cho các hoạt động trên các thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính trở nên bị kiểm soát, chi phối bởi chính dòng tiền phạm pháp này hơn là bởi cơ chế thị trường, điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro và có thể xảy ra bất kỳ thiệt hại nào đối với nền kinh tế. Với hoạt động rửa tiền được thực hiện như vậy cũng kéo theo hành động trốn thuế và làm thất thoát ngân sách của nhà nước. Bên cạnh đó, tội phạm rửa tiền với sức mạnh của dòng tiền phạm pháp có thể sẽ tham gia vào quá trình mua lại các doanh nghiệp nhà nước thuận lợi hơn và sẵn sàng trả giá cao hơn so với các nhà thầu chính nghĩa khác. Việc làm này bóp méo quá trình tư nhân hóa theo định hướng của cơ chế thị trường, tội phạm rửa tiền là kẻ thâu tóm các doanh nghiệp nhà nước và họ sẽ tiếp tục hành động với mục đích rửa tiền, trốn thuế. Từ đó gây ra những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững của ngành và của nền kinh tế. 533
- - Làm ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài của quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tội phạm rửa tiền cũng lợi dụng những chính sách thông thoáng để thu hút đầu tư ở các quốc gia để thúc đẩy quá trình hợp pháp hóa đồng tiền bất hợp pháp. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tài chính quốc tế hoặc nhà đầu tư nước ngoài sẽ không lựa chọn điểm đến cho dòng vốn đầu tư của mình là những quốc gia đang được coi là nơi ẩn náu của dòng tiền phạm pháp, đó cũng thường là những quốc gia đang có nhiều yếu kém, hạn chế trong công tác chống rửa tiền. Cơ quan đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) cũng đưa ra danh sách những quốc gia không đáp ứng những yêu cầu tối thiếu về chống rửa tiền hoặc không hợp tác đầy đủ trong hoạt động chống rửa tiền quốc tế. Việc có tên trong danh sách như vậy cũng là minh chứng thể hiện sự kém hấp dẫn đối với những nhà đầu tư quốc tế. Như vậy, rửa tiền được coi là một trong những loại hình tội phạm có ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế, xã hội và uy tín của một quốc gia. Quá trình nhất thể hóa thị trường khu vực và thế giới diễn ra càng mạnh mẽ khiến cho hoạt động rửa tiền càng có nhiều điều kiện để trở thành một hình thức tội phạm xuyên biên giới và để lại hệ quả cho không chỉ một quốc gia mà nhiều quốc gia khác, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các nền kinh tế. Bởi vậy, phòng và chống rửa tiền là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa cần có sự hợp tác quốc tế trong việc phòng, chống rửa tiền giữa các quốc gia. 2. Phòng, chống rửa tiền trong bối cảnh toàn cầu hóa Cùng với tiến trình toàn cầu hóa, các định chế về thương mại, tài chính ngày càng được hoàn thiện, trở nên minh bạch hơn, tương đồng và tiến tới thống nhất hơn nhằm tạo thuận lợi cho sự phát triển của các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích của toàn cầu hóa, các quốc gia cũng phải đối mặt với những mặt trái của tiến trình này, trong đó có sự gia tăng của các loại hình tội phạm xuyên biên giới như rửa tiền. Vì vậy, bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra nhiệm vụ quan trọng cho các quốc gia, đó là hợp tác quốc tế trong việc phòng, chống rửa tiền nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính cũng như các hoạt động kinh tế khác giữa các quốc gia. Hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm rửa tiền, trước hết, thể hiện ở việc tham gia, kí kết các điều ước quốc tế nhằm xây dựng một khung pháp lí có hiệu lực chung giữa các quốc gia thành viên về phòng, chống rửa tiền. Ngoài ra, trên từng lĩnh vực cụ thể như trao đổi thông tin, dẫn độ tội phạm, tịch thu tài sản, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất cũng cần có sự phối hợp, hợp tác giữa các quốc gia nhằm giúp nhau phát hiện và hòan thiện hồ sơ xử lí các băng 534
- nhóm tội phạm xuyên quốc gia. Về hợp tác quốc tế trong việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt động chống rửa tiền, Liên Hợp Quốc (UN) là tổ chức quốc tế đầu tiên tiến hành hoạt động chống rửa tiền thực sự trên toàn cầu. Do mối quan ngại tăng lên trước tình trạng buôn bán bất hợp pháp ma túy quốc tế ngày càng tăng và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ thống ngân hàng, UN đã thông qua Chương trình Liên Hợp Quốc về Kiểm soát ma túy (UNDCP) và khởi xướng một hiệp định quốc tế về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và rửa tiền. Năm 1988, UN đã thông qua Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần (Công ước Viên 1988). Công ước có hiệu lực từ tháng 11-1990, chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Hiện nay có 169 nước tham gia vào Công ước này. Công ước đã đưa ra khái niệm về rửa tiền và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên, Công ước Viên chỉ quy định tội buôn bán bất hợp pháp ma túy là tội phạm nguồn và không xử lý các khía cạnh mang tính phòng ngừa việc rửa tiền. Nhằm tăng cường nỗ lực chống tội phạm quốc tế có tổ chức, năm 2000, UN đã thông qua Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo 2000). Công ước này có hiệu lực vào ngày 29 - 9 - 2003, được 147 nước ký và 82 nước phê chuẩn, bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của Công ước bằng cách ban hành luật trong nước. Về tội phạm rửa tiền, Công ước Palermo bắt buộc mỗi nước thông qua công ước phải: hình sự hóa việc rửa tiền và quy định tất cả các tội nghiêm trọng là tội phạm nguồn của tội rửa tiền, bất kể phạm tội được thực hiện ở trong nước hay ở ngoài nước và cho phép suy đoán về sự cố ý phạm tội từ những tình tiết khách quan; xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền, kể cả nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ và báo cáo các giao dịch đáng ngờ; trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính, quản lý, thi hành pháp luật và các cơ quan khác, cả ở trong nước và trên phạm vi quốc tế và xem xét việc thành lập một đơn vị tình báo tài chính để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin; và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Ngoài ra, Liên Hợp Quốc còn có chương trình toàn cầu về chống rửa tiền (GPML) nằm trong Văn phòng Ma túy và Tội phạm (ODC) của tổ chức này. GPML là một dự án nghiên cứu và hỗ trợ với mục tiêu là tăng cường hiệu quả của các hành động quốc tế chống rửa tiền bằng cách cung cấp kiến thức giám định chuyên môn, đào tạo và tư vấn cho các nước thành viên theo yêu cầu. 535
- Bên cạnh những nỗ lực của UN, năm 1989, các nước G7 thành lập Cơ quan đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), đây là một cơ quan liên chính phủ có mục tiêu phát triển và thúc đẩy những biện pháp chống rửa tiền. Từ tháng 10/2001, FATF đảm nhận thêm nhiệm vụ chống tài trợ cho khủng bố. FATF là cơ quan hoạch định chính sách, trong đó tập hợp các chuyên gia lập pháp, tài chính và thi hành pháp luật để đạt được các cuộc cải cách của quốc gia về lập pháp và quản lý công tác chống rửa tiền. Hiện nay, thành viên của tổ chức này gồm 31 nước và vùng lãnh thổ cùng với hai tổ chức vùng. Do các tổ chức tội phạm có thể lợi dụng hệ thống thương mại quốc tế để thực hiện hành vi rửa tiền nên hoạt động rửa tiền liên quan đến trao đổi thương mại. Vấn đề này lại liên quan đến việc quản lý hải quan của cơ quan hải quan ở mỗi quốc gia. Vì vậy, nhằm đảm bảo thương mại quốc tế không thể là hoạt động giúp hoàn thành mục đích rửa tiền của tội phạm, Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) đã tham gia đấu tranh chống rửa tiền từ đầu những năm 90 thế kỷ trước. Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các thành viên trong việc giải quyết vấn đề này, WCO đã thông qua một “Khuyến nghị về tính cần thiết phải mở rộng và củng cố vai trò của các cơ quan Hải quan nhằm trấn áp nạn rửa tiền và thu hồi các sản phẩm vi phạm” vào tháng 6/2001. Khuyến nghị này tiếp tục được sửa đổi vào tháng 6/2005 để bổ sung thêm nội dung ngăn chặn việc rửa tiền và tài trợ cho các hoạt động khủng bố. Như vậy, trước sự lớn mạnh của hoạt động rửa tiền có tính chất xuyên biên giới, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, các quốc gia đã nỗ lực hợp tác xây dựng khung pháp lý chung về hoạt động phòng, chống rửa tiền nhằm tạo ra sự thống nhất về tội danh, về các biện pháp phát hiện, xử lý giữa các quốc gia vì những mục tiêu chung của toàn cầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc phòng và chống rửa tiền gặp không ít những khó khăn, bởi mỗi ngày có hàng triệu khách hàng, hàng triệu giao dịch tài chính và các giao dịch thương mại, đầu tư được thực hiện. Bên cạnh đó, khó khăn bởi cơ sở pháp lý ở nhiều quốc gia chưa hoàn thiện, đầy đủ và thường xuyên thay đổi, khó khăn bởi hạ tầng cơ sở, công nghệ thông tin còn yếu kém lạc hậu, bởi những hạn chế về năng lực của con người trong việc tham gia phòng, chống rửa tiền, Vì vậy, nếu thiếu sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những khó khăn này thì công tác phòng, chống rửa tiền giữa các quốc gia khó có thể đạt được những kết quả tốt. 3. Thực trạng phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam trong thời gian qua 536
- Tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, nhận thức được những thiệt hại nghiêm trọng mà rửa tiền có thể gây ra đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế khu vực toàn cầu nói chung, chính phủ Việt Nam và các Bộ, ngành đã sớm quan tâm đến vấn đề phòng, chống rửa tiền. Về mặt thể chế, lần đầu tiên vấn đề phòng chống rửa tiền đã được Chính phủ Việt Nam thể hiện trong điều 19 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 và điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, các quy định này chưa rõ ràng, chưa được cụ thể hóa trong hoạt động của các cơ quan pháp luật nên chưa phát huy được năng lực và thẩm quyền của các cơ quan thi hành luật. Để phù hợp luật pháp quốc tế về phòng chống rửa tiền, minh bạch hóa các giao dịch về tài chính trong nước và quốc tế, ngày 7/6/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền. Sau hơn 5 năm kể từ khi Nghị định này có hiệu lực, ngày 17/11/2009, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 22/2009/TT- NHNN hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền. Ngày 13/4/2009, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 470/QĐ-TTg, thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền. Ban chỉ đạo có thành viên đến từ 14 bộ, ngành có liên quan và NHNN là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo, có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chiến lược, chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, cơ chế, giải pháp trong công tác phòng, chống rửa tiền; chỉ đạo, điều phối hoạt động, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá công tác phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là thuận lợi lớn trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng khi nhận được sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ, ngành và sự chung tay ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Ngày 18/6/2012, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật phòng, chống rửa tiền (luật này có hiệu lực từ 1/1/2013); Ngày 04/10/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền. Ngày 25/11/2014, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 - 2020. Theo đó, mục tiêu tổng quát của kế hoạch là xây dựng một cơ chế phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố có hiệu quả ở Việt Nam; thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với các tổ chức quốc tế về việc xây dựng cơ chế phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố (AML/CFT) của Việt Nam và thực hiện nghĩa vụ thành viên của Việt Nam trong Nhóm châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG); tham gia chương trình phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia. Như vậy, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện 537
- khung pháp luật về phòng, chống rửa tiền cũng như xây dựng chương trình hành động cụ thể cho giai đoạn 2015 - 2010 nhằm tăng cường sự ổn định của các tổ chức tài chính, kích thích tăng trưởng kinh tế; khẳng định lập trường và cam kết chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố nhằm phấn đấu vì nền hòa bình, ổn định, phát triển và hội nhập; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Về mặt tổ chức thực hiện, việc phòng, chống rửa tiền đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho các cơ quan quản lý, đặc biệt là NHNN, Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính trong đó có Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.Thực hiện quy định tại Điều 14 Nghị định số 74/2005/NĐ-CP của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền, NHNN đã thành lập Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục Phòng, chống rửa tiền thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng) có chức năng như một trung tâm của quốc gia thu thập, phân tích và chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền cho các cơ quan điều tra. Thời gian qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc đầu tư nâng cấp an toàn bảo mật, giám sát giao dịch, công cụ để phân tích các dữ liệu phục vụ điều tra gian lận, quản lý thay đổi, quản lý truy cập, đánh giá định kỳ rủi ro công nghệ thông tin Các ngân hàng thương mại trong nước đã nâng cấp phương thức quản trị rủi ro hoạt động theo các nguyên tắc và thông lệ tốt nhất, thực hành nguyên tắc về quản trị, nhận diện đo lường và giám sát rủi ro hoạt động, nguyên tắc về văn hóa và con người, Đối với ngành Hải quan Việt Nam, Cục điều tra chống buôn lậu (thuộc Tổng cục Hải quan) được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch phòng, chống rửa tiền. Trong thời gian qua, việc thực hiện nhiệm vụ đã được thống nhất từ cấp Cục xuống các chi cục, đến từng cá nhân trong ngành nhằm ngăn chặn hành vi rửa tiền thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Cơ quan hải quan đã tích cực phối hợp với các cơ quan khác như NHNN, Công an, Quản lý thị trường trong việc trao đổi thông tin, phối hợp điều tra, bắt giữ, xử lý các vụ việc liên quan rửa tiền tại Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nỗ lực hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền. Có thể kể ra một số hoạt động hợp tác quốc tế điển hình như: ngày 10/12/2008, NHNN Việt Nam đã tổ chức lễ ký kết với Cục Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế C15, Văn phòng Interpol Việt Nam “Quy chế phối hợp trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền”. Từ tháng 5/2007, Việt Nam đã trở thành thành viên chính 538
- thức của APG2 và cam kết thực thi đầy đủ 40 khuyến nghị về phòng chống rửa tiền và 9 khuyến nghị về chống tài trợ cho khủng bố của FATF. Ngoài ra, Việt Nam tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về phòng chống rửa tiền với Malasya hoặc tổ chức các khoá học của Chương trình hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo ASEAN – Mỹ (USAID) cho các chuyên gia phòng chống rửa tiền của Việt Nam . Những nỗ lực phòng chống rửa tiền của Việt Nam trong thời qua đã nhận được sự đánh giá rất cao của các tổ chức tài chính quốc tế. Tại Hội nghị toàn thể của FATF diễn ra vào đầu năm 2014, Việt Nam đã được tuyên bố chính thức ra khỏi danh sách các nước cần sự giám sát của FATF về tính tuân thủ toàn cầu trong việc phòng, chống rửa tiền. Đây là một sự kiện thể hiện những tiến bộ đáng ghi nhận của Việt Nam trong việc nỗ lực cải thiện khung pháp lý một cách toàn diện nhằm thực thi các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Nhiều chuyên gia cũng cho rằng, với rất nhiều nội dung công việc đã, đang và sẽ được triển khai theo Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ góp sức tích cực hơn, hiệu quả hơn vào cuộc chiến chống rửa tiền trên toàn cầu, góp phần ngăn chặn “dòng tiền bẩn” đang có xu hướng đổ vào các quốc gia có nền kinh tế năng động như Việt Nam. Như vậy, có thể thấy rằng Việt Nam rất quyết tâm trong việc phòng, chống rửa tiền và vẫn tiếp tục hợp tác tích cực với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm thực hiện hiệu quả hơn nữa và đảm bảo sự ổn định cho khu vực cũng như thế giới và sự phát triển bền vững của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những tồn tại, khó khăn trong quá trình thực hiện phòng, chống tội phạm rửa tiền như: - Luật phòng, chống rửa tiền mới được ban hành. Các văn bản dưới luật cũng như những văn bản luật khác nhằm hỗ trợ thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền, đảm bảo tính thống nhất trong quá trình hợp tác giữa các cơ quan, bộ ngành trong việc phòng, chống rửa tiền vẫn đang trong qúa trình hoàn thiện. - Sự liên kết, hợp tác giữa các ngành liên quan dòng trao đổi thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư trong việc phòng, chống rửa tiền chưa hiệu quả mặc dù đã có một Ban chỉ đạo với sự tham gia của 14 bộ, ngành liên quan. Công tác phòng, chống rửa tiền chưa được chú trọng thực sự và chưa được thực hiện đồng đều ở các ngành liên quan, chủ yếu vẫn ở hệ thống ngân hàng và cơ quan hải quan. 2 APG hay Nhóm các nước châu Á - Thái Bình Dương là một tổ chức thuộc FATF 539
- - Hạ tầng cơ sở thông tin trong nội bộ ngành ngân hàng cũng như của một số ngành khác như hải quan, thuế, chưa đáp ứng được những yêu cầu nhất định theo chuẩn mực quốc tế trong quá trình thu thập, lưu truyền và xử lý thông tin nhằm phục vụ công tác phát hiện, điều tra, phòng chống tội phạm rửa tiền. - Nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào bộ phận kiểm soát và phòng chống rửa tiền tại các ngân hàng, cơ quan chứng khoán, hải quan, còn hạn chế cả về số lượng và kinh nghiệm, mặc dù trong những năm qua công tác đào tạo, phổ biến thông tin và kiến thức tới đội ngũ lao động tại các cơ quan liên quan phòng, chống rửa tiền rất được chú trọng thực hiện. - Thói quen sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế vẫn còn phổ biến, đặc biệt việc chứng minh và kiểm soát về nguồn gốc của các dòng tiền chưa thực sự tốt. Trong thời gian tới, khi toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, loại hình tội phạm này chắc chắn vẫn diễn biến phức tạp và tinh vi cùng với quá trình tạo thuận lợi hóa cho hoạt động thương mại và đầu tư. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện hiệu quả những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại, khó khăn và quyết tâm phòng, chống rửa tiền cùng với nhiều quốc gia khác trên thế giới, vì sự phát triển ổn định chung của thế giới. 4. Giải pháp tăng cường phòng, chống rửa tiền đối với Việt Nam trong thời gian tới Theo nhận định của Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc (UNODC), Việt Nam dễ trở thành điểm đến của tội phạm rửa tiền do nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt, cùng với các hoạt động thương mại và đầu tư ngày càng gia tăng.Vì vậy, nếu không có những biện pháp đối phó với rửa tiền thì tội phạm này sẽ phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam. Dưới đây, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường phòng, chống rửa tiền đối với Việt Nam trong bối cảnh tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa. Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phòng, chống rửa tiền và những văn bản pháp luật liên quan nhằm tạo nên một sự thống nhất và phù hợp với luật pháp quốc tế trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm rửa tiền. Thứ hai, tăng cường cơ chế giám sát, quản lý nhà nước đối với các giao dịch về vốn, tiền tệ, hàng hóa nhằm đảm bảo rằng các hoạt động đầu tư, thương mại, các giao dịch tiền tệ không thể bị lợi dụng cho mục đích rửa tiền. 540
- Thứ ba, tăng cường hợp tác giữa các bộ, ngành trong nước và hợp tác với các tổ chức quốc tế để kịp thời phát hiện và xử lý những giao dịch được thực hiện với mục đích rửa tiền. Thứ tư, giảm dần việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông và tăng cường sử dụng các giao dịch chuyển khoản, thanh toán điện tử nhằm nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền. Thứ năm, phổ biến và quán triệt tới từng cá nhân trong xã hội, đặc biệt những người trực tiếp làm việc tại các cơ quan liên quan các giao dịch tài sản, vốn những thông tin về tội phạm rửa tiền và những biện pháp phòng, chống rửa tiền. Thứ sáu, phát triển hạ tầng cơ sở thông tin nhằm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trong các giao dịch tài chính cũng như nhằm hạn chế giao dịch tiền mặt và tạo thuận lợi cho quá trình theo dõi, phát hiện và phòng, ngừa tội phạm rửa tiền xuyên biên giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, do sự tác động của những điều kiện tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, đầu tư giữa các quốc gia cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, hoạt động rửa tiền tiếp tục phát triển với quy mô ngày càng rộng và mức độ tinh vi ngày càng cao.Bởi vậy, để ngăn chặn sự phát triển của loại hình tội phạm này nhằm đảm bảo cho nền chính trị, kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo xã hội an toàn và tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, cần thực hiện những biện pháp tích cực, hiệu quả trong việc phòng, chống rửa tiền, đặc biệt cần có sự phối kết hợp giữa các ngành, sự liên kết và hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới trong việc quản lý, giám sát các dòng lưu chuyển của vốn và hàng hóa nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm rửa tiền xuyên biên giới. Tài liệu tham khảo 1. Paul Allan Schott (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền, và chống tài trợ cho khủng bố, Nxb Văn hóa Thông tin. 2. Lê Thị Mận, Nguyễn Thanh Giang (2015), Phòng chống rửa tiền, những vấn đề còn nan giải, Tạp chí Phát triển và hội nhập số 25. 3. Phạm Huy Hùng (2010), Giải pháp phòng chống rửa tiền tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng. 541